Nguyên
nhân nào làm cho Phật giáo Việt Nam đứng lên tranh đấu bất bạo động, và
tăng, ni, phật tử tự nguyện thiêu thân làm đuốc, chống bạo quyền Ngô
Đình Diệm 1963?
Vấn
đề này, thật là dễ hiểu. Đó là Phật giáo Việt Nam đã từng bị những
người Việt theo đạo thiên Chúa đàn áp nhằm tiêu diệt để độc tôn đạo Chúa
họ từ thời Bảo Đại. Dữ kiện này, được thấy bà Nam Phương Hoàng hậu, có
văn phòng tại Sài Gòn, chỉ thị cho Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm ra Huế, đến
chùa Từ Đàm, gỡ bảng Tổng hội Phật giáo Việt Nam xuống, không cho treo
vào năm 1951. Buộc Ngài Hội chủ Thích Tịnh Khiết nạp khuôn dấu, nhân
viên quản trị Trung ương, người bị bắt vào nhà tù, người lánh nạn.
Đến
thời Ngô Đình Diệm làm Tổng thống Đệ nhất VNCH. Phật giáo Việt Nam càng
tiếp tục bị chính quyền Ngô Đình Diệm đàn áp bằng nhiều cách thật tàn
ác đối với phật tử tại miền Trung, cao nguyên sau khi lên ngôi Tổng
thống 1955. Hành động đàn áp trắng trợn hơn hết, đó là ban hành công
điện triệt hạ cờ Phật giáo quốc tế. Công điện mang số 5159, do Ngô Đình
Diệm ký ngày 6-5-1963, gửi đi ra lệnh cho các thuộc hạ chính quyền địa
phương trên toàn miền Nam thi hành triệt hạ, không cho treo vào ngày
Phật đản 15-4-Âm lịch, năm Quý Mão, Phật lịch 2507, nhằm ngày 8-5-1963.
Trước
vô số hành động tàn ác, bạo ngược của chính quyền Ngô Đình Diệm đối với
Phật giáo Việt Nam, trong đó hành động triệt hạ cờ Phật giáo quốc tế,
được xem là tội lớn nhất đối với Phật giáo trên thế giới. Tội ác đó
không thể tha được, phải đứng lên tranh đấu, dù bị máu đổ, sẵn sàng đổ
máu. Do đó chư Tăng tại Huế khai nguồn và phát động tranh đấu. Lịch
trình công cuộc tranh đấu, được diễn tiến hằng trăm bước, nhưng người
viết, chỉ ghi lại một vài nét cơ bản sau đây:
I - Diễn tiến
1- Điện văn gửi đến Phật giáo quốc tế, yêu cầu can thiệp.
2-
Điện văn gửi Tổng thống Ngô Đình Diệm, nói lên niềm xúc động và hỏi lý
do tại sao cấm Phật giáo VN treo cờ Phật giáo quốc tế.
3- Điện văn gửi các tập đoàn PGVN, cho biết cờ PGQT bị Ngô Đình Diệm triệt hạ.
4-
Mở cuộc mít tinh thật nóng bỏng tại chùa Từ Đàm sáng ngày 17-4-Quý Mão
(10-5-1963). Trong buổi mít tinh, Thượng tọa Trí Quang nói lên cái chết
của các em thiếu nhi tại đài phát thanh Huế. Số phật tử tham dự trên 10
nghìn, hơn 2 lần sáng Rằm tháng 4 Quý Mão.
5-
Một bức tâm thư và bản tuyên ngôn của Tổng hội PGVN nói lên quan điểm,
được Hòa thượng Hội chủ Thích Tịnh Khiết ấn ký ngày 10-5-1963.
II- Năm nguyện vọng
1- Yêu cầu Chính phủ VNCH thu hồi vĩnh viễn công điện triệt hạ giáo kỳ của Phật giáo.
2- Yêu cầu để cho PGVN phải được hưởng một chế độ đặc biệt như các hội truyền giáo Thiên Chúa đã được ghi trong đạo dụ số 10.
3- Yêu cầu Chính phủ chấm dứt tình trạng bắt bớ, khủng bố tín đồ Phật giáo VN.
4- Yêu cầu cho Tăng,Tín đồ PGVN được tự do truyền đạo và hành đạo.
