Thứ Sáu, 2 tháng 1, 2015
Nước Mỹ chúa tể
22:43
Hoàng Phong Nhã
No comments
Cao Huy Thuần
Giáo sư Ðại Học
Siêu cường duy nhất còn lại trên thế giới, nước Mỹ là
tối thượng. Nhưng "tối thượng" của cách đây mười ba năm, hồi Liên Xô
sụp đổ, không giống "tối thượng" của sau 11-9, lại càng không giống
"tối thượng" của sau chiến tranh Irak. Ngôi vị thì vẫn thế, nghĩa là
cao nhất, cao tột. Nhưng cách củng cố ngôi vị đó, trong hành động,
trong lý thuyết, trong ngôn ngữ, khác trước, khác nhiều, như một
bước ngoặt. Các lý thuyết gia đang lúng túng, không biết phải dùng
từ ngữ gì để diễn tả tình trạng và cách cư xử của nước Mỹ ngày nay.
Hegemony? Primacy? Empire? Neo-imperialism?
Một Ðế Chế La Mã mới? Không có một khái niệm chính xác nào hoàn toàn
thỏa mãn, tôi mượn tạm cách nói bình dân, gọi là "chúa tể " để tặng
danh vị đó cho Tổng thống Bush.
Kẻ mạnh nhất, mà lại mạnh
như chúa tể, có hai vần đề phải xử lý : một, là phải duy trì hoàng
bào chúa tể của mình ; hai, là phải chư hầu hóa quan hệ với các nước
mạnh khác, nhất là với đồng minh. Tranh luận lý thuyết hiện nay xoay
quanh hai vấn đề đó, ở Mỹ, ở châu Âu, ở Trung Quốc.
I
Cái gì là mới, cái gì tạo
ra bước ngoặt, cái gì phô trương khí thế của chúa tể? Ba biểu hiện
sau đây: một, là biến những hành động đơn phương thành đơn phương
chủ nghĩa; hai, là đổi "chính trị thực tế" (realpolitik)
thành "chính trị sức mạnh" (machtpolitik; ba, là đưa đạo đức
chủ quan của mình lên thành đạo đức của thế giới.
1. Trước hết là đơn phương
chủ nghĩa. Có nước nào, nhất là nước lớn, không viện dẫn tính cần
thiết của hành động đơn phương khi phải bảo vệ quyền lợi thiết thân
của mình? "Ta phải bảo vệ quyền lợi sống chết của ta như từ trước
đến nay, ta phải nói không một mình khi gặp bất cứ vấn đề gì
mà ta không thể chấp nhận". Ðó là nước Pháp nói
(1). Bởi vậy, cũng
thường tình thôi khi chính quyền Clinton định nghĩa "lãnh đạo"
của Mỹ trước hết như là "hành động một mình lúc cần thiết để bảo vệ
quyền lợi của Mỹ" (2). Ðiều đáng nói ở đây là chính quyền Clinton
xem đơn phương như biện pháp tối hậu, không phải biện pháp thường
dùng. Bởi vì "lãnh đạo của Mỹ cũng đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sự
ủng hộ của đồng minh, của bạn bè, của các định chế quốc tế để hoàn
thành mục tiêu chung" (3). Rõ ràng hơn nữa : "Gần đây, cách nói thời
thượng là ta phải hành động một mình. Quan niệm như thế là sai lầm:
nó giới hạn tính mềm dẻo, làm suy yếu ảnh hưởng, làm thương tổn lợi
ích của ta. Làm như vậy chẳng khác nào chính ta tự giải giới trước
những đe dọa thúc bách nhất của thế giới. Nhiều mục tiêu quan trọng
nhất của ta sẽ không thể hoàn thành được nếu không có sự hợp tác của
các nước khác" (4). Ðó là những câu viết của ông W. Christopher, bộ
trưởng ngoại giao của Clinton trong nhiệm kỳ thứ nhất. Chủ trương đa
phương đó, bà Madeleine Albright, bộ trưởng ngoại giao trong nhiệm kỳ thứ
hai của Clinton, gọi là "đa phương xác quyết", assertive
multilateralism.
Sự thực, đơn phương hay đa
phương là vấn đề giả, và chính ông Christopher cũng nói thế. Cả hai
phải đi đôi với nhau, đa phương để "tạo ảnh hưởng trên sự việc mà
không buộc phải gánh chịu tất cả rủi may hay trả bằng mọi giá và
cũng không làm hỏng tự do hành động tối hậu"; đơn phương chính là
khí giới tối hậu đó. Chủ trương của ông Bush thì trái ngược: đơn
phương không phải là tối hậu mà là ưu tiên trong những lĩnh vực mà
nước Mỹ lựa chọn. Và bởi vì tình trạng nhất cực đưa đến hậu quả là
làm dễ dàng tự do lựa chọn, ông khai thác triệt để tự do đó bằng
cách nâng nó lên mức tối đa. Ðã là chúa tể thì không ai ràng buộc
được cả. Tất cả quan hệ đa phương nào ràng buộc nước Mỹ và không phù
hợp với quyền lợi của Mỹ đều phải truất phế hết: hiệp ước đa phương
Kyoto về môi trường, tổ chức đa phương kiểu Tòa án hình sự quốc tế,
ngay cả luật pháp quốc tế, ngay cả Liên Hợp Quốc. Chủ quyền của nước
Mỹ là tối thượng. Quan hệ quốc tế là rừng rú. Trong rừng rú, kẻ mạnh
nhất là chúa sơn lâm. Ðừng nói governance nữa với ông Bush,
nước Mỹ không công nhận một cung cách quản trị cộng đồng nào cả, bởi
vì trên đầu nước Mỹ chỉ có cờ Mỹ tung bay thôi. Ðừng hòng toàn cầu
hóa nước Mỹ: nước Mỹ đang Mỹ hóa toàn cầu. Tổ chức thương mãi thế
giới WTO? OK, chơi được. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF? Coi chừng, đừng
diễn trò hào hiệp thương thuyết lại nợ nần của các nước nghèo: Mỹ
phủ quyết thẳng tay.
Ðơn phương, vì đơn phương
là tự do hành động. Mà tự do hành động cao nhất là gì trong lĩnh vực
an ninh? Là đánh lúc nào muốn, lúc nào thuận tiện nhất, không vướng
đồng minh, không vướng tổ chức quốc tế, không vướng luật pháp, không
vướng bất cứ một ràng buộc nào. Biến cố 11-9 tạo thuận tiện mọi bề,
nhất là về tâm lý quần chúng nội bộ, để đưa hành động đơn phương lên
thành chủ nghĩa. Bước ngoặt đó, ông Bush tuyên bố như sau: Nước Mỹ
"không ngần ngại hành động một mình, nếu cần, để hành xử quyền tự vệ
của mình bằng cách hành động phòng ngừa để chống lại bọn khủng bố,
ngăn cản không cho chúng gây thiệt hại cho dân và nước Mỹ"
(5).
Chiến tranh phòng ngừa là chiến tranh mà điếu 51 Hiến chương LHQ
nghiêm cấm. Ðưa chiến tranh phòng ngừa lên hàng quốc sách là đạp đổ
tan tành tất cả hệ thống an ninh cộng đồng mà Tổng thống Roosevelt
đã gây dựng. LHQ sụp đổ trước khi diễn ra chiến tranh Irak.
2. Ðiểm thứ hai là chủ
nghĩa sức mạnh. Sức mạnh là thước đo vị thế của các quốc gia trên
thế giới. Ðo lường sức mạnh được không? Câu hỏi lý thuyết cổ điển
này chắc lỗi thời rồi. Trước đây, lý thuyết gia chất vấn: có gì mạnh
hơn khí giới nguyên tử? Nhưng sinh ra để mà không nổ thì mạnh ở đâu?
Có ai mạnh hơn Liên Xô về quân đội? Thế mà tan tành! Việt Nam là
nước lạc hậu; thế mà đuổi được siêu cường! Thụy Sĩ nhỏ xíu; thế mà
giàu! Ông Giáo hoàng đi không vững, nói không ra hơi, thế mà xóa
biên giới! Những bàn cãi lý thuyết này về sức mạnh đã trở thành lý
thuyết suông với nước Mỹ hiện nay. Tại sao? Tại vì Mỹ mạnh về mọi
mặt, đo lường quá dễ! Về quân sự? Hố ngăn cách giữa Mỹ với các nước
mạnh khác gây chóng mặt: chi tiêu cho quốc phòng trong năm 2003
nhiều hơn 15-20 nước mạnh nhất cọng lại (6). Lịch sử loài người chưa
bao giờ biết một khoảng cách khiếp như thế. Mà sức mạnh đó được mua
với giá bao nhiêu? 3,5% tổng sản lượng quốc gia! Tác giả Paul
Kennedy bình luận: "Ðứng số 1 trên thế giới mà phải mua với giá đắt
quá thì có gì lạ; siêu cường duy nhất trên thế giới với giá rẻ mạt
mới là chuyện giật mình" (7). Có cần phải nói thêm về kinh tế, kỹ
thuật, óc phát minh, sáng chế chăng? Tất cả những yếu tố cấu thành
cái mà người ta gọi là hard power đó, Mỹ hội đủ trong tay, bỏ
xa các anh mạnh khác. Ðược hậu thuẫn với sức mạnh cứng đó,
tác giả Mỹ có tiếng, Joseph Nye, khuyên Mỹ nên tận dụng soft
power thôi là đủ ngự trị rồi. Bởi vì thế giới cũng khiếp cái sức
mạnh mềm của Mỹ! Ăn Mỹ (nhanh gọn), mặc Mỹ, nhạc Mỹ, phim Mỹ,
sách báo Mỹ, giải trí Mỹ, sống Mỹ, trung tâm văn hóa cũng đã chuyển
từ Paris qua New York! Cứng hay mềm, chẳng ai cạnh tranh nổi. Loài
người chưa hề biết một cấu trúc thế giới nào trong đó một nước mạnh
đè bẹp các nước mạnh khác phũ phàng đến thế. Superpuissance?
Vẫn còn nhẹ quá. Hyperpuissance! Ðó là chữ dùng của cựu bộ
trưởng ngoại giao Pháp Hubert Védrine. Tối siêu cường?
Hệ luận ngày nay của sức
mạnh "tối siêu" đó là tôn thờ sức mạnh, lấy sức mạnh làm mục đích,
xem thế giới là rừng rú, luật pháp quốc tế là luật rừng, luật của kẻ
mạnh. Robert Kagan là lý thuyết gia của khuynh hướng mới, bài viết
"Power and Weakness" và quyển sách xuất bản cùng đề tài sau
đó của ông lẫy lừng khắp nơi. Sức mạnh cắt nghĩa tất cả, từ chính
sách của Mỹ đến căng thẳng với Âu châu. Tại sao căng? Giản dị thôi:
tại vì Mỹ mạnh, tại vì Âu châu yếu. Vì Mỹ mạnh nên văn hóa chiến
lược (strategic culture) của Mỹ thiên về sử dụng vũ lực. Vì Âu châu
yếu nên văn hóa chiến lược của Âu châu ngả sang việc tụng kinh, hết
kinh luật pháp dến kinh thương thuyết, kinh đa phương. Âu châu lăm
le "đa phương hóa" Mỹ. Khác nhau như thế là khác tận căn bản, như
đàn ông khác đàn bà: Mỹ, giống như đàn ông, đến từ sao Hỏa ; Âu
châu, như đàn bà, đến từ Vệ Nữ hành tinh. Âu châu là thái giám, cụt
đuôi rồi, vì EU chẳng phải đọc là EUnuchs, là ennuchs,
là thái giám đó sao? (8). Ðã khác tận căn bản, thì phần việc cũng
khác: Mỹ sửa soạn bữa ăn, Âu châu rửa chén; Mỹ đánh, Âu châu thu dọn
chiến trường. Ðối với Mỹ "đe dọa" là đe dọa, đe dọa thì phải xóa nó
đi, bằng vũ lực. Âu châu gặp đe dọa thì tránh né, gọi đe dọa là "vấn
đề", và vấn đề thì "giải quyết", bằng tiền bạc, bằng ngoại giao. Âu
châu liên hiệp với nhau nên từ bỏ chủ quyền, từ bỏ sức mạnh, thăng
hóa sức mạnh để liên hiệp. Mỹ chẳng biết giai đoạn "hậu quốc gia" đó
nên vẫn cứ mãi là anh chàng cao bồi Gary Cooper rảo quanh thành phố,
súng lục bên hông, giữ an ninh cho dân cư dù ai muốn hay không muốn
(9).
Nếu hiểu rành rọt như thế,
nghĩa là hiểu căn bản của sự khác nhau là sức mạnh, thì đừng hòng
hai bên hòa hợp lại với nhau. Ðừng hy vọng hão rằng mai đây, khi
Bush rời chính quyền, Mỹ sẽ thay đổi chính sách: chẳng phải Bush
đâu, đó là sức mạnh. Sức mạnh bảo phải hành động như thế, nói năng
như thế, không thể khác được. Bởi vậy, trước mắt Kagan, các tác giả
Pháp chẳng hiểu gì Mỹ cả. Họa hoằn mới có một tác giả Âu châu thông
minh, thấy vấn đề, tất nhiên ông đó là người Anh, Robert Cooper. Thế
giới ngày nay, theo Cooper, tựa như đế chế La Mã ngày trước, chỉ
những nước nằm giữa trung tâm, giàu, mạnh, văn minh, hiện đại, mới
sống trong an ninh, hòa bình, còn chung quanh toàn là những vùng
tiền hiện đại cả, tựa như rợ ngày xưa, chẳng biết hòa bình, an ninh
là gì. Vậy thì, nếu thế giới hậu hiện đại không biết tự bảo vệ mình,
coi chừng, sẽ bị tiêu hủy! Nhưng làm thế nào Âu châu tự bảo vệ được
khi từ bỏ ngôn ngữ và lý tưởng sức mạnh? Cooper trả lời: chỉ có một
cách duy nhất thôi là dùng hai đơn vị đo lường khác nhau. Giữa họ
với nhau, Âu châu cư xử trên căn bản luật pháp và an ninh hợp tác;
nhưng lúc phải tiếp xúc với thế giới chung quanh, "ta phải trở lại
với những biện pháp cứng rắn trước đây - vũ lực, tấn công phòng
ngừa, lừa gạt, bất cứ cái gì cần thiết". Ðó là nguyên tắc của Cooper
để duy trì văn minh của "xã hội chúng ta": "giữa chúng ta với nhau,
ta áp dụng luật pháp ; nhưng khi ta hoạt động trong rừng, ta phải
dùng luật rừng" (10). Nếu tác giả những dòng ấy làm nghề gõ đầu trẻ
như chúng tôi trong đại học để kiếm sống thì nói làm gì! Cooper là
cố vấn của Tony Blair trước khi cộng tác với Javier Solana, phụ
trách ngoại giao của Liên Hiệp Âu châu. Ông lý luận như thế để khai
sáng cho Âu châu. Ông đề nghị lý luận đó phải đi sóng đôi với việc
tăng cường sức mạnh của Âu châu về cả hai mặt, vật chất và tâm lý.
Dựa trên dự án thông minh và thực tế đó, Kagan bình luận thêm: điều
mà Cooper thực sự muốn diễn tả không phải là tương lai của Âu châu
mà là hiện tại của Mỹ. Tại sao? Tại vì Mỹ đang nhọc nhằn phấn
đấu giữa hai thế giới đó, vừa bám chặt chân trên thế giới này để bảo
vệ nó, phát triển luật áp dụng trong những xã hội tiến bộ, văn minh,
vừa đồng thời phải sử dụng vũ lực chống lại những tay nào ở
thế giới kia không chịu tuân theo luật đó. Nước Mỹ đang sử dụng hai
đơn vị đo lường khác nhau như Cooper đề nghị, và Âu châu phải biết
rằng cái thiên đường hậu hiện đại trong đó họ sống sẽ không duy trì
được đâu nếu không có chàng cao bồi Mỹ lăm lăm súng lục canh giữ
quanh vòng đai thành phố, trực diện với những Saddam, những Kim Jong
Il, những Giang, những Hu, những a-da-tô-la xồm xoàm râu. Không có
đạo đức nào cao hơn đạo đức ấy: canh giữ thiên đường cho kẻ khác,
còn ta chung thân chỉ là sê-ríp thôi.
Lý thuyết của Kagan lồ lộ
phô ra một thực trạng mới của ngày hôm nay. Cho đến gần đây, thế
giới chia cắt theo đường phân ranh giàu/nghèo, kỹ nghệ tân tiến/canh
nông lạc hậu, Bắc/Nam. Một đường chia cắt mới được vẽ ra, dựa trên
tiêu chuẩn sức mạnh và những hệ luận của nó về chiến lược, văn hóa,
chia khối "Tây phương" ra làm hai, một bên là Mỹ, một bên là Âu
châu. Không thiếu gì tác giả Mỹ báo hiệu sự rẫy chết của khái niệm
"The West" (11). Fukuyama tự hỏi, nghĩa là tự trả lời: đường
phân ranh của toàn cầu hóa chia cắt Tây phương với tất cả thế giới
còn lại hay chia cắt Mỹ với tất cả thế giới còn lại. Ông căn cứ trên
khái niệm chính đáng để trả lời: "người Mỹ không quan niệm có một
tính chính đáng dân chủ nào ở trên quốc gia; người Âu châu, ngược
lại, nghĩ rằng tính chính đáng đó phát xuất từ ý chí của một cộng
đồng quốc tế" (12). Diễn dịch như thế là trung thực với "chủ thuyết
Bush". Rạch ròi hơn, Kagan nói : "Sự khác biệt căn bản giữa Mỹ và Âu
châu không phải nằm nơi lĩnh vực văn hóa hay triết lý mà là nơi khả
năng hành động": vì Mỹ mạnh cho nên mới nói quyền lợi của quốc gia
Mỹ là trên hết, trên bất kỳ cộng đồng nào, dù là Tây phương, the
West.
Tây phương lại càng không
phải là một khối thuần nhất khi tổ chức quân sự trước đây được khai
sinh ra để bảo vệ an ninh và văn hóa chung, NATO, bây giờ đang mở
rộng tầm hoạt động ra khỏi phạm vi Âu châu - Bắc Ðại Tây Dương, hợp
tác chiến lược với những nước trước đây ở trong Liên Bang Xô Viết,
gởi quân đội đến tận Trung Á, tận Caucase, ngay trước mũi Nga, ngay
bên hông Trung Quốc. Âu châu không ngại việc mở rộng NATO, nhưng đâu
là the West tròn như nắm xôi tình nghĩa của thời kháng Xô?
Mấu chốt của chính sách Mỹ
ngày nay nằm ở đấy. Thế giới đã thu về một mối, một cực, không phải
cực Tây phương mà là cực Mỹ quốc. Mỹ không cần Âu châu, và đã chứng
tỏ không cần cả NATO, vẫn thống trị được cả thế giới. Cho nên vấn đề
chiến lược của Mỹ trong tình trạng nhất cực hiện nay là duy trì ưu
thế nhất cực đó. Trước đây, các tác giả Mỹ - và cả chính quyền -
dùng chữ "lãnh đạo" (leadership) để chỉ vai trò số 1 của Mỹ.
Họ cũng không ngần ngại dùng chữ "hegemony", nhưng, để nhấn
mạnh bản tính "độ lượng" của Mỹ, họ gọi đó là một benign hegemony.
Ngay cả Kagan trước đây cũng sử dụng ngôn ngữ như vậy, nói rằng Mỹ
hành xử một benevolent hegemony (13). Ngày nay, chữ
primacy xuất hiện, nhưng thú thật, tôi không biết phải dịch
"from hegemony to primacy" thế nào, bởi vì hai chữ đều là tối
thượng cả. Chỉ biết rằng chính sách để duy trì ngôi vị tối thượng
của ông Bush là ngăn chận không cho một peer competitor, một
kẻ cạnh tranh ngang vai ngang vế nào trỗi lên
(14). Chia để trị,
nguyên tắc sơ đẳng đó được áp dụng triệt để ở Âu châu
(15). Học
thuyết quân sự được cải biên, liên minh cổ điển và thường trực kiểu
NATO nhường chỗ cho những liên kết từng vụ việc (ad hoc) mà nhiệm vụ
được nước Mỹ quy định trước. Bộ trưởng quốc phòng Rumsfeld chơi
giọng kẻ cả: "Nhiệm vụ phải quyết định liên kết, liên kết không được
quyết định nhiệm vụ. Nếu không thì nhiệm vụ sẽ bị tụt xuống hàng mẫu
số chung thấp nhất và ta không chấp nhận được chuyện đó"
(16). Chính
sách an ninh không đặt nền móng trên việc đánh giá đe dọa mà là trên
căn bản khả năng tấn công. Nghĩa là không cần nhắm trước tiên đến
việc định nghĩa đe dọa nào là thật sự và cấp bách mà nhắm vào việc
xây dựng một khả năng quân sự chiếm ưu thế vĩnh viễn cho phép nước
Mỹ đạt được khả năng đánh gục bất cứ kẻ nào cả gan thách thức. Với
chính sách mới này, ông Bush đã oanh liệt tuyên bố trong diễn văn
West Point rằng Hoa Kỳ thay thế chính sách ngăn đê cổ điển
(containment) bằng chính sách đánh phòng ngừa: tấn công là phương
pháp phòng vệ tốt nhất. Sức mạnh có thể làm được tất cả: có quân đội
tấn công, rồi cũng sẽ có quân đội chống hỗn loạn mà mục đích là lập
lại trật tự xã hội sau một chiến tranh hủy nát kiểu Irak
(17).
3. Ðiểm thứ ba mới lạ
trong chiến lược Bush là thánh hóa tranh chấp ta/địch. Ta là thiên
thần, là ông Thiện ; địch là quỷ sứ, là ông Ác. Ai không theo ta thì
đương nhiên là Ác thôi. Chuyện này thật ra không mới gì, ông Bush
chỉ học bài của Reagan, của Dulles thôi. Cái mới là biến cố 11-9
biến ông Bush thành người kể chuyện thiện ác có tính thuyết phục
nhất trong tất cả các ông tổng thống Mỹ. Thuyết phục đến nỗi cả thế
giới hoài nghi mà người Mỹ vẫn tin. Âu châu không nghe ông, ông nói:
đó là Âu châu đã thoái hóa rồi, đã tương đối hóa đạo đức, cho nên đã
quỳ hai gối, không dám hé môi động đến tên của ác quỷ; nước Mỹ tôn
thờ đạo đức như tuyệt đối, cho nên một mình vẫn diệt ác như thường.
Ðạo đức đó cho phép ông Bush cầm roi quân sư phụ "phạt" nước
Pháp đã dám cản mũi kỳ đà trong chiến tranh Irak. Phạt! Chẳng phải
ngôn ngữ trịch thượng đối với chư hầu đó sao?
Ở địa vị tối thượng như
thế, nước Mỹ có thể gặp những hậu quả gì? Ðịa vị chúa tể này có thể
kéo dài được không? Ðó là vấn đề mà chính các tác giả Mỹ nêu lên
trước tiên.
