Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2016
Tài liệu Tổ chức thực hiện và kiểm tra các hoạt động marketing
15:20
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tổ chức thực hiện marketing là tiến
trình chuyển các chiến lược và chương trình marketing thành những hoạt
động marketing trên thực tế nhằm thành đạt các mục tiêu marketing đã đề
ra một cách có hiệu quả. Trong khi việc phân tích và hoạch định chiến
lược marketing là xác định một cách rõ ràng cái gì và tại sao của những hoạt động marketing, thì việc thực hiện nhắm tìm câu trả lời: ai, ở đâu, khi nào, và làm thế nào để biến các ý tưởng chiến lược trở thành hiện thực.
Chiến lược và việc thực hiện có
quan hệ mật thiết với nhau. Thứ nhất, chiến lược xác định những hoạt
động thực thi nào là cần thiết. Chẳng hạn, quyết định "thu hoạch" một
sản phẩm nào đó phải được chuyển thành những việc làm cụ thể như phân
phối ngân sách ít hơn cho sản phẩm đó, chỉ thị cho nhân viên bán có thể
tăng giá lên, và tập trung các nỗ lực quảng cáo cho những sản phẩm khác.
Thứ hai, sự lựa chọn chiến lược tùy thuộc rất nhiều vào khả năng đảm
bảo các nguồn lực của doanh nghiệp để thực thi chiến lược. Thành tích
nghèo nàn có thể là kết quả từ những chiến lược nghèo nàn, hoặc từ những
chiến lược tốt nhưng được thực hiện một cách kém cỏi.
Việc thực hiện chiến lược kém hiệu quả là do những nguyên nhân sau đây.
-Việc hoạch định biệt lập.Kế
hoạch chiến lược của doanh nghiệp thường do "các chuyên viên kế hoạch"
cấp doanh nghiệp thảo ra, mà những người này có thể không liên hệ chặt
chẽ với những người quản trị marketing vốn phải thực thi chiến lược.
-Những cân nhắc chọn lựa giữa các mục tiêu lâu dài và trước mắt.Các
doanh nghiệp thiết kế chiến lược marketing nhằm tạo ra lợi thế cạnh
tranh dài hạn. Thế nhưng những người quản trị marketing, những người
thực thi các chiến lược đó thường được thưởng vì doanh số, sự phát
triển, hoặc lợi nhuận ngắn hạn. Khi đối diện với sự chọn lựa giữa chiến
lược dài hạn và thành tích trước mắt, những người quản trị marketing
thường thiên về lợi ích ngắn hạn. Có thể họ đã đáp ứng được những mục
tiêu thành tích ngắn hạn và đã nhận được những sự đánh giá cao, nhưng
việc làm của họ sẽ làm tổn hại đến chiến lược dài hạn và vị thế của
doanh nghiệp.
-Chống lại sự thay đổi.Những
hoạt động hiện tại của doanh nghiệp đều được phải được thiết kế nhằm
đảm bảo thực thi thành công các chiến lược. Thế nhưng ở nhiều doanh
nghiệp, những chiến lược mới không phù hợp với các khuôn mẫu và tập quán
đã có của nó sẽ bị chống lại. Và chiến lược càng khác biệt nhiều với
cái cũ, sự chống lại việc thực thi nó càng lớn. Đối với những chiến lược
mới, việc thực thi có thể phá vỡ các mô hình tổ chức truyền thống trong
doanh nghiệp và cả những cấu trúc hoạt động đã có của các nhà cung cấp
và các tổ chức khác của kênh phân phối.
-Thiếu những kế hoạch thực hiện cụ thể.Một
số chiến lược được thực thi nghèo nàn là do những người lập kế hoạch
không triển khai các kế hoạch thực thi chi tiết và thiếu sự kết hợp đồng
bộ các kế hoạch bộ phận thành một chương trình toàn diện triển khai
theo kế hoạch tiến độ để đạt những mục tiêu chuyên biệt, và phân công
trách nhiệm không rõ ràng cho những người thực hiện.
Mọi người ở tất cả các cấp của hệ
thống marketing đều phải phối hợp với nhau để thực thi các chiến lược
marketing. Bên trong bộ phận marketing, những người làm quảng cáo, bán
hàng, nghiên cứu thị trường, và triển khai sản phẩm đều phải thực hiện
các hoạt động hỗ trợ cho kế hoạch chiến lược. Những nhân viên marketing
này phải phối hợp công việc của mình với những người ở các bộ phận khác
trong doanh nghiệp - nghiên cứu và phát triển, sản xuất, thu mua, tài
chính,... Các cá nhân và tổ chức thuộc hệ thống marketing bên ngoài
doanh nghiệp như những người cung cấp, nhữn người bán sỉ và bán lẻ, các
cơ sở quảng cáo, những nhóm bảo vệ lợi ích công chúng, chính quyền đều
có thể hỗ trợ hay gây trở ngại cho những cố gắng thực thi các chiến lược
marketing của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải triển khai những cấu trúc
và hệ thống hiệu quả nhằm phối hợp tất cả những hoạt động này lại với
nhau thành một phương án hành động hiệu quả.
Tiến trình thực thi được trình
bày trong hình 9.1, bao gồm năm hoạt động tương tác: Triển khai chương
trình hành động, xây dựng cơ cấu tổ chức, thiết kế các hệ thống quyết
định và tưởng thưởng, phát triển nguồn lực con người, và thiết lập một
bầu không khí quản trị cũng như phong cách của doanh nghiệp.
Để thực thi các chiến lược
marketing, mọi thành viên ở tất cả các cấp của hệ thống marketing đều
phải đưa ra những quyết định và hoàn thành những nhiệm vụ nhất định.
Những người quản trị marketing cộng tác với những người quản trị khác
của doanh nghiệp để đảm bảo nguồn lực cần thiết và ưu tiên cho những sản
phẩm mới có nhiều triển vọng thành công. Họ thảo luận với bộ phận
nghiên cứu và phát triển về thiết kế sản phẩm, với bộ phận sản xuất về
cấp độ chất lượng, sản xuất và lưu kho, với bộ phận tài chiïnh về kinh
phí, với bộ phận pháp lý về đăng ký phát minh và những vấn đề an toàn
sản phẩm, với bộ phận nhân sự về việc huấn luyện và bố trí nhân viên.
KẾT QUẢ MARKETINH
Để thực hiện thành công các
chiến lược, doanh nghiệp phải triển khai một chương trình hành động chi
tiết. Chương trình này định rõ những quyết định và công việc chủ yếu cần
thiết để biến các chiến lược marketing thành những hoạt động thực tế
trên thị trường. Chương trình hành động cũng phân công trách nhiệm về
việc quyết định và công việc cho các bộ phận và thành viên của doanh
nghiệp. Cuối cùng,chương trình hành động còn bao gồm một kế hoạch tiến
độ chỉ rõ khi nào thì phải đưa ra các quyết định, khi nào thì phải thực
hiện các công việc và khi nào thì những điểm mốc chiếc lược phải được
thực hiện, ai sẽ làm điều đó và các quyết định cũng như hành động sẽ
được phối hợp ra sao để đạt được những mục tiêu chiến lược của doanh
nghiệp.
Cơ cấu tổ chức chính thức của
doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện chiến lược
marketing. Cơ cấu tổ chức xác định và phân chia nhiệm vụ cho từng bộ
phận và nhân viên cụ thể, thiết lập những tuyến thẩm quyền và mối liên
hệ, phối hợp các quyết định cũng như công việc trong doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp với những
chiến lược khác nhau thì cần đến các cơ cấu tổ chức khác nhau. Doanh
nghiệp cần thiết kế một cơ cấu tổ chức phù hợp với việc triển khai ý đồ
chiến lược, các đặc điểm của doanh nghiệp, khách hàng mục tiêu và đối
thủ cạnh tranh. Cơ cấu tổ chức phân chia nhiệm vụ của doanh nghiệp thành
những công việc được xác định rõ ràng và có thể quản lý được cho các bộ
phận và nhân viên nhằm tạo được hiệu quả thông qua việc chuyên môn hoá
chức năng hoạt động của họ. Cơ cấu tổ chức còn tạo nên sự phối hợp những
quyết định và hoạt động chuyên môn hoá này bằng cách xác định các mối
quan hệ chính thức giữa các nhân viên và các bộ phận, cũng như những mối
quan hệ quyền hạn và hệ thống thông tin quản trị.
Doanh nghiệp cũng phải thiết kế
những hệ thống quyết định và động lực thúc đẩy hỗ trợ cho các chiến
lược marketing của mình. Các hệ thống ấy bao gồm những thể thức hoạt
động chính thức và bán chính thức có tác dụng hướng dẫn và tiêu chuẩn
hoá những hoạt động như lập kế hoạch, thu thập và sử dụng thông tin, dự
tính các nguồn lực vật chất và con người, tuyển chọn và huấn luyện, đo
lường và kiểm tra thành tích, đánh giá và động viên, thúc đẩy nhân viên.
Các chiến lược marketing được
thực hiện bởi nhiều người trong và ngoài doanh nghiệp. Việc thực thi
thành công đòi hỏi phải hoạch định cẩn thận nguồn lực con người. Ở tất
cả các cấp, doanh nghiệp cần bố trí vào cấu trúc và các hệ thống của
mình những người có khả năng, động cơ và phẩm chất cần thiết cho việc
thực thi chiến lược.
Doanh nghiệp cũng phải quyết
định về tỷ lệ các nhà quản trị và nhân viên ở các cấp quản trị. Nhiều
doanh nghiệp tiến hành cắt giảm các chức vụ ở cấp doanh nghiệp và bộ
phận khác, để giảm bớt chi phí hành chính và đưa quyết định đến những
người trực tiếp thi hành. Sự tuyển lựa và phát triển các nhà quản trị có
tính chất quyết định đặc biệt đối với việc thực thi chiến lược. Những
chiến lược khác nhau đòi hỏi phải có những nhà quản trị khác nhau với
những phẩm chất và kỹ năng khác nhau. Những chiến lược mạo hiểm cần
những quản trị viên có kỹ năng nhạy bén, những chiến lược duy trì đòi
hỏi các nhà quản trị phải có các kỹ năng về tổ chức và quản lý, và những
chiến lược phòng ngự đòi hỏi các nhà quản trị kỹ năng về cắt giảm chi
phí. Thế nên doanh nghiệp phải biết bố trí các nhà quản trị phù hợp với
các yêu cầu của chiến lược đang được thực hiện.
Bầu không khí và nền văn hoá
của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất quan trọng đến tư duy và hành động và
cách thức ứng xử của những người ra quyết định và thực thi chiến lược.
Bầu không khí của tổ chức
thể hiện cách thức mà các nhà quản trị hợp tác với những người khác
trong công việc chung. Một số nhà quản trị có phong cách độc đoán, họ ra
lệnh, ít chịu ủy quyền, kiểm soát chặt chẽ và chú trọng đến sự liên lạc
- báo cáo thông qua những kênh thông tin chính thức. Những người khác
thì có phong cách dân chủ hơn, họ giao nhiệm vụ và quyền hạn, cộng tác
hơn là ra lệnh, khuyến khích các cộng sự có sáng kiến và liên lạc một
cách thân mật không câu nệ nghi thức. Không có phong cách quản trị nào
tốt nhất cho tất cả mọi tình huống. Những chiến lược khác nhau có thể
cần đến những phong cách lãnh đạo khác nhau, và nó thay đổi tuỳ vào cấu
trúc, nhiệm vụ, con người và hoàn cảnh của doanh nghiệp và môi trường.
Nền văn hoá của doanh nghiệp
là một hệ thống những giá trị và niềm tin mà mọi người trong một tổ
chức cùng chia xẻ. Nó thể hiện bản sắc, triết lý kinh doanh và ý nghĩa
cộng đồng trong doanh nghiệp. Nền văn hoá định hướng cách thức ứng xử sự
của mọi người trong tất cả các cấp của doanh nghiệp.
Phong cách quản trị và nền văn
hoá của doanh nghiệp là những chuẩn mực giá trị được các thành viên của
doanh nghiệp thừa nhận và chia xẻ, nó định hướng và thúc đẩy họ trong
việc ra quyết định và thực hiện nhiệm vụ. Những chiến lược không phù hợp
với phong cách quản trị và văn hoá của doanh nghiệp sẽ khó có khả năng
thực thi một cách thành công.
Để thực hiện có hiệu quả, tất
cả các hoạt động của hệ thống đều phải hỗ trợ cho chiến lược mà doanh
nghiệp đang theo đuổi. Những chương trình hành động, cơ cấu tổ chức, các
hệ thống quyết định và động lực thúc đẩy, phong cách quản trị và nền
văn hoá của doanh nghiệp phải thống nhất với nhau. Nhân sự của doanh
nghiệp phải có những kỹ năng cần thiết để ra quyết định và hoàn thành
các nhiệm vụ cần cho việc thực thi chiến lược. Các động lực thúc đẩy
phải động viên được nhân viên nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ của chiến lược.
Nhân sự sẽ làm việc hiệu quả hơn nếu họ đồng nhất với phong cách quản
trị và nền văn hoá của doanh nghiệp.
Trong qúa trình phát triển của
mình, marketing đã từ một chức năng bán hàng đơn giản trở thành một nhóm
các hoạt động phức tạp, mà không phải bao giờ cũng kết hợp tốt với nhau
và với các bộ phận khác của doanh nghiệp.
Bộ phận marketing ngày nay là sản
phẩm của cả một quá trình phát triển lâu dài, trải qua năm giai đoạn
với các hình thức tổ chức khác nhau.
Bộ phận bán hàng đơn giản
Trong doanh nghiệp, hoạt động
kinh doanh được tiến hành với năm chức năng cơ bản. Phải có người nào đó
dứng ra quản lý vốn (tài chính), thuê người (nhân sự), sản xuất ra sản
phẩm hay dịch vụ (sản xuất), bán nó đi (tiêu thụ), và ghi chép sổ sách
(kế toán). Chức năng bán hàng được đặt dưới quyền chỉ đạo của một phó
giám đốc tiêu thụ. Khi cần nghiên cứu marketing hay quảng cáo, phó giám
đốc tiêu thụ thực hiện luôn những chức năng đó (hình).
Bộ phận bán hàng kiêm các chức năng marketing
Khi doanh nghiệp cần mở rộng để
phục vụ những khách hàng mới hay địa bàn mới, nó cần tăng cường những
chức năng marketing nhất định, không liên quan đến việc bán hàng, như
nghiên cứu marketing để tìm hiểu nhu cầu khách hàngvà tiềm năng thị
trường, quảng cáo và đảm bảo dịch vụ cho khách hàng,... Phó giám đốc
tiêu thụ sẽ cần phải thuê các chuyên gia để hoàn thành các chức năng
marketing khác này, hay thuê một người quản trị marketing để quản trị
những chức năng đó (hình).
Bộ phận marketing riêng biệt
Sự phát triển liên tục của doanh
nghiệp đẫ làm tăng khả năng đầu tư có hiệu quả vào các chức năng khác
của marketing như nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm mới, quảng
cáo và khuyến mãi, dịch vụ khách hàng, có liên quan với hoạt động của
lực lượng bán hàng. Lúc này doanh nghiệp sẽ thấy cần thiết lập một bộ
phận marketing riêng biệt, đặt dưới quyền chỉ đạo của một phó giám đốc
marketing. Ở giai đoạn này, bán hàng và marketing là hai chức năng tách
riêng trong tổ chức đó, nhưng vẫn yêu cầu phối hợp chặt chẽ với nhau
(hình).
