Trong cuốn Việt Nam Đệ Nhất Cộng Hòa Toàn Thư 1954-1963 cũng như trong các chương trước đây, chúng tôi đã chứng minh rằng Giáo Hội La Mã chỉ là một danh xưng bề ngoài của Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican, rằng từ năm 1533 đế quốc này đã cho những tay gián điệp thuợng thặng đến Việt Nam thâu thập các dữ kiện tình báo chiến lược về tình hình Việt Nam rồi báo cáo về Tòa Thánh Vatican. Đồng thời, họ tìm đủ mọi cách móc nối và dụ dỗ những người dân cùng khổ, những thành phần có những thành tích bất hảo hay bất mãn với chính quyền đương thời và những phần tử cặn bã của xã hội vào màng lưới gián điệp trong đạo quân thứ 5 nằm hờ, chờ giờ hành động.
Một phần trong các hoạt động tình báo của họ là làm đảo lộn cương thường và phá rối nền trị an của Việt Nam bằng cách phỉ báng và chế giễu các lễ nghi tín ngưỡng và tập tục cổ truyền của dân tộc, miệt thị các vị thánh tổ của đạo Phật, đạo Khổng bằng những ngôn từ của những phường “đá cá lăn dưa” như gọi Đức Phật Thích Ca là “thằng hay dối người ta”, gọi Đức Khổng Tử là người “chẳng phải hiền, chẳng phải thánh”. Xem sách Phép Giảng Tám Ngày (Roma: Thánh Bộ Truyền Giáo Roma, 1651, trang 94 - 132), xúi giục giáo dân bất tuân lệnh chính quyền đương thời rằng: “người Công Giáo Việt Nam đừng thừa nhận quyền lực nhà Vua và luật pháp nước họ”, rằng “ Đức Giáo Hoàng ở Rome mới là vị vua tối cao duy nhất của họ”, rằng “họ chỉ tuân phục quyền lực Tòa Thánh Vatican”.
“Nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc”.
Từ một một phương trời xa lạ đến Việt Nam, khác với người dân về đủ mọi phương diện mà không biết câu ngạn ngữ trên đây mà lại hành xử hỗn xược, ngược ngạo như vậy thì quả thật họ là những người ngu xuẩn đến cùng mức của ngu xuẩn. Hành xử ngu xuẩn như vậy thì làm sao tránh được những chuyện đáng tiếc xẩy ra đối với họ. Giả thử vào thời đó cũng có một nhà Nho hay một ông sư đến nước Ý, nước Pháp, nước Tây Ban Nha hay nước Bồ Đào Nha cũng làm tất cả những gì mà các ông điệp viên (truyền giáo) của Tòa Thánh La Mã đã làm ở Việt Nam, thí dụ như có một nhà Nho hay ông sư nào đó cũng đem các tập tục cổ truyền và lễ nghi về đạo Gia Tô ra phỉ báng và chế diễu, cũng đem vị thánh tổ của đạo Gia Tô là Chúa Jesus ra gọi là “thằng hay dối người ta” và bảo rằng “chẳng phải Chúa, chẳng phải thánh, chẳng phải hiền”, cũng xúi giục người dân ở các nước này rằng “đừng thừa nhận quyền lực của Đức Giáo Hoàng” rằng “Đức vua của triều đình Nguyễn ở Việt Nam mới là vị vua tối cao của họ”, rằng “họ chỉ tuân phục quyền lực của triều đình Huế tại Việt Nam mà thôi”, thì quý vị có nghĩ rằng nhà Nho hay ông sư này vẫn không bị chính quyền sở tại làm khó dễ gì cả hay là họ đã bị tóm cổ đưa ra các tòa án dị giáo của Giáo Hội La Mã để xử về tội báng bổ thần thánh và phá rối trị an, rồi đem trói vào cột và thiêu sống cho đến chết giống như Giáo Hội đã xử và thiêu sống các ông John Huss (1369-1415 ), Savonarola Girolamo (1452-1498), Giordano Bruno (1548-1600) và 11 triệu (*) nạn nhân khác cùng một số phận như các nhà trí thức trên đây mà không được may mắn bị quản thúc tại gia cho đến ngày tàn hơi thở như nhà thiên văn học Galileo Galilei (1564-1642).
