Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Bảy, 27 tháng 10, 2012

Chiến lược biến đổi lao động thuần túy



Chúng ta biết rằng lập kế hoạch tổng hợp, nghĩa là xác định mức sản xuất hay khả năng sản xuất đáp ứng nhu cầu biến đổi. Vì vậy, trong trường hợp này kế hoạch sản xuất hay mức sản xuất trong mỗi tháng sẽ là chỉ tiêu quan trong nhất cần phải tìm được
Chúng ta xuất phát từ một chiến lược đơn giản - chiến lược biến đổi lao động thuần túy.
Theo chiến lược này, chúng ta sẽ chỉ sử dụng công cụ tăng giảm lao động để tạo ra khả năng sản xuất đáp ứng nhu cầu. Tính chất thuần túy của chiến lược này là – chỉ biến đổi lao động thôi.
Giả thiết quan trọng trong trường hợp này là năng lực sản xuất phải cho phép chúng ta áp ứng nhu cầu, bằng việc tăng giảm lao động. Trên thực tế, điều này có nghĩa là hệ thống luôn có đủ số nơi làm việc để đáp ứng cho nhu cầu ở mức cao. Và công ty cũng không bị một hạn chế nào phải giữ số công nhân tối thiểu. Trong trường hợp đó, khả năng sản xuất chỉ còn phụ thuộc vào lực lượng lao động mà chúng ta lập kế hoạch sử dụng mà thôi.
Giả thiết thứ hai là chúng ta luôn sẵn sàng và có thể tạo ra khả năng sản xuất đáp ứng đầy đủ nhu cầu trong tháng.
Giả thiết thứ ba là sẽ không tích lũy tồn kho với mục đích đáp ứng cho nhu cầu tăng cao ở những thời kỳ sau, do đó ta luôn chỉ giữ tồn kho ở mức bắt buộc.
Các giả thiết trên cho phép chúng ta đã có thể tìm được một kế hoạch sản xuất đáp ứng nhu cầu chỉ bằng thay đổi lực lượng lao động trong mỗi tháng đó.
Trong tình huống đã đặt ra tồn kho đầu kỳ của tháng 4 là 600 và đầu các tháng sau chính là tồn kho cuối kỳ tháng trước
Sau khi có mức sản xuất ở mỗi tháng, nhu cầu lao động trong mỗi tháng có thể tính được thông qua tổng nhu cầu giờ lao động, quỹ thời gian của mỗi công nhân trong tháng.
Tổng nhu cầu giờ lao động trực tiếp chính là số giờ lao động cần thiết để thực hiện kế hoạch sản xuất trong tháng phụ thuộc vào sản lượng sản xuất và định mức lao động:
Chiến lược biến đổi tồn kho thuần tuý
Chiến lược đáp ứng nhu cầu biến đổi bằng tồn kho nghĩa là duy trì mức sản xuất hợp lý sao cho các nhu cầu biến đổi quanh mức sản xuất được hấp thụ bằng tồn kho với chi phí tồn kho thích hợp. Trong chiến lược tồn kho khi nhu cầu xuống thấp hơn mức sản xuất tồn kho sẽ được tích luỹ, và khi nhu cầu lên cao ở những thời kỳ sau, tồn kho sẽ giải toả để đáp ứng.
Chiến lược tồn kho thuần túy nghĩa là toàn bộ các dao động của nhu cầu quanh mức sản xuất hợp lý mà chúng ta sẽ xác định được hấp thụ qua tồn kho. Vì vậy, điểm mấu chốt của chiến lược tồn kho thuần túy là xác định mức sản xuất hợp lý trong một đơn vị thời gian (thường là ngày làm việc). Nếu chúng ta xác định và duy trì mức sản xuất trong mỗi đơn vị thời gian cao, tồn kho sẽ tích luỹ quá nhiều ở thời kỳ trước, làm tăng chi phí tồn kho, hơn nữa có thể có những đơn vị hàng hoá khó tiêu thụ. Ngược lại, mức sản xuất xác định thấp, không đủ đáp ứng nhu cầu ở đỉnh cao, xảy ra tình trạng cạn dự trữ, phí tổn cơ hội sẽ rất lớn. Sự hợp lý của mức sản xuất sẽ thể hiện rất rõ qua việc xem xét trạng thái tồn kho. Muốn giữ tồn kho luôn lớn hơn hay bằng tồn kho tối thiểu thì đỉnh cao nhu cầu tất cả các tồn kho tích luỹ ở thời kỳ trước với mục đích đáp ứng đỉnh cao phải được sử dụng hết và tồn kho ở thời điểm này sẽ bằng với mức tồn kho tối thiểu. Do đó, kế hoạch sẽ bắt đầu bởi việc tìm đỉnh cao của nhu cầu. Từ đỉnh cao này người ta có thể xác định được mức tồn kho cần thiết phải tích luỹ từ các giai đoạn trước khi nhu cầu xuống thấp.
Tính hiện thực của kế hoạch được kiểm tra bằng cách so sánh với các giới hạn tồn kho.
Tính tối ưu được kiểm tra sao cho chi phí đáp ứng nhu cầu thấp nhất.
Để tìm đỉnh cao nhu cầu và mức sản xuất hợp lý, chúng ta gọi i là tháng kế hoạch và tháng thứ k - giả sử là tháng có đỉnh cao nhu cầu

0 nhận xét:

Đăng nhận xét