Bộ phận marketing hiện đại
Mặc dù hai phó giám đốc tiêu thụ
và marketing cần làm việc ăn ý với nhau, nhưng đôi khi quan hệ giữa họ
trở nên căng thẳng và có những biểu hiện trục trặc. Phó giám đốc tiêu
thụ muốn bộ phận bán hàng có vị trí quan trọng hơn trong marketing -mix ,
và mọi nỗ lực đều tập trung cho việc gia tăng mức tiêu thụ hiện tại.
Phó giám đốc marketing lại muốn có quyền hạn và ngân sách nhiều hơn cho
các hoạt động không phải của lực lượng bán hàng, và mọi cố gắng đều nhằm
vào việc hoạch định đúng đắn chiến lược marketing để dáp ứng được những
nhu cầu lâu dài của khách hàng. Để giải quyết mâu thuẫn, giám đốc công
ty có thể chỉ thị cho phó giám đốc điều hành xử lý những mâu thẫn phát
sinh, hay giao hoạt động marketing trở lại cho phó giám đốc tiêu thụ,
hoặc giao cho phó giám đốc marketing phụ trách tất cả các chức năng, kể
cả lực lượng bán hàng.Cách giải quyết cuối cùng này tạo cơ sở cho việc
tổ chức bộ phận marketing hiện đại đặt dưới quyền lãnh đạo của phó giám
đốc điều hành marketing và tiêu thụ với những người quản trị riêng từng
chức năng marketing, kể việc quản trị tiêu thụ (hình).
Công ty marketing hiện đại
Một công ty có thể có một bộ phận
marketing hiện đại mà chưa hoạt động như một công ty marketing hiện
đại. Khi các quan niệm về marketing phát triển, coi marketing là một quá
trình trọn vẹn của những nỗ lực của tất cả các bộ phận của công ty nhằm
đáp ứng những nhu cầu đa dạng của thị trường, lúc đó công ty mới trở
thành một công ty marketing hiện đại.
Các bộ phận marketing hiện đại có
thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác nhau. Mỗi hình thức tổ chức
phải cho phép bộ phận marketing phục vụ được theo bốn chiều cơ bản của
hoạt động marketing: các chức năng, khu vực địa lý, sản phẩm và thị
trường khách hàng.
Tổ chức theo chức năng
Hình thức phổ biến nhất của cách
tổ chức marketing là tổ chức theo chức năng, theo đó những chuyên gia về
các chức năng marketing trực thuộc một phó giám đốc marketing, người có
trách nhiệm phối hợp các hoạt động của họ. Các chuyên gia marketing có
thể làm việc trong các lĩnh vực quản trị hành chính marketing, quảng cáo
và khuyến mãi, tiêu thụ, nghiên cứu marketing, sản phẩm mới. Có thể có
thêm các chuyên gia phụ trách các lĩnh vực dịch vụ khách hàng, hoạch
định marketing, phân phối sản phẩm vật chất.
Lợi thế chủ yếu của việc tổ chức
theo chức năng là sự đơn giản về mặt hành chính, song hình thức này sẽ
mất đi tính hiệu quả khi sản phẩm và thị trường của doanh nghiệp tăng
lên. Trước hết là việc hoạch định đối với những sản phẩm và thị trường
cụ thể không sát với thực tê,ú không có ai trách nhiệm về bất kỳ sản
phẩm và thị trường nào. Thứ hai mỗi nhóm chức năng đều muốn tranh giành
nhau để có được ngân sách nhiều hơn cũng như địa vị cao hơn so với những
chức năng khác. Phó giám đốc marketing luôn phải cân nhắc những yêu cầu
và khiếu nại của chuyên gia chức năng cạnh tranh nhau và phải đối diện
với một vấn đề phối hợp rất khó khăn.
Tổ chức theo địa lý
Một doanh nghiệp bán hàng trong
thị trường cả nước thường tổ chức lựa chọn lực lượng bán của mình (và
đôi khi những chức năng khác) theo các khu vực địa lý. Người quản trị
bán hàng toàn quốc có thể giám sát những người quản trị bán hàng theo
khu vực. Mỗi người quản trị bán hàng khu vực điều khiển các quản trị bán
hàng theo từng địa bàn nhỏ hơn, mỗi người quản trị địa bàn điều khiển
nhiều nhân viên bán hàng. Phạm vi kiểm tra tăng dần lên khi chúng ta đi
từ người quản trị bán hàng toàn quốc đến quản trị bán hàng theo địa bàn.
Phạm vi kiểm tra hẹp hơn cho phép các nhà quản trị dành nhiều thời gian
hơn cho cấp dưới vì công việc bán hàng rất phức tạp, nhân viên bán hàng
được trả lương cao hơn và tác động của người bán hàng lên lợi nhuận rất
lớn.
Tổ chức theo sản phẩm
Những doanh nghiệp sản xuất nhiều
loại sản phẩm hay nhãn hiệu thường thành lập tổ chức quản trị theo sản
phẩm hay nhãn hiệu. Tổ chức quản trị theo sản phẩm không thay thế cho tổ
chức quản trị theo chức năng, nhưng đóng vai trò như một cấp quản trị
khác. Tổ chức quản trị theo sản phẩm được đặt dưới quyền một người quản
trị sản phẩm. Người quản trị sản phẩm giám sát những người quản trị loại
sản phẩm, và những người quản trị loại sản phẩm này lại giám sát những
người quản trị sản phẩm và nhãn hiệu cụ thể.
Vai trò của người quản trị sản
phẩm là triển khai các kế hoạch sản phẩm, xem xét việc thực hiện chúng,
dự báo các kết quả, và hiệu chỉnh. Người quản trị triển khai một chiến
lược cạnh tranh cho sản phẩm, soạn thảo một kế hoạch marketing và tiên
đoán mức tiêu thụ, cộng tác với các cơ sở quảng cáo để triển khai những
chiến dịch quảng cáo, khích lệ lực lượng bán hàng và nhà phân phối ủng
hộ sản phẩm, phân tích tình hình sản phẩm và đề xuất những cải tiến sản
phẩm để đáp ứng các nhu cầu đang thay đổi của thị trường.
Cách tổ chức quản trị theo sản
phẩm tạo ra nhiều lợi điểm. Thứ nhất, người quản trị sản phẩm có thể tập
trung vào việc xây dựng một marketing - mix cos hiệu quả về chi phí cho
sản trước phẩm đó. Thứ hai, người quản trị sản phẩm có thể phản ứng
nhanh chóng hơn đối với những vấn đề trên thị trường, so với một ban
chức năng gồm các chuyên gia. Thứ ba, các nhãn hiệu nhỏ ít bị xem nhẹ vì
chúng có một người bảo vệ sản phẩm. Thứ tư, việc quản trị theo sản phẩm
là một cơ sở huấn luyện tuyệt vời cho những cán bộ điều hành trẻ, vì nó
buộc họ phải tham gia vào hầu hết các lĩnh vực hoạt động của doanh
nghiệp.
Tổ chức theo thị trường
Các doanh nghiệp thường bán sản
phẩm của mình trên các thị trường khác nhau. Và nếu những người tiêu
dùng thuộc những nhóm người sử dụng khác nhau với những sở thích và thói
quen mua hàng khác nhau, thì nên tổ chức bộ phận marketing theo thị
trường. Tổ chức quản trị theo thị trường tương tự như việc tổ chức quản
trị theo sản phẩm. Người quản trị các thị trường giám sát một số người
quản trị một thị trường (cũng được gọi là những người quản trị phát
triển thị trường, các chuyên gia thị trường, hay những chuyên gia theo
ngành). Những người quản trị thị trường có trách nhiệm triển khai các kế
hoạch dài hạn và kế hoạch hằng năm về doanh số và lợi nhuận trong thị
trường của mình. Họ phải phối hợp sự trợ giúp từ phía nghiên cứu
marketing, quảng cáo, bán hàng, cùng những phần việc khác. Họ phải phân
tích xem thị trưòng của mình đang hướng đến đâu và doanh nghiệp cần chào
bán trên thị trường những sản phẩm nào. Thành tích của họ thường được
đánh giá theo mức độ đóng góp làm gia tăng thị phần, chứ không phải vào
khả năng sinh lời hiện tại trên thị trường. Hệ thống này cũng có những
ưu điểm và nhưọc điểm giống như các hệ thống quản trị theo sản phẩm. Lợi
thế chính của hệ thống này là hoạt động marketing được tổ chức để đáp
ứng những nhu cầu của các nhóm khách hàng khác nhau, chứ không tập trung
vào bản thân các chức năng marketing, các khu vực hay các sản phẩm.
Tổ chức theo sản phẩm/thị trường
Các doanh nghiệp sản xuất nhiều
sản phẩm để bán ra trên nhiều thị trường có hai cách để lựa chọn. Họ có
thể sử dụng một hệ thống quản trị theo sản phẩm, vốn đòi hỏi người quản
trị sản phẩm phải am hiểu những thị trường có sự khác biệt rất lớn.
Hoặc, họ có thể sử dụng một hệ thống quản trị theo thị trường, có nghĩa
là những người quản trị thị trường cũng phải rất am hiểu các sản phẩm
khác biệt nhau mà những thị trường của họ đã mua. Hoặc có thể kết hợp cả
hai loại lại thành một tổ chức ma trận. Tuy nhiên, điều trở ngại là hệ
thống này khá tốn kém và thường phát sinh sự mâu thuẩn.
Công việc của bộ phận marketing là
lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra hoạt động marketing. Một kế hoạch
marketing dù được thiết kế hoàn hảo đến đâu, trong quá trình thực hiện
vẫn có thể nẩy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết, vì thế bộ phận
marketing phải thường xuyên theo dõi và kiểm tra các hoạt động
marketing. Các hệ thống kiểm tra marketing nếu hoạt động tốt sẽ đảm bảo
cho hoạt động marketing nói riêng và hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp nói chung đạt được mục tiêu với hiệu quả cao.
Kiểm tra marketing có thể phân
thành bốn loại: Kiểm tra kế hoạch năm, kiểm tra khả năng sinh lời, kiểm
tra hiệu quả và kiểm tra chiến lược (hình).
Kiểm tra kế hoạch năm là việc kiểm
tra quá trình thực hiện và kết quả đạt được của những người làm
marketing dựa trên kế hoạch năm và tiến hành những điều chỉnh cần thiết
nhằm đảm bảo hoàn thành kế hoạch đề ra. Kiểm tra khả năng sinh lời bao
gồm những nỗ lực xác định khả năng sinh lợi đích thực của các sản phẩm,
các khu vực, các thị trường, và các kênh phân phối khác nhau. Kiểm tra
hiệu suất nhằm đánh giá và tìm cách nâng cao hiệu suất của chi phí
marketing thông qua các hoạt động bán hàng, quảng cáo, phân phối và
khuyến mãi. Kiểm tra chiến lược bao gồm việc khảo sát định kỳ để biết
những chiến lược cơ bản của doanh nghiệp khai thác như thế nào những cơ
hội marketing.
Mục đích của việc kiểm tra kế
hoạch năm là nhằm đảm bảo chắc chắn rằng doanh nghiệp sẽ đạt được những
chỉ tiêu về mức doanh số, lợi nhuận và những chỉ tiêu khác đã đề ra
trong kế hoạch năm của mình. Việc này gồm bốn bước: Thứ nhất, ban lãnh
đạo phải ấn định các mục tiêu marketing cho từng tháng hay từng quý. Thứ
hai, theo dõi kết quả thực hiện các chỉ tiêu đó trên thị trường. Thứ
ba, xác định những nguyên nhân không đạt được chỉ tiêu đề ra. Thứ tư là
tiến hành những biện pháp điều chỉnh để thu hẹp khoảng cách giữa chỉ
tiêu và kết quả thực hiện (hình ). Điều này có thể đòi hỏi phải thay đổi
chương trình hành động, hoặc thậm chí thay đổi các chỉ tiêu. Mô hình
kiểm tra này được áp dụng cho tất cả các cấp tổ chức.
Những người quản trị sử dụng năm
công cụ chủ yếu để kiểm tra kết quả thực hiện kế hoạch: Phân tích mức
tiêu thụ, phân tích thị phần, phân tích chi phí marketing trên doanh thu
bán hàng, phân tích tài chính và theo dõi mức độ hài lòng của khách
hàng.
Phân tích mức tiêu thụ
Phân tích mức tiêu thụ là lượng
định và đánh giá mức tiêu thụ thực tế so với chỉ tiêu về mức tiêu thụ dự
kiến. Phương pháp này sử dụng hai cộng cụ là phân tích độ chênh lệch
của mức tiêu thụ và phân tích mức tiêu thụ của từng địa bàn.
Phân tích độ chênh lệch của mức tiêu thụ
là đo phần đóng góp tương đối của các yếu tố khác nhau vào khoản chênh
lệch của kết quả tiêu thụ. Giả sử kế hoạch năm đòi hỏi phải bán được 500
sản phẩm với giá 1triệu đồng mỗi sản phẩm hay 500 triệu đồng. Đến cuối
năm chỉ bán được 400 sản phẩm với giá 0,9 triệu đồng mỗi sản phẩm, hay
360 triệu đồng. Độ chênh lệch của kết quả tiêu thụ là 160 triệu đồng hay
32% mức tiêu thụ dự kiến. Người quản trị marketing cần tìm hiểu xem
trong phần không đạt chỉ tiêu này có bao nhiêu phần là do giảm giá và
bao nhiêu phần là do giảm khối lượng sản phẩm ? Có thể giải thích vấn đề
này bằng kết quả tính toán sau:
Phần lớn của khoản chênh lệch mức
tiêu thụ là do không đạt chỉ tiêu khối lượng. Doanh nghiệp cần tìm hiểu
nguyên nhân vì sao không đạt được khối lượng tiêu thụ dự kiến.
Phân tích mức tiêu thụ của từng địa bàn
có thể giải thích vấn đề này. Thông qua việc phân tích khối lượng tiêu
thụ thực tế của từng địa bàn so với khối lượng tiêu thụ dự kiến tại mỗi
địa bàn đó, doanh nghiệp có thể biết được tổng khối lượng tiêu thụ bị
giảm sút chủ yếu là do địa bàn nào. Giả sử doanh nghiệp bán hàng trên
hai địa bàn A và B với mức tiêu thụ dự kiến tương ứng là 300 sản phẩm và
200 sản phẩm. Khối lượng tiêu thụ thực tế ở địa bàn A là 270 sản phẩm
và ở địa bàn B là 130 sản phẩm. Như vậy, ở địa bàn A thiếu 10% so với
mức tiêu thụ dự kiến của nó, còn ở địa bàn B thiếu đến 35%. Địa bàn B là
nguyên nhân gây ra sự thiếu hụt về mức tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp.
Phân tích thị phần
Mức tiêu thụ của doanh nghiệp
chưa thể hiện được sự thành công của doanh nghiệp trong mối quan hệ so
sánh với đối thủ cạnh tranh. Để đạt được mục đích này, doanh nghiệp cần
theo dõi thị phần của mình. Nếu thị phần của doanh nghiệp tăng, có nghĩa
là doanh nghiệp đang thành công hơn đối thủ, nếu thị phần của doanh
nghiệp giảm tức là doanh nghiệp đang kém hơn đối thủ cạnh tranh.
Việc so sánh thị phần của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh cần tiến hành theo bốn loại: thị phần tổng quát(tỉ lệ phần trăm mức tiêu thụ của doanh nghiệp trên tổng mức tiêu thụ của thị trường tính bằng đơn vị sản phẩm hay bằng tiền), thị phần mục tiêu(tỉ lệ phần trăm mức tiêu thụ của doanh nghiệp trong tổng mức tiêu thụ của thị trường mục tiêu), thị phần tương đối
so với ba đối thủ cạnh tranh lớn nhất (tỉ lệ phần trăm mức tiêu thụ của
doanh nghiệp trên tổng mức tiêu thụ của ba đối thủ cạnh tranh lớn
nhất), và thị phần tương đối so với
đối thủ cạnh tranh dẫn đầu thị trường (tỉ lệ phần trăm mức tiêu thụ của
doanh nghiệp trên tổng mức tiêu thụ của đối thủ cạnh tranh dẫn đầu).