Trước hết, trên chính trị
quốc tế, hễ có sức mạnh thì có phản ứng chống lại sức mạnh. Sức mạnh
quá lớn tất làm chung quanh lo; chung quanh lo tất tìm cách chống,
hoặc tự bản thân mình cũng phải mạnh lên, hoặc liên kết với các nước
khác. Khi một nước tìm ngôi bá chủ thì đồng thời cũng tạo mầm mống
hủy diệt chính ngôi bá chủ tương lai. Lịch sử Âu châu đầy dẫy kinh
nghiệm ấy. Ðế quốc Habsburg dưới triều Charles V, Tây Ban Nha dưới
triều Philip II, Pháp dưới thời Louis XIV, rồi Napoléon, Ðức dưới
tay Hitler: có nước nào duy trì ngôi bá chủ bền vững đâu? Mặt trời
không lặn trên đế quốc Anh hồi thế kỷ 19, cho nên Mỹ, Ðức, Pháp cũng
bắt nó sáng trên đế quốc của mình. Thế thì tương lai của chúa tể
ngày nay cũng sẽ thế chăng?
Mỹ cũng sẽ như thế: đó là
luận thuyết thứ nhất. Xem kìa: ngay từ thời Clinton, Nga, Trung
Quốc, Âu châu đều đã không cảm thấy thoải mái. "Ða cực" trở thành ám
ảnh trong diễn văn của ông Chirac. "Bất cứ cộng đồng nào chỉ có một
cường quốc thao túng đều là một cộng đồng nguy hiểm và thúc đẩy phản
ứng" (18). Bộ trưởng ngoại giao Pháp thời đó, Hubert Védrine, làm Mỹ bực
mình lắm, cứ nói lui nói tới: "Chúng ta không thể chấp nhận việc thế
giới thu gọn vào một cực về mặt chính trị hoặc một thế giới đồng
nhất về mặt văn hóa hoặc chủ nghĩa đơn phương của một tối siêu quốc.
Vì vậy chúng ta tranh đấu cho một thế giới đa cực, đa diện, đa
phương" (19).
Trên thực tế, dù Âu châu
đành phải nài nỉ Mỹ can thiệp quân sự ở Kosovo, nhưng trong lòng áy
náy lắm, vì Mỹ can thiệp không cần thông qua LHQ. Védrine không
ngừng giải thích: đây là một đặc lệ, không phải tiền lệ. Áy náy, cho
nên sau đó Trung Quốc, Nga và Ấn Ðộ bàn bạc hợp tác quân sự, chuyển
nhượng khí giới, san sẻ kỷ thuật quân sự, đề cao đa cực. Ðề cao "thế
giới đa cực", tháng 7-2001, Nga và Trung Quốc ký hiệp ước ghi nhận
quan tâm chung trên mục tiêu này. Putin tuyên bố không chấp nhận một
hệ thống đơn cực, Giang Trạch Dân lặp lại nguyên văn. Áy náy, cho
nên cũng sau đó, Âu châu thành lập Chính sách quốc phòng và an ninh
chung (PEDS) mà mục đích là tạo cho được một lực lượng can thiệp đủ
sức độc lập hơn với Mỹ. Nước Ðức trung thành đến thế mà bây giờ
miệng lưỡi cũng gió đổi chiều: "cốt lõi của khái niệm Âu châu sau
1945 là, và vẫn còn là, từ khước tham vọng bá chủ của một cường quốc
đơn độc". Ðó là câu nói của bộ trưởng ngoại giao Joscha Fischer năm
2000. Cựu thủ tướng Helmut Schmidt không cần úp mở: Ðức và Pháp "chia sẻ
với nhau một lợi ích chung là không giao phó số phận của mình vào
tay bá quyền của đại đồng minh Hoa Kỳ"
(20).
Ở Trung Ðông, chúa tể dễ
gặp nguy hiểm hơn trước. Trước đây, phẫn nộ của quần chúng Hồi giáo
đã cao rồi: vì Mỹ dính như keo với Israel, vì Mỹ đóng quân trên
thánh địa Arabie Saoudite, vì Mỹ ủng hộ các chính quyền Ả rập mất
dân, vì Mỹ thách thức cả Iran lẫn Irak với chính sách "dual
containment", ngăn đê cả hai. Bây giờ, với 11-9, với chiến tranh
ở Afghanistan, với khủng bố và chống khủng bố, với chế độ bảo hộ ở
Irak, luận thuyết "xung đột văn minh" của Huntington bỗng nhiên có
cơ sở hiện thực. Xung kích trên mặt trận ý thức hệ, Mỹ đang trở
thành tử thù của khối Hồi giáo, rước họa khủng bố vào tương lai,
nhúng chân trong một thứ chiến tranh mới chưa từng học, "chiến tranh
bất đối xứng": với một lưỡi dao cạo trên máy bay, khủng bố có thể
thách thức siêu cường nguyên tử. Vậy thì, trong chiến tranh toàn
diện thiện/ác bất tận này, sức mạnh quân sự của Mỹ có thích hợp
không? Trải dài, mở rộng ra đến đâu? Gặt hái ân huệ hay thù ghét?
Ðó là quan điểm của đối
lập ở Mỹ, thiểu số. Quan điểm của giới cầm quyền thì chỉ hồ hởi
thôi, như gà gáy sáng. Ðừng lấy kinh nghiệm lịch sử ra thuyết giảng
tôi! Nước Mỹ không giống ai hết! Về địa dư, an ninh của Mỹ an toàn,
khác xa các đế quốc trong lịch sử: nằm giữa đại dương, đông tây là
biển, bắc nam là tiểu quốc, Mỹ mạnh thêm cũng thế thôi, chẳng gây
thêm lo sợ cho lân bang, khác với Nga và Trung Quốc chẳng hạn, mạnh
thêm thì chung quanh mất ngủ. Chính trị thế giới vốn là như thế, gọi
là thế giới nhưng lo lắng chủ yếu nằm ở địa phương. Các nước nhỏ ở
Âu châu không sợ Mỹ mạnh quá, chỉ lo Pháp Ðức mạnh quá. Nhật đâu sợ
Mỹ mạnh, chỉ lo Trung Quốc trồi lên. Vì vậy, anh mạnh nào lăm le
trồi lên trong vùng, coi chừng Mỹ quốc sẽ bật anh mạnh khác mạnh
lên, cân bằng lực lượng. Ðó là chính sách offshore balancing
mà Mỹ đã áp dụng trước hai thế chiến ở Âu châu, đứng xa ngoài khơi
mà vẫn can thiệp được như thường. Huống hồ ngày nay Mỹ có quân đóng
tại chỗ, dù ở Âu hay Á.
Ðịa dư khác, tương quan
lực lượng cũng khác. Các nước nuôi tham vọng bá chủ trong lịch sử
chỉ mạnh trên một vài phương diện; Mỹ thì mạnh tuốt, trên mọi mặt.
Lực lượng của Mỹ nằm ở bên kia Ðại Tây Dương, an ninh toàn vẹn, khác
với các nước bá chủ ở Âu châu ngày trước, phải chiếm lãnh thổ người
khác, phải bảo vệ lãnh thổ của mình. Ngày trước, các nước liên kết
chống bá quyền là các nước muốn duy trì trật tự cũ trong khi nước
nuôi tham vọng bá quyền là nước muốn thay đổi trật tự kia. Ngày nay,
Mỹ là siêu cường bảo đảm trật tự an bài và trật tự đó có lợi cho hầu
hết các cường quốc khác. Chẳng ai có lợi để phá trật tự cũ; cũng
chẳng ai có lợi để lôi kéo kẻ khác vào chuyện phiêu lưu này. Thêm
nữa, ngày trước liên kết là để ngăn không cho bá chủ trồi lên; ngày
nay Mỹ đã là bá chủ từ khuya! Chàng này vừa lớn lại vừa giàu, chẳng
ai được như thế. Nga thì lớn mà xu hào không rủng rỉnh. Âu châu thì
giàu nhưng còn lâu mới lớn, nghĩa là mới thành "Liên Hiệp". Chỉ e
anh Trung Quốc thôi, peer competitor nay mai đấy. Nhưng nay
mai là bao lâu? Bao lâu thì anh ấy giàu? Năm 2020? Không chắc. Vậy
thì trong tương lai trước mắt, chẳng có đối thủ nào sẽ trồi lên.
Những "tam đa Âu châu" (Pháp-Ðức-Nga), "quan hệ đặc biệt" (Ðức-Nga),
"tam giác chiến lược" (Nga-Trung Quốc-Ấn Ðộ), "hợp tác chiến lược"
(Nga-Trung Quốc) chỉ là những liên kết hữu danh vô thực diễn tả tâm
trạng bất an của một số nước trước sức mạnh của Mỹ. Cứ xem hợp tác
Nga-Trung: cả hai đều cầu thân với Mỹ, cả hai đều có quan hệ kinh tế
với Mỹ quan trọng hơn giữa họ với nhau. Thế thì chúa tể có gì mà lo?
Ðó là tranh luận giữa các
tác giả Mỹ với nhau. Âu châu nghĩ gì?
Trước tiên, Âu châu có thể
trở thành một cực không? Ða cực là giấc mơ của nước Pháp, nhưng cũng
chỉ của nước Pháp. Ðôi khi mơ cũng thành hiện thực phần nào, chẳng
hạn khi Pháp thuyết phục được Anh và Ðức thành lập một lực lượng can
thiệp với 60.000 quân số. Ðồng ý từ 1999 ở Saint Malo, dự án vẫn còn
ở trên đường thực hiện. Chừng nào Âu châu chưa có một lực lượng quân
sự độc lập với Mỹ, Âu châu chưa là một cực. Huống hồ Âu châu cũng
chưa có một ngoại giao chung, tuy hiệp ước Maastricht đã ký từ 11
năm nay. Âu châu có đủ yếu tố để tạo thành sức mạnh trừ ý muốn trở
thành sức mạnh. Ý muốn đó càng loãng đi khi Âu châu càng mở rộng
thêm cho các nước thân Mỹ ở Trung và Ðông Âu. Muốn đa cực, Pháp cần
có lực lượng quân sự của Anh. Anh Pháp Ðức là nền tảng không thể
thiếu được của một Âu châu độc lập về quân sự. Nhưng lập trường của
ông Blair là thế nào? Là chỉ có một cực thôi, cực Tây phương, khối
Tây phương, trong đó Âu châu hợp tác với Mỹ. Trong thực tế, Pháp
cũng không thể đi xa hơn, và lực lượng 60.000 người kia cũng chỉ
nhắm mục đích dựng xây một "cực" Âu châu trong lòng NATO có
khả năng can thiệp tự túc lúc nào NATO không thể hoặc không muốn can
thiệp (21).
Nếu không phải là một cực,
Âu châu có phải là đối trọng của Mỹ không? Ðối trọng? Ấy là con rắn
độc mà phe tân bảo thủ chung quanh ông Bush muốn đập bể đầu. Richard
Perle cảnh cáo: đối trọng là chống đối, là giới hạn, là ngăn chận
Hoa Kỳ; "đó không phải là ý nghĩ của tôi về đồng minh". Ông đe: "thế
mà đó là đề tài nằm tiềm tàng tận trong sâu thẳm của tư tưởng Âu
châu" (22). Âu châu cãi lại: đó là đề tài nằm trong sâu thẳm của tư
tưởng Hoa Kỳ đấy chứ, bởi vì đó là khái niệm căn bản của hiến pháp
nước Mỹ! Cãi nhau vô ích, vì ông Perle đã nói rằng nguyên tắc văn
minh ở bên trong không áp dụng cho thực tế rừng rú ở bên ngoài.
Nhưng đối trọng có phải là
mục tiêu của Âu châu không? Cũng không! Ông Chris Patten, đặc
trách ngoại giao trong Ủy Ban Âu châu thanh minh: ấy, sao lại gán
cho chúng tôi cái "tham vọng điên rồ" đó? Và ông cắt nghĩa :"Khi tôi
dùng chữ "đối trọng" để nói về vai trò của Âu châu đối với Mỹ, tôi
cũng nói đến "người hợp tác". Tôi không bao giờ phát biểu tham vọng
Âu châu sẽ trở thành siêu cường. Ðó là một tham vọng điên rồ và một
cách nhìn thế giới vô cùng lỗi thời" (23).
Ðối trọng? Một tác giả
Pháp có uy tín đưa hai tay lên trời: thế thì vinh dự cho Âu châu
quá! Vinh dự cho Âu châu được ông Robert Kagan so sánh với Mỹ trên tiêu
chuẩn sức mạnh. Thực ra, không phải Âu châu yếu; Âu châu dửng dưng!
Âu châu không có tham vọng chi phối hoàn cảnh thế giới ở bên kia
biên giới của mình, và như thế không phải vì thiếu phương tiện mà vì
từ nửa thế kỷ nay, Âu châu đã quá quen thói nhìn Mỹ bảo đảm trật tự
thế giới đến nỗi chẳng còn biết nghĩ gì nữa trên lĩnh vực này.
"Không phải Âu châu khác Mỹ vì yếu, mà khác vì không có tham vọng
... Không phải Âu châu có một chính sách khác Mỹ; Âu châu chẳng có
chính sách gì cả" (24).
Ðối trọng! "Các chính
quyền Âu châu sẽ không kết hợp nhau để chống lại Mỹ. Nếu được lựa
chọn giữa việc mất ân sủng của Hoa Thịnh Ðốn và việc thắt chặt đoàn
kết ở Bruxelles, nhiều nước thành viên của Liên Hiệp Âu Châu sẽ lựa
chọn Hoa Thịnh Ðốn. Liên hiệp nhau với mục đích chống Mỹ sẽ chia rẽ
nhau hơn nữa, chứ không thống nhất Âu châu hơn"
(25).
Không đa cực, cũng không
đối trọng, vậy thì Âu châu làm gì đây trước sức mạnh của Mỹ? Âu châu
là gì của Mỹ? Trả lời : không phải là kẻ đồng lõa với Mỹ trong mọi
tình huống mà là người hợp tác, partenaire, nghĩa là không
phải gọi dạ bảo vâng, có khi gật đầu mà cũng có khi lắc. Chính cái
lắc đầu đó là cái mà ông Perle không chấp nhận, bởi vì như thế là
contrepoids, đối trọng! Cãi nhau là trên chỗ ấy. Âu châu nói:
tôi là kẻ hợp tác, nghĩa là hợp tác đích thực. Ðể làm gì? Nhiều cách
trả lời, nhưng tựu trung đều một ý. Ngưòi thì nói: để hiện hữu một
cách độc lập (26). Người thì nói: để "tạo ra một Âu châu nằm trong
Tây phương mà ảnh hưởng lên Mỹ và làm chiếc cầu nối kết với những
dân tộc mà nước Mỹ cứ xa dần mỗi ngày"
(27).
Nhưng Pháp và Ðức có cộng
tác được với nhau để xây dựng một Âu châu như vậy không? Ðố ai dám
nói chắc. Ai lạc quan thì thấy Ðức có khuynh hướng độc lập hơn với
Mỹ, thấy Ðức không thể chia sẻ những quan tâm toàn cầu của Mỹ. Mỹ cố
lôi Ðức vào vòng tay của mình để "cùng nhau hợp tác lãnh đạo",
partenariat dans le leadership, Ðức xua tay, lạy anh, em chả
dám. Ðức chỉ có thể theo đuổi một chính sách toàn cầu với Mỹ trong
khuôn khổ Âu châu mà thôi. Ở chính giữa Âu châu, an ninh của Ðức
dính liền với ổn định của Âu châu, nghĩa là của Âu châu thống nhất.
Mà Âu châu thống nhất, Âu châu chính trị, Ðức chỉ có thể tạo ra với
Pháp. Ấy là lối nhìn lạc quan. Nhưng xa Mỹ để đi với Pháp cũng liều
như đánh xì phé. Cho nên ai bi quan thì thấy "các chính quyền Ðức
lắc qua lắc lại giữa những cú xì phé và nỗi lo dấn thân quá xa"
(28). Vả chăng, cái nhìn về Âu châu của Pháp và Ðức có giống nhau
đâu. Giữa triển vọng Âu châu mà Ðức muốn thực hiện và vị thế thống
trị của Mỹ ở Âu châu, Ðức thiếu phương hướng rõ rệt.
Bởi vậy, trả lời dứt khoát
thế nào đây cho câu hỏi nhất cực hay đa cực? Nói khơi khơi nửa nếp
nửa tẻ là hay nhất: "một châu Âu thực sự là Âu châu sẽ không phải là
kết thúc mà là khởi đầu của hợp tác liên-Ðại Tây Dương"
(29). Thậm
khéo! Nghĩa là muốn hợp tác đích thực, châu Âu phải là Âu châu đã.
Nhưng Mỹ có để cho châu Âu thành Âu châu không? Peer competitor!
Chính vì châu Âu chẳng
biết khi nào trở thành Âu châu, nghĩa là trở thành một cực, cho nên
đa cực chỉ là nói cho khỏi ấm ức; trên thực tế, "đa cực" chỉ có
nghĩa là đa phương. Chris Patten nói rất rõ: nếu anh là lãnh tụ thế
giới, và nếu anh để cho tăm tiếng của anh tan rã khắp nơi, chắc chắn
anh không khỏi phiền lụy. Cũng vậy, anh là Number One cho nên
anh được e dè, kính nể, nhưng đồng thời anh cũng gây ra ganh ghét,
sợ hãi, khước từ. Anh đang chất thêm củi vào lửa "chiến tranh văn
minh" rất nguy hiểm cho cả anh và tôi. Tôi không muốn chết thiêu với
anh trong đó, cũng không muốn anh bị thù ghét nữa. Tôi muốn cộng tác
với anh để lấp bằng hố sâu với thế giới Hồi giáo, để giải quyết vần
đề Irak sau chiến tranh, vấn đề Bắc Hàn, để thành công với anh ở
Afghanistan, để bàn bạc với anh một cách hợp lý hơn vấn đề Iran. Tóm
lại, "chúng ta có thể hợp tác với nhau một cách đa phương mỗi khi
thấy có thể làm được, và, nếu không làm được thì chúng tôi lấy trách
nhiệm về phần chúng tôi ở Âu châu" (30). Nhưng "lấy" có được không?
Mỹ có để cho "lấy" không? Patten chỉ có thể kết luận với một nguyện
vọng: "Dù sao, tôi cũng mong rằng nước Mỹ sẽ tiếp tục đem đến cho
thế giới sự lãnh đạo độ lượng mà chỉ có nước Mỹ làm được mà thôi như
một siêu cường lần đầu tiên trong lịch sử của nhân loại"
(31). Khéo
nói quá !
Ða phương: chỉ có thế Âu
châu mới kiếm được chút chỗ đứng dưới mặt trời rồi nhân đó mới ngoi
lên. Bàn cờ thế giới hiên nay đang diễn ra cái nước đi ấy. Ông Bush
đơn phương là để chận Âu châu không cho nó ngoi lên. Chirac phản ứng
để Âu châu khỏi chết yểu về chính trị. Lý luận đưa ra chỉ nhắm vào
điểm ấy: đơn phương là không thể thực hiện được trong mọi trường
hợp; đa phương là cách xử thế nằm chính trong bản chất của các vấn
đề trên thế giới hiện nay, dù là môi trường, ma túy, phóng nhiễm
nguyên tử hay khủng bố. Mỹ có bom đạn thì Âu châu có tiền: ai chi
tiền nhiều hơn ở Balkans, ở Palestine nếu không phải là Âu châu? Một
mình nước Mỹ không giải quyết được mọi vấn đề, trước sau gì rồi cũng
phải cậy đồng minh.
Nhưng nói thế thì, nghĩ
cho cùng, cũng chẳng làm mếch lòng gì chúa tể. Ngồi vào bàn ăn, ông
chủ có thể chọn thực đơn hay gọi từng món. Ðơn phương hay
multilatéralisme à la carte có khác gì nhau đâu, chính yếu là ý
muốn của ông chủ, là tự do chọn lựa. Cứ xem chuyện Irak với Bắc Hàn:
cùng là "khủng bố" cả, "nhà nước côn đồ" cả, nhưng để giải quyết
tranh chấp với Bắc Hàn, Mỹ đã chẳng chọn đa phương với Trung Quốc đó
sao? Anh này mới thật là peer competitor, có cơ thành ra một
cực. Âu châu, còn lâu!
IV
Trung Quốc có phải là một
cực? Ðây cũng là đề tài nóng bỏng của các tác giả ở Bắc phương. Vào
khoảng 1993, họ nhìn trận đồ trên thế giới như diễn ra dưới cái thế
"nhất siêu đa cường": sức mạnh đang chuyển từ Mỹ qua Trung Quốc, Âu
châu, Nhật, Nga và vài nơi khác nữa. Ða cực là khuynh hướng
(32). Ðó
là thời gian mà Pháp nhìn Trung Quốc như kẻ đồng thanh tương ứng.
Ðến cuối những năm 90 thì các tác giả Trung Quốc thấy thực tế dường
như đi ngược lại: "anh Siêu thì siêu hơn, các anh Cường thì kém
cường đi" (33). Ða cực, vì vậy, sẽ là "một diễn biến dài và quanh
quẹo". Dài là bao lâu? Có người bảo: từ 10 đến 15 năm. Có người thận
trọng hơn: 50 năm! Tất nhiên cũng có người cộng lại chia hai: từ 20
đến 30 năm. Ðó là thời gian mà ông Clinton tấn công Trung Quốc về
mặt nhân quyền, liên hệ vấn đề này với vấn đề công nhận điều khoản
tối huệ quốc cho Bắc Kinh. Ðâu có dùng hard power với Trung
Quốc được, ông ra chiêu soft. Chiến tranh ở Kosovo khiến các
tác giả Trung Quốc e ngại hơn nữa. Mỹ can thiệp dưới chiêu bài nhân
đạo, nhân quyền, biến can thiệp về nhân quyền thành luật lệ, thể
chế, gạt chủ quyền quốc gia ra ngoài xó Hiến chương LHQ, đột phá
"phòng tuyến cuối cùng" (34) của các nước ở ngoài cực ý thức hệ của
Mỹ. Giữa engagement và containment trong chính sách
của Mỹ đối với Trung Quốc, các tác giả Trung Quốc càng ngày càng
thiên về cách nhìn cho rằng Mỹ muốn áp dụng chính sách thứ hai, nhất
là khi Bush lên cầm quyền.
Biến cố 11-9 xoay ngược
tình huống. Ðang căng, Bush bỗng làm hòa để kéo Trung Quốc vào
"chiến tranh không bao giờ dứt" chống khủng bố. Khủng bố cũng là vấn
đề của Trung Quốc: hiểm họa ly khai Hồi giáo ở Tân Cương, trái bom
nguyên tử và trái bom Hồi giáo quá khích ở Pakistan, căng thẳng giữa
Pakistan và Ấn Ðộ ... Có kẻ thù chung, có cớ để gần nhau. Hòa hoãn
và hợp tác với Mỹ trở thành chính sách của Trung Quốc từ 2001.