Trở lại chuyện 117 ông thánh của Giáo Hội La Mã, Tòa Thánh và những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican cho rằng các ông này là những thánh tử đạo, bị sát hại trong thời kỳ các chính quyền Tây Sơn và nhà Nguyễn cấm đạo. Người viết xin đặt vấn đề là: “Trong khi ở Âu Châu, Giáo Hội La Mã không cho người dân nằm trong vòng kiểm soát của Giáo Hội được quyền tự do tín ngưỡng và Giáo Hội sát hại tới 11 triệu người thuộc các tín ngưỡng khác mà Giáo Hội lại cho người đến nước chúng tôi đòi quyền tự do truyền đạo Gia Tô và quyền tự do theo đạo Gia Tô ở Việt Nam được hay sao?”
Thực ra, các ông truyền giáo và những người Việt Nam theo đạo Gia Tô thời đó đã hành xử một cách vô cùng hỗn xược, ngược ngạo, bất chấp cả luật pháp của chính quyền đương thời, bất chấp cả lương tâm, bất chấp cả lẽ phải, bất chấp cả tình người, và chỉ muốn quấy phá làm cho nước Việt Nam rơi vào tình trạng hỗn loạn bằng cách xúi giáo dân không tuân lệnh nhà vua mà chỉ biết tuân lệnh Giáo Hoàng ở La Mã (như đã nói ở trên) và cứ tiếp tục quấy phá để thừa nước đục thả câu. Sách Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam (1858-1897) viết:
“Truớc tình trạng tiến thoái lưỡng nan, các giáo sĩ lại đưa ra hai giải pháp mới. Pellerin khuyên Rigault vào chiếm Gia-định làm bàn đạp, chờ ngày đánh Huế. Retord và các giáo sĩ Espania thì thúc dục kéo ngay ra Bắc Kỳ, thiết lập một vương quốc Kitô độc lập ở miền này. Vì “thanh kiếm thập tự quân, lưỡi gươm của Charlemagne và Thánh Louis, đã trở nên quá nặng trên tay con cái Voltaire,” Rigault sinh ra bực dọc, chỉ trích Pellerin nhiều lần. Rigault cũng không ngớt than phiền về thái độ lộng hành của Pellerin trong những báo cáo về Paris” (trang 98).
“Những cuộc nổi loạn liên miên của các cộng đồng giáo dân Ki-tô, tiêu biểu bằng tổ chức hải tặc Tạ Văn Phụng (Lê Duy Minh), với khẩu hiệu thiết lập một vương quốc Kitô, …” [trang 191). “Tham vọng đã âm ỉ, nung nấu từ lâu của các giáo sĩ Kitô: hoặc chiếm đóng toàn cõi Đại Nam, lật đổ Tự Đức, hoặc tách biệt Bắc Kỳ thành một vương quốc tự trị” [trang 192].
“Vua (Tự Đức) bị cô lập dần trong hoàng thành với mối lo sợ khôn nguôi về tham tâm của Pháp. Trong khi đó, tinh thần thập tự quân của các giáo sĩ Kitô ngày một lên cao. Các giáo sĩ tìm đủ cách khiêu khích hầu tạo cơ hội cho Pháp động binh. Năm 1875, chẳng hạn, Giám-mục Gauthier và Croc đòi triều đình bồi thường thiệt hại lên tới 2,146,613 lạng bạc. Với sự yểm trợ của Rheinart, Gauthier và Croc còn mưu chiếm cả ruộng đất của các làng xã bỏ hoang để trừ bớt số tiền thiệt hại tên. Nhiều nơi, giáo sĩ công khai xúi dân làm loạn. Geoffroy ở Bình Định chỉ là một thí dụ. Tại Ninh Bình, các giáo sĩ còn lộng hành hơn nữa, cho thủ hạ quấy nhiễu, ngăn chặn cả công văn” [trang 251-252] (3).
Được đằng chân, lân đằng đầu, khi được phép tự do truyền đạo rồi tới khi có một số tín hữu tin theo thì Giáo Hội lại xúi giục giáo dân không tuân hành tập tục và luật pháp của chính quyền Việt Nam, mà chỉ biết tuân lệnh Giáo Hoàng ở La Mã và xúi giục giáo dân nổi loạn, lật đổ chính quyền để thiết lập một vương quốc Gia-tô giáo. Quý vị thử nghĩ xem còn có hành động nào hỗn xược, ngược ngạo hơn những hành động này không?
“Quốc hữu quốc pháp, gia hữu gia quy”. Ở đâu thì cũng phải có quan trị quan nhậm. Con người ở bất kỳ quốc gia nào ở trên trái đất này cũng đều hiểu rằng “Nhập gia tùy tục, đáo giang tùy khúc”. Đến nước người ta mà không tuân hành tục lệ của nước người ta đã là một điều trái tai gai mắt, không thể chấp nhận được. Không những thế, họ lại còn không tuân hành luật pháp quốc gia nước người ta nữa. Tệ hơn nữa, họ lại còn xúi giục dân chúng nổi loạn nhằm cướp chính quyền để thiết lập một chính quyền chuyên chính độc tôn tôn giáo thì xin hỏi, những người đó có phải là những quân thổ phỉ, những phường giặc cướp, kẻ thù của dân tộc Việt Nam hay không? “Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”.
Là người dân của một nước, sống trong mảnh đất mà ông cha tổ tiên từ bao nhiêu đời kế tiếp nhau hy sinh không biết bao nhiêu mồ hôi, nước mắt và xương máu mới tạo dựng nên được, đã không ra công bồi đắp cho đất nước ngày một khá hơn thì thôi, ấy thế mà chỉ vì bất mãn nhất thời hay sống trong cảnh cùng khổ mà ngu xuẩn đến độ đi nghe lời xúi giục của người ngoài, nhẫn tâm “rước voi về giầy mả tổ”, phá nát cơ đồ của tổ tiên để lại, thì những hạng người đó có phải là những quân Việt gian, mãi quốc cầu vinh hay không? Những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican hãy suy cho kỹ, nghĩ cho cùng để xem 117 người được Giáo Hội La Mã phong thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 có phải là những quân “thổ phỉ” và những phường “cõng rằn về cắn gà nhà” hay không?
Chúng tôi muốn trình bày với những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican một điều như thế này: Các ông cho rằng 117 người trên đây đã được Giáo Hội La Mã của các ông phong thánh thì họ là thánh. Đó là quyền tự do của các ông. Nhưng đối với đại khối dân tộc Việt Nam, ai cũng tin rằng 117 ông thánh này là tội đồ của dân tộc Việt Nam, dù người đó là người Việt Nam hay người ngoại quốc.
Không ai chối cãi được Vatican là một đế quốc thực dân xâm lược đã chủ động trong việc đánh chiếm và thống trị toàn cầu mà Việt Nam chỉ là một trong những quốc gia bị Đế Quốc Vatican chiếu cố. Khi cuộc chiến bùng nổ giữa một bên là Việt Nam và một bên là Đế Quốc Vatican có Đế Quốc Pháp là Đồng Minh thì các ông giống như những người dân Nhật mang quốc tịch Hoa Kỳ sống trên đất Mỹ trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Người dân Nhật mang quốc tịch Hoa Kỳ có quyền chọn Hoa Kỳ hay Nhật làm quê huơng đích thực để rồi liều chết chiến đấu cho cái quê hương mà họ đã chọn.
