Trong bối cảnh đó, Chính phủ buộc phải vay nợ mới lên đến 436.000 tỉ đồng, tức nhiều hơn mức bội chi được Quốc hội cho phép đến 210.000 tỉ đồng. Một phần không nhỏ trong khoản vay này được dùng để đảo nợ và điều này cho thấy khả năng trả nợ của Chính phủ đang có vấn đề cả về cân đối lẫn thanh khoản.
Thứ Sáu, 27 tháng 11, 2015
Điều gì làm cho nợ công trở nên rủi ro?
10:16
Hoàng Phong Nhã
No comments
TBKTSG)
- Thâm hụt ngân sách cơ bản cao và kéo dài là nguyên nhân chính dẫn đến
nợ công tích tụ ngày càng lớn. Bài này phân tích mười rủi ro chính yếu
của nợ công, đòi hỏi Chính phủ cần nhìn thẳng vào để có hướng giải
quyết.
Rủi ro 1: Mất cân đối ngân sách nghiêm trọng
Theo dự toán, tổng thu cân đối ngân sách năm 2015 là 911.100 tỉ đồng.
Số thu này sau khi trang trải chi thường xuyên 767.000 tỉ đồng (chiếm
84% số thu) chỉ còn 144.100 tỉ đồng. Trong khi đó, khoản nợ phải trả
trong năm 2015 đã lên đến 150.000 tỉ đồng nên số dư còn lại là âm 5.900
tỉ đồng, tức thậm chí chưa trả đủ nợ. Điều này có nghĩa là tiền kiếm
được sau khi chi “để sống và trả nợ” vẫn không đủ, chưa nói đến đầu tư
phát triển và dự phòng. Để có vốn phát triển, Quốc hội cho phép bội chi
ngân sách 5% GDP, tương đương 226.000 tỉ đồng, nhưng số tiền này sau khi
trích dự phòng, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, chi cải cách tiền
lương, và trả nốt số nợ chưa trả đủ ở trên, thì chỉ còn lại 185.000 tỉ
đồng để dành cho đầu tư phát triển.Trong bối cảnh đó, Chính phủ buộc phải vay nợ mới lên đến 436.000 tỉ đồng, tức nhiều hơn mức bội chi được Quốc hội cho phép đến 210.000 tỉ đồng. Một phần không nhỏ trong khoản vay này được dùng để đảo nợ và điều này cho thấy khả năng trả nợ của Chính phủ đang có vấn đề cả về cân đối lẫn thanh khoản.
Rủi ro 2: Nợ phân tán và ràng buộc ngân sách lỏng lẻo
Ràng buộc ngân sách của Việt Nam quá lỏng lẻo mà giới chuyên môn gọi là
ràng buộc ngân sách mềm, là biểu hiện của kỷ cương, kỷ luật tài khóa
yếu kém. Chính điều này làm cho các quyết định chi tiêu hay vay nợ dễ bị
lạm dụng và tùy tiện. Biểu hiện rõ nhất là con số quyết toán ngân sách
luôn cao hơn nhiều so với dự toán. Ngay cả con số trả nợ thực tế vẫn lớn
hơn nhiều so với dự toán - mà lẽ ra các khoản nợ trong kỳ đã phải được
tổng hợp trên cơ sở lịch trả nợ đã biết. Điều này đặt ra mối nghi ngại
rằng Bộ Tài chính đã không thể quản lý và thống kê đầy đủ, kịp thời các
khoản nợ hiện đang nằm phân tán ở nhiều bộ ngành, địa phương, doanh
nghiệp nhà nước (DNNN)... cũng như chưa có sẵn một kế hoạch hợp nhất các
lịch biểu trả nợ làm cơ sở cân đối khả năng thanh toán cũng như lập dự
toán ngân sách.
Rủi ro 3: Cơ sở thuế bị xói mòn nhanh chóng
Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong nhiều năm bị chậm lại đáng kể và chỉ
mới phục hồi nhẹ gần đây đã làm xói mòn cơ sở thuế nghiêm trọng. Nhiều
doanh nghiệp ngưng hoạt động, giải thể, phá sản đã tác động trực tiếp
đến nguồn thu ngân sách. Hơn nữa, một phần nguồn thu ngân sách được đóng
góp nhờ nguồn thu từ dầu ngay cả trong bối cảnh giá dầu giảm mạnh song
nguồn thu này sẽ còn không bền vững. Việc tham gia các hiệp định thương
mại với các cam kết mở cửa thị trường cũng làm cơ sở thuế bị xói mòn
nhanh. Trong khi đó, các cải cách thuế đến nay vẫn diễn ra khá chậm, đặc
biệt là thuế bất động sản.
Rủi ro 4: “Ống bơ thủng” và hiện tượng chèn lấn tư nhân
Tình trạng “ống bơ thủng” trong đầu tư công đã được đề cập nhiều nhưng
đến nay vẫn chậm cải thiện. Trong chừng mực các lập luận cho rằng Việt
Nam là nước đang phát triển có nhu cầu đầu tư lớn nên cần phải đi vay để
đầu tư được xem là điều tất yếu, có thể dẫn đến ngộ nhận rằng chúng ta
vẫn phải chấp nhận tăng nợ công để phát triển mà không lưu ý đến tính
hiệu quả và rủi ro đi kèm. Lập luận này còn vô hình trung chối bỏ vai
trò của khu vực tư nhân. Việc Chính phủ tăng phát hành trái phiếu sẽ gây
chèn lấn đầu tư tư nhân mà biểu hiện là mặt bằng lãi suất thường duy
trì ở mức cao, khiến cho nỗ lực giảm lãi suất của Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) trở nên vô nghĩa.
Rủi ro 5: Nghĩa vụ nợ tiềm ẩn tăng nhanh
Không chỉ Chính phủ vay mà bản thân doanh nghiệp nhà nước (DNNN) cũng
đi vay nhưng hiệu quả kém khiến cho nghĩa vụ nợ tiềm ẩn của Chính phủ
tăng lên. Mặc dù theo định nghĩa chỉ những khoản nợ DNNN được Chính phủ
bảo lãnh mới tính vào nợ công, song có cơ sở để cho rằng cả những khoản
nợ không được bảo lãnh cũng có thể biến thành nợ công. Tình trạng bảo
lãnh ngầm của Chính phủ đối với các khoản nợ của DNNN (cả các dự án PPP)
đang tạo ra tâm lý ỷ lại nguy hiểm. Trong thời gian dài, chính sách bảo
hộ và trợ cấp vô điều kiện của Chính phủ đã nuôi dưỡng sự thụ động và
làm thui chột động cơ sáng tạo cũng như cải thiện hiệu quả của khối
DNNN, đặt gánh nặng lên vai ngân sách.
Rủi ro 6: Áp lực tỷ giá và rủi ro khủng hoảng tiền tệ
Trong cơ cấu nợ công thì nợ công nước ngoài chiếm 47% tổng nợ công và
hơn 76% tổng nợ nước ngoài của quốc gia. Nợ công nước ngoài cộng với nợ
tư nhân nước ngoài hiện chiếm trên 37% GDP. Nợ nước ngoài có rủi ro rất
khác so với nợ trong nước. Chẳng hạn, khi đồng tiền mất giá nợ nước
ngoài tính bằng nội tệ sẽ tăng lên khiến cho việc thanh toán nợ của
Chính phủ trở nên khó khăn. Điều này cũng tạo thách thức rất lớn cho
việc điều hành tỷ giá hiện nay. Hơn nữa, bản thân các DNNN cũng vay nợ
ngoại tệ rất nhiều nên càng có động cơ để gây áp lực khiến cho NHNN khó
điều chỉnh tỷ giá mà điển hình là đề nghị hạch toán lỗ tỷ giá vào giá
thành sản xuất điện của các tập đoàn Than và Khoáng sản (TKV) hay Điện
lực Việt Nam (EVN) vừa qua. Như vậy công cụ tỷ giá của NHNN vô hình
trung bị biến thành công cụ quản lý rủi ro tỷ giá cho các DNNN. Khi
chính sách tỷ giá bị trói buộc cũng khiến cho chính sách tiền tệ giảm
hiệu lực và nguy cơ thường trực đối diện với rủi ro khủng hoảng tiền tệ.
Rủi ro 7: Rủi ro nợ thương mại và trò chơi Ponzi
Nợ công nước ngoài của Việt Nam chủ yếu vẫn là nợ ưu đãi nhưng vay
thương mại cũng đã tăng nhanh mà một lý do là Việt Nam đã chuyển sang
nước thu nhập trung bình. Ngay cả các khoản ODA thì loại ODA vốn vay
đang chiếm tỷ trọng ngày càng lớn, từ mức gần 80% giai đoạn 1993-2000,
lên 93% giai đoạn 2006-2010, và 95,7% giai đoạn 2011-2012. Trong khi đó,
vay thương mại tăng lên cũng có nghĩa là lãi suất vay nợ cũng tăng lên.
Lãi suất tăng lên cùng với mức nợ công cao sẽ làm tăng tốc độ gia tăng
nợ công rất nhanh, có nguy cơ vượt ra ngoài tầm kiểm soát của trò chơi
Ponzi (vay mới trả cũ).
Rủi ro 8: Tín nhiệm nợ quốc gia giảm
Nợ công tăng lên làm giảm độ tín nhiệm nợ của Chính phủ. Giảm độ tín
nhiệm nợ có nghĩa là Chính phủ sẽ phải đi vay với lãi suất cao hơn. Khi
Chính phủ vay nợ đắt đỏ thì tư nhân khó tìm được vốn giá rẻ. Nói khác
đi, tư nhân cũng đang gánh một phần chi phí nợ chính phủ và do vậy làm
giảm sức cạnh tranh của họ. Tính toán cho thấy các khoản nợ chính phủ có
lãi suất trung bình thấp hơn so với khoản nợ do Chính phủ bảo lãnh. Tỷ
trọng dư nợ Chính phủ bảo lãnh dù chỉ chiếm 21% nhưng tỷ trọng lãi và
phí phải trả đã chiếm 35% tổng lãi và phí phải trả hàng năm. Ngoài ra,
tỷ trọng nợ chính phủ bảo lãnh cũng đang có xu hướng tăng lên. Điều này
đang đặt ra nhiều thách thức cho Chính phủ trong việc quản lý nợ công,
đặc biệt là cơ chế phân cấp thẩm quyền vay nợ, cấp bảo lãnh cũng như
nâng cao năng lực giám sát và kiểm toán các khoản nợ công.
Rủi ro 9: Đánh đổi giữa chi phí vay nợ với rủi ro tái tài trợ
Theo báo cáo của Bộ Tài chính, bình quân 30% các khoản vốn huy động
trong nước có kỳ hạn từ 1-3 năm. Trái phiếu chính phủ phát hành gần đây
thường có kỳ hạn ngắn từ 2-5 năm. Mặc dù Bộ Tài chính có phương án tăng
dần tỷ trọng trái phiếu kỳ hạn dài nhưng thực tế cho thấy các đợt phát
hành thường không thành công. Để thành công buộc Chính phủ phải chấp
nhận trả lãi suất cao hơn. Ngược lại, nếu vẫn theo đuổi mục tiêu giảm
nhẹ chi phí nợ vay như hiện nay thì Chính phủ phải chấp nhận rủi ro
thanh toán và rủi to tái tài trợ.
Rủi ro 10: Rủi ro nhân khẩu học của nợ
Nợ công xét cho cùng thì người dân vẫn phải chìa hầu bao để trả. Tăng
thuế có nghĩa là Chính phủ sẽ lấy đi một phần thu nhập của chính người
dân để trả nợ. Nếu lấy quy mô nợ công khoảng 110 tỉ đô la Mỹ chia cho
dân số gần 92 triệu người thì mỗi người dân đang gánh số nợ công 1.200
đô la Mỹ, chiếm hơn 60% thu nhập của họ. Điều quan trọng là, cũng giống
như câu hỏi nền kinh tế có tăng trưởng nhanh và bền vững hay không, liệu
người dân có kiếm được thêm thu nhập để chi tiêu và tích lũy trả nợ hay
không? Nhìn ở khía cạnh nhân khẩu học, Việt Nam vừa trải qua giai đoạn
được gọi là dân số vàng nhưng nhanh chóng bước vào thời kỳ dân số già
hóa với tốc độ nhanh hơn bất cứ quốc gia nào khác. Thách thức ở đây
không chỉ là sự thiếu hụt lực lượng lao động cho chính sách công nghiệp
hóa mà còn là gánh nặng nhìn ở phương diện chính sách hưu trí và an sinh
xã hội - một nghĩa vụ nợ công rất lớn trong tương lai không thể không
tính đến từ lúc này.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét