Thứ Năm, 29 tháng 10, 2015
Những lý do khiến tôn giáo chưa bị tiêu vong
07:29
Hoàng Phong Nhã
No comments
“Liệu chúng ta có đủ nhìn thấy
vẻ đẹp của khu vườn mà không cần tin rằng có những vị tiên nằm trong
những bông hoa?” (Doulas Adams). Thế giới chúng ta đang sống vốn mang vẻ
đẹp vô tận của nó. Và chúng ta không cần những điều kỳ diệu hay các thế
lực siêu nhiên để làm cho cho thế giới tốt đẹp hơn.
Tôn
giáo ở bài viết này được nói đến chủ yếu là đạo Thiên chúa
(Christianity) và đạo Hồi (Islam) mặc dù có thể áp dụng với tất cả tôn
giáo trên thế giới. Hai đạo này có chung một đặc điểm là tôn thờ một đơn
thần mà trong đạo Thiên chúa gọi là Chúa. Đạo Phật là một tôn giáo đặc
biệt. Chúng ta có lý do để coi đạo Phật là một hệ thống đạo đức, triết
lý của cuộc sống.
Pascal là một nhà toán học lỗi lạc người
Pháp vào thế kỷ 18. Ông cũng là người sùng đạo. Ông lập luận cho niềm
tin tôn giáo của mình: “Nếu bạn tin vào Chúa, và chúa có thật, bạn sẽ
được phù hộ. Nếu không thì bạn không mất gì cả. Nếu bạn không tin vào
Chúa và Chúa không tồn tại, bạn cũng không được cái gì. Còn nếu Chúa tồn
tại thì bạn sẽ bị trừng phạt. Nói tóm lại, chúng ta nên tin vào Chúa.”
Mặc dù đây chỉ là câu nói vui của Pascal để minh họa cho tư duy logic vì
ông cũng là một nhà logic học, nhiều người vẫn dùng lập luận này để bảo
vệ cho niềm tin của mình. Chắc các bạn cũng nhận thấy, bằng lập luận
logic là cho dù bạn có theo đạo hay không theo đạo, Chúa (nếu tồn tại)
cũng sẽ đối xử với tất cả mọi người như nhau.
Nếu Chúa (theo quan niệm của tôn giáo)
là một người có trí tuệ vô biên, Chúa sẽ nhận thấy rằng nếu bạn không
tin vào Người thì đó là sự nghi ngờ mang tính khoa học, hợp lý mà bất
cứ một người biết suy nghĩ nào cũng có thể có. Còn đối với những người
theo đạo, thì đấy chỉ đơn thuần là niềm tin mà không có căn cứ vững
chắc.
Không ai đã từng nhìn thấy Chúa hay chắc
chắn rằng Chúa có tồn tại hay không. Chúng ta sống trên thế giới bằng
lý lẽ chứ không phải bằng niềm tin. Nếu Chúa đúng thật là tồn tại thì
Người hiểu rõ hơn ai hết điều này. Và nếu Chúa muốn mọi người tin vào
mình thì Người đã có rất nhiều cơ hội để chứng tỏ sự tồn tại của mình.
Nhưng Chúa đã không làm thế. Tại sao rất nhiều người trên thế giới vẫn
tin vào tôn giáo? Xét cho cùng, mục đích của tôn giáo là truyền đạt
những giá trị đạo đức của mình. Chúa chỉ là một hình tượng để giải thích
sự tồn tại và phát triển của thế giới, là cơ sở để các nhà lãnh đạo tôn
giáo truyền đạt tư tưởng của mình. Các lý lẽ để bác bỏ sự tồn tại của
Chúa được Richard Dawkins đưa ra trong cuốn sách thuộc loại best seller
“The God Delusion”. Trong bài viết này, chúng ra sẽ tìm hiểu các yếu tố
làm cho con người từ rất nhiều thế kỷ nay tin vào tôn giáo.
Thuyết chọn lọc tự nhiên & giải thích cho niềm tin tôn giáo
Lý thuyết tiến hóa của Darwin là một
công cụ tuyệt vời để giải thích sự phát triển của mọi sinh vật và xã hội
loài người. Nó có tác động rất lớn đến nhận thức của con người về thế
giới tự nhiên. Trong thuyết tiến hóa, chọn lọc tự nhiên là công cụ để
sinh vật phát triển các đặc tính giúp thích nghi với môi trường sống.
Các con thú săn mồi thường có bộ vuốt sắc, nhọn và một sức mạnh vượt
trội. Các con mồi của nó thì cũng biết chạy nhanh và có giác quan nhạy
bén để trốn thoát. Tất cả là do chọn lọc tự nhiên qua hàng nghìn, hàng
triệu năm. Chúng ta sẽ dựa trên lý thuyết chọn lọc tự nhiên để tìm hiểu
về tôn giáo.
Con người là sản phẩm của tiến hóa. Và
trong quá trình tiến hóa, sự chọn lọc tự nhiên đã dần dần đào thải những
gien xấu hay những đặc tính không phù hợp với sự phát triển, tồn tại
của con người và vun đắp những yếu tố tốt. Lấy một ví dụ đơn giản: tại
sao chúng ta lại thích sex? Tôi không nói về vấn đề đạo đức hay tâm lý
xã hội ở đây. Đứng trên quan điểm sinh học của thuyết Darwin thì sex là
một hoạt động có ích cho việc duy trì sự sống và do đó gien này sẽ được
củng cố và phát triển. Những người thích sex sẽ có nhiều con hơn và do
đó sẽ có nhiều cơ hồi truyền gien “sex” cho các thế hệ sau. Những người
không thích sex sẽ có ít con hoặc không có con, và do đó sẽ dần dần bị
diệt vong.
Vậy thì tôn giáo có vai trò thế nào
trong sự phát triển của xã hội? Chúng ta biết rằng các hoạt động tôn
giáo gây ra sự lãng phí to lớn với xã hội, mà theo lý thuyết chọn lọc
tự nhiên của Darwin thì nó phải bị đào thải. Một cách giải thích của
Darwin là lý thuyết chọn lọc nhóm (group selection). Tôn giáo tồn tại
được là do sự tạo thành các nhóm tôn giáo và những nhóm này sẽ thống
trị, mở rộng, lấn át các nhóm khác. Bằng việc gắn kết các thành viên
bằng sự trung thành, đồng chí, tương ái, các nhóm tôn giáo sẽ bành
trướng, lấn át những nhóm không theo tôn giáo. Lấy một ví dụ đơn giản.
Một bộ lạc tôn thờ thần chiến tranh mà theo họ sẽ phù hộ những chiến
binh dũng cảm sẽ có nhiều khả năng chiến thắng bộ lạc mà luôn tôn thờ
thần hòa bình. Các chiên binh của bộ lạc “chiến tranh” sẽ chiến đấu dũng
cảm hơn vì họ tin rằng một cuộc sống tốt đẹp đang chờ đợi họ trên thiên
đường. Bộ lạc “chiến tranh” này sẽ dần dần chinh phục các bộ lạc khác
và truyền bá thần chiến tranh của mình. Các cuộc thập tự chinh của người
Thiên chúa giáo hay các cuộc chiến tranh tôn giáo của đạo Hồi là minh
chứng rõ nhất của hiện tượng này.
Nhưng giải thích này cũng không vững
chắc. Trong cuốn sách “The selfish gene” của Richard Dawkins, ông cho
rằng chọn lọc tự nhiên chỉ ủng hộ và vun đắp những gien có ích cho cá
thể chứ không phải cộng đồng. Trở lại ví dụ của bộ lạc “chiến tranh” ở
trên. Giả sử như trong bộ lạc có một người không tin vào thần chiến
tranh và anh ta luôn muốn bảo toàn mạng sống và không chiến đấu dũng cảm
như những người bạn của mình. Người lính này sẽ có nhiều cơ hội sống
sót hơn và có nhiều cơ hội truyền gien “hèn nhát” của mình cho các thế
hệ sau. Và do đó niềm tin vào thần chiến tranh sẽ không còn môi trường
để phát triển.
Tôn giáo là một sản phẩm phụ (by-product)
Đây có lẽ là khái niệm trung tâm để giải
thích nguồn gốc và sự thống trị của tôn giáo trong xã hội loài người.
Trước hết hãy phân tích một hiện tượng của thế giới loài vật. Chúng ta
thường nhìn thấy các con bướm đêm (moth) bay thẳng vào các ngọn nến hay
đèn nê-ông để rồi bị chết cháy. Đây chắc chắn không phải là một tai nạn
mà là do một đặc tính nào đó của con bướm đêm. Và loài bướm đêm thì
không có đặc tính “tự tử” vì như vậy là đi ngược lại với chọn lọc tự
nhiên và sẽ bị đào thải. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và nhận ra rằng,
loài bướm đêm thường tìm đường bằng cách định vị hướng đi so với chiều
của tia sáng mặt trời. Cấu trúc mắt của bướm đêm cho phép nó đo được
hướng của ánh sáng đi vào mắt. Như vậy thì con bướm đêm có thể tìm đường
đi theo kiểu: bay theo hướng 45 độ so với tia sáng.
Bởi vì mặt trời lớn hơn trái đất rất
nhiều, tia sáng từ mặt trời là tương đối song song nên con bướm đêm có
thể định vị chính xác đường đi của mình. Nhưng ánh sáng phát ra từ các
vật dụng chiếu sáng nhân tạo như đèn nến là không song song. Giả sử rằng
ánh sáng phát ra từ một ngọn đèn là đồng tâm, nếu con bướm đêm luôn bay
theo hướng tạo với ánh sáng một góc V không đổi, đường bay của nó sẽ
theo hình soắn ốc dần dần đi thẳng vào tâm của nguồn sáng. Bằng các phép
tính lô-ga-rit đơn giản các bạn có thể xác nhận điều này. Vậy thì tại
sao loài bướm đêm trong quá trình tiến hóa của mình lại lưu giữ một đặc
tính chết người này. Câu trả lời là đặc tính định vị bằng tia sáng là
một đặc tính tốt, còn việc bị chết do gặp ngọn đèn chỉ là một
by-product. Chúng ta chỉ nhìn thấy những con bướm đêm bị chết do gặp
phải ngọn đèn mà không biết có rất nhiều con bướm đêm khác ngoài thiên
nhiên đi lại một cách an toàn nhờ đặc tính này. Việc gặp một ngọn đèn là
rất hiếm so với việc gặp tia sáng của trăng, sao hay mặt trời. Niềm tin
vào tôn giáo là một sản phẩm phụ của một đặc tính có ích, lớn hơn của
loài người.
Khi bạn còn trẻ, bạn luôn tin vào người
lớn: ông bà, cha mẹ,… mặc dù họ có thể sai. Nếu mẹ bạn bảo bạn không nên
bơi ở sông, đó là lời khuyên tốt. Nhưng nếu ông bố mê tín nào đó khuyên
con mình nên cúng tế cho mùa màng tốt tươi thì việc đó chỉ làm lãng phí
thời gian, tiền bạc. Khác những sinh vật khác, chúng ta sống nhờ tích
lũy kinh nghiệm từ những thế hệ trước và những kinh nghiệm này được
truyền đạt cho thế hệ sau để chúng tự bảo vệ và tiến bộ. Một điều tốt
cho não của trẻ con khi luôn luôn tuân theo quy tắc: nghe theo tất cả
những gì người lớn nói. Nghe lời bố mẹ, ông bà, nghe lời người lớn, đặc
biệt những người có địa vị trong xã hội, tin tưởng những người đi trước
không một chút thắc mắc, nghi ngờ là một đặc tính cố hữu của loài người.
Điều này rất có giá trị đối với trẻ con, nhưng như những con bướm đêm,
đôi khi đó là một sự sai lầm. Trong chiến tranh, một điều tối quan trọng
là quân lính luôn luôn tuân lệnh chỉ huy một cách tuyệt đối. Đôi khi
mệnh lệnh là sai lầm, nhưng việc cho phép mỗi người lính tự hành động
theo suy nghĩ của mình còn dẫn đến tác hại lớn hơn.
Trên quan điểm của một nhà lãnh đạo, một
người lính phải hành động càng giống một cái máy càng tốt. Máy tính làm
những việc được lập trình. Đôi khi những chương trình máy tính gây tác
hại, như virus, spyware. Nhưng một máy tính không thể phân biệt lệnh nào
là lệnh tốt, lệnh nào là xấu.
Vậy thì một máy tính chỉ trở nên có ích
nếu nó làm theo bất cứ dòng lệnh nào được cài trong máy. Dù sao thì
những phần mềm, chương trình có hại là rất nhỏ so với những thứ có ích.
Chúng ta có thể nhận thấy một điểm giống
nhau trong các ví dụ ở trên. Đó là việc tuân theo một quy tắc có ích
nhất định mà đôi khi quy tắc ấy có thể dẫn đến nguy hiểm. Quá trình chọn
lọc tự nhiên đã tạo ra một tâm lý trong não của trẻ con là tin tưởng
tuyệt đối vào tất cả những gì bố mẹ hoặc trưởng tộc nói.
Nó tạo ra một loại virus tư tưởng được
truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác. Một đứa trẻ không thể phân biệt
được lời khuyên phải rửa sạch hoa quả trước khi ăn so với việc phải cầu
nguyện một ngày năm lần. Cái nào nghe cũng có lý như nhau. Và khi đứa
trẻ lớn lên lại truyền các kinh nghiệm này cho con của mình. Điều tương
tự có thể áp dụng đối với các kinh nghiệm, kiến thức về thiên nhiên, vũ
trụ, tôn giáo. Và ngay cả khi lớn lên, chúng ta cũng rất khó phân biệt
những gì đúng, sai để bác bỏ những kinh nghiệm học được từ bé.
Các nhà lãnh đạo tôn giáo hiểu rất rõ
điều này. Họ luôn coi những người trẻ tuổi là đối tượng chính để truyền
đạo. Những gì trẻ con được dạy từ hồi bé sẽ tác động rất lớn đến nhận
thức sau này. Hầu hết những người theo đạo đã được bố mẹ “truyền giáo”
từ khi còn bé (khái niệm mà Dawkins gọi là “childhood indoctrination”).
Ngay cả đối với người lớn thì việc nghe theo những người được cho là
hiểu biết, tài giỏi hơn mình cũng là một đặc tính di truyền. Và một khi
đã theo một tôn giáo nào đó sẽ rất khó để nghĩ rằng mình nên từ bỏ và từ
bỏ bằng cách nào. Việc theo tôn giáo nào chỉ là vấn đề về địa lý. Nếu
bạn sinh ra ở Mỹ, bạn sẽ theo Thiên Chúa giáo và cho rằng đạo Hồi là
xấu. Điều ngược lại nếu bạn sinh ra ở Afghanistan.
Quan điểm của khoa học nhận thức (cognitive science)
Stephen Jay Gould đề xuất một khái niệm
gọi là spandrel để chỉ những đặc tính phụ trội. Ban đầu spandrel là một
thuật ngữ trong kiến trúc để chỉ cấu trúc hình chữ V nằm giữa hai vòm.
Spandrel vốn không có chức năng nhất định, chỉ là một sản phẩm phụ khi
hai khung vòm được đặt gần nhau. Màu đỏ của máu cũng là một spandrel.
Chức năng của máu là vận chuyển oxy đi khắp cơ thể. Màu đỏ chỉ là do máu
có chứa hemoglobin. Nó không giúp ích cho sự sống của con người.
Trong kiến trúc, spandrel có thể có ích
hoặc không có tác dụng. Khi xây dựng cầu thang, nếu chúng ta tận dụng
không gian bên dưới gầm cầu thang để dùng làm kho chứa đồ, cấu trúc
spandrel hình tam giác này trở nên hữu dụng. Liệu chúng ta có thể dùng
spandrel để giải thích sự tồn tại và phát triển của tôn giáo?
Cuộc sống khó khăn của con người thửa
hoang sơ đã phát triển ba đặc điểm về tư duy của con người để thích ứng
với môi trường sống.
Đặc điểm thứ nhất là xu hướng gắn kết sự
việc với một tác nhân tạo ra nó của tư duy con người. Khi một đứa trẻ
nhìn thấy một sự vật gì đó, nó thường có suy nghĩ là sự việc này do ai
đó gây ra và có mục đích nhất định. Ví dụ: khi nhìn đám lá cây động đậy,
con người thường suy đoán đó là do một con vật nào đó tạo ra. Theo
thuyết chọn lọc tự nhiên của Darwin, điều này là hợp lý cho sự phát
triển và tồn tại của con người. Với người tiền sử việc suy đoán một đám
lá động đậy là do một con báo, điều này sẽ cứu mạng anh ta nếu đúng như
vậy. Còn nếu suy đoán đó chỉ là do gió nhưng đó là con báo thật, anh ta
sẽ chết. Người ta dễ nhầm một tảng đá trong rừng là một con gấu nhưng ít
ai nhầm một con gấu là một tảng đá.
Lập luận của Pascal về sự tồn tại của
Chúa trở nên đúng hơn bao giờ hết. Nếu chúng ta tin vào Chúa, chúng ra
sẽ không mất gì cả. Nếu chúng ta không tin nhưng chúa lại có thật, chúng
ta sẽ gặp rắc rối lớn.
Điều này có nghĩa gì với tôn giáo. Tư
duy con người luôn có xu hướng gắn kết các sự vật hiện tượng tự nhiên
với một tác nhân nào đó tạo ra chúng. Đây là điều kiện hoàn hảo để tôn
giáo tồn tại và phát triển với hình tượng Chúa với sức mạnh siêu nhiên
đã tạo ra mọi vật.
Một đặc tính khác của tư duy con người
là tư duy nguyên nhân – sự việc. Đứng trước bất cứ sự việc nào diễn ra,
chúng ta có xu hướng tưởng tượng diễn biến từ lúc bắt đầu cho đến khi
kết thúc. Khi gặp một việc gì đó, chúng luôn tìm kiếm một sự lý giải,
mà ít khi nghĩ đó là ngẫu nhiên. Chúa, với sức mạnh siêu nhiên là một sự
lý giải lý tưởng cho nhiều hiện tượng bất thường, khó giải thích.
Người Hy Lạp cổ đại tin rằng sấm sét là do thần Zeus nổi dận.
Một người phụ nữ hiện đại khi được chữa
khỏi bệnh ung thư mà tỉ lệ sống sót là 1/10 thường tìm kiếm một sự lý
giải mang tính siêu nhiên. Bà ta có thể cho rằng đó là phần thưởng cho
việc cầu nguyện của mình mà không nghĩ đó chỉ là vấn đề về xác suất.
Cho dù cuộc sống của con người trở nên
ngày càng ít phụ thuộc vào thiên nhiên, một số đặc tính cố hữu của con
người vẫn được duy trì cho đến ngày nay. Những đứa trẻ là những người dễ
có tư duy nguyên nhân – sự việc nhất. Chúng thường có suy nghĩ kiểu:
mây là để làm mưa, gió là để làm mát. Có thể nói chúng ta sinh ra là
những người duy tâm.
Đặc tính thứ ba của tư duy nhận thức đó
là folk psychology. Đó là xu hướng phân tách tâm hồn (mind) và cơ thể
(body). Đặc tính này dựa trên xu hướng dự đoán suy nghĩ, hành động của
người khác và làm cho những người khác tin vào những gì mà mình muốn.
Con người không có khả năng này sẽ không có khả năng tưởng tượng những
người khác nghĩ về mình như thế nào.
Quá trình tư duy bắt đầu bằng giả thuyết
về sự tồn tại của tâm trí là cái vô hình, không thể nhìn, sờ, cảm giác
được đối lập với cơ thể là phần hiện hữu của con người. Và khi chúng ta
nghĩ về một người nào đó, cái chúng ta nghĩ đến là tâm trí chứ không
phải cơ thể. Điều này dễ dẫn đến sự tin tưởng vào một tư duy tách biệt
với vật chất hay chủ nghĩa duy tâm vốn là nền tảng của tôn giáo.
Như chúng ra đã phân tích, trong quá
trình phát triển của xã hội, bằng chọn lọc tự nhiên, tư duy con người
xuất hiện một số đặc tính cố hữu là điều kiện lý tưởng để niềm tin tôn
giáo phát triển. Suy cho cùng thì tôn giáo chỉ là một sản phẩm phụ trong
quá trình chọn lọc tự nhiên khi mà những đặc tính tốt phù hợp với sự
tồn tại và phát triển của xã hội lại là môi trường lý tưởng cho tôn
giáo.
Như vậy tư duy của con người luôn có chỗ
cho niềm tin tôn giáo phát triển và các nhà truyền đạo đã tận dụng rất
tốt các đặc điểm này. Vậy thì tôn giáo là tốt hay xấu. Điều này không
phải mục tiêu của bài viết mặc dù tác giả luôn đứng trên quan điểm không
ủng hộ tôn giáo. Tự do tôn giáo là điều cần được tôn trọng nhưng mọi
người cũng nên có một cái nhìn đầy đủ, sáng suốt về một hiện tượng của
xã hội loài người. Cuốn sách “The God Delusion” của Dawkins là một tài
liệu rất tốt cho những ai muốn hiểu sâu thêm về Chúa và tôn giáo.
Theo TCPT
0 nhận xét:
Đăng nhận xét