Thứ Bảy, 21 tháng 11, 2015
THẦN HỌC : HỌC CÁI GÌ ?
07:59
Hoàng Phong Nhã
No comments
Viết
Tặng Mục Sư Nguyễn Quang Minh
Thần
Học Gia Và Khoa Học Gia Kinh Thánh
Trần Chung Ngọc
Thần Học Là Gì?
Thần học nói chung là môn học về
Thần (Gót = God). Trong thế giới loài người, từ xưa tới nay, có cả
trăm Gót khác nhau. [Xin đọc A History of God của Karen
Armstrong, hoặc A World Full of Gods của Keith Hopkins, hoặc
Mythology: An Illustrated Encyclopedia, Edited by Richard
Cavendish..] Trong bài này, tôi không nói đến bất cứ Gót nào khác,
thí dụ như Baal (Gót của dân Do Thái Canaan), Aton (Gót của người Ai
Cập), Zeus (Gót của người Hi Lạp), hàng trăm Gót của người Ấn Độ,
Huitzilopochtli (Gót của người Aztecs), Cha Quạ Sáng Tạo (Father
Raven The Creator) của dân Eskimo, Gót Sáng Tạo Ahura Mazda hay
Ohrmazd của người Ba-Tư v.v... Mỗi Gót như trên, cũng như khoảng 200
God khác trong môn học tôn giáo tỷ giảo, đều có hàng triệu người tin
và thờ phụng. Và Gót của Ki-tô Giáo (Christian God) là một trong
những Gót này. Bởi vậy, Judith Hayes đã viết cuốn “Chúng ta tin
cậy vào Gót, nhưng mà là Gót nào?” (In God We Trust: But Which
One?). Điểm chính tác giả muốn nói trong cuốn sách trên là: ”Nếu
chúng ta muốn thảo luận về Gót, được lắm; nhưng trước hết chúng ta
phải nói rõ chúng ta muốn nói về Gót nào?” (The point being--if
we want to discuss God, fine; but first we must state "which" god
we're going to talk about.)
Về bản chất thì Gót của Ki Tô Giáo
đều như mọi Gót khác, thí dụ như thần mưa, thần cây đa, thần bình
vôi, thần núi, thần sông, hay thần trong bất cứ nền văn hóa nào
v.v…, vì tất cả chỉ là đối tượng của một “đức tin”, và trong mỗi đức
tin, người ta có thể tưởng tượng ra bất cứ điều gì, ít hay nhiều, về
quyền năng của Gót. Về Gót của Ki Tô Giáo thì thật ra đó chỉ là Gót
của người Do Thái (the God of Israel), có tên là Jehovah hay Elohim.
Cách đây mấy ngàn năm và ngay cả ngày nay, Do Thái vẫn tin rằng quốc
gia của họ là dân đặc biệt của Gót; nhưng lịch sử cho thấy bị nhiều
tai họa và cách đây 2000 thì bị La Mã đô hộ một cách khắc nghiệt với
hình phạt đóng đinh trên cây thập giá bất cứ kẻ nào nổi loạn chống
đối La Mã hay những kẻ tội phạm như ăn cướp, ăn trộm.
Chúng ta nhớ, Giê-su bị đóng đinh trên
cây thập giá cùng lượt với 2 tên ăn trộm 2 bên. Lịch sử cho biết đã
có cả ngàn người bị hành quyết bởi hình phạt này chứ không chỉ riêng
Giê-su bị đóng đinh trên cây thập giá mà tín đồ gọi là “thánh giá”.
Các thầy tu Do Thái (Rabbi) an ủi hoàn cảnh nô lệ của người Do Thái
là họ bị Gót phạt vì tội lỗi, không theo luật của Gót. Nếu biết ăn
năn thống hối thì một ngày nào đó Gót sẽ đoái thương và Do Thái sẽ
có một Jerusalem mới, trong đó tràn đầy sữa và mật, dưới sự cai quản
của đích thân Gót. Jerusalem mới được biết dưới nhiều tên": “Nước
Chúa”, “Vương quốc của Gót”, “Nước Cha Trị Đến”.
Người Việt Nam theo Ki Tô Giáo bị mê
hoặc để tin vào Gót của Do Thái, gọi Gót đó là Thiên Chúa, nghĩa là
Chúa ở trên trời, nhưng không bao giờ định nghĩa Chúa là gì và trời
là gì, hoặc gọi là Thượng đế nghĩa là “Ông Vua ở trên cao” nhưng
cũng không định nghĩa là cao đối với cái gì, và hiểu nhầm “Nước Cha
Trị Đến” là “thiên đường” theo nền thần học Ki Tô Giáo. Ki Tô Giáo
là biến chất của đạo Do Thái, cũng thờ Gót của Do Thái, nhưng nếu
chúng ta xét theo lịch sử Ki Tô Giáo thì chúng ta có thể dựa theo
một câu nói của Đông phương là: “Gót cao một trượng thì Ma cao ba
trượng.” Vì không có cách nào có thể viết về mọi nền thần học
trên thế giới cho nên trong bài này tôi xin tự hạn thảo luận về Thần
học của Ki-tô Giáo (Christian God), môn học về một ông Thần chung
cho Ca-tô Rô-ma Giáo, Chính Thống Giáo, Tin Lành, Hồi Giáo và Do
Thái Giáo.
Vì Thần Học là môn học về Gót nên
trước hết, có lẽ chúng ta cần biết, theo quan niệm của Ki-tô Giáo
thì Gót là ai hay là cái gì? Lẽ dĩ nhiên không ai biết Gót thực sự
là cái gì, vì không ai có thể đưa ra một định nghĩa rõ ràng về Gót
mà con người có thể thấy đúng là như vậy, nên con người hiểu Gót như
thế nào là tùy theo trình độ, óc tưởng tượng và mơ ước của mỗi
người. Vậy thì, trước khi có thể luận về thần học, chúng ta cần
phải hiểu Thần Học Ki Tô Giáo là cái gì, sau đó chúng ta sẽ đưa ra
một số nhận định về Thần Học của các bậc thức giả, ở trong cũng như
ở ngoài Ki Tô Giáo.
Theo định nghĩa thì Thần Học Ki
Tô [Christian theology] là môn học về Thần của Ki Tô Giáo. Danh từ
Thần Học có xuất xứ từ tiếng Hi Lạp theologia (θεολογία),
theos (θεός) có nghĩa là Thần, và logos (λόγος) có nghĩa
là lời (word), bài giảng (discourse), hay lý luận (reasoning) về
Thần. Thánh Augustine định nghĩa Thần Học là “lý luận hay thảo
luận về Thần" [reasoning or discussion concerning the Deity].
Có lẽ chúng ta cũng nên biết thần học Ki Tô liên hệ tới đức tin Ki
Tô như thế nào và thực chất nền thần học đó ra sao.
Theo định nghĩa cổ điển của Ca-tô
giáo, Thần học là "đức tin tìm kiếm sự hiểu biết" (Thánh
Anselm: In the classical meaning of the term, theology is "faith
seeking understanding"), do đó Thần học Ki Tô tìm cách biện
giải những điều đã tin. Ngoài đức tin, Thần học không có
nghĩa. (Apart from faith, theology has no meaning.) Nhưng chúng
ta biết rằng: Theo định nghĩa của H. L. Mencken thì Faith hay Đức
Tin là "một kiểu tin phi-lôgic vào sự xảy ra của những gì không
chắc có thực" (an illogical belief in the occurrence of the
improbable), và theo định nghĩa trong tự điển thì Faith hay Đức Tin
là "sự tin chắc vào một cái gì đó mà không chứng minh được cái đó
có thực" (Firm belief in something for which there is no
proof.) Chẳng vậy mà học giả Ca-tô Joseph L. Daleiden đã nhận định
trong cuốn The Final Superstition: “Đức Tin Ki Tô
(Christian Faith) và Lý Trí (Reason) tượng trưng cho hai con đường
đối ngược: con đường đi tới mê tín đối với con đường đi tới hiểu
biết” [The path to superstition versus the path to knowledge]
Như vậy thì “đức tin” và “hiểu biết” có tính cách “loại trừ hỗ
tương” (mutually exclusive).
Ngoài ra, theo Friedrich Nietzsche:
“Đức tin có nghĩa là không muốn biết đến cái gì là sự thật.”
(Faith means not wanting to know what is true.), và theo Frater
Ravus: Đức tin không cho các người những câu trả lời, nó chỉ
không cho các người được thắc mắc (Faith does not give you the
answers, it just stops you asking the questions.) Đây chính là “đức
tin” của Mục sư Nguyễn Quang Minh, vì ông ta viết rằng: “Những gì
khoa học chưa giải nghĩa được thì tôi phải dùng đức tin”. Viết
câu này vì ông Nguyễn Quang Minh không biết đến những giải nghĩa của
khoa học mà thực chất đã phá sập nền thần học Ki Tô Giáo.
Trên thực tế, đức tin giúp ích gì cho
con người một khi tin mà không biết mình tin cái gì. Có chăng đó
chỉ là ảo tưởng về một-cái-bánh-vẽ-trên-trời. Đức tin không giúp
cho ai khỏi bệnh tật hay sự nguy hiểm mà là thuốc men hoặc cái “gối
không khí” (airbag) trên xe hơi, chứ không phải là nước thánh. Gót
không bảo vệ chúng ta mà là sự thông minh của chúng ta biết phải
biết trái. Hãy đặt đức tin vào một cái gì mang đến kết quả thực
sự. Đã bao lâu rồi từ khi có người nào đó đi trên sông nước, Phép
lạ trong thời hiện đại là khoa học: máy điện toán, thuốc chích ngừa
bệnh tật, phi thuyền không gian v.v… Ai còn cần đến Gót ngày nay?
Trong
khi đó thì,
Thần học bao giờ cũng phải đặt căn bản trên đức tin,
tin là
thực sự có cái gọi là Gót,
tin những điều viết trong Thánh Kinh, hoặc viết bởi những nhà lập
giáo, những tín lý các công đồng Ca Tô đưa ra v..v..
(LM Richard P. McBrien in Report on the Church, p. 2:...That
is, theology must always have its starting point in Sacred
Scripture, in the writings of the early fathers of the Church, in
the official teachings of the councils, and so forth.) rồi từ đó mới
tìm cách diễn giải, bất kể là diễn giải đúng hay sai, để tăng thêm
đức tin mà Ki Tô Giáo gọi đó là hiểu biết. Thí dụ, Thần học đặt sự
hiện hữu của Gót của Ki Tô Giáo (Christian God) (Thiên Chúa của tín
đồ Việt Nam) như một tiền đề không có nghi vấn, rồi từ đó mới biện
giải về mối liên hệ giữa Gót và con người, và làm phát triển trong
con người lòng tin và thờ phụng Gót tuy trong thực tế không ai biết
Gót là cái gì.
Trong cuốn Systematic Theology, nhà thần học Ca-tô Paul
Tillich viết rằng: "Thần học, như là một công năng của Giáo hội,
phải phục vụ cho nhu cầu của Giáo hội" (Theology, as a function
of the Church, must serve the needs of the Church.) Do đó, bất kể
nhu cầu của giáo hội ra sao, đúng hay sai, hiện đại hay lạc hậu, nền
thần học Ca-tô phải được diễn giải để phục vụ những nhu cầu đó.
Chúng ta thấy rằng, nếu Thần học phục vụ cho đức tin Ca-Tô thì sự
hiện hữu của các nhà Thần học là để phục vụ cho Giáo hội, như là một
bầy tôi của đức tin (McBrien, Ibid.: If theology exists for the sake
of the Christian faith, then the theologian exists for the sake of
the Church, as a servant of faith.) Giáo hội đây có nghĩa là hệ
thống toàn trị của Ca-tô giáo chứ không phải là tập thể con chiên
bởi lẽ con chiên không được có một tiếng nói nào trong giáo hội, bổn
phận con chiên là phải "quên mình trong vâng phục". Lịch sử cho
thấy rằng, nền thần học Ki Tô Giáo
để phục
vụ cho những giáo hội Ki Tô
đã tạo nên những cuộc gọi là thánh chiến, những tòa hình án xử dị
giáo, những vụ săn lùng và thiêu sống phù thủy và những kẻ “lạc
đạo”, “lạc đạo” là những người không chấp nhận nền thần học Ki Tô
Giáo, những vụ tàn sát dân Da Đỏ, bách hại dân Do Thái, những sách
lược truyền đạo tàn bạo và
mê hoặc
dân
ngu
ở các nước kém phát triển.
Học Được Gì Từ Thần
Học?
Bản chất của nền Thần học Ki Tô là như vậy, và Ca-Tô Rô-Ma Giáo cũng
như Tin Lành đã vận dụng tối đa xảo thuật sử dụng tính chất co dãn
của ngôn từ vào trong môn Thần học, kể cả xuyên tạc, ngụy tạo văn
kiện, thay đổi sự thực để đạt mục đích toàn trị của Giáo hội
Ca-tô hay truyền bá sự mê tín của Tin Lành.
Do đó, thực chất Thần học không phải là
một môn
học
mà chúng
ta có thể học
hỏi
được gì trong đó như các bộ môn khoa học hay nhân văn,
mà chỉ là những luận điệu để tạo đức tin trong đám tín đồ thấp kém,
và
khi có
cơ hội,
cưỡng ép những người ngoại đạo cũng phải tin như các tín đồ mà đầu
óc đã bị điều kiện hóa, vì không ai có thể học được gì từ một cái mà
không ai biết cái đó là cái gì.
Ca-tô Rô-ma Giáo cũng như Tin Lành đều
có truyền thống là nhồi vào óc tín đồ những điều họ hoang tưởng về
Gót và dạy tín đồ phải tin như vậy, không cần biết, không cần hiểu.
Vì vậy, sách National Catholic Almanac, 1968, trang 360, của Ca-tô
Giáo, giáo hội Ca-tô, trong thời đại mà đa số dân chúng mù chữ,
không có đầu óc suy luận, đã đưa ra một ông Gót với 23 thuộc tính
(23 attributes), bất kể là với những thuộc tính này mâu thuẫn với
nhau và loại bỏ sự hiểu biết của con người. Do đó con người đã mù
mờ về Gót lại càng mù mờ thêm, rút cuộc chỉ biết tin, tin mà không
hiểu:
“Phép tắc vô cùng, vĩnh hằng, thánh
thiện, bất diệt, bao la mênh mông, không bao giờ thay đổi, không
thể hiểu được, không thể mô tả được, vô tận, vô hình, công
chính, thương yêu, nhân từ, cao nhất, khôn ngoan nhất, toàn năng,
toàn trí, có mặt khắp nơi, nhẫn nại, toàn hảo, cung cấp tinh thần và
vật chất cho con người, tối cao, chân thật”
(almighty, eternal, holy, immortal,
immense, immutable, incomprehensible, ineffable, infinite,
invisible, just, loving, merciful, most high, most wise, omnipotent,
omniscient, omnipresent, patient, perfect, provident, supreme,
true.)
Trước hết, chẳng có mấy người để ý là
hai thuộc tính toàn năng và toàn trí có tính cách loại trừ hỗ tương
(mutual exclusive), có cái này thì không có cái kia. Hơn nữa, trong
23 thuộc tính nêu trên có một thuộc tính rất đặc biệt, đó là
incomprehensible, nghĩa là không ai hiểu được. Giáo lý của giáo hội
Ca-tô Rô-ma cũng còn nhấn mạnh là cả 3 ngôi Gót đều không thể hiểu
được “Gót Cha không thể hiểu được, Gót Con không thể hiểu được,
Gót Thánh Ma không thể hiểu được” (The Father incomprehensible,
the Son incomprehensible, the Holy Ghost incomprehensible). Đó là
tất cả những gì chúng ta cần “hiểu” về Chúa Ba Ngôi.
Cũng vì vậy mà nếu chúng ta có hỏi Gót
là cái gì, ở đâu, và có những bằng chứng gì có thể chứng minh sự
hiện hữu của Gót, thì có lẽ không ai có thể trả lời được, vì Gót chỉ
có ở trong phương pháp luận thần học của Ki Tô Giáo đã được cấy vào
đầu tín đồ. Tiến sĩ Madalyn O’Hair, chủ tịch hội những người không
tin Gót ở Mỹ, có đưa ra một nhận định:
“Thật ra, đây là những gì mà người
Ki-tô Giáo làm: chẳng thờ phụng cái gì cả. Một vật không ai nhìn
thấy, không ai biết, không ai nghe thấy, không đáp ứng được gì
(những lời cầu nguyện) mà các người gọi là Gót và cầu khẩn hàng
ngày mà không hề có một đáp ứng nào. Chẳng có cái gì cả - nhưng các
người thờ phụng cái đó. Chẳng có gì nghe được các người – nhưng các
người vẫn nói lên những tiếng nói để liên lạc với cái đó. Chẳng có
gì đáp ứng – nhưng các người vẫn nghe thấy một thông điệp nào đó
trong hư không. Chẳng có gì đã từng xảy ra – nhưng
các người vẫn lý luận rằng có một cái
gì đó xảy ra ở đâu đó, có thể ở trong trái tim của con người. Đây là
một canh bạc kỳ cục mà các người chơi.”
(In fact, this is what
the Christian does: worships nothing. An unseen, unknown, unhearing,
unresponding entity which you call god is supplicated by you daily
with no response. Nothing is there – but you worship it. Nothing
hears you – but you address communication to it. Nothing responds –
but you hear some message in the void. Nothing ever happens – but
you rationalize that “something” occur somewhere, perhaps in one’s
heart. It is an incredible game that you play.)
Như vậy, Thần học KiTô Giáo là một môn
học về một cái gì vô hình, không thể mô tả được, không ai hiểu được,
và không ai biết được (unknowable). Vì vậy Richard Dawkins mới
cho rằng Thần học là một môn học không có chủ đề, tất cả chỉ là “ảo
tưởng” (Xin đọc The God Delusion). Trong Ca-tô Rô-ma
Giáo, tín đồ chỉ có quyền “quên mình trong vâng phục”, trung thành
với “đức vâng lời”, không có quyền thắc mắc, chỉ có quyền tin, không
có quyền hiểu, nên Giáo hội có muốn dạy sao về Gót, về một cái gì vô
hình, không thể mô tả được, không ai hiểu được, và không ai biết
được, cũng không thành vấn đề đối với con chiên, giáo hội dạy sao
thì cứ tin làm vậy.
Khổ một nỗi, đối với người ngoại đạo
như tôi, xét theo logic thì tất cả những gì mà Ki-tô Giáo nói về
Gót, khẳng định là Gót thế này, Gót thế nọ, ý Gót thế này, ý Gót thế
nọ, phải làm theo ý Gót, Gót thương yêu bạn, muốn bạn thế này thế nọ
v..v.. chung qui cũng chỉ là những luận điệu thần học mà thực
chất chỉ là đoán mò, nói chỉ để mà nói, vì những khẳng định
trên hoàn toàn vô nghĩa.. Vô nghĩa ở chỗ không ai thấy được Gót,
(invisible), không ai biết gì về Gót (unknowable), và không ai hiểu
được Gót, (incomprehensible), cho nên những gì nói về Gót, đều là do
sự tưởng tượng hay mê sảng của con người, thường là sự tưởng tượng
của những người không có mấy đầu óc, hoặc đầu óc rất xảo quyệt, đưa
ra để lòe bịp những người ít đầu óc.
Thực Chất Của Môn Thần Học.
Có lẽ nhận định sau đây về Thần học Ki
Tô Giáo của Charlie Nguyễn, một người Ca-tô đạo gốc đã tỉnh ngộ, có
thể nói là không sai với sự thật là bao nhiêu [Charlie Nguyễn,
Thực Chất Đạo Công Giáo và Các Đạo Chúa (Garden Grove, CA: Giao
Điểm, 2003), tr. 355-56]:
“Cái gọi là sự học vấn của các
trường tôn giáo hoặc sự uyên bác của học sĩ Ulama thực chất chỉ là
môn học “tán hươu tán vượn” về những điều huyền hoặc của thần học
(theology).
Thần học Hồi Giáo cũng tương tự như thần học của Do Thái Giáo hoặc
Ki-tô Giáo. Thần học là một môn học đầy tính chất hoang tưởng,
viển vông và nhảm nhí. Càng đi sâu vào thần học, con người càng
lún sâu vào “ốc đảo tâm linh”, xa rời thực tế và đầy đặc những định
kiến sai lầm. Những mảnh bằng “Tiến Sĩ Thần Học” là những giấy
chứng chỉ công nhận sự ngu xuẩn của kẻ được cấp. Chỉ đến khi có
cơ duyên tỉnh ngộ, kẻ đó mới cảm thấy xấu hổ là đã được cấp những
mảnh bằng về thần học mà thôi.”
Thật vậy, trong cuốn Một Linh Mục Hiện Đại Xét Về Giáo Hội Lỗi
Thời Của Mình, một cuốn sách đã được một số trí thức trong cũng
như ngoài giáo hội ca tụng, linh mục James Kavanaugh đã đưa ra một
nhận xét như sau về nền Thần học Ca-Tô:
Tuy nhiên, nền Thần học của chúng ta đã trở thành một trò chơi
học thuật. Đó là một mớ luật lệ tích tụ trong sự cay đắng tôn giáo
của những cuộc tranh chấp nhỏ mọn. Đó là một chuyện cổ tích về
những chân lý đã nhàm chán, chỉ có tác dụng tước đoạt trách nhiệm cá
nhân của con người và hạ thấp con người thành một nô lệ vô danh sợ
sệt. Thần học đã tước đoạt đầu óc con người và chỉ để lại trong
họ những lời học thuộc lòng... Đó là nền Thần học mà tôi đã học và
truyền lại trong mọi kỳ xưng tội mà tôi nghe, trong mọi lớp học tôi
dạy, trong mọi bài giảng tôi nói cho đám con chiên đầy mặc cảm tội
lỗi.
(James Kavanaugh, A Modern Priest Looks At His Outdated Church,
p. 6: Our theology, however, has become a scholar's game. It is a
code of rules accumulated in the petty wars of religious
bitterness. It is a tale of tired truths, which only serve to rob
man of personal responsibility and reduce him to the listlessness of
a frightened slave. Theology took away man's mind and left him
memorized words... This is the theology I learned and transmitted in
every confession I heard, every class I taught, every sermon I gave
to the guilt-infected flock.)
Và, trong cuốn "Những vị Thần cuối cùng của Huyền Thoại: GiaVê và
Giêsu", Tiến sĩ William Harwood, một tín đồ CaTô đã tỉnh ngộ và
bỏ được một niềm tin sai lầm sau khi nghiên cứu lịch sử các tôn giáo
trong đế quốc La Mã và khám phá ra rằng "bí tích" ăn thịt uống máu
Chúa (Eucharist), thường được biết dưới một tên hoa mỹ là "bí tích
ban Thánh thể", mà ông đã tin và thọ hưởng cái bí tích này hàng
tuần và trong nhiều năm, đã có từ 3000 năm trước khi Giêsu ra đời,
và rằng các Thiên Chúa (Gods) chỉ là những sản phẩm tưởng tượng của
con người (Dr. Harwood..discovered that the "god-eating" ritual in
which he participated weekly as a believing Christian had existed
three thousand years before Jesus' birth. Not for three years,
however, could he fully abandon the disproved beliefs to which he
had been emotionally committed, and acknowledge that gods are as
imaginary as fairies), đã viết:
"Người ta đã khám phá ra rằng, từng quyển một trong Thánh Kinh
đều chứa những sai lầm về sự kiện, những phỏng đoán không chính xác,
những kỹ thuật làm hợp lý hóa, những điều tiên tri về những sự việc
đã xảy ra, ghép với những điều tiên tri về tương lai đã được chứng
tỏ là không chính xác, và không còn sai lầm gì nữa là chứa những
lời nói láo cố ý. Nếu sự khám phá này được phổ biến tới đại chúng
thì cái huyền thoại Do Thái - KiTô đã bị quật nhào bởi một cơn gió
lốc khó có hi vọng phục hồi.
Trước nguy cơ bị loại bỏ này, Giáo Hoàng đương thời
(John Paul II) bổ nhiệm một số sử gia của chính ông ta để khảo
sát những kết luận về Thánh Kinh của những sử gia thế tục và tìm ra
trong những bằng chứng của họ những sơ hở mà Giáo Hoàng tin rằng thể
nào cũng phải có. Kết quả là những sử gia của Giáo Hoàng cũng
phải xác nhận là Thánh Kinh của họ thực ra chỉ là một ảo tưởng sai
sự thực. Họ phúc trình kết quả lên Giáo Hoàng, và khi Ngài
lập tức dẹp bỏ cái phúc trình này đi thì họ không còn là tín đồ
Ca-Tô nữa. Rồi Giáo Hoàng ra lệnh cho bộ máy tuyên truyền của Ngài
phát minh ra một phương pháp luận khác để đánh đổ phương pháp của
những sử gia trên, một phương pháp luận được tạo ra với mục đích
rõ rệt là phải đi đến kết luận là cuốn Thánh Kinh của Do Thái - KiTô
không phải là một tác phẩm hoang đường, không cần để ý đến chuyện
phải xuyên tạc những bằng chứng đến cỡ nào để đi tới mục đích trên.
Cái phương pháp luận đó là "Thần học"..
Đó là quyền lực của chính trị Thần quyền của thế giới mà, mặc dù đã
có hàng ngàn tác phẩm nghiên cứu và bài khảo cứu phủ bác toàn bộ
Thánh Kinh Do Thái - KiTô, cho tới ngày nay, 90% dân chúng trong
những xã hội mà tôn giáo chính là KiTô Giáo không hề biết đến sự
hiện hữu của những bằng chứng bất khả phủ bác là quyển Thánh Kinh
chỉ là một tác phẩm giả tưởng.
(William Harwood, Mythology's Last Gods: Yahweh and Jesus, p.
16: One by one the various
books of the bible were discovered to contain errors of fact;
inaccurate guesses; rationalizations; prophecies ex-post-facto,
usually combined with prophecies of the future that proved
inaccurate; and unmistakable, deliberate lies. Had this discovery
been allowed to reach general public, Judeo-Christian mythology
would have suffered a blow from which it could not have hoped to
recover. Facing elimination, the current Pope appointed his own
historians to examine the secular historians' conclusions and find
the flaw in their evidence that he believed must be there. The
outcome was that the Papal historians confirmed that their bible
really was falsifiable fantasy. They presented the Pope with their
reports and, when he promptly suppressed them, they all ceased to be
Catholics. So the Pope ordered his propaganda machine to invent an
alternative methodology to combat that of the historians, a
methodology created for the specific purpose of reaching the
conclusion that the Judeo-Christian bible is nonfiction, no matter
how severely the evidence had to be distorted in order to achieve
that objective. That methodology was 'theology'.. Such was the
power of the world's theocracies that, despite the publication of
thousands of scholarly books and articles refuting every part of the
Judeo-Christian bible, to this day the existence of unchallengeable
proof that the bible is a work of fiction is unknown to ninety
percent of the population of Christian-dominated societies.)
Đó là phương pháp
luận thần học của Ki Tô Giáo nói chung, Ca-tô Rô-Ma Giáo nói riêng,
một phương pháp luận gian dối có tính mê hoặc những con người thấp
kém. Và các “tiến sĩ thần học”
trong Ki Tô Giáo chẳng qua chỉ là những người đã học được những xảo
thuật gian dối để lừa bịp tín đồ. Tôi nghĩ các nhà thần học Ki-tô
phải cảm thấy ngượng và xấu hổ vì cái môn học bịp bợm của mình.
Nền Thần Học Tin Lành.
Mục sư Nguyễn Văn Huệ giải thích về đức tin Tin Lành như sau
:
Người Tin Lành tin tưởng Thánh Kinh
là uy quyền duy nhất và đầy đủ của đức tin. Người Tin Lành chỉ tôn
trọng những truyền thống nào của Hội Thánh phù hợp với Kinh Thánh.
Người Tin Lành muốn trở về với cội nguồn đức tin và hình thức sống
đạo theo như Thánh Kinh dẫn, không thêm, không bớt.
Tin
Lành đặt thẩm quyền của Thánh Kinh lên trên hết vì Tin Lành tin rằng
Thánh Kinh là những lời mạc khải của Thiên Chúa, nên không thể sai
lầm. Cho nên Thần Học Tin Lành bắt nguồn từ sự tin tuyệt đối vào
Thánh Kinh. Trước hết chúng ta hãy lấy một thí dụ về “đức tin Tin
Lành”, đức tin này có thể gói trọn trong tam đoạn luận như sau như
Mục sư Rubem Alves đã trình bày trong cuốn Protestantism and
Repression, trang 63:
- Tất
cả những gì trong Thánh Kinh đều đúng
(Everything in the Bible is true)
- Thánh
kinh viết Moses là tác giả của Ngũ Kinh
(The Bible says that Moses is the author of the Pentateuch)
-
Vậy thì Moses
phải là tác giả của Ngũ Kinh
(Therefore Moses is the author of the Pentateuch)
Nhưng Mục sư Rubem Alves còn là một
nhà nghiên cứu Thánh Kinh lương thiện nên đã đặt vấn đề về tác giả
thực của Ngũ Kinh như sau:
Ai
viết Ngũ Kinh ? Câu trả lời của giáo hội Ki Tô lịch sử cho câu hỏi
trên là khẳng định: "Moses
viết".
Nếu Moses không hề viết Ngũ Kinh
thì các tông đồ (thí dụ:
Paul và John) đã sai lầm
khi họ nói rằng Moses viết.
Nếu họ sai lầm trong vấn đề này thì làm sao chúng ta có thể tin họ
khi họ nói về những vấn đề như thiên đường và đời sau?
Nếu Moses không viết Ngũ Kinh
thì Giê-su đã nói láo hay sai lầm khi ông ta nói rằng
Moses viết. (John 5:46 -
Luke 24:27 - Luke 16:31).
Nếu Giê-su thực sự không biết
ai viết, tuy rằng ông ta nói rằng ông ta biết, làm sao chúng ta có
thể tin ông ta được khi ông ta nói những chuyện trên trời?
(Who wrote the Pentateuch? The
response of the historical Christian Church to that question is
definite: “Moses wrote them”. If Moses did not write the
Pentateuch, then the apostles (e.g., Paul and John) made a mistake
when they said that he did. If they erred on this matter, how can
we believe them when they deal with truths concerning heaven and the
future life? If Moses did not write the Pentateuch, then Jesus lied
or erred when he said Moses did. If Jesus did not know this, though
he said he did know, how can we believe him when he talks about the
thing of heaven?)
Tại sao Mục sư
Rubem Alves lại đặt vấn đề như vậy? Chắc hẳn là ông ta đã nghiên
cứu kỹ Thánh Kinh và biết đến những kết quả nghiên cứu bất khả phủ
bác về xuất xứ cũng như những tác giả viết Ngũ Kinh.
Và
đây là một sự kiện: tất cả các học giả nghiên cứu Thánh Kinh,
ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, đều đồng thuận ở một
điểm: Ngũ Kinh (5 sách đầu trong Cựu Ước) không phải là do Môi-se
viết mà là do nhiều người khác nhau, thuộc nhiều môn phái khác nhau,
viết trong khoảng thời gian 400 năm, từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 6 trước
thời đại thông thường ngày nay (B.C.E = Before Common Era), hay
Trước Tây Lịch (TTL) trong khi Môi-se sống trong khoảng thế kỷ 13
TTL. Các môn phái khác nhau đó là :
- Môn phái Yahwistic (viết
tắt là J) vì gọi Chúa là Jehovah.
- Môn phái Elohistic (viết
tắt là E) vì gọi Chúa là Elohim.
- Môn phái Deuteronomic
(viết tắt là D) viết sách Deuteronomy
- Môn phái Priestly
(viết tắt là P) viết sau khi dân Do Thái đi lưu đày (sau 500 TTL).
Thật vậy, nếu
đọc đã đọc kỹ Ngũ Kinh, ông ta phải biết rằng trong Phục Truyền Luật
Lệ Ký 34: 5-7, Môi-se
viết về cái chết của chính mình như sau:
“Vậy Môi-se
[ngôi ba],
tôi tớ Thiên Chúa
[God]
qua đời trong đất Mô-Áp, như Thiên Chúa đã phán. Ngài
(tức là Thiên Chúa)
chôn ông
ta
(ngôi ba)
tại một thung lũng đối ngang... Môi-se qua đời lúc
ông ta
(ngôi ba) được 120 tuổi ...”
Ở trên, tôi đã đưa ra nhận
định của Richard Dawkins: “Thần
học Ki Tô Giáo là môn học không có chủ đề.” Đây không phải vì
Richard Dawkins là người “vô thần” nên mới nhận định như trên.
Giáo sư David Voas, đại học New Mexico, Hoa Kỳ, tác giả cuốn
sách khảo cứu Tân Ước nổi tiếng: Cuốn Thánh Kinh Mang Tin Dữ:
Cuốn Tân Ước [The Bad News Bible: The New Testament] đã viết
trong phần dẫn nhập như sau:
Thần học, đã một thời như là bà hoàng của các khoa học, ngày
nay có vẻ chỉ còn là bà hoàng của các tu viện, vẫn đàm tiếu về cùng
những chuyện cổ xưa sau khi các em nhỏ hát Thánh ca đã trưởng thành
và bỏ đi lâu rồi. Thật là đáng xấu hổ... Thần học - chấp nhận
như là môn học về Thần Ki Tô - bị coi là không có chủ đề
nào, hoặc ít nhất là không có chủ đề nào chúng ta có thể
nghiên cứu. Đó là ngành học duy nhất với những chuyên gia
[các
thần học gia như Nguyễn Quang Minh]
thực sự không biết mình đang nói cái gì.
Vì không có chất liệu cho chủ đề, các nhà Thần học phải xử dụng
đến hai lãnh vực kỳ quặc: óc tưởng tượng và Giáo quyền... Ngày nay,
các tư tưởng gia Ki Tô có nhiệm vụ chứng tỏ Thánh Kinh có ý nghĩa,
nhất quán, và có vẻ như là có thể biện hộ cho vấn đề luân lý đạo đức
trong đó. Điều này có thể thật là khó khăn.
(David Voas,
Introduction:
Theology, once queen of the sciences, now seems merely queen
of the cloisters, still gossiping about the same old stories long
after the choir boys have grown up and moved on. It's a shame...
Granted, theology - the study of God - suffers from the suspicion
that it has no subject, or at least none we can study. It is the
only field with experts who don't know what they are talking about.
Their subject matter being inaccessible, theologians must resort to
the odd couple of imagination and authority... Christian thinkers
now have the job of showing that scripture makes sense, is
consistent, and appears morally defensible. This can be difficult.)
Trong Ki Tô Giáo, Thần học là môn
học về Gót của Ki Tô Giáo. Chúng ta biết như vậy. Nhưng Gót của Ki
Tô Giáo là cái gì. Không ai biết. Tuy không biết Gót là cái gì,
nhưng chúng ta có thể biết những thuộc tính của Gót như được viết
trong cuốn gọi là Kinh Thánh (Holy Bible) của Ki Tô Giáo, gồm có Cựu
Ước và Tân Ước. Chúng ta nên nhớ, theo thuyết “Gót Ba Ngôi” của
Ca-tô Rô-Ma Giáo thì Gót Cha trong Cựu Ước, Gót Con trong Tân Ước
(Giê-su), và Gót Ma mang nhãn hiệu “thánh”, alias “Thánh Ma” (Holy
Ghost) chỉ là một. Vậy chúng ta chỉ cần tìm hiểu Gót Cha trong Cựu
ước là đủ. Richard Dawkins, trong cuốn “The God Delusion”,
ấn bản 2008, Chương 2, trang 51, đã đưa ra 16 nhận định về Gót của
Ki Tô Giáo như sau:
Không cần phải bàn cãi gì nữa, Gót
trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả
tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh diện vì thế; nhỏ nhen lặt
vặt, bất công, có tính đồng bóng tự cho là có quyền
năng và bất khoan dung; hay trả thù; khát máu diệt dân
tộc khác; ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái,
kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt
chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch,
có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và toàn năng
[megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và những trò
tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic],
là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường.
(The God of the Old Testament is
arguably the most unpleasant character in all fiction: jealous and
proud of it; a petty, unjust, unforgiving control-freak; a
vindictive, bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic,
homophobic, racist, infanticidal, genocidal, filicidal,
pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic, capriciously
malevolent bully.)
Và Thần học Ki
Tô Giáo dạy các tín đồ là, điều kiện để được cứu rỗi sau khi chết là
phải “yêu hết sức, hết linh hồn” một ông Gót với những thuộc tính
trên, và phải tuân theo mớ 10 luật của ông ta, mà điều luật thứ nhất
là điều luật quái gở ấu trĩ của thời bán khai của dân du mục Do
Thái: “Ngươi không được thờ thần nào khác ngoài Ta”. Quái gở
vì thờ ông ta là thờ 16 đặc tính ác ôn của ông ta ở trên. Thảm
cảnh của con người hiện nay trên thế giới là vẫn còn một số không
nhỏ, kể cả những người mệnh danh là trí thức Ki Tô Giáo, vẫn còn có
thể tin rằng nền thần học Ki Tô Giáo là có cơ sở lý luận vững chắc.
Họ không hề biết là những cơ sở lý luận thần học của Thomas Aquinas,
Augustine v.v.. mà một thời đã chiếm địa vị chỉ đạo độc tôn trong
giáo hội Ca-tô trong nhiều trăm năm ở Âu Châu, đứng trên mọi khoa
học, ngày nay đã mất đi tính cách thuyết phục, bị dứt khoát phủ bác,
và bị đẩy ra khỏi môi trường trí thức của nhân loại. Trong thời đại
man rợ và đen tối trí thức (The age of barbarism and intellectual
darkness) của Ca-Tô Rô-Ma Giáo ở Tây phương, những giáo điều, tín lý
của Ca-tô Rô-Ma Giáo, dựa trên nền thần học bắt nguồn từ sự hiểu
biết mù quáng vào những điều sai lầm trong cuốn Thánh Kinh, cộng với
quyền hành của các lãnh tụ tôn giáo ở địa vị nắm quyền, hay liên kết
với những chính quyền đương thời, đã ngăn chặn sự phát triển khoa
học và tự do tư tưởng của con người. Mọi khám phá khoa học, mọi tư
tưởng trái ngược với Thánh Kinh đều bị lên án là “lạc đạo"
(heretics), phải diệt trừ.
Do đó, cũng chính trong khoảng thời
gian này, Tây phương phải chịu đựng 8 cuộc Thập Ác Chinh (Crusades)
và hàng trăm ngàn các vụ xử án dị giáo (Inquisitions), với kết quả
là nhiều triệu người gồm già, trẻ, lớn, bé, trai, gái đã bỏ mạng vì,
hoặc bị tàn sát, có khi tập thể; hoặc bị tra tấn bởi những dụng cụ
tra tấn kinh khủng nhất trong lịch sử nhân loại. Điển hình là các
vụ xử các khoa học gia như thiêu sống Giordano Bruno và giam cầm
Galilei tại gia cho đến chết mà “Tòa Thánh” [sic] đã thú nhận trước
thế giới là sai lầm. Tin Lành thiêu sống thổ dân Da Đỏ trước cây
thập ác và thi hành chính sách diệt chủng dân Da Đỏ ở Mỹ cũng là bắt
nguồn từ nền thần học Ki Tô Giáo.
Ngày nay, trừ
đám người Tin Lành mù quáng, không có mấy người có đầu óc còn tin
cuốn Thánh kinh
là những lời mạc khải
không thể sai lầm
của Thiên Chúa. Vậy thật ra, thẩm quyền Thánh Kinh nằm ở đâu, ở chỗ
nào trong Thánh Kinh? Chúng ta không có cách nào khác là phải đi
vào nội dung của cuốn Thánh Kinh.
Thật
ra thì ngày nay, những ai còn nói chuyện mạc khải, hay thẩm quyền
của Thánh Kinh, thật ra chỉ là những người còn sống trong bóng tối,
lạc hậu ít ra là vài thế kỷ. Bởi vì, thực tế là, Thánh Kinh có phải
là do Thiên Chúa mạc khải hay không thì trong Thánh Kinh, những
chuyện loạn luân vẫn là loạn luân, độc ác vẫn là độc ác, giết người
vẫn là giết người, phi lý phản khoa học vẫn là phi lý và phản khoa
học v..v... Thật vậy,
tất cả những chuyện thuộc các loại sau đây chiếm hơn nửa cuốn
Kinh Thánh: bạo hành giết người (Violence & Murder),
giết người hàng loạt (Mass Killing), loạn luân
(Incest), ăn thịt người (Human Cannibalism), độc
ác đối với trẻ con (Child cruelty), tục tĩu quá mức
(Scatology), trần truồng (Nakedness), đĩ
điếm (Harlotry), hiếp dâm (Rape), thù
hận tôn giáo và chủng tộc (Religious & Ethnic Hatred),
nô lệ (Slavery), say rượu (Drunkeness)
v..v.. [Xin đọc cuốn Tất Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong Kinh
Thánh (All The Obscenities In The Bible) của Gene
Kamar], chưa
kể là những lời “mạc khải” của Thiên Chúa về vũ trụ, nhân sinh, đã
chứng tỏ là hoàn toàn sai lầm trước những sự kiện khoa học bất khả
phủ bác ngày nay.
Chắc có độc
giả không thể tin được như vậy. Xin hãy mở cuốn Thánh Kinh ra và
đọc với một đầu óc chưa bị nhiễm độc, đọc từ đầu đến cuối, đừng bỏ
sót phần nào. Đọc xong sẽ thấy rằng tất cả những chuyện không nên
đọc như trên đều nằm trong Thánh Kinh. Nếu ngại công tìm kiếm những
điều trên, có đầy trong Thánh Kinh,
tôi
xin giới thiệu một số tác phẩm trong đó các tác giả đã trích dẫn sẵn
những câu, những đoạn trong Thánh Kinh mà lẽ dĩ nhiên các tín đồ Ki
Tô Giáo không bao giờ được nghe giảng trong nhà thờ:
- “Cuốn
Thánh Kinh Thuộc Loại Dâm Ô: Một Nghiên Cứu Bất Kính Về Tình Dục
Trong Thánh Kinh”
[The X-Rated Bible:
An Irreverent Survey of Sex in the Scripture, AA Press, Austin,
Texas, 1989] của Ben Edward Akerley:
cuốn sách dày hơn
400 trang, liệt kê những chuyện tình dục dâm ô, loạn luân trong
Thánh Kinh.
- “Tất
Cả Những Chuyện Tục Tĩu Trong Thánh Kinh”
[All
The Obscenities in the Bible, Kas-mark Pub., MN, 1995] của Kasmar
Gene: cuốn sách dày hơn 500
trang, liệt kê tất cả những chuyện tục tĩu, tàn bạo, giết người,
loạn luân v.v... (Human sacrifice, murder and violence, hatred, sex,
incest, child cruelty etc..)
trong
Thánh Kinh.
- “Sách
Chỉ Nam Về Thánh Kinh”
[The Bible Handbook, AA Press,
Ausrin, Texas, 1986]
của W. P. Ball,
G.W.Foote, John Bowden, Richard M. Smith ...:
Liệt kê những mâu thuẫn
(contradictions), vô nghĩa (absurdities), bạo tàn (atrocities)
v..v.. trong Thánh Kinh.
- “Sách
Hướng Dẫn Đọc Thánh Kinh Của Người Thấy Lại Chúa Nhưng Hoài Nghi”
[The
Born Again Skeptic’s Guide To The Bible, Freedom From Religion
Foundation, Wisconsin, 1979] của Bà Ruth Hurmence Green:
Bình luận những
chuyện tàn bạo, dâm ô, kỳ thị phái nữ trong Thánh Kinh.
- “Một
Trăm Điều Mâu Thuẫn Trong Thánh Kinh”
[One
Hundred Contradictions in the Bible, The Truth Seeker Company, New
York, 1922]
của Marshall J. Gauvin:
Liệt kê 100
điều mâu thuẫn trong Thánh Kinh.
- “Lột
mặt nạ Thánh Kinh”
[The Bible Unmasked, The Freethought Press Association, New York,
1941] của Joseph Lewis:
đưa ra những sai
lầm trong Thánh Kinh.
- “Thẩm
Vấn Ki Tô Giáo”
[Christianity Cross-Examined,
Arbitrator Press, New York, 1941] của William Floyd:
Phân tích từng quyển một trong Thánh
Kinh.
- “Ki
Tô Giáo Và Loạn Luân”
[Christianity and Incest, Fortress
Press, MN, 1992] của Annie Imbens & Ineke Jonker:
Viết về Ki Tô Giáo và vấn đề loạn
luân, những sự kiện về loạn luân và kỳ thị phái nữ bắt nguồn từ
Thánh Kinh.
Xin nhớ
rằng, những cuốn sách khảo cứu về Thánh Kinh như trên đã được phổ
biến rộng rãi trên đất Mỹ, và Ca-tô Giáo cũng như Tin Lành, dù có
nhiều quyền thế và tiền bạc, cũng không có cách nào dẹp bỏ những
cuốn sách trên, hay đối thoại để phản bác, vì tất cả đều là sự
thật. Ông Mục sư Nguyễn Quang Minh khoe rằng ông ta chỉ dùng khoa
học để giải thích Thánh Kinh. Vậy xin mời ông hãy dùng khoa học để
giải thích nội dung Thánh Kinh trong các tác phẩm nghiên cứu Thánh
Kinh vừa nêu trên. Ông dùng khoa học để giải thích thế nào về 2
chương sáng thế mâu thuẫn nhau. Khoa học trong Thánh Kinh phải
chăng là những chuyện như đi trên nước, chết đi rồi sống lại bay lên
trời, sinh 7 đứa con mà vẫn còn đồng trinh, hay Chúa tạo ra vũ trụ
từ hư vô cách đây trên dưới 6000 năm trong khi khoa học đã chứng
minh là tuổi của vũ trụ vào khoảng 13.7 tỷ năm v.v…
Nói về khoa
học Thánh Kinh thì Thần học Ki Tô Giáo nói chung có một bất đẳng
thức toán học thần kỳ như sau mà tất cả các tín đồ Ki Tô Giáo đều
tin là đúng. [Tôi lấy bất đẳng thức này trên một trang nhà của các
bạn trẻ, xin tạm giữ bí mật về xuất xứ]
5 + 2 >
5000 + 12
“5 cộng 2” thì
lớn hơn là “5000 cộng 12”
Chắc tiến sĩ
thần học và khoa học gia Thánh Kinh Nguyễn Quang Minh phải hiểu xuất
xứ từ đâu mà có bất đẳng thức toán học thần kỳ này.
Với nội dung
cuốn Thánh Kinh như trên nên
Khoa học gia Ira Cardiff đã đưa ra một nhận xét rất chính xác như
sau:
“Hầu
như không có ai thực sự đọc cuốn Thánh kinh. Cá nhân mà tôi nói đến
ở trên
(một tín đồ
thông thường)
chắc chắn là có một cuốn Thánh kinh, có thể là cuốn sách duy nhất mà
họ có, nhưng họ không bao giờ đọc nó - đừng nói là đọc cả cuốn.
Nếu một người thông minh đọc cả cuốn Thánh kinh với một óc phê
phán thì chắc chắn họ sẽ vứt bỏ nó đi."
(Virtually no one really reads the Bible. The above mentioned
individual doubtless has a Bible, perhaps the only book he owns, but
he never reads it - much less reads all of it.
If an
intelligent man should critically read it all, he would certainly
reject it.)
Tại sao lại
phải vứt bỏ nó đi? Vì không những Thánh Kinh phản khoa học mà Ruth
Hurmence Green, một phụ nữ đã trưởng thành trong một gia đình Ki-tô
và trong nền giáo dục Ki-tô trong mấy chục năm đã trả lời thay cho
chúng ta trong cuốn The Book of Ruth, Freedom From Religion
Foundation, Wisconsin, 1982, trg. 59-60, sau khi bà ta đọc kỹ cuốn
Kinh Thánh, như sau: (Link:
http://en.wikipedia.org/wiki/Ruth_Hurmence_Green )
"Không có cuốn sách nào mà trong đó mạng sống con người, thật ra là
mọi mạng sống, lại rẻ rúng như vậy. Thiên Chúa ác ôn trong Cựu Ước
ra lệnh cho dân Do Thái giết, cưỡng hiếp, và tra tấn không thương
sót toàn thể dân chúng nhiều quốc gia, "trẻ thơ và sơ sinh, thiếu
niên và trinh nữ, và người già cả."..
Không có một trang sách nào trong Kinh Thánh mà không làm tôi bất
bình về một phương diện nào đó. Thật ra, sau mỗi lần tìm hiểu Thánh
Kinh tôi lại muốn đi tắm rửa sạch sẽ với xà bông "lye" của bà nội.
Và khi tôi thấy Kinh Thánh coi thường phụ nữ thường là tôi muốn
quẳng nó ra cuối phòng. Tôi nguyện không bao giờ còn cầm cuốn
Thánh Kinh một cách lộ liễu trên tay ở nơi công cộng. Thomas
Paine, đấng cứu rỗi thực sự của thế giới, đã tố cáo cuốn Thánh
Kinh thay tôi: "Tôi thành thật ghê tởm nó như là tôi ghê tởm mọi sự
độc ác."...
Nếu luật kiểm duyệt được thi hành một cách chặt chẽ, cuốn Kinh Thánh
sẽ phải bán dấu diếm dưới quầy hàng"
(There is no
other book in which human life, all life in fact, is so cheap. The
fiendish Lord of the Old Testament orders the Jews to kill, rape,
and torture without pity entire nations, "infant and suckling, young
man and virgin, and the man with gray hair."
...There wansn't one page of this book
that didn't offend me in some way. In fact, after a session of
searching the scriptures, I always wanted to take a bath with
Grandma's lye soap. And when I encountered the Bible's disdain for
women, I very often almost pitched the good book across the room. I
vowed never to be seen in public with an unconcealed Bible in my
hands. Thomas Paine, the true savior of the world, denounced the
Bible for me: "I sincerely detest it as I detest everything that is
cruel."...
Strict
censorship would mean that the Bible would have to be sold from
under the counter.)
Các nhà Thần học Ki Tô Giáo, nhất là
Tin Lành, thường giảng những đoạn chọn lọc trong Thánh Kinh và dạy
tín đồ Thánh Kinh là những lời mạc khải của Gót nên không thể sai
lầm. Nhưng, kết quả nghiên cứu về cuốn Thánh Kinh trong vòng 200
năm gần đây của các học giả Tây phương đã đi đến kết luận:
“Các học
giả Âu Châu đã phân tích Thánh Kinh kỹ hơn bao giờ hết, và kết luận
của họ là: Thánh Kinh không phải là cuốn sách do Thiên Chúa
mạc khải mà viết ra, như các Ki Tô hữu đã thường tin từ lâu,
do đó không thể sai lầm. Thật ra, đó là, một hợp tuyển lộn xộn
những huyền thoại cổ xưa, truyền thuyết, lịch sử, luật lệ, triết lý,
bài giảng đạo, thi ca, chuyện giả tưởng, và một số ngụy tạo rất hiển
nhiên.”
(European
scholars were scrutinizing the Bible more closely than ever before.
They had concluded that the Bible was not, as Christians had long
believed, a book dictated by God and therefore infallibly true. It
was, instead, a disorderly anthology of ancient myths, legends,
history, law, philosophy, sermons, poems, fiction, and some outright
forgeries.).
Và Giám mục Tin Lành John Shelby Spong
đã khai sáng thêm vấn đề “mạc khải” qua đoạn sau đây:
“Thánh Kinh không phải là lời mạc
khải của Thượng đế.. Nó chưa từng là như vậy bao giờ! Các sách Phúc
Âm không phải là những tác phẩm không có sai lầm, khải thị bởi Thiên
Chúa. Chúng được viết ra bởi những cộng đồng có đức tin, và chúng
biểu thị ngay cả những thiên kiến của các cộng đồng đó. Trong các
sách Phúc Âm không phải là không có những mâu thuẫn nội tại đáng kể
hay những quan niệm đạo đức và trí thức làm cho chúng ta ngượng
ngùng, xấu hổ.”
(John Shelby Spong, Why
Christianity Must Change Or Die, p. 72: The Bible is not the
word of God... It never has been! The Gospels are not inerrant
works, divinely authored. They were written by communities of
faith, and they express even the biases of the communities. The
Gospels are not without significant internal contradictions or
embarrassing moral and intellectual concepts.)
Vậy nếu Thánh Kinh không phải là những
lời mạc khải của Thiên Chúa thì tất nhiên đó chỉ là sản phẩm của một
số người Do Thái trong thời bán khai. Trong thời đó, sự hiểu biết
về vũ trụ nhân sinh của những người viết Thánh Kinh rất thô sơ và
đượm nhiều điều mê tín hoang đường.
Ngày nay, các con chiên mù mờ,
không đọc Thánh Kinh, đã theo sách lược ngụy biện của Giáo hội,
không dám nhắc đến nội dung man rợ trong Cựu Ước nên đặt nhẹ, lờ đi
Cựu Ước, và chỉ nhắc đến Tân Ước, đến bốn Phúc Âm, và bịp bợm nói
láo là Tân Ước mới chính là “Tin mừng Phúc âm” của Giê-su mà con
người cần. Tân Ước thì hoàn toàn đạo đức, không có một tì vết nào
trên những trang Tân Ước. Nhưng không có Cựu Ước thì làm gì có Tân
Ước. Không có Cựu Ước thì vai trò “cứu rỗi” của Giê-su là một điều
bịp vĩ đại để lừa dối những đầu óc yếu kém. Để quảng cáo cho
Giê-su, các tín đồ vẫn tiếp tục khoác cho Giê-su những thuộc tính
không hề có như: "Giê-su đến để mang một tin vui, tin vui tình
thương, tin vui tự do...", “Giê-su yêu bạn”, “Giê-su mang đến Tin
Mừng Phúc Âm”, Giê-su là “Chúa Trời”, là “Ông Hoàng Của Hòa Bình”,
là “Ánh Sáng Của Nhân Loại” v..v…
Thế NHƯNG, một chữ NHƯNG rất
đậm nét, trước những lời ca tụng Giê-su như trên, chúng ta lại đọc
được những nhận định về Giê-su như sau:
Giám mục John Shelby Spong, sau khi
nghiên cứu Tân ước, đã đưa ra một nhận định về Giê-su như sau:
Có những đoạn trong bốn Phúc Âm
mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù,
và ngay cả đạo đức giả.
(John Shelby Spong, Rescuing The
Bible From Fundamentalism, p. 21: There are passages in the
Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive,
and even hypocritical).
Và Jim Walker cũng viết trên
Internet trong bài Chúng Ta Có Nên Kính Ngưỡng Giê-su Không?
(Should We Admire Jesus?) :
Nhiều
tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết đến là nhiều đoạn trong các Phúc Âm
trong Tân Ước, Giê-su được mô tả như là một con người đầy hận thù,
xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả.
[Unbeknownst to many Christians, many
times the Gospels of the New Testament portray Jesus as vengeful,
demeaning, intolerant, and hypocritical.]
Và Russell Shorto, một học giả Ki Tô
Giáo, đã tổng hợp những tác phẩm nghiên cứu về Giê-su trong vòng 200
năm nay, và kết luận như sau trong cuốn Sự Thật Của Phúc Âm
(Gospel Truth):
Các học giả đã biết rõ sự thật
từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một
người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều
này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này
vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng
xúc động dữ dội trong đám tín đồ.
Do đó, những người còn sống trong bóng
tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
[Scholars have known the truth – that
Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they
have taught it to generations of priests and ministers, who do not
pass it along to their flocks because they fear a backlash of
anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.]
Nhưng ảo tưởng của Giê-su là ảo tưởng
như thế nào? Ngày nay giới học giả nghiên cứu Thánh Kinh đã biết rõ:
Đó chính là Tâm Lý Bệnh Hoạn về Những Ảo Tưởng Hão Huyền về
Quyền Lực hay Toàn Năng [Megalomania = A psycho-pathological
condition in which fantasies of wealth, power or omnipotence
predominate] và cái tâm lý bệnh hoạn này đã tạo thành tâm điểm
mà mọi hành động của Giê-su đều xoay quanh. Chính cái ảo tưởng
này đã khiến cho Giê-su tưởng mình là“con duy nhất của Gót, Gót
của Do Thái”, “có nhiệm vụ cứu người Do Thái, chỉ người Do Thái
mà thôi, ra khỏi tội lỗi để làm hòa với ông cha tưởng tượng của
Giê-su vì ngày tận thế đã gần kề”. Đó là những gì Tân Ước
đã viết rất rõ cho những ai đọc kỹ Tân Ước. Nhưng về sau,
để truyền bá, Ki Tô Giáo đã kéo dãn (stretch) những điều hoang tưởng
của Giê-su ra thành “khả năng chuộc tội cho nhân loại”, “đấng
cứu thế”, “sẽ trở lại trần phán xét thiên hạ”” v…v…, mà ngày
nay đã trở nên những điều hoang đường nhảm nhí mà chính những bậc
lãnh đạo trong Ki Tô Giáo, Ca-tô cũng như Tin Lành, đều bác bỏ. [Xin
đọc Giám mục John Shelby Spong, Linh mục James Kavanaugh, Mục sư
Ernie Bringas, Nhà thần học Ca-tô Uta Ranke-Heinemann và nhiều học
giả khác].
Thật là khó hiểu đối với người ngoại
đạo như tôi. Vì Giê-su là một nhân vật được cả tỷ người trên thế
giới tôn thờ. Vậy nếu những nhận định trên về Giê-su là đúng thì
chẳng lẽ cả tỷ người đó ngu hay sao mà lại đi tôn thờ “một
người thường, sống với một ảo tưởng, và bản chất là
một con người đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả.”
Chẳng biết họ có ngu hay không, nhưng chắc chắn là, với sự
hiểu biết ngày nay của đa số người dân trên thế giới thì Giê-su
không phải là Chúa Trời, không yêu ai, không phải là “ánh sáng của
nhân loại”, không phải là “con đường, sự sống”, và tuyệt đối không
phải là “ông hoàng của hòa bình”.
Thật vậy,
trong
cuốn “Ingersoll: The Magnificent” do Joseph Lewis xuất bản,
Robert G. Ingersoll, một nhà tư tưởng tự do nổi tiếng nhất của Mỹ
vào cuối thế kỷ 19, đã viết, trang 119:
“Nhân danh chúa Ki Tô, hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và
giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ. Nhân danh hắn những tư
tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi như là những kẻ tội phạm, và những
tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của những người thông thái, giỏi
nhất. Nhân danh hắn, sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng cả
ngàn năm. Trong Phúc
Âm
của hắn chúng ta thấy cái tín lý về sự đau khổ vĩnh viễn
(đày hỏa ngục. TCN),
và những lời của hắn đã thêm vào sự chết sự kinh khủng vô tận. Phúc
Âm
của hắn chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi sự lương thiện
trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên cõi đời là con đường dẫn
xuống địa ngục, tố cáo tình yêu thương như là thấp hèn và như súc
vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt
tự do của con người.
Nhân loại sẽ tốt hơn
nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết ra – chúa Ki Tô theo quan
niệm thần học chưa từng được sinh ra.”
(In Christ name millions of men and
women have been imprisoned, tortured and killed. In his name
millions and millions have been enslaved. In his name the thinkers,
the investigators, have been branded criminals, and his followers
have shed the blood of the wisest and the best. In his name the
progress of many nations was stayed for a thousand years. In his
gospel was found the dogma of eternal pain, and his words added an
infinite horror to death. His gospel filled the world with hatred
and revenge, made intellectual honesty a crime,, made happiness here
the road to hell, denounced love as base and bestial, canonized
credulity, crowned bigotry and destroyed the liberty of man. It
would be far better had the New Testament never been written – far
better had the theological Christ never lived.)
Và ngày nay, nhiều học giả đã nghi ngờ
Giê-su chỉ là một nhân vật không thực, do nền thần học Ki Tô Giáo
dựng ra trong một, hai thế kỷ đầu. Lý do, không có một nhà viết sử
Do Thái hay dân gian nào sống cùng thời với Giê-su nói đến Giê-su
như chúng ta có thể đọc trong tài liệu sau đây,
http://www.afgen.com/christ_killers.html :
Những
tác giả Do Thái và dân gian, sống cùng thời với Giê-su hay trong thế
kỷ đầu, đã để lại cho chúng ta những tác phẩm đủ để chứa một thư
viện nhỏ. Tuy nhiên không có một người nào nhắc đến Giê-su.
Những tác giả này là: Josephus, Seneca, Philo-Judaeus, Pliny the
Elder, Seutonius, Juvenal, Martial, Arrian, Petronius, Dion Pruseus,
Paterculus, Appian, Phlegon, Theon of Smyrna, Persius, Plutarch,
Tacitus, Statius, Justus of Tiberius, Apollonius, Pliny the Younger,
Lucanus, Quintilian, Epictetus, Silius Italicus, Ptolemy,
Hermogones, Valerius Maximus, Pompon Mela, Quintius Curtius, Lucian,
Pausanias, Favorinus, Valerius Flaccus, Florus Lucius, Phaedrus,
Damis, Aulus Gellius, Columella, Dio Chrysostom, Lysias and Appion
of Alexandria.
Không có một tác giả nào nói đến
tên Giê-su, hoặc đến những điều mà người ta cho là phép lạ của
Giê-su làm, hoặc vai trò lãnh đạo chống La Mã mà Giê-su có thể có,
hoặc khi ông ta chết thì trời đất tối sầm, có động đất, và những xác
chết đội mồ sống lại. Chúng ta nghĩ rằng phải có người nào đó biết
đến những chuyện này. Những tác giả này viết tác phẩm của họ trong
thời và ở nơi mà Giê-su làm những phép lạ và chết thảm. Và ngoại
trừ một vài điều thêm thắt của Ki Tô Giáo đã gài vào Thánh Kinh một
cách vụng về một hai thế kỷ sau, điều mà các học giả biết rõ chỉ là
thêm thắt, Tất cả những tác giả này đều không nói gì về Giê-su.
Làm sao lại có thể như vậy?
(The following Jewish and pagan
writers, living at the time of Jesus' life or during the first
century, handed down to us enough of their writings to fill a small
library. Yet not one of them mentioned Jesus. These writers are:
Josephus, Seneca, Philo-Judaeus, Pliny the Elder, Seutonius,
Juvenal, Martial, Arrian, Petronius, Dion Pruseus, Paterculus,
Appian, Phlegon, Theon of Smyrna, Persius, Plutarch, Tacitus,
Statius, Justus of Tiberius, Apollonius, Pliny the Younger, Lucanus,
Quintilian, Epictetus, Silius Italicus, Ptolemy, Hermogones,
Valerius Maximus, Pompon Mela, Quintius Curtius, Lucian, Pausanias,
Favorinus, Valerius Flaccus, Florus Lucius, Phaedrus, Damis, Aulus
Gellius, Columella, Dio Chrysostom, Lysias and Appion of Alexandria.
Not one of these writers mentioned
Jesus, or his supposed miracles, or his possible
insurrection-leading; or the fact that when he died the sun stopped
shining at midday, there were earthquakes, and graves opened up
allowing corpses to emerge from them alive. You'd think someone
would have noticed. These writers were writing about the time and
place where Jesus supposedly worked his miracles and died so
dramatically. And except for a few obvious Christian interpolations
inserted clumsily a couple of centuries later, and universally
acknowledged by scholars to be interpolations, these writers are
silent about Jesus. How can this be? )
Và một bản tin của Reuters ở Rô-ma cho
biết:
Một
tòa án ở Ý phải giải quyết vấn nạn về Giê-su – để quyết định xem
Giáo hội Ca-tô Rô-ma có vi phạm luật pháp Ý không khi dạy rằng
Giê-su có thực cách đây 2000 năm.
Vụ đối đầu giữa hai người vào
khoảng 70 tuổi, cùng cư ngụ trong một thị trấn ở giữa nước Ý và cùng
học ở một trường Dòng khi còn là vị thành niên.
Bị cáo là Enrico Righi, sau trở
thành một linh mục viết cho tờ báo của giáo xứ. Người thưa kiện,
Luigi Cascioli, trở thành người vô thần, sau nhiều năm tranh đấu đã
được tòa nhận xử vụ án cuối tháng này.
Cascioli nói với Reuters: “Tôi
thưa kiện vụ này vì tôi tôi muốn giáng một đòn tối hậu lên Giáo hội
Ca-tô, một tổ chức đem đến sự tối tăm và thoái hóa.”
Cascioli nói Righi, và do đó Giáo
hội Ca-tô, vi phạm hai luật của Ý. Luật thứ nhất là "Abuso di
Credulita Popolare" (Lạm dụng sự cả tin của quần chúng), Luật này
bảo vệ người dân để họ không bị lừa dối hay lừa bịp. Luật thứ hai
là "Sostituzione di Persona" (đóng vai người khác).
Cascioli cho rằng, Giáo hội đã dựng
Chúa Ki-tô lên theo nhân vật John ở Gamala, một người Do Thái chiến
đấu chống quân La Mã trong thế kỷ đầu.
Một tòa án ở Viterbo sẽ nghe
Righi, chưa chính thức bị buộc tội, vào phiên tòa sơ khởi ngày 27
tháng 1, để quyết định xem vụ án có đủ lý do để tiếp tục không.
Cascioli nói: “Trong cuốn “Truyện
bịa đặt về Chúa Ki-tô”, tôi đưa ra bằng chứng Giê-su không phải là
một nhân vật lịch sử. Nay ông ta (Righi) phải bác bỏ điều đó bằng
cách chứng minh là Chúa Ki-tô là có thật.”
(By Phil Stewart Wed Jan 4, 10:28
PM ET
ROME (Reuters) - Forget the U.S.
debate over intelligent design versus evolution.
An Italian court is tackling Jesus --
and whether the Roman Catholic Church may be breaking the law by
teaching that he existed 2,000 years ago.
The case pits against each other two
men in their 70s, who are from the same central Italian town and
even went to the same seminary school in their teenage years.
The defendant, Enrico Righi, went on
to become a priest writing for the parish newspaper. The plaintiff,
Luigi Cascioli, became a vocal atheist who, after years of legal
wrangling, is set to get his day in court later this month.
"I started this lawsuit because I
wanted to deal the final blow against the Church, the bearer of
obscurantism and regression," Cascioli told Reuters.
Cascioli says Righi, and by extension
the whole Church, broke two Italian laws. The first is "Abuso di
Credulita Popolare" (Abuse of Popular Belief) meant to protect
people against being swindled or conned. The second crime, he says,
is "Sostituzione di Persona", or impersonation.
"The Church constructed Christ upon
the personality of John of Gamala," Cascioli claimed, referring to
the 1st century Jew who fought against the Roman army.
A court in Viterbo will hear from
Righi, who has yet to be indicted, at a January 27 preliminary
hearing meant to determine whether the case has enough merit to go
forward.
"In my book, The Fable of Christ, I
present proof Jesus did not exist as a historic figure. He must now
refute this by showing proof of Christ's existence," Cascioli said.)
Thật là lạ lùng, trong khi Âu Châu,
cái nôi của Ki Tô Giáo trước đây, nay sống như là không cần biết
đến Gót mà cũng chẳng cần đế sự cứu rỗi của Giê-su (lời than phiền
của Giáo hoàng Benedict XVI) thì các con chiên Việt Nam vẫn cứ mê
mẩn về hai cha con của một Gót của Do Thái, hi vọng những nhân vật
vô hình đó có thể cho họ một cuộc sống đời đời, lẽ dĩ nhiên là sau
khi chết. Có phải thật là tội nghiệp không?
Một Vài Nhận Định Về Thần
Học Ki Tô Giáo.
Vì thực chất nền Thần học Ki Tô
Giáo là một môn học không có chủ đề, nên sau đây chúng ta hãy điểm
qua một số nhận định của một số bậc thức giả Tây phương về Thần học
Ki Tô Giáo.
G. C. Lichtenberg: Những nhà thần
học luôn luôn toan tính biến cuốn Kinh Thánh thành một cuốn sách
không cần đến những hiểu biết thông thường. (Theologians always
try to turn the Bible into a book without common sense. )
Henry Ward Beecher:
Thần học là một khoa học về tâm trí áp
dụng cho Gót.
Theology is a science of mind applied
to God.
Robert G. Ingersoll: Hãy để thần
học ra ngoài tôn giáo. Thần học luôn luôn đưa những người tồi tệ
nhất lên thiên đàng, những người tốt nhất xuống hỏa ngục.(Let
us put theology out of religion. Theology has always sent the worst
to heaven, the best to hell.) Hi vọng của khoa học là sự hoàn mỹ
của loài người, hi vọng của thần học là cứu rỗi một số ít người và
sự đầy đọa hầu hết mọi người. (The hope of science is the
perfection of the human race. The hope of theology
is the salvation of a fewand the damnation of almost everybody.)
H.L. Mencken: Thần học: một nỗ
lực để giải thích cái không thể biết được bằng những lời không đáng
để biết (Theology: an effort to explain the unknowable by
putting it into terms of the not worth knowing.)
Thần học Ki Tô Giáo không chỉ chống
đối khoa học mà còn chống đối mọi cách suy nghĩ hợp lý khác.(“Christian
theology is not only opposed to the scientific spirit; it is opposed
to every other form of rational thinking”)
Bertrand Russell: Bạo hành được
dùng trong thần học, không trong số học.(Persecution is used in
theology, not in arithmetic.)
Marquis de Sade: Xét về những khái
niệm đưa ra bởi các nhà thần học, chúng ta phải kết luận là Gót sáng
tạo ra hầu hết mọi người để chứa họ đầy trong Hỏa ngục. (To
judge from the notions expounded by theologians, one must conclude
that God created most men simply with a view to crowding hell.)
Alfred North Whitehead (1861-1947), một nhà Toán học và Triết gia Mỹ
cũng đưa ra nhận định:
Tôi coi nền thần học Ki Tô Giáo như là một trong những tai họa lớn
của nhân loại.
(I consider Christian theology to be one of the great disasters of
the human race)..
David Brooks: Giải thích cái không
biết bằng cái biết là một phương thức hợp lô-gíc; giải thích cái
biết bằng cái không biết là một dạng điên rồ của thần học (To
explain the unknown by the known is a logical procedure; to explain
the known by the unknown is a form of theological lunacy.)
Vài Lời Kết.
Vì Thần học là môn học không có chủ đề, và vì Thần học chỉ là
một môn học đầy tính chất hoang tưởng, viển vông và nhảm nhí,
ít ra là đối với giới hiểu biết ngày nay, cho nên John E. Remsburg
đã viết trong cuốn
False Claims,
p. 3:
Trong những giới thông minh ở Âu châu và Mỹ châu, nền Thần học Ki Tô
trên thực tế đã chết.
(Among the intelligent classes of Europe and America, Christian
theology is practically dead.)
Những người đầu óc thấp kém thường tin
vào những lời truyền đạo đã lỗi thời của các nhà thần học. Nhưng
thực ra, các thần học gia có thể nói được những gì để mở mang đầu óc
con người? Emmett F. Fields nhận định trong một bài thuyết trình
về thần học gia:
Nhà Thần học
là một con cú, đậu trên một cành cây đã chết của cái cây kiến thức
nhân loại, và rúc lên cùng những tiếng rúc cũ kỹ đã từng rúc lên
trong nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm, nhưng hắn chưa bao giờ phát ra
một tiếng kêu rúc nào cho sự tiến bộ.
(The Theologian is
an owl, sitting on an old dead branch in the tree of human
knowledge, and hooting the same old hoots that have been hooted for
hundreds and thousands of years, but he has never given a hoot for
progress.)
Mục sư Nguyễn Quang Minh cũng như
nhiều người truyền đạo trên TV, cho rằng mình đã được Thiên Chúa
khải thị cho về Thánh Kinh, và nhiều điều khác, thường là để moi
tiền tín đồ, nghĩa là Thiên Chúa đích thân nói với ông Nguyễn Quang
Minh. Thomas Paine đã nhận định một cách chính xác: Thiên Chúa
khải thị cho ai thì chỉ có người đó biết, không có lý do gì để tin
là chuyện khải thị đó có thật. Thomas Szasz đã cho chuyện Thiên
Chúa nói chuyện với người là do ảo tưởng của con người đầu óc bất
bình thường:
Thomas Szasz:
“Nếu anh nói chuyện với Gót, anh đang cầu nguyện”; nếu Gót nói
với anh, anh bị bệnh tâm thần phân liệt” (If you talk to God,
you are praying; if God talks to you, you have schizophrenia.)
Nhưng thật ra thì Thiên Chúa giúp được
gì cho con người ngoài chuyện làm cái bung xung để cho những kẻ xảo
quyệt tôn giáo mê hoặc đầu óc con người.
Để
thay cho phần kết luận, tôi xin trích dẫn một vài đoạn của Robert G.
Ingersoll, nhà tư tưởng tự do vĩ đại nhất trong lịch sử nước Mỹ mà
cho tới ngày nay, chưa có ai sánh kịp.
“Những Thiên chúa thì có ích gì cho con người?
Không phải là
câu trả lời khi cho rằng có một thiên chúa nào đó tạo nên thế giới,
lập ra một số luật, rồi quay đi làm việc khác, để cho những con cái
của mình yếu ớt, ngu dốt và không được giúp đỡ, vật lộn với đời
sống. Không phải là một giải pháp khi tuyên bố rằng cái ông thiên
chúa này sẽ mang hạnh phúc đến cho một số ít, hoặc ngay cả cho tất
cả những thuộc hạ của ông ta. trong một thế giới nào khác...
Thế giới có đầy
những sự bất toàn.
Phải chăng là
một thiên chúa vô cùng thông thái, thánh thiện và toàn năng, có ý
định sản xuất ra con người, lại bắt đầu từ những dạng sống thấp
nhất; với những cơ thể sinh vật đơn giản nhất mà người ta có thể
tưởng tượng được, và rồi trong những thời kỳ lâu dài không thể đo
được, tiến triển chậm đến nỗi không thể nhận ra được, từ lúc ban đầu
thô thiển cho đến khi tiến hóa thành con người?
[Tác giả đã mô tả phần nào nguồn gốc của con người theo quá trình
tiến hóa. TCN]
Phải chăng vô số
những thời đại đã bị phí phạm để sản xuất ra những dạng sống nguy
hiểm, sau đó lại bỏ đi?
[Tác giả muốn nói
nhiều chủng loại sinh vật đã được sinh ra rồi lại bị tiêu diệt, biến
mất trên thế gian, dựa trên những sự kiện trong môn cổ sinh vật học.
TCN]
Có thể nào sự
thông minh của con người thấy được chút ít khôn ngoan nào
(của Thiên chúa) trong việc phủ đầy trái đất với những con vật
gớm ghiếc, chỉ sống trên sự đau đớn và những cảm xúc đau đớn của
những con vật khác? Ai là người có thể ghi ơn lòng nhân từ (của
Thiên chúa) đã dựng lên một thế giới mà súc vật ăn thịt lẫn nhau (có
con người trong này), mỗi một cái miệng là một lò sát sinh, mỗi một
dạ dầy là một nấm mồ? Có thể thấy được chăng sự thông minh và lòng
thương yêu vô cùng (của Thiên chúa)
trong sự tàn sát ở khắp nơi và không
bao giờ chấm dứt?
Chúng ta nghĩ thế nào về một người cha, muốn ban cho con cái mình
một nông trại, nhưng trước khi trao quyền sở hữu nông trại cho
chúng, ông ta đã trồng trên đó hàng ngàn loại cây độc địa; chất
trong đó những con thú dữ tợn, những loài bò sát độc hại; đặt một số
sình lầy ở bên để nuôi dưỡng bệnh sốt rét; xếp đặt vật chất sao cho
thỉnh thoảng đất lại mở ra để nuốt chửng một số con cái thân yêu của
ông ta; và ngoài ra, còn lập lên những núi lửa gần bên để bất cứ lúc
nào cũng có thể làm con
cái của ông ta ngập trong những dòng sông lửa? Giả thứ ông cha này
đã bỏ mặc không nói cho các con mình biết là loại cây nào độc; là
những rắn rết thì độc địa; không nói gì về động đất, giữ núi lửa là
một điều bí mật; chúng ta phải gọi ông ta là một thiên thần hay là
một tên ác ôn?
Và
đấy chính là những gì mà Thiên chúa (của Ki-tô giáo)
đã làm.
Và
chúng ta được kêu gọi để thờ phụng (và hết lòng, hết sức, hết linh
hồn thương yêu. CTN) một Thiên chúa như vậy; phải quỳ xuống để mà ca
tụng ông ta là tốt, là nhân từ, là công chính, là đầy lòng thương
yêu. Chúng ta được đòi hỏi là phải dập tắt tình cảm cao quý của
chúng ta, phải trà đạp dưới chân tất cả những điều ngọt ngào từ ái
trong tim của chúng ta. Vì chúng ta từ chối không tự phủ nhận – từ
chối không trở thành những người nói láo – chúng ta bị tố cáo, ghét
bỏ, vu khống, và khai trừ trong đời sống này, và cũng cùng cái ông
Thiên chúa này đe dọa sẽ hành hạ chúng ta trong ngọn lửa vĩnh hằng
lúc chết để cho ông ta hung hăng vồ lấy những linh hồn của chúng ta.
Cứ
để cho họ (những người Ki-tô)
ghét, cứ để cho Thiên chúa đe dọa –
Chúng ta sẽ giáo dục họ, và chúng ta sẽ khinh miệt và coi thường bất
chấp Thiên chúa.
Khi mà con người còn thờ phụng một tên
bạo chúa ở trên trời thì trên trái đất này chẳng còn mấy tự do.
Chúng ta không
muốn được tha thứ, nhưng chúng ta muốn những người Ki-tô Giáo phải
xử sự làm sao để chúng ta không phải tha thứ cho họ.
[Ki-tô Giáo, Ca-tô cũng như Tin Lành, đều đã xưng thú tội lỗi đối
với nhân loại và xin được tha thứ. TCN]
Những nhà thần học đã chết không biết
gì hơn những nhà thần học còn đang sống. Không có gì cần phải nói
thêm nữa. Về thế giới này chúng ta chỉ biết chút ít. – về thế giới
khác, chúng ta không biết gì hết.
Những thượng phụ của chúng ta lý luận bằng những hình cụ tra tấn. Họ
tin vào lô-gic của những ngọn lửa và lưỡi gươm. Họ ghét lý trí. Họ
khinh khi tư tưởng – Họ sợ tự do.
Sống cho Thượng
đế đã làm cho thế giới ngập đầy máu lửa. Có một lối sống khác. Hãy
sống cho con người, cho thế giới này. Hãy phát triển trí óc và văn
minh hóa tấm lòng. Hãy khẳng định những điều kiện của hạnh phúc và
rồi sống theo đó. Hãy làm tất cả những gì có thể làm được để triệt
hạ sự ngu si, nghèo khổ và tội ác. Hãy cố làm hết sức để phục vụ nhu
cầu chính đáng của thân xác, để thỏa mãn sự đòi hỏi hiểu biết của
trí óc, để khẳng định những bí mật của thiên nhiên.
Hãy
để cho các thiên chúa lo cho nhau. Chúng ta hãy sống cho con người.
Chúng ta hãy nhớ rằng những người tìm kiếm sự thật thiên nhiên chưa
từng bạo hành đồng loại. Những nhà thiên văn học và hóa học chưa
từng rèn những xiềng xích, xây những ngục tù tăm tối. Những nhà địa
chất học chưa từng phát minh ra những hình chụ tra tấn. Những triết
gia chưa từng chứng minh sự thật về những lý thuyết của mình bằng
cách thiêu sống con người. [Chúng ta nên nhớ: Bạo hành đồng
loại, rèn xiềng xích, xây ngục tù tăm tối, phát minh hình cụ tra
tấn, thiêu sống con người... tất cả đều là những sản phẩm đặc thù
của Ki-tô Giáo trong lịch sử các tôn giáo nhân loại. TCN] Những
người vĩ đại không theo đạo, những tư tưởng gia, [là những
người] đã sống cho phúc lợi
của con người.”
(Joseph Lewis, Ingersoll: The Magnificient, pp. 151-153: Of what use
have the gods been to man?
It is no answer to
say that some god created the world, established certain laws, and
then turned his attention to other matters, leaving his children
weak, ignorant and unaided, to fight the battle of life alone. It is
no solution to declare that in some other world this god will render
a few, or even all, his subjects happy...
The world is filled
with imperfections...
Would an infinite
wise, good and powerful god, intending to produce man, commence with
the lowest possible forms of life; with the simplest organisms that
can be imagined, and during immeasurable periods of time, slowly and
almost imperceptibly improve upon the rude beginning, until man was
evolved?
Would countless
ages thus be wasted in the production of awkward forms, afterwards
abandoned?
Can the
intelligence of man discover the least wisdom in covering the earth
with crawling, creeping horrors, that live upon the agonies and
pangs of others?
Who can appreciate
the mercy of so making the world that all animals devour animals; so
that every mouth is a slaughter-house, and every stomach a tomb?
Is it possible to
discover infinite intelligence and love in universal and eternal
carnage?
What would we think
of a father, who should give a farm to his children, and before
giving them possession sholud plant upon it thousands of deadly
srubs and vines; should stock it with ferocious beasts, and
poisonous reptiles; should take pains to put a few swamps in the
neiborhood to breed malaria; should so arrange matters, that the
ground would occasionally open and swallow a few of his darlings,
and besides all this, should establish a few volcanoes in the
immediate vicinity, that might at any moment overwhelm his children
with rivers of fire? Suppose that this father neglected to tell
his children which of the plants were deadly; that the reptiles were
poisonous; failed to say anything about the earthquakes, and kep the
volcano business a profound secret; would we pronounce him angel or
fiend?
And yet this is
exactly what the orthodox god has done...
And we are called
upon to worship such a god; to get upon our knees and tell him that
he is good, that he is merciful, that he is just, that he is love.
We are asked to stifle every noble sentiment of the soul, and to
trample under foot all the sweet charities of the heart. Because we
refuse to stultify ourselves – refuse to become liars – we are
denounced, hated, traduced and ostracized here, and this same god
threatens to torment us in eternal fire the moment death aloows him
to fiercely clutch our naked helpless souls. Let the people hate,
let the god threaten – we will educate them, and we will despise and
defy him...
There can be little
liberty on earth while men worship a tyrant in heaven.
We do not wish to
be forgiven, but we wish Christians to so act that we will not have
to forgive them.
The theologians
dead, knew no more than the theologians now living. More than this
cannot be said. About this world little is known – about another
world, nothing.
Our fathers
reasoned with instruments of torture. They believed in the logic of
fire and sword. They hate reason. They despised thought. They
abhorred liberty...
Living for god has
filled the world with blood and flame.
There
is another way. Let us live for man, for this world. Let us develop
the brain and civilize the heart. Let us ascertain the conditions of
happiness and live in accordance with them. Let us do what we can
for the destruction of ignorance, poverty and crime. Let us do our
best to supply the wants of the body, to satisfy the hunger of the
mind, to ascertain the secrets of nature. Let the gods take care of
themselves. Let us live for man. Let us remember that those who have
sought for the truths of nature have never persecuted their
fellowmen. The astronomers and chemists have forged no chains, built
no dungeons. The geologists have invented no instrument of torture.
The philosophers have not demonstrated the truth of their theories
by burning their neighbors. The great infidels, the thinkers, have
lived for the good of man.)
Một lời cuối:
Tôi nghĩ Mục sư Nguyễn Quang Minh cần phải cảm thấy ngượng khi tự
khoe mình là thần học gia và khoa học gia Kinh Thánh. Biết ngượng
là một bước tiến trên con đường hướng thiện.
Trần
Chung Ngọc
Ngày 6/1/2013
0 nhận xét:
Đăng nhận xét