5-
Yêu cầu Chính phủ bồi thường một cách xứng đáng cho những kẻ chết oan
vô tội và kẻ chủ mưu giết hại phải đền bồi đúng mức. Huế 23-5-63. Hội
chủ TH PGVN, ký tên HT.Thích Tịnh Khiết; Hội trưởng Tổng Trị sự hội PGVN
Trung Phần, ký tên Thượng tọa Thích Trí Quang. Nhiều bản nguyện
vọng,tuyên ngôn, tâm Thư, hằng trăm tài liệu khác, được tiếp tục hiện
hữu, và gửi chính quyền Ngô Đình Diệm từ lúc phát động tại Huế, và Sài
Gòn, nhưng anh em ông Diệm gác qua, không thực thi.
III- Làn sóng tranh đấu của PGVN được lan rộng vào Sài Gòn.
Sau
chuyến công tác Đại lễ Phật đản tại chùa Tỉnh hội PG Pleiku, tôi đáp
máy bay AIR VN về Nha Trang sáng ngày 16- 4-Quý Mão, 9-5-1963. Còn Thầy
Hoa Tiên (Trần Công Ngộ) đi về Già Lam cùng ngày bằng AIR VN. Tôi về đến
chùa Long Sơn lúc 11g30.
Tại
chùa Long Sơn, Tỉnh hội PG Khánh Hòa - Nha Trang, tôi nghe băng
cassette lễ Phật đản và mít tinh tại chùa Từ Đàm 15-4-Âm lịch (8 -5-63).
Tại đây, tôi được ĐĐ.Thích Chí Tín trụ trì chùa Long Sơn giao cho nhiệm
vụ mang băng cassette về Già lam Sài Gòn. Để kịp cho công việc đại sự
ấy, tôi qua Phật học Viện Hải Đức , gặp Đại đức Trừng San, Giám sự PHV,
trình bày công việc khẩn ấy, Thầy liền cho tiền đi máy bay. Tuy nhiên
phải nghỉ lại Viện, sáng mai 10-5-1963 (17-4-Âm lịch) tôi mới đến lấy vé
ở đường Độc Lập, rồi ra phi trường bằng xe bus Air VN. Máy bay cất cánh
lúc 10g45, đến Sài Gòn 11g50. Về Già Lam, sau những giây phút hầu
chuyện với TT.Thích Trí Thủ về công tác hành lễ và thuyết giảng Phật đản
tại chùa Bửu Thắng, Tp.Pleiku rất vui và thành công.
Tôi
không đưa băng cassette cho TT Giám viện, tôi đưa cho mấy huynh Hạnh
Cơ, Tuệ Sỹ, Nguyên Thuận (Lê văn Hòa, hiện đang ở Kentucky) và Thầy trụ
trì Già lam Thích Huy Hoàng cùng nghe, bởi vì thầy trụ trì mới có máy
cassette. Nghe xong, huynh Hạnh Cơ đề nghị đem xuống cho TT.Thích Tâm
Châu tại chùa Từ Quang. Sáng mai 11-5-63, ba chúng tôi: Đức Hạnh, Hạnh
Cơ, Nguyên Thuận xuống Từ Quang, gặp TT.Tâm Châu trình băng Cassette
cho Ngài. Qua vài phút nghe, TT nói lời quyết tâm, ra tâm thư gởi đồng
bào phật tử, kêu gọi tranh đấu để bảo vệ Phât giáo.
IV- Bức tâm thư đầu tiên tại Sài Gòn.
Ngày
12-5-63, chúng tôi Đức Hạnh, Hạnh Cơ, Nguyên Thuận và Tuệ Sỹ cùng đến
Từ Quang, đã thấy bức tâm thư mang nội dung tranh đấu bất bạo động, do
TT.Tâm Châu viết và ấn ký, sẵn sàng đến tay đồng bào Sài Gòn. Thế là mỗi
người chúng tôi lấy một ít, rồi mỗi đứa đi mỗi nẻo đường. Thầy Tuệ Sỹ
phát tâm thư tại bến xe Bus Sài Gòn. Phát hết chỉ còn 1 tờ để dành xem.
Chẳng may bị cảnh sát bắt đem về Bót. Cuối cùng họ thả Thầy về sau mươi
phút họ nghe Thầy lý luận nội dung tâm thư.
V- Nhiều chùa Sài Gòn hành lễ Cầu siêu.
Nhiều
Lễ Cầu siêu cho những phật tử bị chết oan tại đài Phát thanh Huế, được
các chùa ở Sài Gòn tổ chức trong ngày 15-5-1963 rất trọng thể, do bức
tâm thư của TT.Tâm Châu tác động. Mặc dù có công an đứng canh gác trước
chùa, nhưng chùa nào cũng có cả nghìn phật tử đến dự lễ. Như tại Ấn
Quang, số tăng, ni trên 4 trăm, phật tử cỡ hai nghìn người.
VI- Một Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật giáo ra đời tại chùa Xá Lợi.
Để
chuẩn bị thành lập một UBLPBVPG, quý Thượng tọa Thiện Hoa, Thiện Hòa,
Trí Thủ, Pháp Tri, ĐĐ.Từ Hạnh,… gặp nhau ở Ấn Quang. Ngài Thiện Hoa nói :
“Nhân sự trong UBLPBVPG, là chư Tăng trong các giáo phái PG, và cũng có
một vài cư sĩ. Vai trò của UBLPBVPG, là điều hành, chỉ đạo một số phật
sự tranh đấu, cũng như đi gặp các cấp lãnh đạo chính quyền do họ mời,
hay mình muốn gặp qua văn thư. Có nghĩa là cuộc tranh đấu của mình phải
có tổ chức, tập thể lãnh đạo. Thế nào chúng ta cũng phải đến gặp chính
quyền. Chừng đó phái đoàn của mình tùy lúc mà có Tăng 6 hay 7, rồi đề cử
vị nào đó làm trưởng đoàn”. Thế là một Ủy ban Liên phái bảo vệ Phật
giáo được thành lập tại chùa Xá Lợi vào ngày 25-5-63. Trước khi thành
lập UBLPBVPG, đã có một phái đoàn chư Tăng gồm có quý Thượng tọa: Thích
Tâm Châu, Thiện Hoa, Thiện Thái, Lâm Em, Dũng Chí, ông Mai Thọ Truyền
đến xin gặp Tổng thống Diệm tại dinh Gia Long vào ngày 15-5-63, để trình
bày nỗi niềm xúc động về Đạo kỳ PGQT bị Tổng thống triệt hạ…
VII –Tất cả Tăng tài các nơi về chùa Xá Lợi - Sài Gòn.
Sau
khi thành lập xong UBLPBVPG trong ngày 25-5, đến những ngày 26,27,28-
5-63, nhiều vị Tăng tài các nơi, tụ hội về chùa Xá Lợi, như TT.Thích
Huyền Quang từ Nguyên Thiều Bình Định vào,TT.Thích Trí Quang ở Huế vô,
đức Hội chủ TH PGVN Thích Tịnh Khiết ở Huế vào Xá Lợi. Riêng Đại đức
Thích Giác Đức, được tôi Đức Hạnh tuân lệnh Tăng sai, đem thư TT.Thích
Trí Thủ, Giám viện tu viện Già Lam, lên chùa Phước Huệ Bảo Lộc trong
ngày 1-6-63, để mời Thầy G Đ về, sau đó cùng về Sài Gòn với ĐĐ.Thích
Giác Đức, không để Thầy đi một mình. Bởi vì Thầy Giác Đức trực thuộc
Tăng đoàn Nam Trung Phần, được TT.Trí Thủ bổ nhiệm trụ trì kiêm giảng
sư chùa tỉnh hội Phật giáo Bảo Lộc. Tôi ở tại chùa tỉnh hội Bảo Lộc, mãi
đến sáng 3-6-63 mới về Sai Gòn với Thầy Giác Đức. Lưu lại chùa Bảo Lộc 2
đêm. Đêm nào cũng vào chính điện chùa để nghe Thầy Giác Đức nói chuyện
trước hằng trăm phật tử, về chuyện phật tử VN trên Cao nguyên bị anh em
nhà Ngô đàn áp, bắt bớ giam cầm, tù đày, nay triệt hạ cờ Phật giáo.
Thầy nói thật hùng hồn mà không sợ công an, mật vụ của Diệm.
VIII- Những ban, phòng được thành lập tại chùa Xá Lợi.
Những
ban, phòng trên được các Đại đức sau đây phụ trách: Như Ban Biểu tình
tuyệt thực, do 3 Đại đức Thích Đức Nghiệp, Đại đức Thích Chánh Lạc, Đại
đức Thích Thanh Nhân phụ trách. Ban Thuyết giảng, họp báo giải thích mọi
việc đấu tranh do 2 Đại đức Thích Hộ Giác, Thích Giác Đức phụ trách.
Ban An ninh Tháp chuông, nơi nghỉ ngơi và làm việc của 3 vị TT.Thích Trí
Quang, Huyền Quang, Thiện Minh, do các tăng sinh tu viện Già Lam: Hạnh
Cơ, Tuệ Sỹ, Đức Hạnh, Nguyên Thuận, Nguyên Phương, Hoa Tiên đảm trách.
Phòng tài liệu, báo chí: Hình như do Đại đức Thích Thắng Hoan và một số
sư cô chùa Từ Nghiêm, Dược Sư…phụ trách. Ban An ninh ngoại vi, do các
thanh niên GĐPT Chánh Đạo Sài Gòn, mặc sắc phục dân sự, phụ trách.
IX- Sở dĩ quý Thượng tọa trong ban lãnh đạo đấu tranh, lập ra UBLPBVPG
và các Ban, Phòng như vậy là nhằm vào mục tiêu tranh đấu nhiều tháng ở
cao độ tới cùng, vì xét thấy rõ anh em Ngô Đình Diệm không thực thi
những điều Phật giáo yêu cầu. Họ hứa lèo, nói quanh co, cuối cùng không
thực thi một điều nào cả. Do vậy Bồ tát Thích Quảng Đức tình nguyện tự
thiêu đầu tiên, may ra làm cho họ thức tỉnh mà đáp ứng 5 nguyện vọng của
Phật giáo yêu cầu. Sau đó 7 vị Bồ tát Tăng, Ni trên toàn miền Nam, lần
lượt tự thiêu.
X- Những cây đuốc Bồ tát bùng cháy khắp nơi trên quê hương VN giữa 6 tháng tranh đấu 63.
Trong
6 tháng Phật giáo Việt Nam tranh đấu chống bạo quyền, có 8 vị Bồ tát
Tăng tự nguyện thiêu thân, làm ngọn đuốc để soi lòng u tối của anh em
Ngô Đình Diệm sáng lên, mà thấy được tội ác của mình qua những hành động
đàn áp, sát hại lương dân vô tội, mau quay về khối dân tộc, ăn năn sám
hối. Tám vị Bồ tát tự thiêu sau đây:
1-Bồ tát Thích Quảng Đức
2-Bồ tát Thích Nguyên Hương
3-Bồ tát Thích Thanh Tuệ
4-Bồ tát Thích Tiêu Diêu
5-Bồ tát Thích Nữ Diệu Quang
6-Bồ tát Thích Nữ Diệu Huệ
7-Bồ tát Thích Quảng Hương
8-Bồ tát Thích Thiện Mỹ, (8 vị - Bát Chánh Đạo)
và một nam Bồ tát tại gia, Phật tử Nguyễn Thìn, pháp danh Hồng Thể - thương phế binh tại Phước Lâm Vũng Tàu.
Bảy
vị Bồ tát trên, cùng một sở nguyện tự thiêu thân như vậy, là do thấy
được tâm địa của anh em Ngô Đình Diệm đang lừa dối, xảo quyệt, mưu mô
những chiêu ác độc, chuẩn bị tiêu diệt lực lượng tranh đấu của Phật giáo
VN. Cho nên thời gian, nơi chốn tự thiêu của mỗi vị, đều khác nhau.
1-
Bồ tát Thích Quảng Đức tự thiêu vào sáng ngày 11-6-63, tại ngã tư Phan
Đình Phùng, Lê văn Duyệt, do sau khi biết được T T Ngô Đình Diệm lúc đầu
chịu thực thi 5 nguyện vọng của Phật giáo, mà phái đoàn UBLP đã tiếp
xúc 15- 5-63 tại Dinh Gia Long. Sau đó bác bỏ và gia tăng khủng bố Phật
giáo.
2-Bồ
Tát Thích Nguyên Hương tự thiêu trưa ngày 4-8-63 trước Tòa hành chính
Phan Thiết, sau khi biết được Bản Thông Cáo Chung, đã được hai phái đoàn
Ủy Ban Liên Bộ và Ủy Ban Liên Phái BVPG (gồm có TT.Thích Thiện Minh
trưởng phái đoàn, TT.Tâm Châu, TT.Huyền Quang - Thư ký, ĐĐ.Đức Nghiệp
Phó Thư ký), đã thỏa hiệp ký kết vào ngày 16- 6 (sau 2 ngày thảo luận
14,15-6-63) về 5 nguyện vọng của PGVN. Đến khi đưa BảnThông Cáo Chung
vào TT Diệm. Ông Diệm đọc tới, đọc lui nhiều lần, với thời gian nửa
ngày, cuối cùng không ký. Chính sách đàn áp PG vẫn tiếp tục khủng bố
khắp nơi. Sau đó vài hôm, cho xe Thông Tin chạy khắp đường phố Sài Gòn,
loan báo rằng: Tổng Thống đã ký BTCC, do hai UB Liên Bộ và UBLP của Phật
Giáo đã thỏa thuận những điều PGVN đề nghị.
3-
Bồ tát Thích Thanh Tuệ tự thiêu tại chùa Phước Duyên Huế vào đêm ngày
13-8-63, để yểm trợ tinh thần văn thư số 112 của UBLPBVPG, gởi UBLB
30-7-63, yêu cầu giải quyết 3 điểm, trong đó phóng thích tất cả tín đồ
PG đang bị giam giữ khắp nơi, mà Tổng thống Diệm nói “Tổng thống đặc
biệt khoan hồng” đã ghi trong TCC.
4- Bồ tát Thích Nữ Diệu Quang tự thiêu tại chùa Hội Phật Học ngày 15-8-63, cũng không ngoài để yểm trợ tinh thần 3 điểm trên.
5-
Bồ tát Thích Thiện Huệ (Tiêu Diêu), tự thiêu tại chùa Từ Đàm lúc 4 giờ
sáng ngày 16-8-63, để cầu nguyện cho Công điện của UBLPBVPG gởi: Tổng
Thống Mỹ Kennedy,TTKLHQ U Than, HPG Tích Lan, THPG Nhật Bổn, HPG Thái
Lan, HPG Đài Loan, HPG Đại Hàn, THPG Tân Gia Ba, HPG Thế giới, HĐBĐ
Calcutta…được thành công.
6-
Bồ tát Thích Nữ Diệu Huệ tự thiêu ở Huế sau 20-8-63 để cầu nguyện (thời
điểm chư Tăng, Ni, Phật tử tại hai chùa Xá Lợi, Từ Đàm nói riêng, toàn
quốc nói chung, đã bị Ngô Đình Nhu đem quân đội, Cảnh sát tấn công đêm
20-8-63 ,bắt đi, giam cầm trong các nhà tù, xà lim…TT.Thiện Minh bị giam
Xà Lim ở Huế, bị bóng đèn 100 w chiếu vào mặt cả ngày lẫn đêm).
7-
Bồ tát Thích Quảng Hương tự thiêu lúc 12g30 tại Bùng Binh Sài Gòn, ngày
5-10-63, để cầu nguyện chư Tăng, Ni, Phật tử trên toàn quốc đang bị
giam cầm trong nhà tù, luôn được bình an, mau thoát khỏi cảnh tối tăm.
Một
vài nét về Đại đức Thích Quảng Hương. Thầy Quảng Hương, tăng sinh PHV
Hải Đức Nha Trang, đang là giảng sư, kiêm trụ trì Tỉnh hội PG Ban Mê
Thuộc từ 1959. Thình lình Thầy về chùa Già Lam đầu tháng 9-63. Cũng là
lúc Thầy Phước Thành (Nguyên Lượng ) ở PHV HĐ Nha Trang vô. Sau đó Thầy
Trí Siêu Lê Mạnh Thát từ Đà Lạt về. Riêng tôi, Đức Hạnh đã có mặt tại
Già Lam đầu 9-63, sau những ngày lẫn trốn tại nhà chị Trung (người Bắc) ở
đường Pasteur, đệ tử Thầy Giác Đức. Sở dĩ tôi không bị bắt vào Rạch Cát
đêm 20-8-63, là do Thầy Giác Đức nhờ tôi đến chị Trung lấy lọ vitamine C
vào lúc 7 giờ tối. Tôi được chị Trung bảo đừng về Xá Lợi, vì nghe đâu,
chùa Xá Lợi sẽ bị Cảnh Sát tấn công trong đêm nay, 20-8-63. Nhiều Phật
tử nghe tin ấy, nhưng không ai tin cả.
Tại
Già Lam, Thầy Quảng Hương chỉ nói với 3 chúng tôi ĐH, NL và LMT, Thầy
sẽ tự thiêu để cầu nguyện Chư Tăng mau thoát khỏi trại Rạch cát và các
nhà tù của Diệm, Nhu, vì đã phát nguyện lên chư Phật rồi, phải thực hiện
sở nguyện ấy càng sớm càng tốt. Thế là Nguyên Lượng lo hết phương tiện
thiêu thân cho Thầy QH. Nhớ một hôm nọ, NL quẹt que diêm, châm vào nách
Thầy QH, mà Thầy cứ ngồi im không nhúc nhích. Còn Thầy Lê Mạnh Thát, đi
gặp các hãng Thông Tấn xã ngoại quốc về địa điểm và giờ thiêu. Đến
ngày 5-10-63, sau bữa ăn trưa lúc 10.30, ba chúng tôi cải trang dân sự,
để xuống Bùng Binh Sài Gòn. Vừa ra cửa, gặp Thầy Huy Hoàng trụ trì GL,
Thầy mở lời: ”Mấy cậu Nhảy Đầm ở mô, ăn mặc đẹp rứa?” . Thầy Quảng Hương
đi sau một mình bằng Taxi.
Tại
Bùng Binh SG, ba chúng tôi đứng 3 nơi. Tôi đứng trước thềm nhà ga xe
lửa. Nguyên Lượng đứng ở cửa Đông Chợ BếnThành. Thầy Lê Mạnh Thát đứng
tại các Kiot hoa tại đường Nguyễn Huệ với mấy ông nhà báo ngoại quốc. Ba
người chúng tôi đều hướng mắt đến Bùng Binh trước cửa Tây chợ BT. Đến
12 giờ 27 phút, chúng tôi thấy Bồ Tát Thích Quảng Hương từ TAXI bước
xuống bên lề đường BB hướng Tây đối diện bến xe Bus, sau khi TAXI chạy
trên đường LÊ LỢI, vòng qua đó đậu lại. Thầy vẫn mặc áo tràng nâu bạc
màu. Tay trái thòng xuống, tay phải cầm chai xăng dấu bên nách trái. Vừa
đến giữa BB ,Thầy mở lẹ nắp chai, chế thêm xăng vào hai vai trước
ngực, qua lại rất lẹ, vất chai, ngồi xuống theo thế bán già, mở ZIPO
châm lửa. Lửa bùng lên đúng 12.30 trưa, 5-10-63. Thấy lửa bốc lên nơi
ông Sư, mọi người bốn hướng chung quanh BB, cùng tiến về nơi Bồ Tát QH
đang bốc lửa. Một số người sụp lạy giữa lúc nhục thân Thầy như pho tượng
đồng đen, ngồi yên dưới những làn khói lam, đang lửng lờ vươn lên không
gian.
Từ
lúc lửa bốc lên, Thầy ngồi yên, ngả xuống, đồng bào tiến đến sụp lạy;
cỡ 6 phút, Cảnh Sát mới đến cướp xác Thầy. Ba xe Cảnh Sát, 1 xe áo
trắng, 2 xe CS Dã chiến Rằng ri, Cảnh Sát trắng đi bao quanh đuổi đồng
bào ra xa. Cảnh Sát DC đeo găng tay, khiêng xác Thầy QH bỏ vào Bông Sô,
để giữa thùng xe.
Sau
ngày 1-11-1963, Cách Mạng thành công, TT.Thích Trí Thủ cho người đi
tìm xác Thầy QH chôn ở đâu. Sau đó biết được họ chôn Thầy QH tại nghĩa
địa Quang Trung. Mã Thầy xây cất đàng hoàng, có Bia, được đề Đạo hiệu
Thích Quảng Hương. Đến năm 1979, chính quyền tại TP Hồ Chí Minh –Sài Gòn
ra thông cáo rằng tất cả Mã Mồ tại các Nghĩa địa SG, Gia Định, Gò Vấp,
Quang Trung…phải được bốc lên hết. Thế là Thầy Đức Chơn trụ trì chùa Già
Lam thuê người, cùng đi đến nghĩa trang Quang Trung.
Sau
gần 1 tiếng đồng hồ phá phần trên, đào xuống, thấy có ván hơi mục một
nửa, nhưng chẳng thấy hài cốt Thầy Quảng Hương đâu cả. Đem hết ván lên,
đào xới thêm nữa, cũng chỉ thấy toàn đất không. Họ xây mã giả để gạc
mình, họ dấu nhục thân Thầy QH, không biết nơi đâu.Năm 2011, HT Thích
Đức Chơn qua Mỹ, đến San Diego, tôi được gặp, hỏi Ngài chuyện Mộ Thầy
QH. HT Đức Chơn vẫn xác định đào lên, không có hài cốt Thầy Quảng Hương.
8-
Bồ tát Thích Thiện Mỹ tự thiêu tại công trường Hòa Bình, trước nhà thờ
Đức bà vào 27-10-63, trong lúc phái đoàn Liên Hiệp Quốc đến VN mở cuộc
điều tra chính sách đàn áp Phật giáo. Rất hay, Bồ Tát Thiện Mỹ tự thiêu
đúng lúc đoàn xe LHQ đang đi trên đường Thống Nhất.
9-
Nam phật tử, Bồ tát tại gia, Nguyễn Thìn - Hồng Thể 31 tuổi, thương phế
binh, tự thiêu tại Phước Lâm, Vũng Tàu ngày 29-9-63, để cầu nguyện lên
Chư Phật, gia hộ cho cuộc tranh đấu PGVN mau thành quả tốt đẹp.
Ngoài
tự thiêu ra, có hai nữ Phật tử phát nguyện chặt tay, lấy máu viết tâm
thư, gởi lên Tổng thống Ngô Đình Diệm, đó là “Phi Yến” và “Mai Tuyết An”
( vợ ông Lý Đ Nguyên, hiện đang ở quận Cam-Hoa kỳ).
Ý nghĩa tự thiêu trong Phật giáo.
Tự
thiêu, nghĩa là tự mình đốt lấy bản thân mình bằng lửa. Như dùng củi để
đốt hay bằng Xăng. Tự thiêu thân, đồng nghĩa với “tự chết”. Thế gian có
lắm người “tự tử” bằng những cách khác, không có tự thiêu bao giờ, do
vì cái tâm bị thất tình, mất của, thua trận, chán đời không đạt công
danh v.v...Tự thiêu thân bằng lửa, là đặc thù trong Phật giáo, các Tôn
giáo khác không có.
Những
Bồ Tát trên vận hành tu tập từ sơ địa, đến 10 địa đã thấu triệt được
đạo lý vô thường, vô ngã, bản thân tứ đại, chỉ là hình hài giả tạm do
các duyên giả hợp mà có, nên sẵn sàng thiêu thân để Cứu khổ chúng sanh.
Nhập niết bàn không đợi bịnh tử. Làm đuốc soi tâm ác độc của các bạo
quyền, được phát sinh lòng từ, mà ngưng tay đàn áp Tôn giáo, lương dân
vô tội. Là cách phản đối, kết án những hành động hiếp đáp dân lành của
các bạo quyền. Là cách cúng dường thân xác lên chư Phật, để mong đạt đạo
giác ngộ thành Phật.
Điều
này được Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni nói đến trong kinh Pháp Hoa, ở
Phẩm Dược Vương. Người thuyết tóm gọn: “ Trong vô lượng quá khứ, trước
khi Đức Thích Ca Mâu Ni thị hiện ra nơi đời tại Ấn Độ, có vị Bồ Tát Nhất
Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến ưa tu tập khổ hạnh, đã dùng y báu cõi Trời,
tự quấn vào thân, rưới các thứ dầu thơm, rồi tự đốt thân mình, để cúng
dường lên đức Phật Nhật Nguyệt Minh Đức tại bổn quốc; kiếp sau, cũng
được sinh lại bổn quốc của đức Phật Nhật Nguyệt Minh Đăng. Lần này cũng
tu khổ hạnh, cho nên đã lấy gỗ Chiên Đàn làm dàn hỏa, rồi ngồi trên đó
tự thiêu thân, để cúng dường, báo ân đức Phật Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức
đã vào Niết bàn”.
Không
những trong vô lượng quá khứ, trước khi đức Phật ra đời, đã có vô số Bồ
tát tu pháp khổ hạnh qua pháp tự thiêu thân, để cúng dường chư Phật, để
mong cầu giác ngộ thành Phật. Khi đức Phật ra đời cũng có Bồ tát Tự
thiêu; đó là một Thánh giả đến hỏi đức Phật: “ Mục đích của cuộc sống là
gì? ” Sau đó đã tự thiêu. Thấy vậy, các phật tử hỏi đức Phật, hành động
như vậy, có phạm lỗi hay không? Đức Thế Tôn dạy: “Vị Thánh ấy đã diệt
được hết các tham dục và sẽ không bị trở lại cõi Ta Bà này nữa, vì vị ấy
đã tự hủy”.
Sau
khi Phật nhập Niết Bàn, từ đó cho đến nay, đã có nhiều vị Bồ Tát xuất
gia, tại gia tự thiêu thân, để cầu đạo giác ngộ hay cứu khổ độ sanh. Vấn
đề này, được thấy tại Trung Hoa, vào thế kỷ thứ 5, sau công nguyên, đã
có những đạo sư tọa tự lên dàn hỏa, một cách an nhiên tỉnh, bắt ấn cam
lồ, thiêu đốt hình hài, để cứu chúng sinh thoát khỏi ách nạn.
Ngày
nay, tại Việt Nam, Bồ tát Thích Quảng Đức khai đạo tự thiêu thân. Sau
đó có 7 vị Bồ Tát Tăng và một Bồ Tát tại gia tự thiêu để bảo vệ Phật
giáo, đã có HT.Thích Trí Tịnh tự đốt một lóng tay út trái trên lư trầm,
để cúng dường lên chư Phật, để cầu nguyện khỏe mạnh, an bình cho việc
dịch các bộ Kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, v.v… Sau 8 vị Bồ tát tự thiêu năm
1963, đến 1976 lại có 12 vị Bồ tát Tăng, Ni tự thiêu tại miền Tây VN,
để bảo vệ Đạo Pháp và dân tộc.
Những
năm gần đây bên nước Tây Tạng, đã và đang có hằng trăm vị tăng và phật
tử tự thiêu, để bảo vệ đạo Pháp và dân tộc trước cuộc xâm lược tàn ác
của Trung Cộng. Đặc thù truyền thống tự thiêu của Phật giáo là chỗ đó.
Nghĩa là ở đâu, trên thế giới này, dân tộc và đạo Pháp bị các bạo quyền
đàn áp, bức hiếp, ở đó có chư tăng, phật tử đứng lên tranh đấu, chỉ đem
thân mạng mình ra làm vũ khí, hướng về phía trước, bước tới bằng trạng
thái bất bạo động, để biểu tình qua những hình thức nhịn đói (tuyệt
thực) ngồi im, rồi đến phải chặt tay, là những bức Thông Điệp đầu tiên,
gởi lên bạo quyền, để cảnh báo họ, phải tự thấy lại tâm hồn cuồng loạn,
tham vọng, si mê của họ đang ở vực thẳm.
Sau
cùng tự thiêu, là ngọn đuốc soi tâm u tối của họ, được bừng sáng đạo lý
Từ bi, mà đem lại an bình cho dân tộc, là nền tảng sống trường tồn, có
hạnh phúc, như cuộc tranh đấu của Phật Giáo VN đối với chính quyền Ngô
Đình Diệm năm 1963. Bằng không, sẽ bị bánh xe dân tộc nghiền nát. Qua đó
cho ta thấy rằng chính quyền Đệ nhất VNCH Thiên Chúa giáo của anh em
Ngô Đình Diệm, bị sụp đổ vào sáng ngày 1 tháng 11- năm 1963, là do dân
tộc Việt Nam, chứ không do quyền lực nào bên ngoài.
Đức Hạnh tháng 5/2013
(ghi lại một vài kỷ niệm khó quên).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét