Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Năm, 29 tháng 10, 2015

Trận Chiến Từ Bên Trong



Duyên Sinh


12-Jun-2013
Câu trả lời không phải ở chỗ hai tổng thống của hai cường quốc tây phương lớn, là Mỹ và Pháp, mà câu trả lời về vấn đề “đồng tính luyến ái,” là thuộc bên trong toà thánh Vatican. Đây là vấn đề hàng đầu của nhân loại. Nếu không giải quyết sớm, rồi đây nhân loại sẽ đi về đâu?
Tôi khám phá ra vấn đề đồng tính luyến ái khi tôi đọc quyển “The American Pope, the Life and Times of Francis Cardinal Spellman” của John Cooney. Ngoài việc diễn tả Ngô Đình Diệm sang Mỹ để Diệm “xin” Mỹ cho Diệm được cai trị xứ sở Công Giáo của Diệm, Cooney còn nhắc tới hồng y Francis Cardinal Spellman. Spellman là một nhà lãnh đạo tinh thần tôn giáo lớn nhất trên thế giới. Hồng y Spellman chỉ đứng sau Đức Giáo Hoàng, cũng có lẽ là một hồng y đầu tiên trên thế giới bị mang chứng bệnh “đồng tính luyến ái.”
Nếu đọc The American Pope, the Life and Times of Francis Cardinal Spellman, ông Lữ Giang sẽ thấy đoạn văn nói về đồng tính luyến ái của hồng y Francis Cardinal Spellman ở trang 152. Khi mở tới trang 152, ông Lữ Giang sẽ thấy chữ “homosexuality” ngay ở đầu trang này. Chữ “homosexuality” nằm trong đoạn văn diễn tả hồng y Francis Cardinal Spellman là một hồng y đồng tính luyến ái.
Nếu không có sách the Life and Times of Francis Cardinal Spellman, ông Lữ Giang cũng có thể đọc sơ qua chứng bệnh đồng tính luyến ái của hồng y Francis Cardinal Spellman trên Wikipedia tiếng Anh:
http://en.wikipedia.org/wiki/Francis_Spellman
Thời kỳ của hồng y Francis Cardinal Spellman là thời kỳ sau Thế Chiến Thứ I không bao lâu, rồi kéo dài cho tới giữa thập niên 1960. Thời kỳ này ít ai nói tới chứng đồng tính luyến ái, vì vậy khám phá của John Cooney, người viết tiểu sử của hồng y Francis Cardinal Spellman, có thể nói là một khám phá động trời!
Nó còn động trời hơn nữa khi căn bệnh hiểm nghèo này lây qua các triều vua Công Giáo nhà Nguyễn.
Ông Ngô Đình Diệm, một ông quan Công Giáo dưới thời vua Khải Định, làm quan Thượng Thư Bộ Lại (đứng đầu các ông quan thái giám) khoảng 4 tháng rồi từ quan. Mặc dù chỉ làm thượng thư bộ lại chỉ trên dưới 4 tháng, ông Diệm vẫn bị “thiến.” Khi ông Diệm bị thiến, dân Huế có làm một bài thơ chế giễu ông Diệm. Bài thơ còn được lưu hành cho tới ngày nay:
Làm quan nam triều
Lênh đênh chiếc bách buổi ba đào,
Chèo lái xem chừng khó biết bao.
Tôi tớ mấy người dâng lễ hậu,
Quan thầy mấy kẻ nắn hầu bao.
Chật trong “bể hoạn” thêm mình nữa,
Theo hết “rừng Hàn” biết kiếp nao.
Vây cánh Ngô Đình ghê gớm thật,
Mềm lưng dẻo gối chóng lên cao.
Chữ “hoạn” trong bài thơ nói ông Ngô Đình Diệm là một ông “hoạn quan,” tức là một ông quan thái giám (bị “thiến”). Chữ “hàn” xuất phát từ chữ “hàn lâm” có nghĩa là hệ thống phẩm trật triều đình. Hai câu thơ:
Chật trong “bể hoạn” thêm mình nữa,
Theo hết “rừng Hàn” biết kiếp nao.
có ý chế giễu: “Một biển quan bị thiến” đã chật lắm rồi mà còn phải thêm một ông Diệm bị thiến vào nữa!..”; “Một rừng phẩm trật triều đình” đã nhiều lắm rồi, mà còn phải theo cho tới kiếp nào mới hết!.. vì ông Diệm thăng quan tiến chức quá lẹ.
Hơn thế nữa, Khải Định là một ông vua Công Giáo bị “lẹo cái,” ăn mặc loè loẹt như đàn bà. Khải Định ăn mặc như đàn bà sang Pháp dự đấu xảo Marseille, bị cụ Phan Chu Trinh gởi cho một bức thư kể bảy tội của Khải Định gọi là “Thất Điều Trần,” trách Khải Định ăn mặc kỳ cục (ăn mặc theo đàn bà con gái) rồi bảo Khải Định phải về nước gấp rút để đừng sỉ nhục quốc thể nhiều hơn nữa.
Vua Khải Định
Chuyện gì lạ quá đã xảy ra?... Một ông hồng y “đồng tính luyến ái” vận động hành lang cho một ông quan Công Giáo “bị thiến” lên làm tổng thống VNCH, mà ông quan Công Giáo bị thiến đó từng làm thái giám cho một ông vua Công Giáo “lẹo cái?” Chưa bao giờ tôi thấy có chuyện trùng hợp kỳ, sự gặp nhau cùng lúc của “LẸO CÁI, BỊ THIẾN, và ĐỒNG TÍNH LUYẾN ÁI” lạ lung như vậy!!! Tôi tin chắc đây là một chuyện quả báo oan khiên gì đó, mà người đời sau có thể gọi đó là một chứng bệnh.
Vì chứng bệnh bắt nguồn từ người Công Giáo Việt Nam, nên người ta có thể đặt cho nó một cái tên. Tên thích hợp nhất mà tôi thấy hầu như ai cũng có thể chấp nhận. Tôi tạm gọi là: “Bệnh Công Giáo.” Khi gọi là bệnh Công Giáo, tôi sẽ tránh phải lập đi lập lại nhiều lần tiếng đồng tính luyến ái, một cụm từ mà tôi rất ngượng mỗi khi nhắc tới nó. Tôi biết đây là một trang sử ô nhục nhất cho Việt Nam, mà mỗi khi đọc đến, người đời sau sẽ vừa thấy nhục nhã, vừa thấy xấu hổ, trong khi đó cũng thấy tự phải ôm bụng mà cười cho tới chết…
Hiện tượng kỳ lạ này đã không dừng lại và tiếp tục kéo dài cho tới ngày hôm nay bằng hàng loạt các tu sĩ Công Giáo phạm tội “ấu dâm” được liên tục đưa lên các trang mạng internet. Ai cũng thấy rõ các sách vở khiêu dâm (pornographies) đầu tiên phát xuất từ các quốc gia Âu-Mỹ cổ động “tà dâm” ngay giữa những người trong gia đình có liên hệ huyết thống với nhau. Những vấn đề dâm dục từng xảy ra tại Âu-Mỹ càng lúc càng công khai, là những điều mà chỉ có luân lý và đạo đức Á Đông mới có thể ngăn chận.
Chỉ khi nào người Âu-Mỹ có thể học hỏi và thực hành được “Tam Cang Ngũ Thường” của đạo Khổng và “Tam Quy Ngũ Giới” của đạo Phật thì mới mong chữa lành được chứng “Bệnh Công Giáo” kì dị mà con người đã mắc phải!
Tôi cũng thường coi trên TV và nghe nói tới các ông linh mục Thiên Chúa Mormons có hàng trăm con vợ dưới 18 tuổi, những trẻ em còn trinh dưới 18 tuổi này thường mừng rỡ được cha me dẫn tới nhà thờ để nhờ các ông Linh Mục đạo Thiên Chúa Mormons phá trinh. Nếu tình trạng này trong đạo Chúa cứ tiếp diễn thì nhân loại sẽ đi về đâu???
http://en.wikipedia.org/wiki/Mormons
Cái sai lầm lớn nhất của người Công Giáo đã tạo ra cái thấy hạn hẹp của họ qua nhiều đời nhiều kiếp. Kinh nghiệm cho biết, vì người Công Giáo đã trải qua quá trình tin tưởng “một cách mù quáng” trong khi người đạo Phật được giáo huấn là “niềm tin phải đi đôi với trí tuệ.” Sự đối nghịch về giáo lý này đã đưa người đạo Phật càng lúc càng mở mang trí tuệ, càng lúc người Phật tử có thể mở mắt thật to để có thể thấy rõ nhân và quả cùng một lúc. Có thể mở mắt nhìn thẳng để thấy hoàn một con voi và hiểu một cách chính xác thề nào là một con voi, trong khi người Công Giáo chỉ thấy một bộ phận nào đó của con voi rồi cho con voi giống cột nhà, giống cái phất trần, v.v…. Một thí dụ khác về tầm nhìn của người Công Giáo khi họ kêu gọi biểu tình chống phá thai. Những người kêu gọi biểu tình chống phá thai không thấy được những nguyên nhân của phá thai. Họ chống cái ngọn mà không thấy được cái gốc. Nếu mở được tầm nhìn, họ sẽ thấy chống phá thai sẽ không chấm dứt được tệ nạn phá thai. Muốn chấm dứt tệ nạn phá thai thì phải chống sách báo khiêu dâm, đồng tính luyến ái, v.v… những cái nhân của việc phá thai.
Tóm lại, vấn đề “Một Trật Tự Mới Của Thế Giới,” vấn đề “Hội Tam Diệm,” v.v…  rồi đi đến vấn đề “Một Giải Pháp Cho Đồng Tính Luyến Ái” của ông Lữ Giang, đối với tôi, có vẻ là một khảo cứu “vĩ đại” nhưng không đi về đâu cả… Dù sao tôi cũng rất cám ơn ông Lữ Giang đã đưa ra một đề tài thiết thực và bổ ích để diễn đàn cùng nhau bàn luận. Tôi xin lập lại lần nữa là giải pháp hữu hiệu nhất từ trước tới nay, mà các nền văn hoá Á Châu thường áp dụng, là giáo lý “Tam Cang Ngũ Thường” của đạo Khổng và “Tam Quy Ngũ Giới” của đạo Phật” sẽ có công năng trừ khử được căn bệnh có tên là “Bệnh Công Giáo,” một chứng bệnh bao gồm bệnh “đồng tính luyến ái.” Tam Cang Ngũ Thường của Đạo Khổng bảo vệ sự liên đới huyết thống giữa chồng vợ và con cái, giữ không cho “loạn luân” xảy ra trong gia đình. “Tam Quy Ngũ Giới” của đạo Phật sẽ nâng cao trí tuệ con người, giúp con người không tin tưởng “một cách mù quáng” mà còn luôn luôn đặt “niềm tin đi đôi với trí tuệ.”
Ngũ Giới của đạo Phật có thể tóm tắt đại khái như sau:
GIỚI THỨ NHẤT: BẢO VỆ SỰ SỐNG
Ý thức được những khổ đau do sự giết tróc gây ra, xin nguyện thực tập nuôi dưỡng tuệ giác Tương Tức và lòng Từ Bi để có thể bảo vệ sinh mạng của con người, của các loài động vật, thực vật và môi trường của sự sống. Nguyện không sát hại, không để kẻ khác sát hại và không yểm trợ cho bất cứ một hành động sát hại nào trên thế giới, trong tư duy cũng như trong đời sống hằng ngày. Thấy được rằng tất cả những bạo động do sự sợ hãi, hận thù, tham vọng và cuồng tín gây ra đều bắt nguồn từ cách tư duy lưỡng nguyên và kỳ thị. Nguyện học hỏi thái độ cởi mở, không kỳ thị và không cố chấp vào bất cứ một quan điểm, một chủ thuyết hay một ý thức hệ nào để có thể chuyển hóa hạt giống cuồng tín, giáo điều và thiếu bao dung trong con người và trong thế giới.
GIỚI THỨ HAI: HẠNH PHÚC CHÂN THỰC
Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cắp, áp bức và bất công xã hội gây ra, nguyện thực tập san sẻ thì giờ, năng lực và tài vật với những kẻ thiếu thốn, trong cả ba lĩnh vực tư duy, nói năng, và hành động của đời sống hằng ngày. Nguyện không lấy làm tư hữu bất cứ một của cải nào không phải do tự mình tạo ra. Nguyện thực tập nhìn sâu để thấy rằng hạnh phúc và khổ đau của người kia có liên hệ mật thiết đến hạnh phúc và khổ đau của chính mình, rằng hạnh phúc chân thực không thể nào có được nếu không có hiểu biết và thương yêu, và đi tìm hạnh phúc bằng cách chạy theo quyền lực, danh vọng, giàu sang và sắc dục có thể đem lại nhiều hệ lụy và tuyệt vọng. Ý thức rằng hạnh phúc chân thực phát sinh từ chính tự tâm và cách nhìn của mình chứ không đến từ bên ngoài, rằng thực tập phép tri túc, con người có thể sống hạnh phúc được ngay trong giây phút hiện tại nếu có khả năng trở về giây phút ấy để nhận diện những điều kiện hạnh phúc đã có sẵn. Nguyện thực tập theo Chánh Mạng để có thể làm giảm thiểu khổ đau của mọi loài trên trái đất và để chuyển ngược lại quá trình hâm nóng địa cầu.
GIỚI THỨ BA: TÌNH THƯƠNG ĐÍCH THỰC
Ý thức được những khổ đau do thói tà dâm gây ra, xin học hỏi theo tinh thần trách nhiệm để giúp bảo hộ tiết hạnh và sự an toàn của mọi người, mọi gia đình và trong xã hội. Tình dục và tình yêu là hai cái khác nhau. Những liên hệ tình dục do thèm khát gây nên luôn luôn mang tới hệ lụy, đổ vỡ cho chính mình và cho kẻ khác. Nguyện không có liên hệ tình dục với bất cứ ai nếu không có tình yêu đích thực và những cam kết chính thức và lâu dài. Nguyện sẽ làm mọi cách có thể để bảo vệ trẻ em, không cho nạn tà dâm tiếp tục gây nên sự đổ vỡ của các gia đình và của đời sống đôi lứa. Nguyện học hỏi những phương pháp thích ứng để chăm sóc năng lượng tình dục trong người, để thấy được sự thật thân tâm nhất như và để nuôi lớn các đức Từ, Bi, Hỉ và Xả, tức là những yếu tố căn bản của một tình yêu thương đích thực để làm tăng trưởng hạnh phúc của chính mình và của người khác. Nguyện thực tập Tứ Vô Lượng Tâm để tiếp tục đẹp đẽ và hạnh phúc trong những kiếp sau.
GIỚI THỨ TƯ: LẮNG NGHE VÀ ÁI NGỮ
Ý thức được những khổ đau do lời nói thiếu chánh niệm và do thiếu khả năng lắng nghe gây ra, xin nguyện học các hạnh Ái Ngữ và Lắng Nghe để có thể hiến tặng niềm vui cho người, làm vơi bớt nỗi khổ đau của người, giúp đem lại an bình và hòa giải giữa mọi người, giữa các quốc gia, chủng tộc và tôn giáo. Biết rằng lời nói có thể đem lại hạnh phúc hay khổ đau cho người, nguyện học nói những lời có khả năng gây thêm niềm tự tin, an vui và hi vọng, những lời chân thật có giá trị xây dựng hiểu biết và hòa giải. Nguyện không nói năng gì khi biết cơn bực tức đang có mặt trong tâm, nguyện tập thở và đi trong chánh niệm để nhìn sâu vào gốc rễ của những bực tức ấy, nhận diện những tri giác sai lầm trong tâm và tìm cách hiểu được những khổ đau trong tâm và trong người mà mình đang bực tức. Nguyện học nói sự thật và lắng nghe như thế nào để có thể giúp người kia thay đổi và thấy được nẻo thoát ra ngoài những khó khăn đang gặp phải. Nguyện không loan truyền những tin mà không biết chắc là có thật, không nói những điều có thể tạo nên những sự bất hòa trong gia đình và trong đoàn thể. Nguyện thực tập Chánh Tinh Tấn để có thể nuôi dưỡng khả năng hiểu, thương, hạnh phúc và không kỳ thị làm yếu dần những hạt giống bạo động, hận thù và sợ hãi mà con đang có trong chiều sâu tâm thức.
GIỚI THỨ NĂM: NUÔI DƯỠNG VÀ TRỊ LIỆU
Ý thức được những khổ đau do thói tiêu thụ không chánh niệm gây nên, nguyện học hỏi cách chuyển hóa thân tâm, xây dựng sức khỏe cơ thể và tâm hồn bằng cách thực tập chánh niệm trong việc ăn uống và tiêu thụ. Nguyện nhìn sâu vào bốn loại thực phẩm là đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực để tránh tiêu thụ những thực phẩm độc hại. Nguyện không sử dụng các chất ma túy, không ăn uống hoặc tiêu thụ bất cứ một sản phầm nào có độc tố, trong đó có mạng lưới internet, phim ảnh, truyền thanh, truyền hình, sách báo, bài bạc và cả chuyện trò. Nguyện thực tập thường xuyên trở về với giây phút hiện tại để tiếp xúc với những gì tươi mát, có khả năng nuôi dưỡng và trị liệu cho bản thân và người xung quanh, không để cho tiếc nuối và ưu sầu lôi kéo trở về quá khứ và không để cho lo lắng và sợ hãi lôi kéo về tương lai. Nguyện không tiêu thụ chỉ để khỏa lấp sự khổ đau, cô đơn và lo lắng trong tâm. Nguyện nhìn sâu vào tự tính tương quan tương duyên của vạn vật để học tiêu thụ như thế nào để duy trì được an vui trong thân tâm của chính mình, trong thân tâm của xã hội, và trong môi trường sự sống.
Nếu tất cả mọi người đều thực tập “Tam Cang Ngũ Thường” của đạo Khổng và “Tam Quy Ngũ Giới” của đạo Phật thì làm gì có chiến tranh ở phía trước hoặc phía sau? Nếu phải chống chiến tranh đó thì phải chống ngay trong toà thánh Vatican để chấm dứt đồng tính luyến ái, và chống nguồn gốc của căn bệnh ngay phía bên trong của con người, làm gì có chuyện “một trật tự thế giới” và chuyện “Tam Điểm.”
Duyên Sinh


Phụ Đính:
LTS: Chúng tôi cho đăng phần phụ đính này để cung cấp nguồn tham khảo cho những điểm phản hồi trong bài của Duyên Sinh ở trên. Ngoài đề tài mà Duyên Sinh đề cập, chúng tôi không chú ý đến mức độ chính xác của những dữ kiện khác trong bài của Lữ Giang. (SH)
From: ChinhNghiaViet@yahoogroups.com On Behalf Of Lu Giang
Sent: Friday, June 07, 2013 1:05 PM
Subject: [ChinhNghiaViet] Trận chiến từ đàng sau

[Attachment(s) from Lu Giang included below]
Trận chiến từ đàng sau
Lữ Giang
Nhiều người đã ngạc nhiên và đặt câu hỏi: Tại sao hai tổng thống của hai cường quốc Tây phương lớn là Mỹ và Pháp lại quan tâm đến những người đồng tính và đưa họ lên hàng đầu trong chính sách của hai nước này? Để giải quyết một vấn nạn xã hội đang nóng bỏng? Để kiếm thêm phiếu trong những kỳ bầu cử sắp đến?
Không ai tin rằng đó là những mục tiêu mà hai đương kim tổng thống Mỹ và Pháp đang nhắm đến vì vấn đề người đồng tính đã có từ lâu rồi và không gây biến cố nào nghiêm trọng. Tỷ lệ của người đồng tính lại quá nhỏ, không gây ảnh hưởng gì đến các cuộc bầu cử. Vậy tại sao nó được đưa lên hàng đầu mặc dầu có nhiều tranh luận?
Một số tài liệu nghiên cứu nói rằng vấn đề người đồng tính nắm trong chủ trương thiềt lập "một trận tự mới" (new order) của nhóm siêu quyền lực (superpower) đang lãnh đạo thế giới. Trong khi Cộng Sản chủ trương dùng bạo lực cách mạng (revolutionary violence) để thực hiện một thế giới bình đảng không giai cấp, nhóm siêu quyền lực chủ trương khi dùng bạo lực khi dùng diễn biến hòa bình (peaceful evolution) để tạo dựng một trận tự mới mà họ cho rằng tự do hơn, tốt đẹp hơn.
Giấc mơ của Cộng Sản đã thất bại, trong khi nhóm siêu quyền lực tiếp tục tiến tới những mục tiêu của họ. Hợp thức hóa đồng tính là một trong những biện pháp tiến tới phá vỡ dần một trật tự cũ đã tồn tại từ khi có loài người, đó là chế độ hôn nhân truyền thống. Đây là một trận chiến từ đàng sau. Nhưng tổ chức siêu quyền lực là tổ chức nào?
MỘT TRẬT TỰ MỚI CỦA THẾ GIỚI
Nhìn vào đồng dollar của Mỹ, chúng ta thấy phía bên trái là một vòng tròn ở giữa có hình kinh tự tháp, trên đầu kinh tự tháp là một con mắt với hai chữ Latin trên đầu là “ANNUIT COEPTIS” có nghĩa là “Năm Mới đã Bắt Đầu”. Ở dưới kinh tự tháp là một băng hình bán nguyệt có ghi dòng chữ bằng tiếng Latin “NOVUS ORDO SECLORUM”, có nghĩa là “Một Trật Tự Mới của Thế Giới”. Ở dưới nữa là ba chữ tiếng Anh: “THE GREAT SEAL” có nghĩa là “Đại Ấn Tín”, tức ấn tín của triều đại chúng ta. Ở giữa đồng tiền có 4 chữ: “IN GOD WE TRUST” có nghĩa là "Trong Thượng Đế Chúng Tôi Tin Tưởng". Phía bên phải là một một con ó chân kẹp một nhành olive 13 lá biểu tượng cho 13 tiểu bang đầu tiên của Hoa Kỳ. (SH - Mời đọc "Những ý Nghĩa Trong đồng Đô La Mỹ" của Lý Thái Xuân)
Trong tác phẩm “The Power of Myth” Joseph Campbell nói đó là những biểu tượng của nhóm Tam Điểm, một tổ chức siêu quyền lực của thế giới. The Power of Myth là một cuốn tài liệu gồm 6 phần được đài truyền hình PBS phổ biến năm 1988, ghi lại cuộc nói chuyện giữa nhà huyền thoại học Joseph Campbell (1904 – 1987) và ký giả Bill Moyer. Trong cuộc nói chuyên đó Joseph Campbell đã giải thích cho chúng ta có một khái niệm  về các biểu tượng, mục tiêu, tổ chức và hoạt động của nhóm Tam Điểm. Ba chữ “NOVUS ORDO SECLORUM” (Một trật tự mới của thế giới) ghi trên đồng dollar là tuyên ngôn của nhóm này.
1.- Tam Điểm là tổ chức nào?
Hiện nay có không dưới 50.000 tài liệu nói về tổ chức Tam Điểm, nhưng khó có thể xác định một cách chính xác lịch sử, cơ cấu tổ chức và hoạt động của nhóm này vì đây là một tổ chức bí mật, đứng đàng sau hậu trường để điều khiến nhiều biến cố trên thế giới.
Thuật ngữ Tam Điểm được dịch từ tiếng Anh là “Freemasonry” và tiếng Pháp là “Franc-maçonnerie”, có nghĩa là “Nền tảng tự do”. Sở dĩ người Việt dịch là Tam Điểm bởi vì người ta tìm thấy trong các thư từ của những người thuộc tổ chức Tam Điểm viết cho nhau thường gọi nhau bằng “Sư huynh” (Frère) hay “Sư phụ” (Maitre) viết tắt là F hay M với ba dấu chấm làm thành hình tam giác đều, biểu tượng của tổ chức mà chúng ta thấy trên đồng dollar của Mỹ.
2.- Tổ chức của Tam Điểm
Về tổ chức, đơn vị cơ sở của Tam Điểm hiện nay được gọi là “Private Lodge” hay “Constituent Lodge” (hội quán chi nhánh), còn ban lãnh đạo tại mỗi quốc gia hay tiểu bang là “Grand Lodge” do một “Masonic High Council” (Hội Đồng Cấp Cao) lãnh đạo. Cơ quan lãnh đạo trên toàn thế giới được gọi là “Masonic High Council the Mother High Council of the World”. Chúng ta chỉ biết địa chỉ văn phòng của các tổ chức cơ sở, còn từ cấp tiểu bang hay quốc gia trở lên đều được giữ kín.
Một tài liệu được công bố năm 1992 cho biết số hội viên của Tam Điểm ở Mỹ là 5 triệu, Anh 7 triệu, Úc 7 triệu. v.v. Không ai có thể biết số hội viên của Tam Điểm trên thế giới hiện nay.
Người ta nói nhiều nhân vật lãnh đạo thế giới là hội viên của hội Tam Điểm, chẳng hạn như các tổng thống Washington, Thomas Jefferson, Grant, Abraham Lincoln, Franklin Roosevelt, Trumann, Lyndon B. Johnson… của Mỹ; thủ tướng Winston Churchill của Anh; Paul Doumer, Mendès France, François Mitterrand của Pháp, v.v. Nhiều người tin rằng hai tổng thống của Mỹ và Pháp hiện nay là Barack Obama và Francois Hollande đều là hội viên của Tam Điểm.
3.- Tam Điểm và Một Trật Tự Mới
Thuật ngữ “Môt Trật Tự Mới” của Tam Điểm bao gồm nhiều lãnh vực, từ chính trị, kinh tế, quân sự đến văn hóa, xã hội. Tam Điểm cho rằng những trật tự hiện có trong các tôn giáo và văn hóa cổ truyền không còn thích hợp với thời đại mới nữa.
Chiến thắng đầu tiên của Tam Điểm là chấm dứt chế độ quân chủ ở Tây phương và tách rời giáo quyền ra khỏi thế quyền, đưa tới cuộc cách mạng Pháp 1789 và các cuộc cách mạng tiếp theo.
Lúc đầu giữa Giáo Hội La Mã và Tam Điểm có một sự đối kháng rất quyết liệt, nhưng sự đối kháng đã giảm dần khi cả hai nhận ra rằng còn những đối kháng khác quan trọng hơn như Đức Quốc Xã và Cộng Sản chẳng hạn. Cuốc chiến giữa Tam Điểm với Đức Quốc Xã và Cộng Sản là cuộc chiến một mất một còn. Cả Đức Quốc Xã lẫn Cộng Sản đã sụp đổ.
Kế hoạch toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới hiện nay là một trong những trật tự mới do Tam Điểm đề xướng và đang cố gắng thực hiện nhưng khó thành công. Sự vùng dậy của khối Hồi Giáo đã làm nhiều kế hoạch của Tam Điểm phải ngừng lại. Chiến thuật hiện nay của Tam Điểm là tiêu diệt các lãnh tụ Hồi Giáo có chủ trương hình thành một khối Hồi Giáo thống nhất và phân hóa khối Hồi Giáo ra thành nhiều mãnh để dễ chi phối.
Một vấn đế quan trọng khác đã được Tam Điểm quan tâm là phá vỡ nền tảng gia đình truyền thống đã có từ lâu trong Khổng Giáo, Thiên Chúa Giáo, Hồi Giáo và các nền văn hóa khác. Tam Điểm đã đi từ giải phóng tình dục đến giải phóng con cái ra khỏi guồng máy gia đình. Tục giao “Trẻ nhờ cha già cậy con” áp dụng ở Trung Hoa và Việt Nam từ xưa, nay được đổi thành “Trẻ nhờ welfare già cậy nursing home”! Đồng tính được nhận ra là một công cụ tốt có thể làm lung lay nền tảng gia đình truyền thống.
THỰC TRẠNG CỦA NGƯỜI ĐỒNG TÍNH
1.- Một vài diễn biến lịch sử
Trước đây, hai người cùng giới yêu nhau và làm tình với nhau được gọi là tình dục đồng giới tính (homosexual). Ngày nay phạm vi của đồng tính được mở rộng, bao gồm cả những người đồng tính nam nữ, song tính và chuyển giới (lesbian, gay, bisexual, transgender được viết tắt là LGBT), Trong bài này, chúng tôi dùng chữ đồng tính để chỉ tất cả những người thuộc các loại nói trên.
Từ xưa, đồng tính bị coi là một thứ bệnh lý hay là một hiện tượng luyến ái “không bình thường”, “không tự nhiên" hoặc "lệch lạc". Quan niệm này thường đưa tới sự kỳ thị hay ngăn cấm các hiện tượng  đồng tính.
Dưới thời Đức Quốc Xã, Hitler ra lệnh loại trừ những người đồng tính vốn bị coi như là những cặn bã của xã hội. Tổ chức Gestapo (Mật vụ của Đức) lập danh sách những người đồng tính và đưa họ vào các trại tập trung. Từ 1933 đến 1945, có khoảng 100.000 nam đồng tính bị bắt giam. Trong các trại tập trung, những người đồng tính bị bắt mang một cái băng màu hồng hình tam giác (Rosa Winkel) và bị đối xứ tàn bạo. Người ta ước lượng có khoảng 5.000 đến 15.000 người đồng tính bị chết trong các trại này. Sau khi chế độ Đức Quốc Xã sụp đổ, những người đồng tính đã tập họp lại thành các tổ chức để bảo vệ và đòi hỏi các quyền của họ.
Từ năm 1973, Hiệp hội Tâm thần học Mỹ không còn xem đồng tính luyến ái là một bệnh tâm thần nữa. Và trong những thập kỹ qua, một "nền văn hóa đồng tính" đã được hình thành tại các nước Tây phương. Một số quốc gia đã cho phép những người đồng tính có quyền kết hôn cũng như nhận con nuôi. Nhưng sự xuất hiện của HIV/AIDS từ giữa thập niên 1980 đã tạo thành những vấn đề mà người đồng tính phải đương đầu.
2.- Con số người đồng tính hiện nay
Tìm kiếm tài liệu thống kê chính xác về người đồng tính trên thế giới, kể cả tại các nước Tây phương, là chuyện rất khó vì sự biểu lộ của họ thường không công khai.
Nhiều tổ chức thăm dò cho biết tại các quốc gia Âu Châu, số người đồng tính là từ 1% đến 5% dân số. Riêng ở Pháp, tạp chí Têtu ước lượng khoảng từ 5% đến 10%.
Tại Hoa Kỳ, ngày 17.2.2013 cơ quan thăm dò Gallup đã công bố kết quả một cuộc thăm dò tại 50 tiểu bang cho thấy thủ đô Washington là nơi có tỷ lệ đồng tính cao nhất: 10% dân số. Trong khi đó ở California là 4,0% và New York 3,8%. North Dakota có tỷ lệ này thấp nhất: 1,7%. Tính chung số người đồng tính ở Mỹ là khoảng 3,5% dân số.
Tại các nước Châu Á, đồng tính chưa trở thành vấn đề lớn. Tài liệu cho biết số người đồng tính ở Trung Quốc chiếm khoảng 0,17% dân số, còn ở Việt Nam từ 0,06% đến 0,15%.
Hiện nay có trên 80 nước xem đồng tính là tội phạm ở những mức độ khác nhau. Tại 8 nước là Iran, Mauritania, Nigeria, Pakistan, Ả Rập Saudi, Sudan, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và Yemen, đồng tính có thể bị tội tử hình.
Tại Châu Á hiện chưa có quốc gia nào chấp nhận hôn nhân hay kết hợp dân sự đồng tính.
GIẢI PHÁP CHO ĐỒNG TÍNH
Từ ngàn xưa, những định chế hôn nhân khác nhau đã được thành lập, có khi thành văn có khi bất thành văn, với hai mục tiêu chính là (1) di truyền nói giống và (2) dưỡng dục con cái. Mạnh Tử đã từng nói: “Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, tức bất hiếu có ba điều, trong đó không có con nối giòng là tội nặng nhất.
Tình mẫu tử được coi là một bản năng thiên phú được ban cho người phụ nữ để thực hiện sứ mạng dưỡng sinh. Chính tình yêu thương con cái là sợi dây liên kết gia đình lại thành một khối chặt chẽ, và sự tan vỡ sẽ ảnh hưởng đến vấn đề dưỡng dục con cái. Đạo hiếu đã giúp xây dựng đại gia đình trong đó “trẻ nhờ cha già cậy con”. Vì thế, lễ thành hôn thường được cử hành theo một nghi thức trọng thể với lời chúc “trăm năm hạnh phúc”. Tất cả những tập tục và quy định trên là để bảo vệ gia đình. Không có chỗ đứng nào cho đồng tính trong những định chế hôn nhân như thế.
Tuy nhiên, sau biến cố do chế độ Đức Quốc Xã gây ra cho những người đồng tính, người ta đã nghĩ đến việc hình thành một định chế để bảo vệ các quyền của người đồng tính. Nhưng một cuộc tranh luận gay cấn đã xảy ra: Đa số nhận định rằng mục tiêu của kết hợp giữa hai người đồng tính và giữa hai người khác tính có rất nhiều điểm không giống nhau,  nên phải có những định chế khác nhau. Một số lại cho rằng việc thiết định hai quy chế riêng cho hai trường hợp sẽ tạo ra sự bất bình đẳng. Đây chỉ là một lối ngụy biện nhưng lại được một số nhà lãnh đạo chính trị ủng hộ.
Hiện nay có 21 quốc gia đã hình thành quy chế riêng cho người đồng tính và gọi đó là "sự kết hợp dân sự", tiếng Anh là Civil Union, Civil Partnership hay Domestic Partnership. Có 4 tiểu bang của Hoa Kỳ cũng đã đi theo giải pháp này là Delaware, Hawaii, Illinois and New Jersey.
Trái lại, có 14 quốc gia cho rằng việc hình thành một định chế riêng cho người đồng tính là bất bình đẳng, nên quy định rằng người đồng tính được kết hôn theo hôn nhân truyền thống, đó là các quốc gia Hà Lan, Bỉ, Tây Ban Nha, Canada, Nam Phi, Argentina, Uruguay, Na Uy, Iceland, Thụy Điển, Đan Mạch, Bồ Đào Nha, New Zealand và Pháp. Tại Hoa Kỳ, đã 5 tiểu bang cho phép những người đồng tính được kết hôn là Connecticut, Iowa, Massachusetts, Vermont, New Hampshire và District of Columbia.
Như vậy còn rất nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ chưa đi vào cuộc chiến.
RỒI SẼ ĐI VỀ ĐÂU?
Hiện nay, người dân Hoa Kỳ đang đợi phán quyết của Tối Cao Pháp Viện liên quan đến hai vụ kiện về tình cách bất hợp hiến của luật cấm hôn nhân đồng tính, đó là vụ “United States v. Windsor” từ New York và vụ “Hollingsworth v. Perry” từ California.
Người ta thường ví các Thẩm Phán TCPV Hoa Kỳ như những người mặc áo hai túi, muốn tuyên bố hợp hiến thì bốc túi bên này, còn muốn tuyên bố bất hợp hiến thì bốc túi bên kia. Cách nào cũng có thể lập luận suôn sẻ cả. Bốc túi nào là tùy thuộc vào chủ trương của nhóm siêu quyền lực đứng sau hậu trường. Chúng tôi sẽ có bài phân tích khi phán quyết của TCPV được công bố.
Trong khi đó nhiều tổ chức tôn giáo và xã hội vẫn tiếp tục nghiên cứu và xử dụng những phương thức tâm lý hay tôn giáo để giúp những người đồng tính giảm bớt ham muốn của mình, tránh xa những quan hệ đồng giới hoặc thay đổi thiên hướng tình dục. Các nhóm ex-gay (như nhóm Exodus International) được thành lập để giúp những người đồng tính trở lại cuộc sống như những người bình thường.
Ngày 9.6.2023
Lữ Giang

0 nhận xét:

Đăng nhận xét