Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015
Một ý kiến về lịch sử
19:45
Hoàng Phong Nhã
No comments
“…Giải
thích của chúng ta về các biến cố lịch sử cuối cùng vẫn là vì đã có
những cá nhân đã góp phần quyết định làm nên lịch sử. Và khi không thể
giải thích bằng những nhân vật lịch sử thì chúng ta giải thích bằng chữ
''Thời'' và tiếng thở dài…”
Lời giới thiệu: Nhân
sự kiện bộ giáo dục dự định tích hợp môn lịch sử vào môn học mới có tên
là "Công dân với Tổ quốc" và những người thuộc xã hội dân sự yêu cầu bộ
giáo dục dạy lịch sử với thông tin đa chiều, chúng tôi xin đăng lại bài
viết Một Ý Kiến Về Lịch Sử của ông
Nguyễn Gia Kiểng. Những cuộc tranh cãi hiện nay chỉ xoay quanh việc nên
hay không nên tích hợp môn sử, phải giảng dạy môn sử như thế nào mà
không có ai chỉ ra rằng việc cần thiết nhất lúc này là phải xét lại cách
nhìn của chúng ta về lịch sử. Chúng ta phải biết lịch sử là gì, có vai
trò nào và tại sao lịch sử lại xảy ra như thế này thay vì thế khác,
chúng ta có thể tác động lên lịch sử và thay đổi dòng lịch sử được không
v.v. Rất mong nhận được góp ý của các bạn. Thông Luận
*
Cuốn Tổ Quốc Ăn Năn
đã gây thảo luận sôi nổi ngay sau khi ra mắt. Đối với một cuốn sách
chính luận vào thời điểm này, một sự tiếp thu như vậy phải coi là may
mắn. Nhưng điều may mắn hơn là nó đã được đón nhận rất nồng hậu ở trong
nước. Điều mà tác giả của nó không ngờ là những đánh giá thuận lợi đã
rất đông đảo, dĩ nhiên bên cạnh một số ý kiến phản bác. Nhiều ý kiến,
nhất là các ý kiến phản bác, đã tập trung vào phần lịch sử, nhưng vào
một vài nhân vật lịch sử, như Nguyễn Huệ, và vào mức độ chính xác của
những dữ kiện lịch sử đằng nào cũng không bảo đảm là chính xác trong
hoàn cảnh nước ta. Tuy nhiên, vẫn chưa thấy có thảo luận về một cách
nhìn lịch sử, hay, nếu độc giả không phê phán là dùng ngôn ngữ kênh
kiệu, một triết lý về lịch sử, trong khi đó là điều mà cuốn sách chuyên
chở và cũng đáng được thảo luận.
Thế nào là một triết lý về lịch sử?
Một
cách giản dị đó là sự suy nghĩ trong chiều sâu về cách tạo thành của
lịch sử và ý nghĩa của nó đối với cộng đồng mà nó diễn tả theo dòng thời
gian.
Người
Việt Nam nói chung không đặt vấn đề triết lý của lịch sử. Hình như đối
với chúng ta lịch sử chỉ là sự nối tiếp nhau một cách không qui luật của
các biến cố. Mặt khác chúng ta cũng chỉ coi là biến cố lịch sử những
cuộc chiến tranh, những tranh giành quyền lực, những thay đổi chính
quyền. Cho tới một ngày rất gần đây sử Việt Nam và Trung Quốc còn ghi
chép cả những việc làm đôi khi không có tầm quan trọng nào đối với xã
hội của các vua chúa. Đó là vì chúng ta đã chấp nhận từ hàng ngàn năm
trước một triết lý giản đơn phủ nhận lịch sử, triết lý tuần hoàn, còn
gọi là ''Kinh Dịch'', theo đó cả vũ trụ lẫn cuộc sống chỉ xê dịch qua
lại trong một giới hạn nhỏ hẹp. Thịnh rồi lại suy, hết trị rồi đến loạn,
lập rồi lại phế, cũng như cây cỏ ra lá trổ bông mùa xuân rồi tàn đi với
mùa đông để rồi lại hồi sinh trong mùa xuân tới. Với một triết lý như
vậy thì không làm gì có lịch sử đúng nghĩa bởi vì không có thay đổi và
chuyển động, mà chỉ có những giao động vụn vặt tuần hoàn, như khu rừng
thay cây đổi lá nhưng vẫn chỉ là khu rừng. Cuối cùng đâu lại về đó và
lịch sử chỉ là địa lý.
Với
một triết lý như vậy thì vấn đề triết lý của lịch sử không đặt ra. Đó
chỉ là những biến cố tình cờ trong biên độ giới hạn, có thể rất mãnh
liệt lúc xẩy ra đối với người đương thời nhưng không thay đổi gì về lâu
về dài. Những nguyên nhân của các biến cố, nếu có, cũng chỉ là những
nguyên nhân rất gần. Cho nên, kết quả của một cuộc chiến là do sự tài
giỏi của một chủ tướng, khi không phải là mệnh trời, mà mệnh trời thì
con người làm sao hiểu được? Triệu Đà đã chiếm được thành Cổ Loa vì
Triệu Đà giỏi. Nước ta được tự chủ vì quân Nam Hán bị đại bại trên sông
Bạch Đằng do thiên tài quân sự của Ngô Quyền. Nhà Trần đánh bại quân
Nguyên là nhờ Trần Hưng Đạo. Nước ta đuổi được quân Minh là nhờ Lê Lợi.
Tây Sơn diệt được Trịnh-Nguyễn nhờ Nguyễn Huệ. Nguyễn Ánh mấy lần đại
bại suýt mất mạng là vì bản lãnh thua xa Nguyễn Huệ, nhưng vẫn sống sót,
và sau này khôi phục được được nhà Nguyễn, thống nhất đất nước là vì
dầu sao cũng khá hơn anh em và con cháu Nguyễn Huệ, v.v. Và chúng ta nói
chung thoải mái với cách giải thích lịch sử giản dị như thế.
Không
phải là trong suốt dòng lịch sử chúng ta không có lúc hoài nghi về quan
niệm lịch sử giản dị đó. Chúng ta đã có quan niệm về Thời, Vận và Thế.
Chúng ta đã nhận xét là có những người rất tài ba mà thất bại vì thất
thế trong khi có những kẻ chẳng ra gì mà vẫn thành công vì gặp thời.
Thời thế tạo anh hùng. Nhưng chúng ta vẫn chưa ra khỏi Kinh Dịch và vì
thế vẫn chưa thể đạt tới một triết lý về lịch sử. Giải thích của chúng
ta về các biến cố lịch sử cuối cùng vẫn là vì đã có những cá nhân đã góp
phần quyết định làm nên lịch sử. Và khi không thể giải thích bằng những
nhân vật lịch sử thì chúng ta giải thích bằng chữ ''Thời'' và tiếng thở
dài.
Đạt
tới một sự hiểu biết sâu xa về lịch sử không phải là dễ. Người phương
Tây từ thời cổ Hy Lạp đã có những tư tưởng vượt trội, nhưng sự tìm hiểu
nguyên lý của lịch sử đã đến rất chậm. Có thể nói Hegel là người đầu
tiên đưa ra một lý thuyết về lịch sử. Hegel giải thích lịch sử bằng biện
chứng (dialectic). Nhưng biện chứng là gì? Đó là tiếng mà Plato đặt ra
để chỉ cách lý luận của Socrates. Phương pháp của Socrates là liên tục
nêu ra những mâu thuẫn trong lý luận của người đối thoại, bắt họ phải
giải quyết và dần dần đi tới lý luận đúng. Hegel chấp nhận phương pháp
biện chứng nhưng mở rộng hơn hẳn phạm vi ứng dụng. Khác với Socrates,
Hegel không coi mâu thuẫn chỉ là sự thiếu sót của lý luận được nêu ra
với mục đích sửa chữa lý luận để không còn mâu thuẫn; nói cách khác, mâu
thuẫn là điều được nêu ra chỉ để tìm cách loại bỏ. Hegel coi mâu thuẫn
là cốt lõi của tiến hóa. Khác biệt quan trọng hơn nữa là đối với Hegel
biện chứng không phải chỉ là một phương pháp lý luận mà còn là nguyên lý
của mọi sự vật, cả vũ trụ và nhân sinh. Bất cứ một sự kiện nào cũng chỉ
là một ''đề'' tự nó chứa đựng hoặc làm nẩy sinh ra một ''phản đề''. Đề
và phản đề mâu thuẫn với nhau dẫn đến kết quả là một ''hợp đề'', hay
tổng hợp, chứa đựng những sự thực trong cả ''đề'' và ''phản đề''. Tổng
hợp là sự kết hợp của hai đối kháng (union of opposites) và cũng là phủ
định của chính phủ định (negation of the negation). Ngay khi thành hình,
tổng hợp lại là một đề, làm nảy sinh một phản đề, và biện chứng lại
tiếp tục trong một tiến hóa vô cùng tận. Vạn vật biến hóa như vậy bởi
vì, theo Hegel, có một Tuyệt đối qui định tất cả phải như vậy. Biện
chứng là qui luật của Tuyệt đối. Tuyệt đối này là chân lý toàn vẹn và
mọi sự vật đều thể hiện một phần của chân lý. Triết lý của Hegel như vậy
vừa siêu hình (bởi vì Tuyệt đối của Hegel không khác bao nhiêu Thượng
đế của các tôn giáo) vừa thuần lý (bởi vì không có gì là vô lý cả, mọi
sự đều là một thể hiện một phần và nhất thời của chân lý).
Triết
lý của Hegel thật ra rất phức tạp, nhưng ta có thể tạm tóm lược như vậy
để trình bày triết lý lịch sử của ông. Theo Hegel thì lịch sử không
phải chỉ là một chuỗi của những biến cố ngẫu nhiên mà là sự thể hiện và
tiết lộ dần dần của Tuyệt đối. Từ quan niệm này Hegel rút ra hai hệ luận
cơ bản. Hệ luận thứ nhất là trong mọi quốc gia, ở mọi giai đoạn nhà
nước là thể hiện của Tuyệt đối. Hệ luận thứ hai là mỗi quốc gia hình
thành và mạnh lên đều tự nhiên có phản đề là một quốc gia đối kháng. Hai
quốc gia xung đột với nhau và kết quả là một quốc gia mới lành mạnh hơn
được hình thành, qui tụ những điểm tốt nhất của hai quốc gia xung đột.
Quốc gia mới này cũng sẽ gặp một quốc gia đối nghịch khác và biện chứng
cứ thế mà tiếp tục, mỗi giai đoạn đánh dấu một bước tiến đến sự hoàn
chỉnh theo qui luật của Tuyệt đối.
Kẻ
viết bài này hoàn toàn không phải là một triết gia mà là một người hoạt
động đã bị bắt buộc phải tìm hiểu triết để hiểu những tư tưởng chính
trị của thời đại mình. Sự tiếp xúc với triết cho tôi một nhận định là
triết thực ra không phức tạp. Nó không hề sử dụng một dụng cụ khoa học
kỹ thuật tinh vi nào cả. Nhưng triết vẫn rất khó, khó đến nỗi làm nản
lòng đại đa số những người muốn tìm hiểu nó. Cái khó nhất khi tìm hiểu
một tư tưởng triết học là không biết tác giả khởi hành từ đâu. Nói chung
thì trừ môn luận lý (logic) và môn tâm lý học (psychology), mọi triết
gia đều khởi hành từ một xác quyết cá nhân không có chứng minh. Và nhiều
khi chính họ cũng không nhớ rõ họ đã khởi hành từ đâu và đang thực sự
nói về cái gì. Đây hình như là nhược điểm của mọi triết gia. Plato định
nghĩa biện chứng như là phương pháp lý luận của Socrates, nhưng trong
tác phẩm Cộng hòa (The Republic) của ông có lúc ông lại coi nó là môn
học đứng trên mọi môn học, nghĩa là toán học và luận lý học ứng dụng vào
vũ trụ và con người. Một khó khăn khác là đôi khi họ cũng gượng ép lý
luận cho bằng được để cố chứng minh một điều mà thực ra họ đã định kiến
từ trước vì một lý do hoàn toàn cá nhân, như Descartes đã cố hành hạ lý
luận để chứng minh là có thượng đế. Khi một lý luận khó hiểu thì có
nhiều triển vọng là vì nó không đúng. Đó cũng là trường hợp của Hegel
mặc dầu ông là người đã chế ngự bộ môn triết học trong thế kỷ XIX.
Cả
hai hệ luận mà Hegel rút ra từ biện chứng của ông đều không khách quan.
Hệ luận thứ nhất gần như đem lại một sự chính đáng thiêng liêng cho kẻ
cầm quyền và do đó biện minh cho một chính quyền toàn trị. Hệ luận thứ
hai -thu gọn lịch sử vào sự xung đột, và chiến tranh, giữa các quốc gia-
thực ra đã dựa trên sự quan sát tiến trình hình thành của nước Đức
trong thế kỷ XIX. Trong vòng hơn một nửa thế kỷ, nước Đức đã hình thành
do sự thống nhất của hơn ba mươi vương quốc. Theo quan niệm lịch sử của
Hegel thì số các quốc gia sẽ dần dần nhỏ lại và tất cả cuối cùng sẽ qui
về một mối. Đó là một triết lý bá quyền rất tiện lợi cho tham vọng bành
trướng của Friedrich Wilhelm III mà Hegel là cố vấn. Nhưng nới rộng
trường hợp nước Đức ra cho toàn thế giới là một lạm dụng lý luận. Các
vương quốc Đức đều cùng một chủng tộc, một văn hóa, và một ngôn ngữ, lại
không có biên giới thiên nhiên, cho nên sự thống nhất là một tiến trình
tự nhiên. Ra khỏi nước Đức bối cảnh hoàn toàn khác. Vả lại lịch sử cũng
đã phản bác lập luận của Hegel. Lịch sử không phải là sự tiết lộ liên
tục của một tiến trình thuần lý hóa dẫn đến hoàn mỹ như Hegel quả quyết.
Trong hầu hết mọi trường hợp các cuộc chinh phục và sáp nhập đã chỉ dựa
trên bạo lực, theo lô-gích mạnh diệt yếu, lớn nuốt nhỏ ; và không phải
bao giờ cũng đem lại một mức độ văn minh cao hơn; kẻ thắng và kẻ bại
cũng có thể thay ngôi đổi vị với thời gian.
Triết
lý lịch sử của Hegel còn rất hụt hẫng, và có thể nói là không lương
thiện ở chỗ nó không định nghĩa được thế nào một quốc gia đối kháng theo
tiêu chuẩn biện chứng. Không có gì ngăn cản một nước mạnh khuất phục
một nước yếu rồi nói đó là quốc gia đối kháng và mình đã chỉ hành động
theo một tiến trình bắt buộc. Biện chứng lịch sử của Hegel vì vậy mở
đường cho mọi cuộc chiến tranh xâm lược tùy tiện. Trên thực tế nó đã là
nền tảng lý luận cho hai cuộc thế chiến mà nước Đức gây ra. Và nếu lịch
sử đã được qui định từ trước do một Tuyệt đối huyền bí và cao siêu thì
vai trò của con người và trí tuệ là gì, ngoài đón nhận và chịu đựng?
Điều nổi bật trong triết lý của Hegel là cá nhân hoàn toàn vắng mặt,
trong khi chính quyền lại là thể hiện của Tuyệt đối. Chính vì thế mà
triết lý lịch sử của Hegel đã là nền tảng cho những chủ nghĩa và chế độ
bạo ngược nhân danh tập thể và nhà nước để chà đạp cá nhân và xã hội dân
sự.
Cần
minh định một điều quan trọng: triết lý biện chứng của Hegel là một
triết lý có giá trị của nó. Nhưng chính cái quan niệm về lịch sử, và qua
lịch sử về chính trị, của ông mới tệ hại. Bài này không bình luận về
triết học của Hegel mà chỉ bàn về sử quan của ông. Sử quan này đã đẻ ra
những quái thai kinh khủng trong thế kỷ 20: quốc xã Đức, phát xít Ý và
cộng sản. Hitler và Mussolini đã là những đứa con chính trị của Hegel,
hai chế độ quốc xã và phát xít đã là thể hiện trực tiếp của tư tưởng
chính trị của ông: nhà nước là tuyệt đối đè bẹp cá nhân, nước lớn thôn
tính nước nhỏ, chủng tộc hùng mạnh khống chế và tiêu diệt các chủng tộc
yếu nhược.
Karl
Marx là một đứa con hoang khác. Tư tưởng của Marx trong chiều sâu chỉ
là tư tưởng của Hegel. Marx đã chỉ thay đổi và làm trầm trọng hơn sự độc
hại của triết lý lịch sử của Hegel. Cũng như Hegel, Marx coi lịch sử
biến đổi một cách không đảo ngược được theo một qui luật biện chứng,
nhưng Marx đã khác Hegel trên hai điểm. Một là, đối với Marx, lịch sử
không phải là sự xung đột giữa các quốc gia mà là đấu tranh giữa các
giai cấp trong quan hệ sản xuất. Hai là, không phải như Hegel nói, lịch
sử không những chỉ giải thích quá khứ mà vai trò đích thực của nó là dự
báo tương lai. Hai khác biệt này đã khiến Marx huênh hoang tuyên bố là
triết lý của ông không những khác mà còn trái ngược với triết lý của
Hegel, nhưng khẳng định này không thuyết phục được nhà tư tưởng nào. Lý
luận của Marx hoàn toàn dựa trên biện chứng của Hegel, nó chỉ khác ở
cách ứng dụng, nghĩa là ở những điểm không thuộc phạm vi triết học.
Khẳng
định thứ nhất của Marx, lịch sử là xung đột giai cấp, là một sự thách
đố trắng trợn đối với chính lịch sử. Cho đến thế kỷ XIX của Marx chưa hề
có đấu tranh giai cấp do quan hệ sản xuất trên thế giới, đã chỉ có
những xung đột giữa các bộ tộc, rồi các quốc gia mà thôi, và trong mỗi
quốc gia giữa những thủ lãnh. Xung đột giai cấp do quan hệ sản xuất đã
chỉ xuất hiện tại một vài nước châu âu với cuộc cách mạng kỹ nghệ và
cũng không diễn ra theo lô-gích một mất một còn như Marx đã tiên liệu.
Khẳng
định thứ hai, lịch sử quyết định tương lai, là cả một sự thách đố đối
với trí tuệ. Điều này chứng tỏ Marx không phải là một triết gia, cùng
lắm ông chỉ là một học giả và một nhà báo có tài. Marx khác Hegel ở chỗ
nào? Hegel ít ra lý luận một cách lương thiện, coi lịch sử là sự tiết lộ
dần dần của qui luật Tuyệt đối và vì không có gì là Tuyệt đối cả, Tuyệt
đối là tất cả, trên cùng và sau hết, nên lịch sử chỉ giải thích quá khứ
chứ hoàn toàn không cho phép dự đoán tương lai. Trong cố gắng để tỏ ra
mình đã vượt lên trên Hegel, Marx cho rằng lịch sử có thể và phải cho
phép khẳng định tương lai. Dựa vào quan điểm ''đấu tranh giai cấp'' của
mình và rập khuôn theo thuyết tiến hóa của Darwin, một nhà bác học đương
thời với ông, Marx cho rằng đấu tranh giai cấp đã khiến xã hội loài
người tiến hóa từ xã hội bộ tộc lên xã hội phong kiến, rồi từ xã hội
phong kiến lên xã hội tư bản, cuối cùng đấu tranh giai cấp cũng sẽ khiến
xã hội tư bản bị đào thải nhường chỗ cho xã hội cộng sản không giai
cấp. Nhưng Marx đã không bao giờ chứng minh được rằng đấu tranh giai cấp
đã khiến xã hội con người từ bộ tộc tiến lên phong kiến, hay tại sao
các xã hội châu Á, điển hình là Trung Quốc, đã không có đấu tranh giai
cấp. Việc Darwin từ chối vinh dự được Marx đề tặng cuốn Tư bản Luận đã
là cả một sự bẽ bàng cho ông.
Không
phải là Marx đã không cố gắng để chứng minh những khẳng định của ông.
Sự thực là ông đã rất bối rối và khổ sở để chứng minh một điều không thể
chứng minh vì không đúng. Marx đã khẳng định từ giữa thập niên 1840,
vào lúc ông mới ngoài 20 tuổi, rằng sự đào thải của chế độ tư bản và sự
ra đời của xã hội cộng sản (giai đoạn cuối cùng của tiến hóa xã hội) là
một điều chắc chắn và không thể đảo ngược được. Người ta đã chờ đợi ông
chứng minh và ông đã hứa sẽ chứng minh. Nhưng mãi tới hơn 20 năm sau ông
mới hoàn tất phần đầu của cuốn Tư bản Luận, một công trình mà, theo
chính lời ông, ông đã hy sinh cả gia đình và cuộc sống của mình. Và đó
đã là một thất bại ê chề. Nó dầy cộm nhưng vẫn không chứng minh được sự
tiến hóa tất yếu không thể đảo ngược được lên xã hội cộng sản. Thay vào
đó là những biện luận dài dòng và nhàm chán. Đã chỉ có phần đầu được
xuất bản khi ông còn sống. Các cuốn còn lại đã phải đợi rất lâu sau đó
vì ít ai muốn đọc.
Sự
bối rối và bế tắc trong lý luận càng về sau càng đẩy Marx vào sự ngụy
biện và quá khích. Thay vì chứng minh sự tất yếu của sự đào thải của xã
hội tư bản nhường chỗ cho xã hội cộng sản, Marx đã gào thét phải tiến
tới xã hội cộng sản thật nhanh chóng bằng mọi giá, kể cả kinh qua một
nhà nước vô sản chuyên chính thẳng tay tiêu diệt những phần tử phản cách
mạng. Cũng như Hegel, Marx sử dụng biện chứng một cách tùy tiện, nhưng
lại đẩy rất xa mức độ tùy tiện. Muốn lấy gì làm đề cũng được và một đề
có thể có bất cứ phản đề nào và dẫn đến bất cứ tổng hợp nào vừa ý ''nhà
nước vô sản chuyên chính''. Tổng hợp thường thường là phải tiêu diệt một
thành phần xã hội nào đó, khi nó không biện minh cho một quyết định của
người cầm quyền. Và dĩ nhiên người có quyền chọn phản đề và quyết định
tổng hợp là người nắm trong tay ''bạo lực cách mạng''. Lenin đã phát
triển và lạm dụng tối đa cách sử dụng biện chứng tùy tiện của Marx để
biến chủ nghĩa cộng sản thành một tai họa kinh khủng cho nhiều dân tộc.
Lịch
sử không phải là sự an bài tuần tự có qui luật biện chứng nhưng không
thể dự báo trước được của một Tuyệt đối như Hegel đề xướng. Triết lý của
Hegel đã bị ném bỏ vào một dĩ vãng đen tối. Lịch sử càng không phải là
diễn tiến của một cuộc đấu tranh giai cấp không ngừng và tất yếu dẫn đến
xã hội cộng sản như Marx rêu rao. Chủ nghĩa cộng sản, nếu ta muốn dùng
cách nói không trang nhã của chính Karl Marx, đã bị ném vào xọt rác tư
tưởng và chắc chắn sẽ mãi mãi định cư ở đó.
Vậy lịch sử là gì và có vai trò nào?
Lịch
sử chắc chắn là do con người tạo ra trong khi ứng xử với môi trường
sinh sống. Trong một bối cảnh địa lý nhất định, lịch sử của một dân tộc
phần lớn là sản phẩm của dân tộc đó. Phần lớn dù không phải là tất cả,
bởi vì cũng có những điều kiện thiên nhiên và những yếu tố ngoại lai,
thí dụ như những trận động đất và những cuộc xâm lăng của nước ngoài.
Nhưng ngay cả trong những trường hợp ấy, nếu dân tộc phản ứng một cách
khác thì hậu quả cũng sẽ khác và lịch sử cũng sẽ khác. Các nước châu Á
đã ứng xử khác nhau khi tiếp xúc với phương Tây và các lịch sử cận đại
của họ đã khác nhau. Một dân tộc càng văn minh và đông đảo thì phần chủ
động trên lịch sử lại càng lớn.
Lịch sử có phải là một chuỗi biến cố tình cờ hay không?
Câu
hỏi có vẻ ngây ngô nếu ta đã nhìn nhận con người có khả năng thay đổi
lịch sử, nhưng cho tới một ngày rất gần đây quan niệm của chúng ta là
như thế. Chúng ta không hề đặt câu hỏi tại sao lịch sử lại diễn ra như
nó đã diễn ra. Hay dù có đặt câu hỏi chúng ta cũng hài lòng với những
giải đáp hời hợt. Thí dụ sở dĩ nước ta đã bỏ lỡ cơ hội canh tân và bị
ngoại thuộc là vì các vua Minh Mạng và Tự Đức quá tăm tối, hay chủ nghĩa
cộng sản đã được thiết lập tại Việt Nam là vì có ông Hồ Chí Minh. Như
vậy thì cũng chỉ là những tình cờ mà thôi. Tình cờ mà chúng ta đã có
những ông vua nhà Nguyễn mù quáng và cũng tình cờ mà Việt Nam đã có ông
Hồ Chí Minh.
Nhưng
tại sao dưới thời nhà Nguyễn chúng ta cũng đã có những con người nhìn
thấy nhu cầu canh tân mà họ không làm gì được? Tại sao đã có và có nhiều
người nhìn thấy sự độc hại của chủ nghĩa cộng sản, và nhiều người đã hy
sinh tính mạng để chống lại nó, nhưng chế độ cộng sản vẫn được thiết
lập? Và câu hỏi nhức nhối hiện nay là tại sao đa số đảng viên của chính
Đảng Cộng sản đã thấy là phải dân chủ hóa mà Đảng Cộng sản vẫn ngoan cố
trong độc tài toàn trị? Như vậy chắc chắn phải có một cái gì đó mạnh hơn
quyết định các biến cố.
Nhưng ''cái gì đó'' là cái gì?
Trước
một thử thách và một thực tại xã hội, mỗi cá nhân cũng như mỗi dân tộc
đều có thể có những cách ứng xử khác nhau: phấn khởi tham gia, chấp
nhận, chịu đựng, đào thoát, phản kháng v.v. Cách ứng xử đó quyết định
những gì sẽ xảy tới, nghĩa là một thực tại mới. Nhưng tại sao các dân
tộc lại ứng xử cách này thay vì cách khác? Đó là do một cấu trúc tâm lý
khiến ta thấy nên và phải làm như thế. Mỗi cá nhân quyết định cho mình,
nhưng một cộng đồng luôn luôn có một mẫu số văn hóa chung nào đó nếu
không thì không phải là một cộng đồng. Do đó các quyết định cá nhân
(chấp nhận một cách ứng xử bắt buộc cũng là một quyết định) trong một
dân tộc cuối cùng cũng vẫn có những điểm giống nhau tạo ra một cách ứng
xử áp đảo của đa số và quyết định những gì sẽ xảy tới. Cấu trúc tâm lý
của một dân tộc là kết quả của một văn hóa chung. Văn hóa chung này,
trong phạm vi xã hội, là toàn bộ những giá trị được đại bộ phận dân
chúng chia sẻ và quyết định cách suy nghĩ và hành động của xã hội. Các
giá trị này có thể hình thành với thời gian do điều kiện sinh sống, cũng
có thể do bị một thế lực thống trị lâu đời áp đặt và cũng có thể do
những cố gắng suy tư của chính dân tộc đó.
Văn
hóa quyết định cách ứng xử, cách ứng xử tạo ra một thực tại, thực tại
này đặt ra những thử thách mới và chờ đợi những phản ứng mới. Lịch sử
tiến hành như thế, thực tại của giai đoạn trước là lịch sử của giai đoạn
sau. Nói một cách khác, động cơ chính, dù không phải duy nhất, của lịch
sử là văn hóa. Thực tại, trong chiều ngược lại, cũng có thể tác động
lên văn hóa và làm thay đổi văn hóa ; nhưng sự khác biệt là ở chỗ tác
động của thực tại lên văn hóa đến rất sau và rất chậm. Cuối cùng thì
chính văn hóa là yếu tố chính quyết định thực tại xã hội, chế độ chính
trị và tổ chức xã hội. Lịch sử như vậy là thể hiện của văn hóa. Lịch sử
vừa giải thích số phận vừa phơi bày chân dung văn hóa của các dân tộc.
Cần
lưu ý là nhận thức về lịch sử, chủ yếu là cách đánh giá tầm quan trọng
của các biến cố và cách đánh giá các nhân vật lịch sử, cũng là một phần
khắng khít của lịch sử bởi vì nó ảnh hưởng trực tiếp lên sự chọn lọc và
trình bày các biến cố mà các thế hệ sau gọi là lịch sử. Như vậy văn hóa
không những chỉ là động cơ chính của lịch sử mà còn viết ra lịch sử bởi
vì nhận thức về lịch sử cũng phần lớn là sản phẩm của văn hóa.
Con người có thể tác động lên lịch sử và thay đổi dòng lịch sử được không?
Có,
nếu tác động được lên văn hóa. Nhưng ai có thể tác động được lên văn
hóa. Đó là các triết gia và các nhà tư tưởng. Dụng cụ làm việc của họ có
thể đa dạng. Một nhà tư tưởng có thể viết sách hoặc viết báo như đa số
các nhà tư tưởng thường làm, cũng có thể chỉ diễn thuyết như Socrates;
nhưng họ cũng có thể làm nhạc, làm thơ hoặc vẽ tranh, nếu tác phẩm của
họ chuyên chở tư tưởng thì họ vẫn là những nhà tư tưởng.
Như
thế, một dân tộc chỉ có thể chủ động được lịch sử của mình nếu có những
triết gia và những nhà tư tưởng. Nếu không dân tộc đó sẽ chỉ chịu đựng
chứ không làm chủ được lịch sử, nghĩa là không làm chủ được số phận của
mình. Nhưng tác động lên văn hóa rất khó. Văn hóa là kết tinh của cuộc
sống tinh thần và vật chất trong suốt quá trình tồn tại kéo dài nhiều
ngàn năm. Nó được bảo vệ bởi cả một thành trì kiên cố của tập quán,
thành kiến, tín ngưỡng, quyền lợi, quyền lực và cả đam mê. Muốn thay đổi
nó phải có những con người thật xuất chúng và dũng cảm, những con người
mà một mình thực tại không tạo ra được. Cái giá phải trả cho một khai
thông tư tưởng thường rất cao. Trong đại bộ phận nó là những cuộc sống
hẩm hiu, âm thầm cống hiến cho những cố gắng bị người đương thời chối
bỏ. Nó cũng có thể là những tai họa. Socrates và Jesus-Christ đã phải
đem tính mạng để trả giá cho tư tưởng của mình. Nhưng các nhà tư tưởng
vẫn là những người thực sự lãnh đạo xã hội ngay cả khi họ phải bỏ mình
nơi pháp trường giữa tiếng hò hét thù ghét của đám đông. Các chính quyền
và những người cầm quyền chỉ là sản phẩm và công cụ của lịch sử do văn
hóa quyết định, những con người do thời thế tạo ra và đàng nào cũng có
trong mỗi giai đoạn.
Chúng
ta là một dân tộc không có triết gia và tư tưởng gia vì thế chúng ta
không chủ động được lịch sử và số phận của chúng ta. Văn hóa của chúng
ta là kết hợp của nếp sống phù sa - lúa nước và văn hóa Khổng giáo mà kẻ
thống trị phương Bắc áp đặt trong hàng ngàn năm. Chúng ta đã không xây
dựng ra nền văn hóa đó bằng cố gắng tư tưởng của chính mình và cũng
không thay đổi nó. Văn hóa của ta không thay đổi cho nên ta không có
lịch sử đúng nghĩa. Cái mà ta gọi là lịch sử chỉ là những xung đột không
tránh khỏi của một khối người ngày càng đông mà không có ý thức xây
dựng một tương lai chung. Văn hóa không thay đổi thì xã hội cũng không
thay đổi. Những biến cố lịch sử của chúng ta hoặc chỉ là những xáo động
trong một khuôn khổ có sẵn và xảy đến một cách tình cờ, hoặc chỉ do sự
áp đặt của những biến cố ngoại lai mà chúng ta không hiểu và đón nhận
một cách bối rối. Chúng ta giải thích những lúc thịnh - suy, chiến tranh
- hòa bình, những thay ngôi đổi vị bằng hành động của những con người,
chúng ta tôn vinh hay kết án những nhân vật lịch sử như là tác giả những
phúc họa trong khi thực ra chính họ không đem lại thay đổi thực sự nào.
Họ chỉ là những con người hợp lý nhất trong một thực tại xã hội nào đó.
Vấn
đề hiện nay của chúng ta là phải rũ bỏ chế độ độc tài này để có dân chủ
mà vươn lên. Nhưng chế độ cộng sản có phải ngẫu nhiên mà có không? Đảng
Cộng sản đã trải qua nửa thế kỷ phấn đấu cam go mới giành được chính
quyền (họ dùng chữ ''cướp'' chính quyền). Trong suốt quá trình phấn đấu
đó họ luôn luôn ít phương tiện hơn đối phương, phương tiện vật chất cũng
như phương tiện trí tuệ. Nhưng sau cùng họ vẫn vượt qua được trở ngại
và toàn thắng. Vậy thì chế độ cộng sản mà họ thiết lập có thể tồi dở
nhưng không nghịch lý. Nó thể hiện một tổng hợp văn hóa giai đoạn của
chúng ta, giữa văn hóa Khổng giáo mà chúng ta trân trọng từ hàng ngàn
năm và văn hóa phương Tây mà chúng ta bắt đầu tiếp nhận từ thế kỷ 16,
nhất là từ hơn một thế kỷ nay.
Văn
hóa nào chế độ đó. Chống lại chế độ cộng sản mà lại khăng khăng bảo vệ
văn hóa truyền thống là một thái độ rất sai, sai một cách bi đát, bởi vì
chế độ này không gì khác hơn là một sản phẩm của chính văn hóa truyền
thống của chúng ta trong khi va chạm với phương Tây. Nó được chính văn
hóa truyền thống của chúng ta đẻ ra và nuôi dưỡng. Như thế, người ta vẫn
có thể vô tình tiếp tay củng cố nó trong khi tưởng rằng mình đang chống
lại nó. Muốn thay đổi chế độ này thì phải thay đổi văn hóa. Sẽ không
thể có giải đáp trong đường xưa lối cũ. Những ý kiến mới có thể là sai,
nhưng cách suy nghĩ và hành động cũ chắc chắn là không giúp ta tìm ra
lối thoát. Một cách có vẻ nghịch lý chỉ những ý kiến khi mới phát biểu
đã gặp chống đối gay gắt mới có thể là giải đáp cho tình thế.
Chúng
ta đã nói thay đổi văn hóa rất khó và rất lâu. Nhưng trong thời đại này
tư tưởng có thể truyền bá rất nhanh chóng, vả lại tâm lý và văn hóa
Việt Nam cũng đã thay đổi. Cách đón nhận cuốn Tổ quốc Ăn năn là một bằng chứng.
Nguyễn Gia Kiểng
0 nhận xét:
Đăng nhận xét