Tương tự như vậy, trong cuộc chiến giữa một bên là Việt Nam và một bên là kẻ thù Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican và Pháp, các ông có quyền chọn Đế Quốc Vatican hay Việt Nam là quê hương đích thực của các ông để rồi liều chết chiến đấu cho cái quê hương mà các ông đã chọn. Các nhà truyền giáo người Âu Châu đến Việt Nam liều chết chiến đấu cho quê hương đích thực của họ là Đế Quốc Vatican, nếu chẳng may họ phải hy sinh vì nhiệm vụ thì đương nhiên sẽ được tổ quốc Vatican ghi ơn và phong thánh. Và các ông, những người Việt Nam mang quốc tịch Vatican, đã từ bỏ tổ quốc Việt Nam và nhận Đế Quốc Vatican là quê hương đích thực của các ông để rồi liều chết chiến đấu cho đế quốc này, nếu chẳng may mà bị chính quyền Việt Nam bắt được và bị hành hình thì tất nhiên các ông là những người đã hy sinh cho Đế Quốc Vatican và cũng được Vatican phong thánh. Phong thánh cho những người làm tay sai tai mắt cho Vatican thì Vatican có mất gì đâu.
Hồng Y Silvio Oddi đã từng nói: “Vatican đã trở thành một cái xưởng chế tạo ra các ông thánh” (The Vatican has become a saint factory)” (4).
Nhưng đối với đại khối dân tộc Việt Nam, những người có tên trong danh sách 117 người được tòa thánh Vatican phong thánh vào ngày 19 tháng 6 năm 1988 chỉ là những tên tội đồ của dân tộc, và nếu họ là người Việt Nam thì họ là những phường “cõng rắn về căn gà nhà” giống như Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khôi, Trần Lục, v.v…
“Có ở trong chăn mới biết chăn có rận”. Giá trị các ông thánh của Vatican như thế nào, không ai biết rõ hơn là Giáo-sư Lý Chánh Trung, một nhà trí thức đã từng mang quốc tịch Vatican. Ông viết:
Trong khi các ông nhận Đế Quốc Vatican là quê hương đích thực và liều chết chiến đấu cho Vatican thì đại khối dân tộc Việt Nam chúng tôi chỉ có mỗi một nước Việt Nam là quê hương đích thực.
Khi quân thù xâm lược Vatican và Pháp đem quân đến đánh cướp nước Việt Nam thân thương của chúng tôi, chúng tôi phải liều chết chiến đấu để bảo vệ cơ đồ của ông cha để lại, nếu chẳng may phải gục ngã nơi chiến trường thì chúng tôi trở thành anh hùng của dân tộc Việt Nam. Đế Quốc Vatican, Đế Quốc Pháp và những người nhận Đế quốc Vatican hay Đế Quốc Pháp là nước tổ của họ đã gọi tất cả những anh hùng dân tộc của nước tôi là những quân phiến loạn và những quân tội đồ.
Chính vì thế mà những vị anh hùng của dân tộc Việt Nam chúng tôi như các cụ Nguyễn Trung Trực, Lâm Quang Ky cùng 170 nghĩa quân kháng chiến tại Kiên Giang và ông Mai Xuân Thưởng ở Bình Định đã bị người của Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican là Trần Bá Lộc đem quân đánh phá và bắt được, rồi xử tử như một tên tội đồ. Trong hoàn cảnh tương tự như vậy, cụ Phan Đình Phùng cùng các chiến sĩ nghĩa quân tại Vụ Quang đã bị người của Tòa Thánh Vatican là Ngô Đình Khả đánh tan, và đào mả cụ Phan lấy xác, đem đốt thành tro, rồi lấy tro trộn vào thuốc súng bắn xuống sông Lam Giang cho tiêu tan mất xác. Tương tự như hoàn cảnh của cụ Phan Đình Phùng, chiến lũy Ba Đình dưới quyền lãnh đạo của cụ Đinh Công Tráng bị phá tan cũng chỉ vì tên Việt Gian cuồng tín Linh-mục Trần Lục đem 5 ngàn giáo dân đi tiếp viện và làm chỉ điểm cho giặc để tâng công. Sau này, các ông Đội Bình, Đội Cốc và Đội Nhân cũng bị Cố Ân, người của Đế Quốc Thực Dân Xâm Lược Vatican báo cáo với chính quyền bảo hộ Vatican-Pháp bắt đem đi chém chết. Những người yêu nước vào những năm giữa thập niên 1920 bị tên Việt gian Ngô Đình Diệm bắt được đem tra tấn vô cùng man rợ bằng cách cột nạn nhân vào một chiếc ghế có khoét lỗ ở giữa rồi cho đốt đèn cầy (nến) ở dưới làm cháy cả hậu môn của nạn nhân; các ông Đội Cấn và Lương Ngọc Quyền đã liều thân hy sinh thân để chống lại Vatican và Pháp ở Thái Nguyên; Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí Việt Nam Quốc Dân Đảng của ông bị những người của Giáo Hội La Mã và Pháp bắt và bị đưa lên đoạn đầu đài vào ngày 17 tháng 6 năm 1930. Tất cả những vị anh hùng dân tộc trên đây cùng với những người chống lại chính sách bạo tàn của chế độ độc tôn tôn giáo của anh em nhà Ngô và đảng Cần Lao Công Giáo, tay sai của Đế Quốc Vatican, vào những năm sau tháng 7 năm 1954, trong đó có những người đã tham dự vào cuộc chính biến 11/11/1960 và cuộc Cách Mạng 1/11/1963 đều bị Đế Quốc Vatican và người Việt Nam mang quốc tịch Vatican coi như là một thứ tội đồ nguy hiểm, nguyền rủa họ và mạt sát họ.
Trong khi đó thì đại khối dân tộc Viêt Nam chúng tôi lại coi họ là những vị anh hùng dân tộc như một thứ quốc bảo của đất nước, và đem hết lòng ngưỡng mộ, trân quý và tôn vinh họ. Họ là các vị thánh của dân tộc Việt Nam của chúng tôi.
.....
Ngược lại, chúng tôi cũng gọi tất cả những người anh hùng hay các ông thánh của đế quốc Vatican và Đế Quốc Pháp đã chết trong cuộc chiến xâm lăng và thời kỳ thống trị nước Việt Nam của chúng tôi là những quân thổ phỉ hay những tên tội đồ.
Riêng những người Việt Nam tóc đen, da vàng mũi tẹt, ăn cơm gạo Việt Nam, lớn lên ở Việt Nam mà lại đứng về phía kẻ thù xâm lược là Đế Quốc Vatican hay Pháp để chống lại tổ quốc Việt Nam, dù sống hay chết, dù cho sau khi chết được Vatican phong thánh đi nữa, thì chúng tôi cũng vẫn gọi họ là những phường “rước voi về giầy mả tổ” như trường hợp Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống và không thể nào thoát khỏi được cái nhìn khinh bỉ và ghê tởm của dân tộc Việt Nam. Bài thơ dưới đây của nhà thơ Lương Nhân (được ông Giuse Phạm Hữu Tạo ghi lại trong bài viết “Hai Mẹ Con”, đăng trong tờ trong Đông Dương Thời sô 73, ngày 1-8-1999, phát hành tại Houston, Texas) nói lên sự thật này:
Gián điệp tay sai hại nước nhà,
Mãi quốc cầu vinh, phường quốc tặc,
Thương luân bại lý, bọn gian tà.
Tội đồ dân tộc tôn vinh “thánh”.
Ác bá dâm tà lãnh chức “cha”.
Tà đạo thực dân chung một Chúa.
Nhân nào quả ấy chẳng còn xa.
[....]
____________
Chú thích:
(1) Trần Chung Ngọc, Công Giáo Chính Sử (Garden Grove, CA: Giao Điểm, 1999) tr. 98-99
(2) Nguyễn Xuân Thọ, Bước Mở Đầu Của Sự Thiết Lập Hệ Thống Thuộc Địa Pháp Ở Việt Nam (Saint Raphael, France: tự xuất bản 1994) tr. 17
(3) Vũ Ngự Chiêu, Các Vua Cuối Nhà Nguyễn 1883-1945 , Tập I (Houston, Texas: Văn Hóa, 1999)
(4) Trần Chung Ngọc, sđd., tr. 268
(5) Lý Chánh Trung, Tôn Giáo Và Dân Tộc (Saigon: Lửa Thiêng, 1973) tr. 77
0 nhận xét:
Đăng nhận xét