Phân tích tỉ lệ chi phí marketing trên doanh thu bán hàng
Việc kiểm tra kế hoạch năm đòi
hỏi phải đảm bảo chắc chắn rằng doanh nghiệp không chi phí quá mức để
đạt được chỉ tiêu về mức tiêu thụ. Chỉ số chủ yếu cần theo dõi là tỉ lệ
chi phí marketing trên doanh thu bán hàng, gồm năm tỉ lệ chi phí thành
phần: chi phí cho lực lượng bán hàng trên doanh thu bán hàng, chi phí
quảng cáo trên doanh thu bán hàng, chi phí khuyến mãi trên doanh thu bán
hàng, chi phí nghiên cứu marketing trên doanh thu bán hàng, và chi phí
hành chính cho việc tiêu thụ trên doanh thu bán hàng. Những tăng giảm
qua các thời kỳ của từng chỉ số vượt ra ngoài giới hạn khống chế cần
phải được nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và biện pháp điều chỉnh.
Phân tích tài chính
Các tỉ số chi phí trên doanh thu
bán hàng cần được phân tích trong một khung cảnh tài chính chung để xác
định xem doanh nghiệp thu được tiền như thế nào và ở đâu. Những người
làm marketing sử dụng phương pháp phân tích tài chính để tìm ra những
chiến lược tạo ra lợi nhuận chứ không chỉ những chiến lược tạo ra mức
tiêu thụ. Ban lãnh đạo sử dụng phân tích tài chính để phát hiện những
yếu tố tác động đến mức lợi nhuận trên giá trị ròng của doanh nghiệp.
Trên hình 13.6 trình bày những dữ liệu minh họa những yếu tố chính ảnh
hưởng đến việc hình thành lợi nhuận của một doanh nghiệp. Doanh nghiệp
được 11,8% lợi nhuận trên giá trị ròng. Lợi nhuận trên giá trị ròng là
tích của hai tỉ số lợi nhuận trên tài sản và tỉ suất vốn vay. Để tăng
lợi nhuận trên giá trị ròng của mình, doanh nghiệp phải hoặc là tăng tỉ
số lãi ròng trên tài sản của mình, hoặc là tăng tỉ số tài sản trên giá
trị ròng. Doanh nghiệp cần phải phân tích thành phần tài sản của mình
(tiền mặt, nợ phải thu, hàng tồn kho, máy móc thiết bị) và xem có thể
cải tiến việc quản trị tài sản được không ?
Lợi nhuận trên tài sản là tích
của hai tỉ số mức lợi nhuận trên giá trị ròng hàng bán và lượng quay
vòng tài sản. Người làm marketing có thể cải thiện tình hình bằng hai
cách: tăng lợi nhuận bằng cách tăng mức tiêu thụ hay cắt giảm chi phí;
và tăng lượng quay vòng tài sản bằng cách tăng mức tiêu thụ hay giảm các
tài sản kém hiệu quả (hàng tồn kho quá mức, nợ phải thu) có ảnh hưởng
đến mức tiêu thụ đã xác định.
Theo dõi mức độ hài lòng của khách hàng
Những biện pháp kiểm tra trên đây
mang nặng tính chất tài chính và định lượng. Ngoài ra cần phải có những
chỉ tiêu định lượng báo động sớm cho ban lãnh đạo biết những biến động
thị phần sắp xảy ra. Một số doanh nghiệp đã thành lập những hệ thống
theo dõi thái độ và mức độ hài lòng của khách hàng, đại diện bán hàng và
những người đầu tư khác. Nhờ theo dỗi sự biến động về mức độ ưa chuộng
và hài lòng của khách hàng trước khi chúng kịp tác động đến mức tiêu
thụ, ban lãnh đạo có thể chủ động thi hành sớm hơn các biện pháp điều
chỉnh của mình.
Ngoài việc kiểm tra kế hoạch năm
ra, các doanh nghiệp còn phải đo lường khả năng sinh lời của các sản
phẩm, địa bàn, nhóm khách hàng, kênh phân phối và quy mô đặt hàng khác
nhau của họ. Thông tin này sẽ giúp ban lãnh đạo xác định những sản phẩm
hoặc hoạt động marketing nào cần được mở rộng, thu hẹp hay loại bỏ.
Việc phân tích khả năng sinh lời của marketing có thể tiến hành theo các bước sau đây:
- Phân tích báo cáo lời-lỗ theo
sản phẩm, địa bàn, nhóm khách hàng, kênh phân phối và quy mô đặt hàng
(doanh thu bán hàng, chi phí hàng bán, chi phí khác, lãi ròng).
- Giải trình các loại chi phí
(tổng chi phí, trong đó: lương, tiền thuê, vật tư phụ) theo các hoạt
động marketing chức năng (quảng cáo, bán hàng,...).
- Phân bổ chi phí các hoạt động marketing chức năng theo các kênh phân phối.
- Chuẩn bị báo cáo lời-lỗ cuả từng kênh phân phối (doanh thu bán hàng, chi phí hàng bán, chi phí khác, lãi ròng).
- Xác định các biện pháp điều chỉnh cần thiết nhằm nâng cao khả năng sinh lời, trên cơ sở các kết quả phân tích ở các bước trên.
Để giúp thẩm định các hoạt động
marketing, một số doanh nghiệp đã lập ra một chức vụ người kiểm tra
marketing. Những người kiểm tra marketing được huấn luyện cả về mặt tài
chíïnh lẫn marketing, và có thể thực hiện những công việc phân tích tài
chính phức tạp về các khoản chi phí marketing đã thực hiện và theo kế
hoạch.
Nhiều doanh nghiệp khi phân tích
khả năng sinh lời của mình nhận thấy rằng họ thu được rất ít lợi nhuận
từ các sản phẩm, địa bàn hay thị trường mục tiêu. Vấn đề đặt ra là cần
tìm kiếm những phương thức quản trị hiệu quả hơn lực lượng bán hàng,
quảng cáo, khuyến mãi và phân phối sản phẩm. Việc phân tích hiệu suất
của các yếu tố marketing đó cho phép tìm ra những điểm yếu kém của chúng
để thiết kế những giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động marketing của doanh nghiệp.
Hiệu suất của lực lượng bán hàng
Những người quản trị bán hàng cần
theo dõi những chỉ tiêu quan trọng sau đây về hiệu suất của lực lượng
bán hàng trên địa bàn họ phụ trách:
- Số lần tiếp xúc khách hàng của một nhân viên bán hàng trong một ngày.
- Thời gian trung bình của một lần tiếp xúc.
- Doanh thu trung bình tính trên một lần tiếp xúc.
- Chi phí trung bình của một lần tiếp xúc.
- Tỉ lệ phần trăm đơn đặt hàng trên 100 cuộc tiếp xúc.
- Số khách hàng mới trong một kỳ.
- Số khách hàng bị mất đi trong một kỳ.
- Chi phí của lực lượng bán hàng tính bằng tỉ lệ phần trăm của tổng doanh thu bán hàng.
Trên cơ sở phân tích các chỉ tiêu
về hiệu suất của lực lượng bán hàng, có thể phát hiện ra những vấn đề
cần cải tiến của hoạt động marketing này.
Hiệu suất quảng cáo
Trên thực tế rất khó đo lường
chính xác kết quả thu được bằng số tiền quảng cáo đã bỏ ra. Nhưng ít
nhất thì những người quản trị marketing cũng cần đánh giá các số liệu
thống kê sau đây:
- Chi phí quảng cáo trên 1000 khách hàng mục tiêu trong phạm vi bao quát của phương tiện truyền thông.
- Tỷ lệ phần trăm số công chúng chú ý, nhìn thấy / liên tưởng và đọc phần lớn nội dung quảng cáo.
- Dư luận người tiêu dùng về nội dung quảng cáo và hiệu quả quảng cáo.
- Thái độ của người tiêu dùng đối với sản phẩm trước và sau khi quảng cáo.
- Yêu cầu của người tiêu dùng tìm hiểu thông tin do quảng cáo kích thích.
- Chi phí trên một yêu cầu.
Ban lãnh đạo có thể thi hành một
số biện pháp để nâng cao hiệu suất quảng cáo, như làm tốt hơn việc xác
định vị trí sản phẩm, xác định mục tiêu của quảng cáo, thử nghiệm trước
thông điệp, sử dụng máy tính để lựa chọn phương tiện quảng cáo thích hợp
và có hiệu quả, và tiến hành kiểm tra sau quảng cáo.
Hiệu suất khuyến mãi
Có rất nhiều công cụ khuyến mãi
để kích thích người mua quan tâm và dùng thử sản phẩm. Để nâng cao hiệu
suất khuyến mãi, ban lãnh đạo cần theo dõi những chi phí và mức độ tác
động đến mức tiêu thụ của từng biện pháp khuyến mãi. Ban lãnh đạo cần
xem xét những số liệu thống kê:
- Tỷ lệ phần trăm khối lượng hàng đã bán theo hợp đồng.
- Chi phí trưng bày hàng tính trên một ngàn đồng doanh số bán.
- Tỷ lệ phần trăm phiếu mua hàng thu về.
- Số yêu cầu tìm hiểu thông tin do trình diễn đem lại.
Người quản trị khuyến mãi cần
phân tích các kết quả của những biện pháp khuyến mãi khác nhau và tư vấn
cho những người quản trị sản phẩm sử dụng những biện pháp khuyến mãi có
hiệu quả chi phí cao nhất.
Hiệu suất phân phối
Phân phối là một hoạt động cực kỳ
quan trọng nhằm đưa sản phẩm đến đúng địa điểm, đúng thời gian và đúng
khách hàng. Do đó, doanh nghiệp cần phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến
hoạt động phân phối sản phẩm để phát hiện vấn đề, làm cơ sở cho việc
thiết kế các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả phân phối. Có một
số công cụ để tăng cường kiểm tra dự trữ, cải thiện cách bố trí địa điểm
kho hàng và phương thức vận chuyển. Một vấn đề thường hay gặp phải là
hiệu suất phân phối có thể giảm khi doanh nghiệp tăng mạnh mức tiêu thụ.
Mức tiêu thụ tăng vọt có thểî làm cho doanh nghiệp không đảm bảo được
việc giao hàng đúng thời hạn. Tình hình đó đã làm cho khách hàng lan
truyền tin đồn xấu về doanh nghiệp. Và cuối cùng mức tiêu thụ lại tụt
xuống. Ban lãnh đạo đối phó bằng cách tăng mức khen thưởng cho lực lượng
bán hàng để đảm bảo có được nhiều đơn hàng hơn. Lực lượng bán hàng đã
làm được điều đó, thế nhưng một lần nữa doanh nghiệp lại không đảm bảo
được ngày giao hàng như đã hứa. Ban lãnh đạo cần thấy được khâu bị ách
tắc và đầu tư thêm vào năng lực sản xuất và phân phối. Tình huống đó
được thể hiện trên hình 13.7. Vòng tròn bên trái thể hiện trường hợp mức
tiêu thụ tăng vọt đã chuyển thành mức tiêu thụ giảm sút do giao hàng
chậm trễ. Vòng tròn bên phải thể hiện vấn đề chủ yếu là ban lãnh đạo
không đầu tư để tăng năng lực sản xuất và phân phối nhằm đáp ứng mức
tiêu thụ tăng vọt.
Marketing là một lĩnh vực chức
năng, trong đó các mục tiêu, chiến lược và chương trình luôn phải thích
ứng với những thay đổi nhanh chóng của thị trường. Sau mỗi thời gian
nhất định các doanh nghiệp cần đánh giá lại quan điểm chiến lược, mục
tiêu và hiệu quả của các hoạt động marketing để có những điều chỉnh cần
thiết.
Có hai công cụ cụ thể là đánh giá hiệu quả marketing và kiểm tra marketing.
Hiệu quả marketing không nhất
thiết được thể hiện ra bằng kết quả mức tiêu thụ và lợi nhuận hiện tại.
Kết qủa tốt của một chi nhánh cũng có thể là do chi nhánh đó được đặt
đúng chỗ và đúng lúc, chứ không hẳn là có một ban lãnh đạo marketing
giỏi. Việc cải tiến marketing ở các chi nhánh này có thể cho phép nâng
kết quả của hoạt động marketing. Chi nhánh cũng có thể có kết quả kém,
mặc dù có kế hoạch marketing hoàn hảo.
Hiệu quả marketing của một
doanh nghiệp hay chi nhánh được phản ánh qua mức độ nó thể hiện năm nội
dung chủ yếu của định hướng marketing: triết lý về khách hàng, tổ chức
các phối thức marketing (marketing-mix), thông tin marketing chính xác,
định hướng chiến lược và hiệu suất công tác. Các nội dung đánh giá hiệu
quả marketing được trình bày cụ thể như sau:
Triết lý về khách hàng
- Nhận thức của ban lãnh đạo về
tầm quan trọng của việc cần có một tổ chức doanh nghiệp có khả năng đáp
ứng tốt nhất những nhu cầu và mong muốn của các thị trường mục tiêu.
- Quan điểm của ban lãnh đạo về
thực hiện marketing có phân đoạn thị trường (phát triển những sản phẩm
khác nhau và triển khai những kế hoạch marketing khác nhau cho những
phân đoạn thị trường khác nhau).
- Quan điểm toàn diện của ban
lãnh đạo về hệ thống marketing (những người cung ứng, các kênh, các đối
thủ cạnh tranh, khách hàng, môi trường) khi lập kế hoạch kinh doanh của
mình.
Tổ chức marketing-mix
- Mức độ kết hợp marketing và kiểm tra những chức năng marketing chủ yếu.
- Mức độ hợp tác của những
người quản trị marketing với những người quản trị nghiên cứu, sản xuất,
cung ứng, phân phối và tài chính.
- Tổ chức quá trình phát triển sản phẩm mới.
Thông tin marketing chính xác
- Mức độ hiểu biết về khách
hàng, ảnh hưởng việc mua sắm, các kênh phân phối và đối thủ cạnh tranh
thông qua các cuộc nghiên cứu marketing.
- Mức độ am hiểu về tiềm năng
tiêu thụ, khả năng sinh lời của các phân đoạn thị trường, các khách
hàng, địa bàn, sản phẩm, kênh phân phối và quy mô đơn hàng.
- Những hoạt động đã triển khai để nâng cao hiệu quả chi phí của các khoản chi phí marketing khác nhau.
Định hướng chiến lược
- Mức độ và phạm vi triển khai việc lập kế hoạch marketing chính thức.
- Tình trạng hiện tại của chiến lược marketing.
- Mức độ chủ động xây dựng và
thực hiện kế hoạch đối phó với những tình huống bất trắc trong quá trình
thực hiện chiến lược marketing.
Hiệu suất công tác
- Tình hình quán triệt và thực hiện chiến lược marketing.
- Mức độ sử dụng có hiệu quả những nguồn tài nguyên marketing.
- Khả năng phản ứng nhạy bén và có hiệu quả của ban lãnh đạo đối với những biến động diễn ra trong các hoạt động marketing.
Những doanh nghiệp phát hiện
thấy những điểm yếu kém trong hoạt động marketing khi áp dụng công cụ
đánh giá hiệu quả marketing cần tiến hành nghiên cứu kỹ hơn bằng cách
kiểm tra marketing.
Kiểm tra marketing là việc kiểm
tra định kỳ, độc lập, có hệ thống, toàn diện môi trường marketing, mục
tiêu, chiến lược và hoạt động của một doanh nghiệp, hay đơn vị kinh
doanh, nhằm xác định những lĩnh vực có vấn đề và những cơ hội, đề xuất
kế hoạch hành động nhằm nâng cao thành tích marketing của doanh nghiệp.
Đặc điểm của kiểm tra marketing
- Toàn diện.Kiểm
tra marketing bao quát tất cả mọi hoạt động marketing chủ yếu của một
doanh nghiệp, chứ không chỉ đơn thuần kiểm tra các chức năng marketing
riêng lẻ như kiểm tra lực lượng bán hàng, định giá hay các hoạt động
marketing khác. Mặc dù kiểm tra chức năng là bổ ích, đôi khi nó làm cho
ban lãnh đạo hiểu nhầm nguyên nhân của vấn đề. Ví dụ, tình trạng biến
động nhân sự quá mức trong lực lượng bán hàng có thể là một triệu chứng
của tình trạng sản phẩm và khuyến mãi yếu kém của doanh nghiệp, chứ
không phải của tình trạng huấn luyện chưa chu đáo hay thù lao thấp đối
với lực lượng bán hàng. Kiểm tra marketing toàn diện thườìng có hiệu quả
hơn trong việc xác định nguyên nhân thực tế của vấn đề marketing của
doanh nghiệp.
- Hệ thống.Kiểm
tra marketing bao gồm một chuỗi những bước chẩn đoán theo một trình tự
nhất định, bao quát toàn bộ môi trường marketing vĩ mô và vi mô của tổ
chức, các mục tiêu và chiến lược marketing, các hệ thống và những hoạt
động marketing cụ thể. Kết quả chẩn đoán chỉ ra những cải tiến cần thiết
nhất. Chúng được thể hiện thành một kế hoạch các biện pháp chấn chỉnh,
cả ngắn hạn lẫn dài hạn, để nâng cao hiệu quả marketing chung của tổ
chức.
-Độc lập.Kiểm
tra marketing có thể được tiến hành theo sáu cách: tự kiểm tra, kiểm
tra chéo, kiểm tra từ trên xuống, bộ phận kiểm tra của doanh nghiệp, lực
lượng đặc nhiệm kiểm tra của doanh nghiệp, và thuê kiểm tra từ bên
ngoài. Tự kiểm tra, tức là những người quản trị sử dụng một hệ thống các
tiêu chuẩn kiểm tra để đánh giá các hoạt động của chính mình, có thể có
ích, nhưng phần lớn các chuyên gia đều nhất trí rằng tự kiểm tra thiếu
tính khách quan và độc lập., nói chung kiểm tra tốt nhất là do cố vấn
thuê từ bên ngoài thực hiện để đảm bảo tính khách quan cần thiết, có
kinh nghiệm sâu rộng về một số ngành, có hiểu biết nhất định về ngành cụ
thể đó, và dành toàn bộ thời gian và tâm trí vào việc kiểm tra.
- Định kỳ.Thông
thường kiểm tra marketing chỉ tiến hành sau khi nhận thấy mức tiêu thụ
giảm xuống, tinh thần của lực lượng bán hàng sa sút, và có những vấn đề
khác của doanh nghiệp phát sinh. Có khá nhiều doanh nghiệp bị lâm vào
tình trạng khủng hoảng một phần là vì họ không rà soát lại các hoạt động
marketing của mình trong một thời gian khá dài. Kiểm tra marketing định
kỳ có thể có ích cho cả những doanh nghiệp lành mạnh cũng như những
doanh nghiệp gặp rắc rối. Theo A. Shuchman, “Không có hoạt động
marketing nào lại luôn luôn tốt đến mức là không thể cải tiến thêm được
nữa. Ngay cả hoạt động tốt nhất cũng có thể làm tốt hơn. Trong thực tế,
ngay cả cái tốt nhất cũng cần phải tốt hơn nữa. Chỉ đối với một vài hoạt
động marketing, nếu có, là có thể vẫn tiếp tục thành công trong nhiều
năm liền mà không cần cải tiến gì".
Ban lãnh đạo doanh nghiệp cần
định rõ mục tiêu, phạm vị, chiều sâu, nguồn số liệu, biểu mẫu báo cáo và
thời gian tiến hành việc kiểm tra marketing. Cần có một kế hoạch chi
tiết về các đối tượng sẽ phỏng vấn, thiết kế bảng câu hỏi, thời gian và
địa điểm tiến hành,... để đảm bảo thời gian và chi phí kiểm tra ở mức
tối thiểu. Một nguyên tắc cơ bản trong kiểm tra marketing là không được
phép chỉ dựa vào những số liệu và ý kiến do những người quản trị của
doanh nghiệp cung cấp, mà phải phỏng vấn khách hàng, đại diện bán hàng
và các nhóm công chúng khác.
Nội dung của kiểm tra marketing
Kiểm tra marketing bao gồm sáu
vấn đề chủ yếu: kiểm tra môi trường marketing, chiến lược marketing, tổ
chức marketing, hệ thống marketing, hiệu quả marketing, và chức năng
marketing.
Kiểm tra môi trường marketing
Môi trường vĩ mô
-Nhân khẩu học.Những
diễn biến và xu hướng chủ yếu tạo ra những cơ hội,đe dọa đối với doanh
nghiệp. Những biệp pháp để đối phó với những diễn biến và xu hướng đó.
-Kinh tế.Những
thay đổi chủ yếu về thu nhập, giá cả, tiết kiệm và tín dụng tác động
đến doanh nghiệp. Những biệp pháp để đối phó với những thay đổi đó.
-Sinh thái.Xu
hướng thay đổi về chi phí và mức độ sẵn có của các nguồn tài nguyên
thiên nhiên và năng lượng cần thiết cho doanh nghiệp. Mức độ quan tâm
của doanh nghiệp đến tình trạng ô nhiễm và các biện pháp đã áp dụng để
bảo vệ môi trường.
-Công nghệ.Những
thay đổi chủ yếu trong công nghệ sản xuất, và vị trí của doanh nghiệp
về công nghệ đó cũng như những sản phẩm có thể thay thế của nó.
-Chính trị.Những
thay đổi về luật pháp và các qui định về kiểm soát ô nhiễm, đảm bảo cơ
hội kiếm việc làm, an toàn sản phẩm, quảng cáo, kiểm soát giá cả,...có
thể tác động đến chiến lược và chương trình marketing.
-Văn hóa.Thái
độ của công chúng đối với doanh nghiệp và sản phẩm của nó. Những thay
đổi nào về lối sống và quan niệm giá trị của khách hàng có thể tác động
đến doanh nghiệp.
Môi trường vi mô
-Thị trường.Những
thay đổi của thị trường về qui mô, mức độ tăng trưởng, phân bố địa lý
và mức lợi nhuận. Các phân đoạn thị trường chủ yếu của doanh nghiệp.
-Khách hàng.Những
nhu cầu và tiến trình mua sắm của các nhóm khách hàng khác nhau. Đánh
giá của khách hàng hiện có và khách hàng tiềm năng đối với doanh nghiệp
và các đối thủ cạnh tranh về danh tiếng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ,
lực lượng bán hàng và giá cả.
-Đối thủ cạnh tranh.Những
đối thủ cạnh tranh chủ yếu và mục tiêu, chiến lược, điểm mạnh, điểm
yếu, qui mô và thị phần của họ. Những üxu hướng ảnh hưởng đến tình hình
cạnh tranh và những sản phẩm thay thế.
- Phân phối.Những kênh phân phối chính, hiệu suất và tiềm năng phát triển của chúng.
-Người cung ứng.Khả năng của những người cung ứng về các yếu tố sản xuất chủ yếu, và xu hướng thay đổi của họ trong tương lai.
-Các dịch vụ hỗ trợ.Xu
hướng thay đổi về chi phí và mức độ sẵn có của dịch vụ vận tải, cơ sở
kho bãi và các nguồn tài chính. Mức hiệu quả nghiên cứu marketing và
quảng cáo của doanh nghiệp.
-Công chúng.Ảnh
hưởng của các nhóm công chúng và các biện pháp của doanh nghiệp nhằm
giao dịch có hiệu quả với các nhóm công chúng khác nhau đó.
Kiểm tra chiến lược marketing
-Nhiệm vụ của doanh nghiệp.Hoạt động marketing của doanh nghiệp có định hướng theo thị trường hay không, và mức độ khả thi của nhiệm vụ đó.
-Mục tiêu marketing và các chỉ tiêu.Những
mục tiêu và chỉ tiêu marketing làm cơ sở cho việc hoạch định kế hoạch
marketing và đo lường kết quả. Mức độ phù hợp của các mục tiêu marketing
với vị trí cạnh tranh, nguồn lực và cơ hội của doanh nghiệp.
-Chiến lược.Mức
độ rõ ràng và thuyết phục của chiến lược marketing. Mức độ phù hợp của
chiến lược với các giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm. Các tiêu chuẩn
đánh giá và lựa chọn thị trường mục tiêu, và các đặc điểm của các thị
trường mục tiêu đó. Phân bổ các nguồn lực cho các yếu tố của marketing
-mix và hiệu quả của chúng.
Kiểm tra tổ chức marketing
-Cơ cấu tổ chức.Mức
độ phân quyền và giao trách nhiệm cho người phụ trách marketing phù hợp
đến đâu với yêu cầu thỏa mãn tốt nhất mong muốn của khách hàng. Hình
thức tổ chức bộ phận marketing (theo chức năng, sản phẩm , địa bàn, thị
trường hay người sử dụng cuối cùng)
- Hiệu suất theo chức năng.Mối
quan hệ thông tin và hợp tác giữa các bộ phận marketing và tiêu thụ.
Hình thức lập kế hoạch trong quản trị sản phẩm (lập kế hoạch lợi nhuận
hay lập kế hoạch tiêu thụ).
- Hiệu suất giao tiếp.Những
vấn đề cần quan tâm giữa các chức năng marketing và sản xuất, nghiên
cứu và phát triển, cung ứng, tài chính, kế toán và pháp lý.
Tổ chức thực hiện marketing là tiến
trình chuyển các chiến lược và chương trình marketing thành những hoạt
động thực tế nhằm thành đạt các mục tiêu marketing một cách có hiệu quả.
Thực chất, là trả lưòi các câu hỏi : ai, ở đâu, khi nào, và làm thế nào để biến các ý tưởng chiến lược marketing trở thành hiện thực.
Tiến trình thực chiến lược và
chương trình marketing bao gồm năm hoạt động tương tác: Triển khai
chương trình hành động (xác định các công việc và trách nhiệm, lập kế
hoạch tiến độ công việc ), xây dựng cơ cấu tổ chức hiệu quả (xác định và
phân chia nhiệm vụ cho từng bộ phận và nhân viên cụ thể, thiết lập
những tuyến thẩm quyền và mối liên hệ, phối hợp các quyết định và hoạt
động của các bộ phận), thiết kế các hệ thống quyết định và tưởng thưởng
(thủ tục và tiêu chuẩn hoá các quyết định và công việc thực hiện), phát
triển nguồn lực con người (tuyển mộ, phát triển, phân công và động viên
nhân viên), thiết lập một bầu không khí quản trị và văn hóa của doanh
nghiệp (phong cách lãnh đạo hay cách thức hợp tác trong công việc chung,
hệ thống các giá trị và niềm tin mà mọi người cùng chia xẻ ).
Trong qúa trình phát triển, bộ phận
marketing đã trải qua năm giai đoạn : Bộ phận bán hàng đơn giản, bộ
phận bán hàng kiêm các chức năng marketing, bộ phận marketing riêng
biệt, bộ phận marketing hiện đại,công ty marketing hiện đại.
Những hình thức tổ chức bộ phận
marketing hiện đại cho phép bộ phận marketing phục vụ được theo bốn
chiều cơ bản của hoạt động marketing: tổ chức theo chức năng, tổ chức
theo khu vực địa lý, tổ chức theo sản phẩm và tổ chức theo thị trường.
Công việc của bộ phận marketing là
lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra hoạt động marketing. Kiểm tra
marketing có thể phân thành bốn loại: Kiểm tra kế hoạch năm, kiểm tra
khả năng sinh lời, kiểm tra hiệu quả và kiểm tra chiến lược .
Kiểm tra kế hoạch năm là việc kiểm
tra quá trình thực hiện và kết quả đạt được dựa trên kế hoạch năm (
thông qua việc phân tích tài chính, mức tiêu thu, thị phần, tỉ số doạnh
thu trên chi phí, theo dõi mức độ hài lòng của khách hàng ), xác định
những nguyên nhân không đạt được mục tiêu và tiến hành những điều chỉnh
cần thiết nhằm đảm bảo hoàn thành kế hoạch đề ra.
Kiểm tra khả năng sinh lời bao gồm
những nỗ lực xác định khả năng sinh lợi đích thực của các sản phẩm, các
khu vực, các thị trường, và các kênh phân phối khác nhau qua việc phân
tích báo cáo lời-lỗ (doanh thu, chi phí hàng bán, chi phí khác, lãi
ròng), đánh giá các loại chi phí (tổng chi phí, trong đó: lương, tiền
thuê, vật tư phụ) theo các hoạt động marketing chức năng và phân bổ chi
phí các hoạt động marketing chức năng theo các kênh phân phối, và xác
định các biện pháp chấn chỉnh nhằm nâng cao khả năng sinh lời.
Kiểm tra hiệu suất của lực lượng
bán hàng, quảng cáo, phân phối và khuyến mãi.. Trên cơ sở, có thể phát
hiện ra những vấn đề cần cải tiến để nâng cao hiệu suất chi phí của các
hoạt động marketing này.
Kiểm tra chiến lược bao gồm việc
khảo sát định kỳ để biết những chiến lược cơ bản của doanh nghiệp khai
thác như thế nào những cơ hội marketing ( bằng các công cụ đánh giá hiệu quả marketing
thể hiện ở triết lý về khách hàng, tổ chức các phối thức marketing,
thông tin marketing chính xác, định hướng chiến lược và hiệu suất công
tác), và kiểm tra marketing gồm sáu
vấn đề chủ yếu: kiểm tra môi trường marketing, chiến lược marketing, tổ
chức marketing, hệ thống marketing, hiệu quả marketing, và chức năng
marketing.).
CÂU HỎI
1. Để thực thi chiến lược marketing một cách có hiệu quả, doanh nghiệp cần phải tiến hành những công việc gì ?
2. Ưu, nhược điểm và các điều kiện để tổ chức bộ phận marketing :
a) theo chức năng;
b) theo địa lý;
c) theo sản phẩm;
d) theo thị trường ?
3. Mục đích và nội dung của kiểm tra kế hoạch marketing hàng năm ?
4. Nội dung của kiểm tra khả năng sinh lời của các hoạt động marketing ?
5. Nội dung kiểm tra hiệu suất của lực lượng bán hàng, quảng cáo, khuyến mãi, kênh phân phối ?
6. Phân tích quan điểm đánh giá
hiệu quả marketing của doanh nghiệp qua năm nội dung chủ yếu của định
hướng marketing: triết lý về khách hàng, tổ chức các phối thức
marketing, thông tin marketing chính xác, định hướng chiến lược và hiệu
suất công tác.
7. Khái niệm và đặc điểm của kiểm tra marketing ?
8. Trình bày những nội dung chủ yếu của kiểm tra marketing: môi trường marketing, chiến lược marketing, tổ chức marketing ?
0 nhận xét:
Đăng nhận xét