Nhiều người đặt câu hỏi: ý
muốn hòa hoãn đến từ ai trước? Có người trả lời: từ Bush. Khi tranh
cử thì cứng rắn để lấy phiếu, khi lên cầm quyền thì phải trung dung
để khỏi vỡ đầu trước thực tế. Có người bảo: từ Trung Quốc. Trước
cứng rắn của Bush về Ðài Loan, về Nhật Bản, Bắc Kinh hòa dịu. Có
người công nhận điều đó nhưng nói thêm: ta hòa hoãn với Mỹ vì ta tin
ở ta hơn, tin ở sự vững chắc của ta trên thế giới và ảnh hưởng của
ta trong vùng. Phát triển hơn về kinh tế, uy tín hơn về chính trị
vùng, bang giao sáng sủa đặc biệt với Hàn Quốc, tương quan tích cực
hơn với Nga, với các nước Trung Á, Nam Á, hội nhập trơn tru vào WTO,
Thế Vận Hội 2008 ở Bắc Kinh ... bao nhiêu thành tích thu được! Hai
cách giải thích cuối cùng đưa đến cùng một kết luận: khi nào Trung
Quốc thấy cần hợp tác và hòa hoãn với Mỹ thì tứ xứ chung quanh cũng
được hưởng ơn mưa móc thuận hòa theo (35). Mới đây, cuối tháng sáu,
Trung Quốc còn ký hiệp ước với Ấn Ðộ thành lập con đường thương mại
xuyên qua Sikkim mà hai bên tranh chấp về chủ quyền sau khi Ấn sát
nhập vào lãnh thổ mình năm 1975.
Tất nhiên đây chỉ là một
giả thuyết, nhưng, dù sao, phần đông tác giả cho rằng trước một Bush
cứng rắn, Trung Quốc đã khéo léo quẹo một vòng qua bên phải mà không
mất thể diện chút nào. Từ đó đến nay, đường chiến lược của Trung
Quốc là lại gần với Mỹ. Ít nhất hai lý do giải thích thái độ này.
Một là Trung Quốc mua thời gian để mạnh về kinh tế, nhất là trong
giai đoạn kinh tế mở cửa cho toàn cầu hóa và đồng thời mở cửa cho
xáo trộn xã hội nghiêm trọng. Hai là Trung Quốc mua ôn hòa của Mỹ
trong thế trận với Ðài Loan để giữ vững nguyên trạng, nghĩa là
nguyên trạng có lợi cho Bắc Kinh vì Bắc Kinh không ngừng tân trang
hỏa tiễn chĩa vào hòn đảo (36).
Chính trong thời gian sửa
đổi chính sách này (thừa nhận đa cực như hoài vọng, nhất cực như
thực tế; hợp tác là căn bản; ổn định môi trường chung quanh là cần
thiết) mà thế giới và lân bang chứng kiến ngoại giao Trung Quốc bỗng
nhiên thu nhận đa phương vào tập tục. Trung Quốc vuốt ve ASEAN, vỗ
về các thành viên, trấn an họ về tham vọng ở Biển Ðông, tham gia hội
họp ARF (tổ chức an ninh vùng của ASEAN) tuy vẫn không ngừng chủ
trương rằng an ninh là lĩnh vực bàn cãi tay đôi, đề nghị xây dựng Tổ
chức hợp tác Thượng Hải với các nước ở biên thùy Trung Á ... Trong
thế giới nhất cực, đa phương là đường lối duy nhất còn lại để chống
bá quyền của chúa tể. Trên điểm này, nhận định của Trung Quốc không
khác Pháp. Và bởi vì không khác nên cả hai đều nhấn mạnh sự quan
trọng của tổ chức đa phương cao nhất là LHQ. Lính Trung Quốc có bao
giờ đội mũ xanh đâu, thế mà bây giờ Bắc Kinh kèn trống vênh vang gởi
một đoàn mũ xanh qua tận Congo. Ðó là tháng giêng 2003, đúng là gần
Tết.
Thế nhưng đạo đa phương
của Trung Quốc cũng là đạo của nước lớn. Cũng là mũ xanh, nhưng khi
LHQ muốn gởi mũ xanh qua Macédoine thì Bắc Kinh phủ quyết. Tại sao?
Tại vì nước này công nhận Ðài Loan. Hội Ðồng Bảo An muốn xem xét
tranh chấp nguyên tử ở Bắc Hàn? Không được! Bắc Hàn là vùng ảnh
hưởng của Trung Quốc. Ða phương như thế, báo chí Pháp gọi là "đa
phương cùn" (37), nhất là khi so sánh thái độ của Pháp và thái độ
của Trung Quốc trong vụ Irak: Pháp tích cực bảo vệ uy thế của LHQ;
Trung Quốc bảo vệ LHQ trong chừng mực chuyện đó không làm hại bang
giao song phương đang tốt với Mỹ. Cho nên Trung Quốc đứng nấp sau
lưng Pháp, nhường vai trò minh tinh cho Pháp, riêng mình "bất đồng ý
với Mỹ nhưng với miệng cười" (38). Trong ba tháng đầu của năm 2003,
cách thức nổi bật nhất để xử lý vụ Bắc Hàn và Irak là cái máy điện
thoại. Bush gọi Giang trong tháng giêng, tháng hai, rồi gọi Hu (Hồ
Cẩm Ðào) tháng ba; Powell gọi Tang tháng giêng. Lí Triệu Tinh, bộ
trưởng ngoại giao mới, gọi Powell tháng ba. Cũng tháng ba, Powell
gọi Tang, bây giờ là cố vấn. "Hello ! Bush đó hả? Hẩu lớ! Hu
đây!" Ðường dây trực tiếp thiết lập một thứ quan hệ song phương thân
hữu mà có tác giả đã gọi là "telephone diplomacy"
(39).
Ðơn phương, đa phương:
chuyện đó có liên quan gì đến Việt Nam không? Có chứ ! Dưới sức mạnh
của chúa tể, ai mà chẳng thấy áp lực ! Nhìn đâu cũng thấy, nhất là
từ sau đại thắng Irak. Ở Trung Ðông, ông Bush đang ép hai bên Israel
và Palestine nhượng bộ lẫn nhau. Nếu ông thành công, không chừng thế
giới hết dám cười thầm chủ trương thay đổi bản đồ chính trị của ông
trong vùng nóng cháy này. Ở Âu châu, Pháp tìm mọi cách để làm lành,
nước nào cũng nhũn nhặn, biết điều, biết cao thấp. Làm lành, trước
hết là thừa nhận quan điểm của Mỹ. Thừa nhận quan điểm của Mỹ, trước
hết là trực tiếp xem quan tâm của Mỹ là quan tâm hàng đầu của chính
mình và, qua đó, gián tiếp xem hành động của Mỹ ở Irak là chính
đáng. Hội Ðồng Âu châu, họp ở Thessalonique (Hy Lạp) ngày 21-6 vừa
qua, đã biết điều như vậy: đã biểu quyết về đường lối căn bản chống
lại việc phóng nhiễm vũ khí tận diệt; đã đặt nền móng cho một "chiến
lược an ninh Âu châu" mà hậu quả trên thực tế là tạo tính chính đáng
cho hành động phòng ngừa của Mỹ; đã ăn nói cứng rắn với Iran, khác
với lối chơi ôn hòa trước đây
(40). Ở Á châu, cũng trong tháng 6, quan
tâm của Mỹ cũng được thỏa mãn tại hội trường ARF. Hơn thế nữa,
sau khi Powell đe dọa trừng phạt bọn "côn đồ" đang cầm quyền ở Miến
Ðiện, ASEAN yêu cầu họ phải trả tự do nhanh chóng cho bà Aung San
Suu Kyi (41).
Trong ba biểu hiện nổi bật
nói từ đầu bài của chiến lược Mỹ, biểu hiện thứ ba có liên quan đến
Việt Nam. Nhân quyền không phải là đề tài mới. Cái mới là tính cách
trần trụi trong việc định nghĩa giá trị, nhân quyền, tính chính đáng
hiện nay. Tính chính đáng (légitimité), dù đến từ luật hay từ đạo
đức, đều phải đặt tiêu chuẩn trên giá trị của nước Mỹ, căn cứ trên
hiến pháp Mỹ, trên ý muốn của dân tộc Mỹ, chứ không phải trên một cơ
quan nào ở cao hơn, dù là một tổ chức đa phương như LHQ hay một luật
pháp toàn cầu trừu tượng. Robert Kagan đã viết như thế, và thực tế đã
diễn ra như thế. Mẫu mực giá trị của nước Mỹ là mẫu mực của toàn
cầu. Còn như ai muốn biết giá trị đó cụ thể là gì lúc này, xin hỏi
các lobbies nòng cốt đang cộng sinh với thế lực tân bảo thủ
chung quanh ông Bush, đang cùng với tả hữu của ông định nghĩa thế
nào là thiện, thế nào là ác, thế nào là khủng bố, thế nào là thánh
chiến, thế nào là tôn giáo, thế nào là nhân quyền
(42).
Tôi đã nhiều lần phát biểu
ý kiến về chuyện này, có nói thêm nữa cũng chỉ nhắc lại mà thôi. Vậy
xin phép nhắc lại một câu: chúng ta phải thay đổi, và bởi vì thay
đổi là không thể tránh được, hãy giữ độc lập của ta bằng cách đoàn
kết mà thay đổi, thay đổi trong sức mạnh của toàn dân, không phải
dưới áp lực từ bên ngoài. Lại xin nói thêm: hơn bao giờ hết, "toàn
dân" phải hiểu là bao gồm cả khối dân tộc ở ngoài nước. Tầm quan
trọng lớn lao của khối này chưa hề được hiểu đúng mức. Bởi vì muốn
hiểu đúng người khác thì phải hiểu họ từ trong bụng của họ, chứ
không phải hiểu họ từ trong bụng của ta. Thời điểm ngày hôm nay bắt
buộc cái bụng này phải nghe cái bụng kia, nghe với quan tâm cùng
nhau định nghĩa quyền lợi tối cao của dân tộc. Mà không phải định
nghĩa trừu tượng đâu, vô ích. Ðịnh nghĩa qua từng sự việc cụ thể,
bởi vì chỉ như vậy tin tưởng mới vượt lên trên chia rẽ, hận thù, đạo
đức Việt Nam mới thắng "đạo đức" đế quốc.
(1)
Trích trong: Michael J. Glennon, Why the Security Council failed,
Foreign Affairs, May-June 2003.
(2)
(3) (4) Warren Christopher, America 's Leadership, America 's
Opportunity, Foreign Policy, Spring 1995.
(5)
Xem trong: The National Security Strategy of the United States of
America, do Chính Phủ Mỹ phát hành rộng rãi vào tháng 9-2002.
Tất cả những gì gọi là "chủ thuyết Bush" đều nằm trong đó.
(6)
(7) Stephen G. Brooks và William C. Wohlforth, American Primacy in
Perspective, Foreign Affairs, July-August 2002.
(8)
Timothy Garton Ash, L'anti-européanisme en Amérique, Commentaire,
n°101, Printemps 2003. Ðây là một lối chơi chữ. EU là chữ viết tắt
của European Union, Liên Hiệp Âu châu.
(9)
Robert Kagan, Power and Weakness, Policy Review, June-July
2002. Quyển sách của ông tựa đề là : Of Paradise and Power
(Knopt 2002) dịch ra tiếng Pháp dưới tựa đề: La Puissance et la
Faiblesse. Les Etats-Unis et l'Europe, Commentaire/Plon 2002.
(10)
Xem R. Kagan, sđd, và Daniel Vernet, Impérialisme postmoderne, Le
Monde, 25-4-2003.
(11)
Owen Harries, tác giả người Úc, nói trước về sự suy sụp của "Tây
phương" từ mười năm nay trong bài: The Collapse of the West,
Foreign Affairs, September-October 1993.
(12)
Francis Fukuyama, Craquements dans le monde occidental, Le Monde,
16-8-2002.
(13)
Robert Kagan, The Benevolent Empire, Foreign Policy, Summer
1998.
(14)
Thật ra, chính sách này đã được vạch ra từ 1992, lúc Liên Xô vừa sụp
đổ, lúc mà tác giả tân bảo thủ Charles Krauthammer sáng tác ra mấy
chữ "thời điểm nhất cực" trong The Unipolar Moment. America 's and
The World, Foreign Affairs 1990-91. Trong một tài liệu quan
trọng, Lầu Năm Góc viết: "Mục tiêu thứ nhất của chúng ta là phải tập
trung vào việc ngăn chận sự trỗi dậy của bất cứ cường quốc nào có
triển vọng trở thành kẻ cạnh tranh với ta trong tương lai" (John
Mearsheimer, The Future of the American Pacifier, Foreign Affairs,
September-October 2001).
(15)
Xem Thierry Montbrial, Refonder la relation transatlantique, Le
Monde, 14-6-2003.
(16)
Tom Barry, The US Power Complex: What's New, Foreign Policy Focus,
Special Report, Novemb 2002,
http//www.fpif/papers/02power/index.body.html
(17)
Jacques Isnard, Le Pentagone rêve d'une armée "anti-chaos", Le
Monde 27-5-2003.
(18)
trích bởi Michael J. Glennon, bài đã dẫn.
(19)
Christopher Layne, Offshore Balancing Revisited, The Washington
Quarterly, Spring 2002.
(20)
M. Glennon, đã dẫn.
(21)
Xem phỏng vấn bà bộ trưởng quốc phòng Michèle Alliot-Marie trong
Le Monde 15/16-6-2003.
(22)
Chris Patten § Richard Perle, Les relations entre l'Europe et les
Etats-Unis, Commentaire, n° 101, Printemps 2003, trang 11.
(23)
như trên, trang 14.
(24)
(25) Christophe Bertram, Faiblesse de la puissance. Réponse à Robert
Kagan, Commentaire như trên, trang 29.
(26)
J. Andréani trong Commentaire vừa dẫn.
(27)
Pierre Hassner, Etats-Unis-Irak-Europe: le troisième round, Le
Monde, 26-4-2003.
(28)
(29) Karl Lamers, L'avenir du monde occidental, Le Monde
10-6-2003. Tác giả là một nhân vật quan trọng đã từng đặc trách
ngoại giao của nhóm dân biểu đảng Dân chủ thiên chúa trong Quốc Hội
Ðức.
(32) Yong Deng, Chinese 's Perceptions of US Power and Strategy, Asian
Affairs, Fall 2001.
(33) Xem Wang Jisi, Building a Constructive Relationship, trong: Morton
Abramowitz, Funabashi and Wang Jisi, China-Japan-US: Managing the
Trilateral Relationship (Tokyo-NewYork, Japan Center for
International Exchange, 1998) trang 22.
(34) Yong Deng, bài đã dẫn.
(35)
Robert Sutter, China 's Rise in Asia. Are US Interests in Jeopardy?
CSIS, Pacific Forum, PacNet Newsletter 7-3-2003.
(38)
(39) Lập trường của Bắc Kinh là giải giới Irak nhưng chống chiến
tranh. Bắc Kinh vẫn giữ lập trường đó ngay cả sau khi Bush tuyên bố
tối hậu thư 48 giờ. Bộ trưởng ngoại giao Tang Jiaxuan nói với Powell
trong điện thoại rằng Trung Quốc muốn chấm dứt ngay chiến tranh để
vấn đề Irak có thể tìm được một giải pháp chính trị. Xem Bonnie S.
Glaser, US-China Relations: China and the US. Disagree, but with
Smiles, trong: Brad Glosseman § Vivian Brailey Fritschi (ed.)
Comparative Connections, A Quarterly E.Journal on East Asian
Bilateral Relations, Vol. 5, N° 1, First Quarterly 2003 trang
31.
(40) Về God 's Lobbies, xem: William Martin, The Religious Right and
Foreign Policy, Foreign Policy, Spring 1999.
(41)
Patrick Jarreau et Laurent Zucchini, Un certain apaisement
euro-américain, Le Monde, 26-6-2003. Xem thêm bình luận về
phúc trình của Javier Solana trong bài: Une doctrine de sécurité
commune justifie l'"action préventive", Le Monde 21-6-2003.
(42)
La diplomatie américaine marque des points en Asie du Sud-Est, Le
Monde 19-6-2003.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét