Bản dịch của Trần văn Kha
Trích dịch
từ bài “The Spectacular Case of Archbishop Stepinac And A Total
Catholic State” trong sách
“Vatican Imperialism In The Twentieth Century”
by Avro
Manhattan
Exodus
22:20. - Ai dâng đồ cúng bất cứ thần nào không phải Jehovah
mà thôi thì đều phải tiêu diệt
Exodus
22:20. - One who sacrifices to any gods but Jehovah alone is to
be devoted to destruction
Tuân theo lời
dạy của Thiên Chúa lòng
lành vô cùng, Tổng giám mục Stepinac đã có công giết
850.000 người vì Chúa, được Giáo Hoàng John Paul II sửa soạn
phong cho làm Thánh (năm 1999) gần 40 năm sau khi chết. Ngài
“đau đớn” được Chúa gọi về cho lên thiên đàng, tháng 2, 1960.
-------------------------------
(Quý vị
nào yếu tim, Xin đừng đọc bài này)
Chính sách của Hitler đem lại cho ông ta rất nhiều lợi lộc.
Nam-tư không những cương quyết trung lập: vào ngày 25, tháng 3,
1941, nước này ký một hiệp ước với ông ta, và như vậy bước thẳng
vào phe Quốc Xã. Hai ngày sau, 27 tháng 3, 1941, một cuộc đảo
chánh chống Quốc Xã, do tướng Mirkovich lãnh đạo, lật đổ chính
phủ Nam-tư thân Quốc Xã. Trong khi toàn thể nước Nam-tư ăn mừng
biến cố đó, thì Zagreb, thủ đô Nam-tư, đón nhận tin ấy trong sự
im lặng lạnh lùng bất thường; những truyền đơn đầy hăm dọa, được
thấy trước cửa nhà những người Serbs ở Zagreb, và một bầu không
khí căng thẳng chờ đợi sự bất thường làm tê liệt Croatia. Vào
ngày 6 tháng 4, 1941, Hitler tấn công Croatia. Giấc mộng của
Pavelich, cho đến lúc bấy giờ được đánh dấu bằng những ám sát
chính trị, cuối cùng gần thành sự thật.
Tổ chức Gia-tô bí mật rộng rãi của
ông, đảng Ustashi, đã chuẩn bị trong nhiều năm cho ngày đó, được
huy động. Pavelich, nhảy ra ánh sáng, kết hợp ngay với Hitler.
Ustashi của ông chiến đấu mạnh mẽ ở hậu tuyến của Quân Đội
Nam-tư. Những người Croats trong Quân Đội đồng thời thực hiện
những hoạt động của đạo quân thứ năm tới mức độ làm cho không
một việc gì được thực thi đúng theo chương trình. Những sĩ quan
Croats chạy sang với người Đức, rồi tiết lộ cho họ biết những
tin tức quan trọng về những căn cứ không quân, v.v… Những đơn vị
Dân Quân Croats tước võ khí của Quân Đội Nam-tư. Sự rối loạn
rộng rãi gây ra bởi những người Gia-tô Croats trở thành một
trong những yếu tố chính giúp cho sự chiếm đóng Nam-tư của Đức
được thực hiện mau chóng. (Nước Nam-tư hồi đó có nhiều chủng
tộc khác nhau, Croats Gia-tô, Hồi, Do-thái, Chính Thống Serbs).
Việc phát động một lực lượng
phản bội rộng rãi bên trong Nam-tư không thể thực hiện được nếu
không có sự hợp tác tích cực của Giáo Hội Gia-tô.
(The promotion of such a large treacherous body within
Yugoslavia would have been impossible without the active
cooperation of the Catholic Church.- Page 355). Những băng đảng
khủng bố của Pavelich, Ustashi, đã được khuyến khích về mặt đạo
đức và ủng hộ tiền bạc bởi Giáo Hội. Thực ra, thì cái xương sống
của họ là những linh mục, tu sĩ và cả tổng giám mục. Những tu
viện được sử dụng như là hành dinh bí mật của Ustashi từ rất lâu
trước khi Quốc Xã tấn công. Những hoạt động quốc gia và quân
sự bí mật được che dấu dưới cái vỏ ngoài tôn giáo. Giáo hội
Gia-tô ở Croatia, Herzegovina và Dalmatia, trong nhiều năm đã
triệu tập cái gọi là Hội Nghị Thánh Thể mà trong thực chất là để
dùng vào những mục tiêu chính trị cực đoan (giống như những hội
nghị tổ chức ở Pozega cuối thập niên 40, dưới cái tên giả mạo
Hội Nghị Mary). Những phong trào khủng bố bán quân sự khác nhau,
bất hợp pháp, cũng được che đậy dưới danh nghĩa tôn giáo. Đa số
những tổ chức này đều kết hợp với những tổ chức Gia-tô dưới
quyền giám sát trực tiếp của ban Hành Động Gia-tô, ban này được
kiểm soát chặt chẽ bởi hàng giáo phẩm Croatia – tỉ dụ như
“Brotherhood of the Crusaders”, với 540 hội đoàn và 30.000 đoàn
viên; như “Sisterhood of the Crusaders”, với 452 hội đoàn và
19.000 hội viên; những “Hiệp Hội Sinh Viên Gia-tô” (Catholic
Student Associations), Domagoj và những tổ chức khác.
Đa số đoàn viên của những tổ chức
tôn giáo ấy rất tích cực trong công tác phá hoại và khủng bố, và
một số rất nhiều đã tham gia vào công việc phản bội là tước vũ
khí của Quân Đội Nam-tư tiếp theo sau sự tấn công của Hitler.
…
Vào ngày 10 tháng 4, 1941, quân
đội Hitler tiến vào thủ đô Croatia. Cũng trong ngày ấy lãnh tụ
của phong trào bất hợp pháp Ustashi tuyên bố Croatia là Nước Độc
Lập, thành lập chính phủ Ustashi đầu tiên, và ngay sau đó, theo
đúng truyền thống của nước chư hầu, tuyên bố chiến tranh với
Đồng Minh.
Vào ngày 12 tháng 4, trong khi sự
chiến đấu vẫn còn đang tiếp diễn giữa quân Đức và quân đội
Nam-tư trong vùng núi Bosnia, Tổng giám mục Stepinac tới
thăm lãnh tụ Ustashi, và thúc giục tất cả người Croats ủng hộ
Quốc Gia Gia-tô. Cũng trong ngày đó các báo ở Zagreb in những
lời tuyên bố loan báo tất cả những người Chính Thống Serbs cư
ngụ trong thủ đô Gia-tô mới phải ra khỏi thành phố trong vòng 12
giờ. Bất cứ ai chứa chấp một người Chính Thống sẽ bị hành
hình. (Anyone found harboring an Orthodox would be executed.
Page 356).
Ngày 13 tháng 4 Ante Pavelich từ
nước Ý trở về Zagreb. Ngày 14 tháng 4, Tổng giám mục Stepinac
đích thân tới gặp Pavelich để ca tụng về sự thành công một đời
người của ông ta.
Cardinal
Archbishop of Zagreb
Aloysius Stepinac
“Thượng Đế, ấn định số phận của các quốc gia và kiểm soát con
tim của của các vị Vua (một lãnh tụ Crusaders đã viết), đã cho
chúng ta Ante Pavelich và thúc đẩy lãnh tụ của một dân tộc anh
em và đồng minh, Adolf Hitler, sử dụng quân đội chiến thắng của
ông để giải tán những kẻ áp bức chúng ta và giúp cho chúng ta
thành lập Quốc Gia Độc lập Croatia. Vinh quang cho Thượng Đế,
lòng biết ơn của chúng ta với Adolf Hitler, và sự trung thành vô
hạn của chúng ta với lãnh tụ Ante Pavelich”.
(God, who directs the destiny of nations and controls the hearts
of Kings [wrote a leader of the Crusaders], has given us Ante
Pavelich and moved the leader of a friendly and allied people,
Adolf Hitler, to use his victorious troops to disperse our
oppressors and enable us to create an Independent State of
Croatia. Glory be to God, our gratitude to Adolf Hitler, and
infinite loyalty to chief Ante Pavelich.- Page 356).
Một
vài ngày sau (28 tháng 4, 1941) Stepinac cho công bố một thư mục
vụ yêu cầu tất cả hàng giáo phẩm Croatia ủng hộ và bảo vệ Quốc
Gia Gia-tô Mới Croatia.
Vào lễ Phục Sinh 1941, Stepinac
tuyên bố từ nhà thờ Zagreb sự thành lập Quốc Gia Độc Lập
Croatia, như vậy là Giáo Hội và Vatican long trọng chấp nhận
việc làm của Pavelich. Sau khi hứa sự hợp tác chân thành của
toàn thể hàng giáo phẩm, Tổng giám mục long trọng ban phép lành
cho Pavelich như là người lãnh đạo dân tộc Croatia: “Trong
khi thân mật chào mừng ông như là lãnh tụ của Quốc Gia Độc Lập
Croatia, chúng tôi cầu nguyện Chúa Tể các Vì Sao ban phép lành
thánh thiện cho ông, người lãnh đạo dân tộc chúng ta”.
(While we greet you cordially as head of the Independent State
of Croatia, we implore the Lord of the Stars to give his divine
blessings to you, the leader of our people.- Page 357).
Cũng nên nhớ rằng Pavelich cũng là
người đã bị kết tội tử hình vì những ám sát chính trị: một lần
bởi Tòa Án Nam-tư vì những hành động khủng bố, được hoạch định
và thi hành từ nước Áo, Ý và Hung; lần thứ hai bởi Pháp, vì đã
ám sát vua Alexander và Bộ Trưởng Ngoại Giao Pháp, ông Barthou.
Ngay
từ ngày đầu, Croatia được tổ chức để cho phù hợp với chữ và tinh
thần của đạo Gia-tô. Tất cả các đảng phái chính trị đều bị dẹp
bỏ. Các đảng viên cộng sản, xã hội và tự do đều bị bắt, bỏ tù
hay cho đem vào trại tập trung. Giảng dạy đạo Gia-tô đều bị bắt
buộc trong các trường. Các nghiệp đoàn đều hủy bỏ. Tự do ngôn
luận và tự do báo chí trở thành kỷ niệm của quá khứ. Đạo Gia-tô
được tuyên bố là đạo duy nhất của quốc gia.
(From the very first day, Croatia was made to conform to the
letter and spirit of Catholicism. All political parties were
suppressed. Communists, socialists and liberals were arrested,
imprisoned and sent to concentration camps. Catholic teaching
became compulsory in all schools. Trade unions were abolished.
Freedom of speech and the Press became memories of the past.
Catholicism was declared the only religion of the state.- Page
359).
Trong khi Pavelich thi hành những thay đổi đó với sự hợp tác
chặt chẽ của đội quân xung kích, Tổng giám mục Stepinac
giúp cho công tác của ông ta được dễ dàng bằng sự động viên toàn
thể Giáo Hội Croatia, toàn thể hàng giáo phẩm, và toàn thể tín
đồ. Không có một dịp nào qua đi mà Stepinac không ra mặt
lên tiếng ca tụng, gửi gấm và ban phép lành cho nước Croatia
Mới, vị lãnh Tụ Vĩ Đại của Croatia và những người phát-xít bảo
hộ ông, Hitler và Mussolini.
Ngày
31 tháng 10, 1922, người phát-xít độc tài đầu tiên
Mussolini được lên ngôi
ở nước Ý
(link:http://en.wikipedia.org/wiki/Benito_Mussolini). Biến cố ấy được cử hành long trọng mỗi năm với những
cuộc diễu binh do chính Mussolini đi duyệt. Tổng giám mục
Stepinac, tuy vẫn ở Croatia, cũng hàng năm làm lễ cho biến cố đó
ở Rome với những lời ca tụng tình tứ và những lời cầu nguyện đặc
biệt cho Công Tước.
Những lời ca tụng của Tổng giám mục còn được ban bố rộng rãi
nhiều hơn nữa cho phát-xít Croatia trong những ngày lễ tôn giáo,
chính trị và cả quân sự nữa. Khi Sabor hội họp, vào tháng 2,
1942, Stepinac long trọng kêu gọi Thánh Ma (Holy Ghost) soi sáng
cho bộ lông mày khỉ đột của Pavelich và những con dao sắc bén
của băng đảng ông ta. Khi gần tới ngày sinh nhật của Pavelich,
Tổng giám mục tổ chức một lễ cầu nguyện cực kỳ long trọng, một
lễ tạ ơn đặc biệt và ra lệnh cho tất cả nhà thờ cầu nguyện cho
Pavelich. Khi đoàn Hải Quân cỡ bỏ túi của Pavelich ra khơi di
chuyển tới Biển Đen, để cùng với đồng minh Đức chiến đấu chống
lại Nga Sô-viết, những buổi lễ được tổ chức ở Zagreb, với sự
tham dự của hàng giáo phẩm, do Stepinac chủ tọa và bởi đại diện
của Pius XII, Bác sĩ Ramiro Marcone, Sứ Thần Giáo Hoàng.
Hàng giáo phẩm Croat noi theo
gương lãnh tụ của họ với một sự tích cực nhất; nghĩa là Tổng
giám mục Saric, bạn thân của Jure Francetic, Chỉ huy đoàn quân
“Lê Dương Đen”, đã thành kính sử dụng cách chào Ustashi (nghĩa
là phát-xít) ở nơi công cộng và nơi tư gia; hay Giám mục
Akshamovich, giáo phận Djakovo, vị này đã được Pavelich tự tay
gắn cho huy chương vì “Ngài Giám mục đã ngay từ đầu hợp tác với
những giới chức Ustashi”.
Việc chỉ huy chính trị-tôn giáo
như vậy đã quấn chặt vào nhau không thể tách rời được, những
người lãnh đạo chính trị và tôn giáo bắt đầu tích cực thi hành
một sự sửa đổi tàn nhẫn và tận gốc, với mục đích làm cho Croatia
trở thành một Quốc Gia Gia-tô kiểu mẫu một trăm phần trăm.
Việc
này đòi hỏi không phải chỉ thay đổi nội dung xã hội văn hóa và
chính trị của Croatia, nhưng mà là loại trừ tận gốc những cái gì
ở ngoài Gia-tô. Nghĩa là tất cả những người không phải của Giáo
Hội Gia-tô, và như thế là tất cả những người không phải giống
dân Croat. Đó là điều kiện tiên quyết để thiết lập một nước
Croatia Gia-tô độc thần. Do đó cần tiêu diệt hết những giống dân
đó. Công việc ấy không phải dễ dàng, vì một phần lớn nước
Croatia mới gồm có những nhóm người với chủng tộc và tôn giáo
khác nhau, hoàn toàn ở ngoài Croat Gia-tô.
(This implied not only transformation of the Croatian social,
cultural and political fabric, but radical extirpation of
whatever was alien to Catholicism. This included all individuals
not belonging to the Catholic church and therefore not of Croat
racial stock. That was a prerequisite for the erection of a
monolithic Catholic Croatia. Hence the need for their total
elimination. That was not an easy task, for a large portion of
the new Croatia was composed of racial-religious groups, wholly
foreign to Croat-Catho- licism.- Page 359-60).
Thực
thế, trên tổng số dân 6.7000.000, chỉ có 3.300.000 là Croats.
Phần còn lại gồm có, 700.000 người Hồi, 45.000 Do-thái, và một
nhóm dân thiểu số. Cuối cùng là hơn 2.000.000 dân Serbs Chính
Thống.
Việc
thâu nhận vào Croatia mới nhiều giống dân không Gia-tô là do
những tham vọng đất đai của tình thần quốc gia Croat. Việc này
thành hình bởi quan niệm một “Croatia Lớn Hơn” (Greater
Croatia), bắt nguồn từ cuối thế kỷ trước, khi một người Gia-tô
Croat, Ante Starcevic, thành lập một đảng chính trị cực đoan,
Đảng Luật Pháp Croat, đảng này rồi được Ante Pavelich nâng lên
thành một chương trình quốc gia Croat. Trong khi Starcevic là
lý thuyết gia, Pavelich trở thành người thực thi ý thức hệ đặc
biệt chủng tộc và tôn giáo của Đảng căn cứ vào một quan niệm như
thế. Điều này có nghĩa là sát nhập vào Croatia độc lập những đất
đai đang trong vòng tranh chấp, và do đó những thành phần không
Gia-tô. Việc này đương nhiên trở thành một chướng ngại lớn nhất
cho việc Gia-tô hóa hoàn toàn Quốc Gia Croat mới. Vì thế mà
chính sách tiêu diệt mau chóng tất cả những sắc dân không Gia-tô
được áp dụng.
Một
chính sách như thế, được lạnh lùng hoạch định bởi Pavelich với
sự hỗ trợ của hàng giáo phẩm, được thực thi ngay sau khi Quốc Xã
xâm chiếm Nam-tư và được tuyên bố bởi những người lãnh đạo Croat
có trách nhiệm. Bác sĩ Milovan Zanich, Bác sĩ Mirko Puk, Bác sĩ
Victor Gutich, các linh mục Croat, đã không ngần ngại tuyên bố
rằng nước Croatia mới sẽ loại trừ hết những người Serb trong
hàng ngũ của họ, để có thể trở thành một trăm phần trăm Gia-tô
“trong vòng mười năm”. Bác sĩ Mile Budak, Bộ Trưởng Giáo Dục và
Tín Điều của Pavelich, trong một cuộc họp công khai ở Gospic,
ngày 22 tháng 7, 1941, đã chính thức công bố kế hoạch:
“Chúng tôi sẽ giết một phần những người Serbs [đó là lời của
ông], chúng tôi sẽ di chuyển một phần khác, và những người còn
lại bắt buộc phải theo đạo Gia-tô La-mã. Phần cuối cùng này sẽ
bị đồng hóa bởi những thành phần Croat”.
(We
shall kill one part of the Serbs [were his words], we shall
transport another, and the rest of them will be forced to
embrace the Roman Catholic religion. This last part will be
absorbed by the Croatian elements.- Page 360).
Những đường lối nhanh nhất và căn bản nhất để thực thi kế hoạch
đó: di chuyển tập thể những người Serbs ra khỏi vùng tranh chấp.
Những người Serbs này, một phần ba bị đuổi về Serbia, một phần
ba bị “thuyết phục” để theo đạo Gia-tô và phần còn lại sẽ “giải
quyết” bằng những phương tiện khác. “Thuyết phục” trở thành bắt
buộc phải đổi đạo, và “những phương tiện khác” là tiêu diệt
thân thể.
Như
vậy có nghĩa là tiêu diệt hoàn toàn Giáo Hội Chính Thống, và
thực ra, đó là đường lối chính thức của Quốc gia Gia-tô Croat
mới, đã được Bác sĩ Mirko, Bộ Trưởng Tư Pháp và Tôn Giáo Croat
áp dụng, khi ông tuyên bố trong Quốc Hội:
“Tôi cũng sẽ nói tới cái gọi là Chính Thống Giáo Serb [ông nói].
Về vấn đề này tôi phải long trọng tuyên bố rằng Quốc Gia Độc Lập
Croat không thể và sẽ không công nhận Giáo Hội Chính Thống
Serb”.
(I
shall also make reference to the so-called Serbian Orthodox
Church [he said]. In this regard I must emphatically state that
the Independent Croatian State cannot and will not recognize the
Serbian Orthodox Church.- Page 360).
Bộ
Trưởng Tư Pháp và Tôn Giáo Croat có thể thẳng thắn nói thế, vì
sau ông là hàng giáo phẩm Croat. Tiêu biểu cho tinh thần đã gây
xúc động vào thời đó cho hàng giáo phẩm là những lời sau đây, do
Cha Petar Pajic viết, trong cơ quan của Tổng giám mục Sarajevo:
“Cho đến bây giờ, Thượng Đế nói qua những thông điệp của giáo
hoàng… Và? Họ bịt tai lại… Bây giờ Thượng Đế quyết định dùng
những phương pháp khác. Người sẽ sửa soạn những phái đoàn. Những
phái đoàn Âu Châu. Những phái đoàn thế giới. Những phái đoàn đó
sẽ được chỉ huy, không phải bởi những tu sĩ, nhưng bởi những cấp
chỉ huy quân đội, do Hitler cầm đầu. Những lời giảng sẽ được
nghe thấy, với sự phụ giúp của đại bác, súng máy, xe tăng và máy
bay ném bom. Ngôn ngữ của những bài giảng này sẽ là quốc tế…”
(Until now, God spoke through papal encyclicals… And? They
closed their ears… Now God has decided to use other methods. He
will prepare missions. Europeans missions. World missions. They
will be upheld, not by priests, but by army commanders, led by
Hitler. The sermons will be heard, with the help of cannons,
machine guns, tanks and bombers. The language of these sermons
will be international.- Page 361).
Đó
có phải chỉ là nghệ thuật biện luận không? Đó là căn bản cụ thể
mà chương trình ba phần của Pavelich-Stepinac căn cứ vào để đồng
thời hành động khắp mọi nơi, tiếp theo sau sự thiết lập Quốc Gia
mới. Việc thực thi là một công việc giản dị, trực tiếp, tàn bạo,
được điều khiển dưới bóng đoàn quân xung kích Gia-tô của
Pavelich, đảng Ustashi. Nó bao gồm từ những sắc lệnh giản dị –
tỉ dụ như sắc lệnh được ban bố bởi Bộ Trưởng Giáo Dục Công Cộng
chỉ bốn ngày sau khi Hitler tấn công (ngày 10 tháng 4, 1941),
sắc lệnh này ngăn cấm không cho những người của Giáo Hội Chính
Thống Serb vào Đại Học trừ khi họ từ bỏ đức tin Chính Thống
trước ngày 10 tháng 4, 1941 – cho đến việc đưa một số lớn đi
đày, như đã được Ustashi thực thi ở Zagreb ngày 4 và 5 tháng 7,
1941; cho đến việc tàn sát đàn ông, đàn bà và trẻ con, như những
vụ tàn sát ở Kljuch, ngày 31 tháng 7, 31 tháng 8, ngày 1 và 9,
1941, khi toán “Ustashi Bay” (Flying Ustashi) hành hình cấp tốc
2.000 người Serbs.
(Tất
cả những tội ác mô tả ở chương này là chính xác. Tác giả đã lấy
những tin tức đó từ những tài liệu do những nguồn tin chính trị
rất khác nhau cung cấp; những tài liệu chính thức của chính phủ
cộng sản Nam-tư dưới thời Tito; những tài liệu trong văn khố của
Cựu Hoàng Peter nước Nam-tư, lúc ấy cư ngụ ở bên Anh.; những tài
liệu của Giáo Hội Chính Thống; những giấy tờ của Bác sĩ M.
Zekulich, được Giáo Hội Chính Thống và Tướng Mihailovich giao
phó cho trách nhiệm, năm 1942, tiếp xúc với Đồng Minh, với sứ
mạng đặc biệt thông báo cho họ những sự tàn sát của Ustashi.
Cũng như từ những tin tức do Bác sĩ Zekulich và Tướng Mirkovich,
vị Tướng này là người đã lật đổ chính phủ Nam-tư khi nước này ký
hiệp ước với Hitler, và đã đua Nam-tư gia nhập khối Đồng Minh
(1941).
Không thỏa mãn với việc làm ấy, tác giả đã đích thân liên lạc
với nhiều người Serbs Chính Thống những người này đã chứng kiến
những tàn sát của Ustashi, và cả những nạn nhân sống sót. Tháng
5, 1951, tác giả, Bác sĩ Zekulich, và Tướng Mirkovich đã triệu
tập một cuộc họp đặc biệt ở London, có sự tham dự của những nạn
nhân Ustashi cư ngụ ở bên Anh, và nhờ có họ những tài liệu khác
được thêm vào, tất cả đều được xác nhận bởi những tên người, địa
điểm và ngày tháng).
(All
the crimes described in this chapter are authentic. The author
has drawn them from documents supplied by sources as politically
varied as they could be: official documents of the government of
communist Yugoslavia under Tito; documents in the archives of
ex-King Peter of Yugoslavia, then residing in England; documents
of the Orthodox Church; papers of Dr. M. Zekulich, who was
charged jointly by the Orthodox Church and by General
Mihailovich in 1942 to contact the Allies, with the special
mission of informing them of the Ustashi massacres. Also from
information supplied by Dr. Zekulich and by General Mirkovich,
the man who overthrew the Yugoslav government when it signed a
treaty with Hitler, General Mirkovich then brought Yugoslavia
into the Allied camp (1941).
Non
content with this, the author personally contacted numerous
Orthodox Serbs who had been eye-witnesses of the Ustashi
massacres, and even victims who had escaped. In May, 1951, the
author, Dr. Zekulich, and General Mirkovich held a special
meeting in London, attended by victims of the Ustashi residing
in England, from which further documentation was added, all
authenticated by names, places, and places.- Note 14, Page
377-78).
Những việc đưa đi đầy tập thể và hành quyết tập thể, phần lớn ở
những tỉnh hay làng nhỏ là những kế hoạch nghiên cứu kỹ.
Tháng 4, 1941, trong một làng ở Gudovac, 200 dân quê Serbs đã bị
Ustashi giết chết, tiếp theo sau một số lớn hơn ở những làng
thuộc tỉnh Stari Petrovac, ở quận Nova Gradisca, và ở Glina. Tại
đó vào những ngày đầu tháng 5, 1941, Ustashi ở Karlovci, Sisak
và Petrinja tập họp tất cả đàn ông từ 15 tuổi trở lên, cho lên
xe lớn chở ra ngoài tỉnh và giết hết. Riêng tại quân này
thôi, khoảng 120.000 người Serbs đã bị hành quyết như thế trong
một thời gian ngắn. (In this district alone about 120.000
Serbs were thus exterminated within a short period.- Page 361).
Những tàn sát khủng khiếp đó không phải là những trường hợp
riêng biệt. Đó là một thành phần chính sách được nghiên cứu kỹ
lưỡng của chính phủ. Và được thi hành không gián đoạn, vừa ở
những quận ngoại thành vừa ở những trại tập trung được thiết lập
cho mục đích đó – như ở những trại Jasenovac, Stara Gradiska,
Gospic, mà tại đó hàng mười ngàn người Serbs đã bị thủ tiêu.
Như
đã thành lệ, thủ tục thật giản dị. Giới chức Ustashi kêu gọi
những nhóm người Serbs với lý do tuyển mộ cho quân đội hay làm
việc công cộng. Một khi được tập trung, thì họ bị bao vây bởi
những toán võ trang Ustashi, được đem ra khỏi làng và hành
quyết. Có khi điểm tập trung là một nhà thờ Chính Thống Serb –
như ở thành phố Glina. Trong những vùng núi thuộc miền Upper
Dalmatia, như Bosnia và Herzegovina, đàn bà và trẻ con được đưa
tới những địa điểm ở xa rồi tàn sát. Ở Brcko, thành phố Dzafer
Kulenovic của Phó Thú Tướng, những người tù bị hành quyết ở trên
cầu rồi vứt xác xuống sông. Nhiều khi việc hành quyết được thực
hành tại nhà của những nạn nhân, với những vũ khí thô sơ nhất.
Một vài người Ustashi chuyên môn trong việc thanh toán nạn nhân
bằng cách đập bể sọ bằng rìu hay cả bằng búa. Những tàn bạo khó
tin nhưng chính xác đã xảy ra mỗi khi Ustashi xuất hiện. Tỉ
dụ như ở Dubrovnik, Dalmatia, những người lính Ý đã chụp hình
một Ustahi đeo hai “vòng cổ”. Một cái là một xâu những
tròng mắt, cái kia là lưỡi của những người Serbs bị giết.
(At Dubrovnik, Dalmatia, for instance, Italian soldiers took
pictures of an Ustashi wearing two “necklaces”. One was a string
of cut-out eyes, the other of torn-out tongues of murdered
Serbs.- Page 362).
Một
vài những điều khủng khiếp nhất, lạ lùng thay, lại được thi hành
bởi những thành phần trí thức. Một trường hợp ghê gớm nhất thuộc
loại này chắc chắn là của Peter Brzica. Peter Brzica là một sinh
viên luật khoa, đã theo học đại học Franciscan ở Siroki Brijeg,
Herzegovina, một thành phần của tổ chúc Gia-tô Krizari (Thập Tự
Quân, The Crusaders). Vào đêm 29 tháng 8, 1942, ở trại tập trung
Jasenovac, lệnh hành quyết được ban hành. Những người chịu trách
nhiệm đánh cá với nhau, xem ai giết được nhiều tù nhất. Peter
Brzica cắt cổ được 1.360 người tù bằng con dao đồ tể đặc biệt.
Anh ta được tuyên bố trúng giải cuộc thi đua, và được bàu làm
Vua Cắt Cổ, và được thưởng một chiếc đồng hồ vàng, một bộ đồ
ăn bằng bạc, một con heo sữa quay và rượu. Sự đồi bại kinh dị ấy
được kể lại bởi một vị bác sĩ chứng kiến có mặt ở trại khi sự
việc xảy ra. Tên ông: Bác sĩ Nikola Kikolic, ông ta cũng là dân
Croat. (Peter Brzica cut the throats of 1,360 inmates with a
special butcher’s knife. He was declared the prizewinner of the
competition, elected King of the Cutthroats, and rewarded with a
gold watch and a silver service, a roasted suckling-pig and
wine. This astonishing depravity was reported by a doctor
eyewitness who was in the camp when the event took place. His
name: Dr. Nikola Kikolic, himself a Croat.- Page 362).
Đồng
thời với tất cả những việc đó, sự tàn sát Giáo Hội Chính Thống
và ép buộc đổi đạo cũng được thực thi không kém phần tàn bạo.
Rất nhiều những đoàn quân chịu trách nhiệm thi hành những công
việc đó được điều khiển bởi những tu sĩ Gia-tô và thường là thày
dòng, những người này đã tuyên thệ chiến đấu bằng dao và súng
cho sự “chiến thắng của Đấng Christ và nước Croatia”, và
thực ra, một số đó (tỉ dụ như Miroslav Filipovitch Majstorovich,
linh mục dòng Franciscan) còn trở thành những người chỉ huy các
trại tập trung.
Tu
sĩ Gia-tô chỉ huy các đoàn Ustashi võ trang tới đóng cửa các
nhà thờ Chính Thống và tịch thu hồ sơ Chính Thống. Tỉ dụ như ở
Banja Luka, một sĩ quan ra lệnh rằng tất cả những hồ sơ Chính
Thống về cưới hỏi, rửa tội, chôn cất, phải được giao nộp ngay
cho những giáo khu Gia-tô. Các tu sĩ Gia-tô tịch thu nhà cửa của
giám mục Serb ở Pakrac, khóa cửa và niêm phong nhà thờ (ngày 12,
tháng 4, 1941).
Nhiều nhà thờ Chính Thống được sửa lại thành phòng ăn – tỉ dụ
như nhà thờ ở Prnjavor, ngày 10 tháng 7, 1941. Những nhà thờ
khác được biến đổi thành nhà thờ Gia-tô, nếu những nhà thờ ấy
không bị giật sập hoàn toàn – tỉ dụ như ở những tỉnh Lika,
Banija và Kordun, đã có 172 nhà thờ bị phá hủy hoàn toàn.
Đa số những tu viện Chính Thống cũng chịu chung số phận. Ở
Fruska Gora, 15 tu viện Chính Thống Serb và nhà thờ được giao
cho những tu sĩ Gia-tô dòng Franciscan, những tài sản của nhà
thờ ở Orahovica, Pakrac, Lepavina và nhiều nơi khác cũng thế.
Tu
viện ở Vrdnik-Ravanica, mà tại đó có hài cốt của Vua Lazar, vị
vua này đã chỉ huy và chết trong trận chiến lịch sử ở Kosovo
chống lại người Thổ năm 1389 để bảo vệ đạo Gia-tô, cũng bị
chiếm, cũng như Sremski Karlovci, nguyên là thủ phủ của vị đứng
đầu Chính Thống giáo. Tại đó nhà thờ vĩ đại trước hết là bị
hôi của, rồi bị đóng, sau khi tất cả những của cải vật chất đã
được giám mục Gia-tô chiếu cố. (There the great
cathedral was first plundered of all valuables, then closed,
after all its physical properties had been taken over by the
Catholic bishop.- Page 363).
Song
song với tất cả những việc đó, là bắt đầu trong toàn thể
Croatia, một cuộc chạy đua thực sự giữa các giám mục Gia-tô và
tu sĩ, để coi xem ai đem được nhiều nhất những người Chính Thống
trở lại với “đức tin”. Tinh thần của phong trào thi đua ấy được
thấy rõ trong tờ truyền đơn kiểu mẫu, phát hành năm 1941, bởi tờ
báo của giáo xứ Djakovo, với lời lẽ như sau:
“Chúa Jesus Christ bảo rằng chỉ có một đồng cỏ và một người chăn
chiên. Những người dân của đức tin Đông-Thổ, nghe lời khuyên
bằng hữu… Giám mục ở Djakovo đã tiếp nhận hàng ngàn người
dân vào Giáo Hội Gia-tô Thánh Thiện, và những người dân đó đã
nhận được những chứng thư lương thiện do các giới chức quốc gia
cung cấp. Hãy theo những anh em của các bạn, và trình diện càng
sớm càng tốt để đổi đạo sang Giáo Hội Gia-tô”.
(The
Lord Jesus Christ said that there shall be one pasture and one
shepherd. Inhabitants of the Greek-Eastern faith, hear this
friendly advice… The Bishop of Djakovo has already received
thousands of citizens in the Holy Catholic Church, and these
citizens have received certificates of honesty from State
authorities. Follow these brothers of yours, and report as
soon as possible for rechristening into the Catholic Church.-
Page 363).
Với
những tỉ dụ tàn sát hàng ngày trước mắt họ, nhiều người đã nghe
theo “lời khuyên bằng hữu”. Đổi đạo cá nhân hay
tập thể trở thành một biến cố thường xuyên. Đa số những đổi đạo
tập thể được loan báo trên Báo Chí Croatia. Katolicki List,
cơ quan ngôn luận của tòa Giám mục Zagreb, do Stepinac kiểm
soát, trong số 38 năm 1941, đã loan báo, “tất cả làng ở
Budinci đã đổi đạo sang Đức Tin Gia-tô. Một giáo xứ trên 2.300
linh hồn đã được thiết lập ở trong làng”. Sự sửa soạn để đổi
đạo đã được điều hành bởi một người Franciscan ở Nasice, Cha
Sidonije Scjolz.
Ustaska Velika Zupa
số 1372, ngày 27 tháng 4, 1942, mô tả những đổi đạo tập thể ở
vùng phụ cận Osijeck, do Cha Peter Berkovic chủ tọa:
Công việc của người bao gồm từ giai đoạn sửa soạn cho những
thành phần Đông Chính Thống đổi sang Gia-tô cho tới khi họ thực
sự đổi đạo, và như vậy trong các quận Vocin, Cacinci và
Ceralijie, người đã đổi đạo cho hơn 6.000 người.
(His
work covers the period from preparation of the members of the
Eastern Orthodox Church for conversion to Catholicism until they
were actually converted, and thus in the counties of Vocin,
Cacinci, and Ceralijie he converted more than 6,000 persons.
Page 363).
Ante
Djuric, tu sĩ ở Divusa, một nhân viên hành chánh Ustashi, buộc
những chủ gia đình phải đến trình diện với thày giáo sở tại, với
một con tem 10 đô-la như là thuế để xin đổi sang đạo Gia-tô cho
chính họ và gia đình họ, nếu không thì bị tịch thu nhà cửa và
mất sở làm.
Cha
phó ở Ogulin, Canon Ivan Mikan, bắt phải nộp 180 dinars cho mỗi
vụ đổi đạo ép buộc, thành ra chỉ trong một làng Serb ở Jasenak,
ông đã thu được 80.000 dinars (tương đương với 400 đô-la). Những
cải đạo tập thể được thực hiện ra sao đã được tờ báo của
Ustashi, Nova Hrvatska, ngày 25 tháng 2, 1942, tiết lộ
cho biết: “Việc cải đạo đã được thực hiện một cách thật long
trọng bởi cha phó ở Petrinja, Michael Razum. Một đại đội
Ustashi đã hiện diện trong buổi lễ trang trọng đó.
Việc
cải đạo, hay trở lại đạo, như người ta gọi thế, thường được cử
hành long trọng không phải bằng nước nhưng cũng bằng máu nữa.
Linh mục Ivan Raguz, là một tỉ dụ, công khai thúc giục giết tất
cả dân Serbs, kể cả con nít, để “cả những hạt giống của những
con vật đó không còn lại”, trong khi cha phó Bodizar Brale, ở
Sarajevo, tham dự vào việc thanh toán dân Serb với súng cầm tay,
chủ trương “thanh toán dân Serbs không nhân nhượng”. Brale về
sau được chỉ định vào Chủ Tịch Đoàn Tinh Thần những Tổng giám
mục ở Sarajevo.
(Priest Ivan Raguz, for instance, publicly urged the killing of
all Serbs, including children, so that “even the seed of these
beasts is not left”, while curator Bodizar Brale, from Sarajevo,
who took part in Serbian liquidation with gun in hand, advocated
“liquidation of the Serbs without compromise”. Brale was later
appointed to the Presidency of the Spiritual Board of the
Archbishop of Sarajevo.- Page 364).
Những việc cải đạo tập thể ấy không chỉ bị ép buộc vì sợ hãi hay
những tàn sát hiện tại, nhưng cũng vì, như ở Ba-lan sau Thế
Chiến Một, những việc cải đạo đã trở nên dễ dàng bởi sự tiêu
diệt có tính toán các tu sĩ Chính Thống. Hàng trăm tu sĩ Chính
Thống, kể cả giám mục, đã bị Ustashi giết chết.
Đêm 5 tháng 6, 1941, theo lệnh người cầm đầu Ustashi, Gutic,
Giám Mục Chính Thống ở Banjaluka Platon, miền Tây Bosnia, cùng
với nhiều tu sĩ Chính Thống khác, một vài người trong số đó là
Đại Diện Dân Cử Hạ Viện, đã bị Ustashi áp tải ra bên ngoài thành
phố. Tại đó râu của vị giám mục già bị vặt hết, người ta
đốt lửa trên cái ngực trần của Ngài, rồi, sau một hồi hành hạ
lâu dài, Ngài và đồng liêu của Ngài bị giết bằng rìu và xác của
họ đem vứt xuống sông Vrbanja.
(On
the night of June 5, 1941, on orders of the Ustashi chief,
Gutic, the Orthodox Bishop of Ganjaluka Platon, in Western
Bosnia, together with several Orthodox priests, some of whom
were former members of the House of Representatives, was taken
to the ourkirts of the town by the Ustashi. There the old
bishop’s beard was first torn out, a fire lit on his
naked chest, then, after prolonged torture, he and all his
companions were killed with hatchets and their bodies thrown
into the Vrbanja River.- Page 364).
Dositej, Giám Mục Chính Thống của Zagreb, thủ đô của Quốc Gia
Độc Lập Croatia, mà tại đó Tổng giám mục Stepinac có nhà
riêng, đã phát điên vì tra tấn trước khi chết. Hai giám mục
Chính Thống nữa cũng bị tàn sát y như thế.
Rất
nhiều những linh mục và tu sĩ Gia-tô, một vài người trong số đó
dù không dính dáng gì tới những tổ chức Ustashi, cũng tham gia
vào việc giết người bằng chính tay họ. Tên tuổi của một số người
đó còn được lưu giữ trong hồ sơ của Giáo Xứ Chính Thông Đông
Serb ở bên Mỹ và Canada.
Hậu
quả của chính sách đó là toàn thể gia đình, toàn thể dân làng,
và cả những tỉnh nhỏ đã đổi đạo sang Gia-tô trong những buổi lễ
tập thể do linh mục Ustashi làm chủ lễ, “chứng kiến” bởi
những đơn vị võ trang Ustashi, họ bị hăm dọa, nếu từ chối, thì
bị trục xuất. Điều này có nghĩa là tài sản và tính mạng của họ
không được bảo đảm. Vì vậy, hàng ngàn người xin đổi đạo. Sau khi
cải đạo tập thể, những người “Gia-tô mới” phải tập họp đi tới
nhà thờ Gia-tô địa phương, và theo đúng luật lệ hiện hành họ
được những đơn vị võ trang Ustashi đi theo bảo vệ, vừa đi vừa
hát về cái hạnh phúc là cuối cùng, họ đã trở thành những
đứa con của Giáo Hội chân thật.
Thế
chưa phải là hết. Tại tất cả những làng mà người Serbs đã “trở
lại đạo”, dân làng, bị các linh mục Gia-tô ép buộc, phải gửi
những điện tín ca tụng Tổng giám mục Stepinac, Ngài được
thông báo mọi sự cải đạo tập thể đã thực hiện trong mỗi giáo xứ
ở Croatia. Nhiều điện tín như thế đã được in trên báo Ustashi,
Nova Hrvatska, cũng như trên tờ báo giáo xứ chính thức
của Stepinac Katolicki List. Trong số báo ra ngày 9 tháng
4, 1942, Nova Hrvatska in bốn điện tín như thế, tất cả
đều gửi cho Stepinac, mà trong đó có tường trình về những
cải đạo tập thể. Một trong những điện tín ấy được viết như sau:
“2.300 người, tụ tập ở Slatinski Drenovac, từ những làng
Drenovac, Pusina, Kraskovic, Prekorecan, Miljani va Gjurisic,
hôm nay đã chấp nhận sự bảo vệ của Giáo Hội Gia-tô La-mã và gửi
những lời chúc mừng sâu đậm nhất tới Người đứng Đầu”.
(2,300 persons, assembled in Slatinski Drenovac, from the
villages of Drenovac, Pusina, Kraskovic, Prekorecan, Miljani and
Gjurisic, accepted today the protection of the Roman Catholic
Church and send their profound greetings to their Head.- Page
365).
Những nhân viên của hàng giáo phẩm Gia-tô tham gia vào việc cải
đạo ấy, tuy nhiên, không giới hạn hành động của họ vào việc sử
dụng sự sợ hãi mất hết của cải và cả tính mạng nữa. Mỗi khi gặp
sự chống đối, họ ra lệnh và, thực ra, chính họ đã đích thân hành
quyết rất nhiều những người Chính Thống cứng đầu. Khi chống đối
tập thể, thì trừng phạt tập thể, và thường thường là giết chết.
Một
linh mục Dòng Tên, Bác sĩ Dragutin Kamber, một người
Ustashi có tuyên thệ, là một tỉ dụ, đã ra lệnh giết khoảng 300
người Serbs Chính Thống ở Doboj, và đưa 250 người khác ra tòa án
quân sự, mà đa số đã bị đem bắn bỏ; trong khi Cha Bác sĩ
Branimir Zupanic, một bạn thân của Ante Pavelich, đã ra lệnh
giết 400 người, vừa đàn ông, đàn bà, và con nít chỉ ở một làng
thôi, Ragolje.
Cha
Srecko Peric, của tu viện Gorica gần Livno, khi giảng đạo trong
Nhà Thờ ở Gorica, đã hô hào giết người tập thể: “Giết hết
người Serbs [đó là lời ông]. Trước hết giết chị tôi vì đã lấy
một người Serb, rồi tất cả người Serbs. Khi các anh làm xong
công việc đó, đến nhà thờ này xưng tội và tôi sẽ giải tội cho
các anh”. (Kill all Serbs [were his works]. First of all,
kill my sister, who is married to a Serb, and then all Serbs.
When you finish this work, come here to the church and I will
confess you and free you from sin.- Page 365).
Tiếp
theo đó là một sự tàn sát 5.600 người Serbs Chính Thống chỉ
riêng ở quận Livno mà thôi (10 tháng 8, 1941).
Nhưng thành tích cao nhất thì do Miroslav Filipovic nắm
giữ, đó là một Ustashi từ trước Chiến Tranh và là một tu sĩ dòng
Franciscan. Trong làng Drakulic, Cha đã tự tay giết một đứa bé,
và đồng thời hô hào một đơn vị Ustashi với những lời như sau:
“Ustashi, tôi đã cải đạo cho những người đồi bại đó nhân danh
Thượng Đế. Các bạn noi theo gương tôi”. (Ustashi, I
rechristen these degenerates in the name of God. You follow my
example.- Page 365).
(Trong sách “The Vatican Holocaust”, trang 72, tác giả đã kể
cũng câu chuyện đó như sau:
“Sự tàn bạo chính trị và tôn giáo của ông ta
(cha
Filipovic) có thể được xét đoán bởi sự kiện là, trong lúc nói
chuyện với một tiểu đoàn Ustashi võ trang ở làng Drakulic, ông
ta đã tự tay giết một đứa bé Chính Thống Giáo”.
His
political and religious ruthlessness can be judged by the
fact that, while adressing a battalion of the armed Ustashi in
the village of Drakulic, he killed an Orthodox child with
his own hands.-)
Hậu
quả tấm gương của Cha Filipovic: 1.500 người Serbs Chính Thống
đã bị giết trong một ngày. Filipovic được vinh thăng Chỉ Huy
trại Jasenovac, một trại trập trung của Ustashi có thể đứng
ngang hàng với Dachau (Trại tập trung Đức Quốc Xã) về sự khủng
khiếp. Với khả năng đó, Filipovic, và với sự hợp tác của Cha
Zvonko Brekalo, Zvonko Lipovac và Cha Culina, là người trách
nhiệm về cái chết của 40.000 đàn ông, đàn bà và con nít, ở trại
tập trung Jasenovac dưới quyền cai trị của Cha.
Những việc làm đó phải chăng là của một vài linh mục mất trí
hành động theo ý kiến cá nhân, bị mù quáng bởi cuồng tín tôn
giáo, miệt thị thẩm quyền giáo hội của họ, hay coi thường thẩm
quyền của người đứng đầu họ, Tổng Giám mục Stepinac?
Câu
trả lời là, không phải thế.
(Chúng tôi xin mở một dấu ngoặc, để viết về việc cải đạo tập thể
ở Việt Nam, dưới triều đại Gia-tô toàn trị Ngô đình Diệm,
“Tại địa phận Vĩnh Long có rất nhiều làng xin được cải đạo tập
thế, đến nỗi thiếu cả kẻ chăn chiên. Theo Ngô đình Thục thì tại
Viễn Đông, ngoài Phi-luật-tân ra, Việt Nam sẽ là quốc gia đi đến
việc cả nước theo đạo”. “Việt Nam Máu Lửa…” của Hoành Linh
Đỗ Mậu, trang 563).
Tại
sao? Tổng giám mục Ngô đình Thục đã ra lệnh cho bắn pháo binh về
làng Phật Giáo. Muốn khỏi chết, không bị bắn pháo binh về làng,
thì chỉ có việc xin “trở lại đạo” cả làng! Xin coi chi
tiết trong “Yoga” của tác giả, các trang 86-87).
Những lời nói và việc làm của hàng giáo phẩm Croatia và, sau họ,
của Vatican, là những bằng chứng hùng hồn nhất, rằng những tàn
sát của Ustashi là một thành phần có tính toán trước của chính
sách tiêu diệt những người dân không Gia-tô bị kẹt trong vòng
kiểm soát của Croatia Gia-tô.
Một trong những việc làm khủng khiếp nhất của tất cả những tàn
sát dữ dội là, dù rằng bị thúc đẩy bởi lý tưởng, họ thường đem
thả lỏng con thú nằm ẩn núp, hình như ngủ, sâu trong tim
con người. Mỗi khi có hỗn loạn xảy ra, thế là bản chất thú vật
của con người, sôi sục vì ham mê, nhảy ra công khai để làm cho
những giấc mơ xấu xa nhất, ấp ủ kín đáo nhất trong nhiều năm,
trở thành sự thật. Những con ma bí mật, bị chế phục, bị cản trở,
lẩn trốn vì sợ hãi hay trừng phạt, vì tập tục hay luật pháp,
nhảy ra phía trước, gây nên, như những cơn gió lốc không kìm hãm
đuợc, những sự phá hoại tình cảm mà nhiều khi những người rất
bình thường cũng bị lôi kéo để phạm phải những công việc không
thể tưởng tượng được không phải bởi những người khác mà còn bởi
chính họ.
(One
of the most awful features of all violent commotions is that,
even when inspired by ideals, they often set free the hidden
beast lying, seemingly dormant, deep in the heart of man.
Whenever anarchy is let loose, then the human brute, burning
with passion, springs to the fore to make its most abominable
dreams, nursed in the utmost secrecy for years, comme true.
Hidden phantasmagorias, repressed, thwarted concealed through
fear of either punishment, convention, or laws, shoot to the
surface, provoking, like irresistible whir-winds, such emotional
devastation that often perfectly normal individuals are driven
to commit deeds unimagined not only by others but even by
themselves.- Page 365-66).
Những khích động mạnh mẽ nhất cho những thác loạn ấy, trong qua
khứ và trong hiện tại, đã là sự cuồng tín tôn giáo và chính trị.
Ở
Croatia, việc này, đã được đồng hóa với Giáo Hội, chủng tộc và
Quốc gia, chẳng bao lâu nữa đương nhiên làm méo mó khả năng tinh
thần của một vài cá nhân tới mức độ tưởng là không thể được, và
rồi biến họ thành những con thú người, như là trường hợp của
nhiều người trong số họ.
Những linh mục Gia-tô, bị ham mê không kém gì người thế tục,
cũng không thể thoát khỏi chỉ vì đầu tóc hay áo thày tu của họ.
Mỗi khi bị lôi cuốn vào dòng thác, những khả năng bình thường
của họ bị loại trừ, sự xúc động mù quáng làm cho họ phạm những
tội ác dã man mà họ đã làm.
Chỉ vì tình trạng yếu đuối nội tâm của bản chất con người, chỉ
vì sức mạnh không thể cưỡng được của cuồng tín tôn giáo, giới tu
sĩ Gia-tô Croat điên khùng ấy, vì vậy phải coi là đáng thương
hại và, thực ra, với lòng từ bi, thay vì nguyền rủa.
(Owing to the innate frailty of human nature, to the
irresistible power of religious fanaticism, these insane Croat
Catholic clergy, therefore, should be regarded with pity and,
indeed, compassion, rather than with execration.- Page 366).
Nhưng sự khoan hồng đó, tuy nhiên, không thể áp dụng cho những
người tính toán và chủ trương những tội ác ghê tởm ấy. Một
thoáng tình thương đối với những người chủ mưu đã bình tĩnh tính
toán và khai thác một cách lạnh lùng những ham mê khủng khiếp
nhất của con người cho những mục tiêu tôn giáo và chính trị
không phải là rộng lượng, mà là chấp nhận những việc họ làm, và
do đó thác loạn.
(No
such leniency, however, can be entertained for those who
calculatingly promoted such crimes. The flimsiest shred of mercy
for the master-minds which calmly planned them and callously
exploited the most abhorrent human passions to further religious
and political designs would not be generosity, but approval of
what they did, and hence perversion-. Page 366).
Sự
khủng bố Croat đã là con đẻ của những người chủ mưu đó, đồng hóa
phần lớn với những nhân vật mặc áo tu sĩ. Sự khủng bố đã được
lạnh lùng xúi giục từ những dinh thự của hàng giáo phẩm Croat.
Hàng giáo phẩm đó không chỉ biết việc gì đang xảy ra: Họ âm thầm
và công khai chấp thuận và, thực ra, khuyến khích bất cứ người
nào tham gia vào công việc khủng khiếp ấy.
Những bạo động do các linh mục chủ trương, những tội ác do các
linh mục ra lệnh và nhiều khi do chính linh mục đích thân làm,
không bao giờ bị kết tội bởi các giám mục hay bởi người lãnh đạo
của họ, Đức ông Stepinac. Không một người nào trong hàng ngũ tu
sĩ Gia-tô bị cất chức trong khi Quốc Gia Độc lập Croatia còn tồn
tại. Tổng giám mục Stepinac và không một giới chức nào của Giáo
Hội Gia-tô đã ra lịnh cấm đoán những bài viết độc ác, những bài
diễn văn thù hận và cả sự giết người nữa.
Stepinac
trước tòa n tháng 9/1946; Stepinac was arrested on September 18,
1946 and his trial started on September 30, 1946,
link:
http://en.wikipedia.org/wiki/Aloysius_Stepinac
…
Nhưng không có gì chứng minh tốt hơn rằng hàng giáo phẩm Gia-tô
đã hoạch định tất cả những việc đó với một sự tính toán lạnh
lùng, là thái độ của họ đối với những đứa trẻ Chính Thống sống
sót, sau khi cha mẹ chúng bị thủ tiêu. Dưới sự bảo hộ của
Caritas, một tổ chức Gia-tô do giáo hội điều khiển, tất cả
những đứa trẻ đó đều được đưa vào những nhà công cộng do tu sĩ
Gia-tô hay các chị Gia-tô (Catholic sisters) trông nom, hay,
trong nhiều trường hợp, với những gia đình tư nhân Gia-tô; điều
này được làm với mục đích chính xác là trồng vào đầu óc
những trẻ nhỏ đó “đức tin chân thật”, như là điều kiện tiên
quyết để cho chúng sống. Tiến trình đồng hóa tôn giáo bắt đầu
ngay tức khắc. Được rửa tội lại với những tên Croat, chính thức
đổi đạo sang Gia-tô, lớn lên trong vòng bao vây của Gia-tô
Croat, những đứa trẻ đó mất liên hệ mau chóng với qua khứ chủng
tộc và tôn giáo của chúng, chẳng bao lâu sẽ bị cuốn hút vào Giáo
Hội Gia-tô. Sự cuốn hút hoàn toàn đến nỗi sau khi Croat Độc
Lập sụp đổ nhiều đứa trẻ không biết đường về. Những dấu vết về
nguồn gốc của chúng bị người ta cố ý thủ tiêu. Một số đông trẻ
con bị đưa sang nước Ý và bị cả những Ustashi chạy trốn đưa sang
Á-căn-đình. (The absorption was so complete that even after
the collapse of Independent Croatia many could not be returned.
Traces of their origin were very often wilfully made to
disappear. A not-inconsiderable number were taken to Italy and
even to the Argentine by fleeing Ustashi.- Page 368).
Pius XII
là người chịu trách nhiệm cũng như, nếu không phải là hơn, chính
Tổng giám mục Stepinac. Giáo Hoàng, chúng ta nên nhớ, là
giới chức cao cấp nhất của tất cả hàng giáo phẩm trên thế giới.
Những chính sách có tầm vóc lớn lao phải đệ trình cho chính Ngài
trước khi đem ra thi hành.
Croatia là một nước chư hầu của Đức Quốc Xã. Trong những năm
1940-42 Vatican rất thân thiện với Hitler, đại sứ
quốc xã ở Vatican được tiếp đãi trong thời gian đó như là một
nhân vật quan trọng hơn những nhà ngoại giao đồng minh. Thêm vào
đó, những người lãnh đạo chính trị và tôn giáo Croat đến và đi
giữa Rome và Zagreb tự do y như chính những người Đức và Ý.
GH
Pius XII & Hitler
Pius XII,
không những thế, biết những gì đang xảy ra ở Croatia, không phải
chỉ nhờ vào các giáo phẩm trong bộ máy hành chánh của Giáo Hội
Gia-tô, họ thông báo đầy đủ cho Ngài về những biến cố ở Croatia,
nhưng cũng nhờ có thêm những nguồn tin rất đáng tin cậy. Ante
Pavelich rất mộ đạo gửi tới cho Ngài những báo cáo thường xuyên
về sự tiến triển của việc Gia-tô hóa nước Croatia mới, trong khi
chính Stepinac cung cấp cho Đức Thánh Cha những con số về những
người cải đạo bắt buộc. Trong một tài liệu chính thức, đề ngày 8
tháng 5, 1944, Đức ông Tổng giám mục Stepinac thông báo cho Đức
Thánh Cha biết tới ngày đó, đã có 244.000 người Chính Thống
Serbs “xin đổi đạo sang Giáo Hội của Thượng Đế”.
Tượng
Stepinac gần Zagreb;
Bust of Stepinac at the village of Rozga near Zagreb.
Trong khi Tổng giám mục thánh thiện nhất và Giáo Hoàng thánh
thiện hơn nữa cám ơn Thượng Đế vì sự gia tăng mau chóng của đàn
chiên Croat, những chống đối về việc ép buộc đổi đạo và tàn sát
bắt đầu dâng cao vì những tin tức đầu tiên lọt ra ngoài.
Những cái cuời của nghi ngờ và tin rằng đó chỉ là những chuyện
bịa đặt chống Gia-to dần dà nhường chỗ cho ghê tởm, mà
hậu quả là những lời cầu cứu vội vã được gửi, càng ngày càng
khẩn cấp, cho Stepinac, Pius XII và Đồng Minh. Những lời
cầu cứu như thế đến từ mọi nơi. Nhiều lời được viết bởi những
người Croats Gia-tô, họ lớn tiếng tỏ sự bất bình thẳng với
Vatican, hay tỏ vẻ chống đối dữ dội với Tổng giám mục Stepinac.
Một trong những lời chống đối đáng kể được gửi cho Stepinac
bởi Prvislav Grizogono. Grizogono nguyên là Bộ Trưởng của
Vương Quốc Nam-tư; đặc biệt hơn nữa đó lại là người Croat; và
đáng kể hơn nữa, một người Gia-tô mộ đạo và lương thiện. Những
lời của ông, vì vậy, đã được cân nhắc kỹ lưỡng. Nhưng không có
gì kết tội giáo hội của ông một cách hùng hồn hơn là thư của
ông:
Tôi viết những lời này cho Ngài như là một người với một người,
như là một người Gia-tô với một người Gia-tô.
Kể từ ngày đầu tiên của Quốc Gia Độc Lập Croatia, những người
Serbs đã bị tàn sát (Gospich, Gudovac, Bos, Krajina, v.v.) và sự
tàn sát ấy tiếp tục cho đến ngày nay.
I
write this to you as man to man, as a Christian to a Christian.
Since the first day of the Independent Croatian State, the Serbs
have been massacred [Gospich, Gudovac, Bos, Krajina, etc.] and
this massacring has continued to this day.- Page 370).
Người viết sau đó kể ra một chuỗi dài những tội ác đã phạm với
chi tiết. Sau đó ông kết luận:
“Tại sao tôi viết thư này cho Ngài? Và đây tại sao: Trong tất cả
những tội ác chưa từng nghe thấy, ghê tởm hơn là tà giáo, Giáo
Hội Gia-tô của chúng ta đã tham dự bằng hai cách. Trước hết, một
số đông linh mục, tu sĩ, thày dòng, và tổ chức thanh niên Gia-tô
đã tích cực tham gia vào tất cả những tội ác đó, nhưng kinh
khủng hơn cả là những linh mục Gia-tô đã trở thành những cấp chỉ
huy trại tập trung và đoàn võ trang, và như vậy đã ra lệnh hay
dung dưỡng những tra tấn khủng khiếp, giết người, và tàn sát một
dân tộc đã rửa tội. Không một tội ác nào có thể làm được, nếu
các giám mục của họ không cho phép, và nếu tội ác đã làm, thì
phải đưa các giám mục ra trước Tòa Án của Giáo Hội và lột áo tu.
Nhưng việc này không xảy ra, như vậy những giám mục đã tán thành
ít ra bởi sự thừa nhận.
Giáo Hội Gia-tô đã dùng đủ mọi cách để Gia-tô hóa bắt buộc những
người Serbs còn lại… Tỉnh Srem tràn ngập bởi truyền đơn của Giám
mục Akshamovich, in tại nhà in của ông ở Djakovo. Ông kêu gọi
những người Serbs, trong những truyền đơn đó, nếu muốn giữ mạng
sống và của cải, thì phải theo đức tin Gia-tô.
Điều gì sẽ xảy ra cho chúng ta những người Croats, nếu người ta
tin rằng chúng ta đã tham gia vào tất cả những tội ác đó cho tới
cùng?
Một lần nữa bổn phận của Giáo Hội là lên tiếng; trước hết, vì đó
là Giáo Hội của Đấng Christ; thứ hai, vì nó mạnh.
Tôi viết cho Ngài về điều đó, về những tội ác khủng khiêp, để
cứu linh hồn tôi, và tôi để việc đó cho Ngài để Ngài tìm cách
cứu linh hồn Ngài.
Ký
tên, Prvislav Grizogono,
Nguyên Bộ Trưởng Quốc Vương Nam-tư.
Viết
tại Zemun, ngày 8 tháng 2, 1942”.
(Why
do I write this to you? Here is why: In all these unprecedented
crimes, worse than pagan, our Catholic Church has also
participated in two ways. First, a large number of priests,
clerics, friars, and organized Catholic youth actively
participated in all these crimes, but more terrible even
Catholic priests became camp and group commanders, and as such
ordered or tolerated the horrible tortures, murders, and
massacres of a baptized people. None of this could have been
done without the permission of their bishops, and if it was
done, they should have been brought to the Ecclesiastical Court
and unfrocked. Since this did not happen, then ostensibly the
bishops gave heir consent by acquiescence at least.
The
Catholic church has used all means to Catholicize forcefully the
remaining Serbs… The province of Srem is covered with the
leaflets of Bishop Akshamovich, printed in his own printing shop
at Djakovo. He calls upon the Serbs, through these leaflets, to
save their lives and property, recommending the Catholic faith
to them.
What
will happen to us Croats if the impression is formed that we
participated in all these crimes to the finish?
Again it is the duty of the Church to raise its voice, first,
because it is a Church of Christ; second, because it is
powerful.
I
write to you this, about such terrible crimes, to save my soul,
and I leave it to you to find a way to save yours.- Page 370
Signed, Prvislav Grizogono,
Former Minister of the Kingdom of Yugoslavia.
At
Zemum, February 8, 1942.
Thế
chưa phải là hết. Bác sĩ Grizogono gửi một thư khác cho Bác sĩ
Ujchich, một Tổng giám mục Gia-tô ở Belgrade (Thủ đô Nam-tư).
Trong thư đó ông kêu gọi Tổng giám mục yêu cầu Giáo Hoàng dùng
quyền hành của Ngài và ra lệnh cho giáo phẩm Croat ngưng ngay
những việc tàn sát.
Tổng
giám mục Belgrade đã trả lời, nói rằng ông đã chuyển lời kêu gọi
tới Vatican. Trong thư trả lời Bác sĩ Grizogono, Tổng giám mục
viết như sau:
“Tôi xin cám ơn lá thư của Ngài. Chúng tôi đã nhận được
những tin tức tàn sát từ nhiều nguồn tin khác nhau. Tôi đã
chuyển tiếp tất cả mọi tin tức về Vatican, và tôi nghĩ rằng
mọi việc rồi sẽ được giải quyết”.
(I
thank you for your letter. The information about the massacres
we have already received from many different sources. I have
forwarded everything to the Vatican, and I believe that
everything will be done.- Page 371).
Tổng giám mục Stepinac, người đứng đầu hàng giáo phẩm Croat và
Giáo Hoàng Pius XII, người đứng đầu Giáo Hội Gia-tô Toàn Cầu,
vẫn im lặng. Sự im lặng của họ đã làm cho 850.000 người,
đàn ông, đàn bà và con nít, bị tàn sát bởi những tín đồ Gia-tô
với sự thỏa thuận ngầm của họ.
(Archbishop Stepinac, the head of the Croatian hierarchy and
Pope Pius XII, the head of the Universal Catholic Church,
remained silent. Their silence cost the lives of 850,000 men,
women and children, massacred by Catholics with their tacit
consent.- Page 371).
…
Khi
Ủy Hội Tội Phạm Chiến Tranh đưa ra những bằng chứng không thể
chối cãi về vai trò của Tổng giám mục Stepinac trong chính phủ
bù nhìn Croatia, chính phủ Nam-tư, muốn tránh việc khuấy động
cái tổ ong bò vẽ tôn giáo-chính trị, yêu cầu Vatican rút
Stepinac về.
Tháng 10, 1945, Vatican gửi Giám mục J.P. Hurley, từ Florida tới
Belgrade, để điều tra, với chức vụ như là Khâm Mạng Giáo Hoàng.
Tờ trình rất chi tiết gửi lên Giáo Hoàng tìm đường đi tới
văn khố Vatican và không bao giờ được biết đến. Giáo Hoàng Pius
XII, kiến trức sư của chiến lược Vatican hậu chiến, đã quyết
định khác. Như trong trường hợp Ba-lan, và bây giờ trong trường
hợp Nam-tư, những lợi ích cá nhân phải hy sinh cho nhu cầu của
đường lối chính trị Vatican. Stepinac được lệnh của Giáo Hoàng
từ chối không ra đi và chờ cho bị bắt.
Việc
không tránh khỏi đã xảy ra, và vào ngày 18 tháng 9, 1946,
Stepinac bị bắt giữ. Sau mười ngày luận án với sự hiện diện của
Báo Chí thế giới, Tòa Án – mà tại đó tất cả những giới chức xử
án đều là người Croat Gia-tô – kết tội Đức Ông, ngày 11 tháng
10, mười sáu năm tù.
Vatican
khai trừ tất cả những ai dính dáng đến vụ xử án, được mô tả mau
chóng như là sự phá hoại tôn giáo một cách ghê tởm. Stepinac,
nhà chính trị, âm mưu, người lãnh tụ quyền thế, trở thành
Stepinac người bị hành hạ, tu sĩ thần thánh, một người dân chủ
thánh thiện. Báo Chí thế giới, những lãnh tụ tôn giáo và chính
trị, và cả các Bộ Ngoại Giao, kể cả những Bộ Ngoại Giao của Anh
và Mỹ, chính thức phản đối chống lại “một sự hành hạ chưa từng
nghe nói” như thế. Nhiều Giáo Hội Tin-lành lên tiếng công khai
bảo vệ Stepinac “bị hành hạ”, vì đã đương đầu với những thế lực
ma quỷ để bảo vệ tự do tôn giáo. Một làn sóng thông cảm và ủng
hộ Giáo Hội Gia-tô tràn ngập Thế Giới Âu Châu.
Việc
Stepinac bị “hành hạ” đem lại ngay những lợi ích chính trị đầu
tiên.
Chiến Tranh Lạnh, vừa mới bắt đầu, nhận thêm được một sự kích
thích. Sự thù ghét vì xúc động do việc xử án gây ra làm gia tăng
lý tưởng thù hận trong toàn thể Âu Châu. Sự tái võ trang ở mức
độ vĩ đại đã có thêm lý do chứng minh. Nước Mỹ, mà vào năm 1946,
chỉ một năm sau sự sụp đổ của Hitler, đã chi gần một tỉ đô-la
vào sản xuất vũ khí, gấp rút chuẩn bị chiến tranh. Những xưởng
máy chiến tranh của Mỹ bắt đầu hoạt động trở lại; những đồng
minh của Nga-sô mở rộng. Vào lúc mà Tổng giám mục, nhờ có một
trong những tỉ dụ đáng xấu hổ nhất do kỹ thuật hối lộ
Mỹ-Vatican bằng đô-la, được trả tự do sớm hơn (Tháng 12, 1951),
thế giới đã chia rẽ về chính trị và quân sự. Nước Mỹ, “nước bảo
vệ văn minh Gia-tô”, trở thành kho vũ khí của phương Tây; Liên
Bang Sô-viết kho vũ khí của phía Đông. (By the time that
Archbishop Stepinac, through one of the most shameless examples
of American-Vatican dollar blackmail technique, was prematurely
set free (Dec., 1951), the world had already been politically
and military split asunder. The U.S.A., the defender of
Christian civilization”, had become the arsenal of the West;
soviet Russia the arsenal of the East.- Page 374).
Sau
5 năm ở tù, Tổng giám mục Stepinac được trả tự do có điều kiện
(tháng 12, 1951), và một trong những lời tuyên bố đầu tiên của
Ngài với Báo Chí là Ngài “không cảm thấy có tội”. (Giết người để
mở mang nước Chúa không có tội, mà còn được lên Thiên Đàng, sau
khi chết?!)
Năm sau Giáo Hoàng Pius XII phong cho Ngài lên chức Hồng y
– một sự khiêu khích có tính toán. Hồng y Stepinac được
chính phủ Nam-tư cho phép Ngài đi về Rome, nhưng Ngài từ chối,
bảo rằng “tôi sẽ ở lại Nam-tư cho tới khi Tòa Thánh quyết định
khác”.
Tháng 12, 1952, chính phủ Nam-tư cắt đứt liên lạc ngoại giao với
Vatican, kết tội rằng Vatican tiếp tục xen vào việc nội bộ của
nước này.
Pavelich và những người đi theo, trong khi đó, gia tăng nỗ lực
để làm sống lại Ustashi ở nước ngoài, với sự hỗ trợ trực tiếp và
gián tiếp của người Croatians, Vatican và một vài nhóm người Mỹ
và một số quốc gia Âu Châu. Ở Á-căn-đình, mà tại đó “chính phủ
Croat lưu vong” vẫn hoạt động, Pavelich được sự giúp đỡ tiền bạc
và che chở của hàng giáo phẩm Á-căn-đình và một vài nhóm quân
sự, những người này từ chối không cho dẫn độ Pavelich ra khỏi
nước. Năm 1957 Pavelich bị tấn công và bị thương vì hai viên
đạn.
Năm
1958 Giáo Hoàng Pius XII đau đớn được Chúa gọi về.
Năm sau thì đến lượt Pavelich (Tháng 12, 1959). Một năm sau nữa,
Hồng y Stepinac (tháng 2, 1960). Như vậy, trong vòng hai
năm ngắn ngủi, ba người thủ vai chính trong cơn ác mộng Gia-tô
Croatian biến khỏi sân khấu...
Những yếu tố quân sự, chính trị và tôn giáo và những nhân vật
gây ra nước Croatia Gia-tô toàn trị đã chết và mất hẳn. Nhưng
bài học cần phải nhớ do sự xuất hiện một quốc gia mà ở đó sự
toàn trị tôn giáo và chính trị của đạo Gia-tô được thi hành thì
không bao giờ được phép quên. Bởi vì nó đã xảy ra trong thời đại
của chúng ta, khi Giáo Hội Gia-tô – thời đó, và bây giờ, tự coi
như bị kỳ thị tôn giáo – lớn tiếng đòi hỏi tự do trong
khi Giáo Hội đó đồng thời triệt hạ cũng chính sự tự do đó
mà họ la lối đòi hỏi, ở một Quốc Gia bé nhỏ mà họ đã thiết lập
cái thứ tự do của họ, tự do Gia-tô, nghĩa là tự do cho
chính họ để tiêu diệt bất cứ cái gì và bất cứ ai dám chống
lại vòng tay ôm của họ.
(The
military, political and religious factors and persona-lities
which had generated the totalitarian Catholic Croatia had passed
away and gone. Yet the lesson to be learned from the emergence
of a state where the religious and political totalitarianism of
Catholicism was made to work should never be forgotten. For it
happened in our times, when the Catholic Church – then, as now,
posing as a victim of religious intolerance – was clamoring for
freedom while at the same time suppressing that same freedom for
which she was vociferating so loudly, in a tiny State where she
had set up her kind of freedom, Catholic
freedom: i.e. freedom for herself to eliminate whatever
and whoever dared to resist her embrace.- Page 377).
1.-
Khi
dịch bài này tôi cứ có cảm giác là những chuyện tàn sát ghê tởm
như thế không có thật. Đã xảy ra ở một thời đại xa xôi
nào, thời Trung Cổ. Chứ không phải ở thời đại của chúng ta.
2.-
Cái
quan niệm “tôn giáo nào cũng dạy người ta làm lành” mà
tín đồ Gia-tô Việt Nam muốn cho chúng ta tin hoàn toàn sai với
sự thật.
3.-
Stepinac bị Ủy Hội Tội Ác Chiến Tranh xử phạt 16 năm tù ở vì tội
diệt chủng, đã được Giáo Hoàng Pius XII phong chức Hồng y (năm
1952), và mới đây (năm 1999) còn được Giáo Hoàng John Paul II
sửa soạn phong cho làm thánh.
Giáo
Hoàng luôn luôn nhắc nhở đến lý trí, vậy xin thử dùng lý trí để
tìm hiểu việc phong thánh này:
a)
Nếu Thiên Chúa đồng ý với việc phong thánh, thì Thiên Chúa đã
đồng lõa với tội ác mà người phạm tội đã bị Tòa Án thế gian xử
phạt 16 năm tù ở. Không lẽ là đồng lõa Thiên Chúa lại được tha
bổng? Không lẽ Thiên Chúa cũng bị bỏ tù? Khi phong thánh cho một
tội phạm chiến tranh, một tên đồ tể, Giáo Hoàng đã làm cho Thiên
Chúa trở thành đồng lõa với tên đồ tể!
b)
Nếu Thiên Chúa không đồng ý, thì với quyền năng vô biên như vẫn
được mô tả, tại sao Thiên Chúa không ngăn chặn được tội ác? Tại
sao lại im lặng?
Những thắc mắc trên cho thấy, Thiên Chúa là do người ta chế tạo
ra để nô lệ tín đồ và thủ lợi.
4.-
Làm
Giáo Hoàng sướng thật. Ngài cũng chỉ là người như tất cả mọi
người, nhưng bất cứ Ngài nói gì, làm gì, dù vô lý đến đâu, cũng
được tín đồ khúm núm, sợ hãi, răm rắp nghe theo.
5.-
Những tàn sát ở Việt Nam để ép buộc dân ở những làng xa thành phố
phải đổi đạo, do chế độ Gia-tô Ngô đình Diệm chủ trương, cũng không
kém phần tàn bạo, đưa đến sự tự thiêu của Hòa Thượng Quảng Đức, và
sự sụp đổ của triều đại này. Thế rồi 100 năm sau, khi bụi thời gian
đã lắng xuống, thì cũng không có gì đáng phải ngạc nhiên, nếu một
Giáo Hoàng nào đó, do sự đề nghị của Giáo Hội Gia-tô Việt Nam tay
sai, lại phong thánh cho Ngô đình Diệm.
Trần
văn Kha
Posted in: Tôn Giáo
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét