[1]
Có sự ủng hộ to lớn trong nhóm lãnh đạo cấp cao của NATO, bao gồm chính
quyền của Bush, nhằm duy trì NATO sau Chiến tranh Lạnh. Các nhà lãnh
đạo NATO không thể hiện rõ ràng những mục tiêu cụ thể là NATO sẽ phục vụ
tại Châu Âu hậu Chiến tranh Lạnh, nhưng họ hình thành ý tưởng trong đầu
về một tương lai trong đó NATO là công cụ bảo đảm an ninh tại Đức, bằng
cách đó xóa bỏ những động lực đối với chính sách hiếu chiến của người
Đức và cũng là công cụ giúp bảo vệ những quốc gia NATO tránh khỏi cuộc
xâm lăng của Đức. Tuy nhiên, người Đức, hiện đang có số quân nhiều nhất
trong những lực lượng thường trực của phe Đồng minh, có thể sẽ phản đối
vai trò này của NATO. Một cơ cấu an ninh dạng này giả định rằng không
thể tin vào Đức và NATO cần phải được duy trì để kiềm chế Đức. Một nước
Đức thống nhất về lâu dài sẽ không chấp nhận cơ cấu dựa trên giả thuyết
này. Người Đức chấp nhận NATO trong suốt Chiến tranh Lạnh vì nó giúp bảo
vệ nước Đức tránh khỏi sự đe dọa của Liên Xô vốn nổi lên sau Chiến
tranh thế giới thứ hai. Không có mối đe dọa rõ ràng như thế, và sự thực
là mối đe dọa này hiện đang giảm đi nhanh chóng, Đức có khả năng sẽ phản
đối việc tiếp tục duy trì NATO như chúng ta vẫn biết.
[2]
Tôi không lập luận rằng Chiến tranh Lạnh hoàn toàn kết thúc là điều
chắc chắn xảy ra, rất có thể đó chỉ là kết quả trung gian, trong đó hiện
trạng sẽ thay đổi về cơ bản, nhưng những nét chính của trật tự hiện nay
vẫn được giữ nguyên. Đặc biệt là Liên Xô có thể rút phần lớn quân khỏi
Đông Âu, nhưng vẫn để lại những lực lượng quan trọng. Nếu vậy thì lực
lượng của NATO sẽ có khả năng bị cắt giảm đáng kể, nhưng NATO vẫn có thể
tiếp tục duy trì những lực lượng quan trọng tại Đức. Anh và Mỹ sẽ rút
một số quân khỏi Lục địa nhưng không rút hết. Nếu kết quả này xảy ra, sự
cạnh tranh quân sự lưỡng cực cốt yếu đã định hình bản đồ Châu Âu trong
suốt Chiến tranh Lạnh sẽ tiếp diễn. Tôi không xem xét đến tình huống
này, thay vào đó, tôi sẽ tìm hiểu xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo sau
khi Chiến tranh Lạnh kết thúc hoàn toàn tại Châu Âu, bởi vì trong hai
tình huống trên, đây là cái ít được để ý hơn, và bởi những hậu quả, và
do đó là sự đáng mong muốn của việc kết thúc Chiến tranh Lạnh sẽ vẫn còn
là vấn đề lớn nếu kết quả trung gian xảy ra.
[3]
Sự ảnh hưởng của thay đổi về mặt nhân quyền tại Đông Âu sẽ không được
trực tiếp lưu ý đến trong bài này. Người dân Đông Âu đã phải chịu nhiều
khổ sở vì sự chiếm đóng của Liên Xô. Liên bang Xô Viết đã đặt chế độ
chính trị áp bức tại khu vực này, tước bỏ của người Đông Âu các quyền tự
do căn bản. Việc Liên Xô rút quân khỏi Đông Âu sẽ có thể làm tình hình
thay đổi theo chiều hướng tốt hơn, dù thay đổi này chưa hẳn hoàn toàn là
phúc lành như phần lớn mọi người nghĩ. Thứ nhất, không rõ rằng chế độ
cộng sản sẽ ngay lập tức được thay thế bởi những hệ thống chính trị ưu
tiên bảo vệ quyền lợi thiểu số và quyền tự do của công dân. Thứ hai, mối
hận máu lâu dài giữa các dân tộc ở Đông Âu có thể sẽ lại nổi lên ở một
Châu Âu đa cực, bất kể trật tự chính trị đã tồn tại sẵn. Nếu chiến tranh
diễn ra tại Đông Âu, chắc chắn nhân quyền sẽ chịu nhiều ảnh hưởng.
[4]
Người ta thường mô tả đặc điểm của sự phân cực – lưỡng cực hay đa cực –
của hệ thống quốc tế nói chung, chứ không phải là một khu vực riêng
biệt nào đó. Tuy nhiên trọng tâm của bài này không đề cập đến sự phân
chia quyền lực trên toàn cầu, mà là sự phân chia quyền lực ở Châu Âu.
Những tranh luận phân cực có thể được dùng để đánh giá triển vọng ổn
định tại một khu vực cụ thể, miễn là sự cân bằng trong khu vực và thế
giới được phân biệt với nhau và phần phân tích này tập trung vào cơ cấu
quyền lực tại một khu vực cụ thể.
[5]
Để trở thành một cực trong hệ thống khu vực và quốc tế, một quốc gia
phải có khả năng tự bảo vệ mình trước các quốc gia lãnh đạo trong hệ
thống ở mức độ hợp lý. Mỹ và Liên Xô có sự vượt trội về quân sự rõ ràng
hơn hẳn các nước Châu Âu khác, và cả những nước không thuộc Châu Âu,
trong suốt Chiến tranh Lạnh; do đó họ đã tạo nên hai cực của cả hệ thống
Châu Âu và thế giới. Những gì đang diễn ra nhằm thay đổi điều này chính
là cả Liên Xô và Mỹ đều đang rút các lực lượng khỏi Trung Âu, điều này
khiến cả hai gặp khó khăn trong việc thiết lập quyền lực ở Lục địa và
như vậy làm suy yếu ảnh hưởng của họ tại đây; cũng như giảm quy mô lực
lượng, khiến họ không còn nhiều sức mạnh quân sự để triển khai. Vì yếu
tố gần gũi về mặt địa lý với Châu Âu, Liên Xô vẫn là một cực trong hệ
thống Châu Âu miễn là họ giữ các lực lượng quân sự quan trọng ở lại lãnh
thổ của mình. Mỹ chỉ có thể tiếp tục là một cực ở Châu Âu khi còn có
khả năng triển khai sức mạnh quân sự lớn tại Trung Âu.
[6] Sự ổn định được định nghĩa một cách đơn giản là không có chiến tranh và các cuộc khủng hoảng lớn.
[7]
Thuật ngữ “nền hòa bình dài lâu” được đưa ra bởi John Lewis Gaddis,
“The Long Peace: Elements of Stability in the Postwar International
System,”
International Security, Vol. 10, No. 4 (Spring 1986), trang 99-142.
[8]
Có khoảng 10.000 người chết trên chiến trường trong chiến tranh Nga –
Hung vào tháng 10 – tháng 11 năm 1956, và khoảng 1.500 – 5000 người đã
chết trên chiến trường trong cuộc chiến ở Cyprus vào tháng 7 – tháng 8
năm 1974. Xem Ruth Leger Sivard,
World Military and Social Expenditures 1989 (Washington, D.C.: World Priorities, 1989), trang 22; Melvin Small và J. David Singer,
Resort to Arms: International and Civil Wars, 1816-1980 (Beverly Hills, Calif.: Sage, 1982), trang 93-94.
[9] Để tìm hiểu tóm tắt các cuộc chiến trong quá khứ, xem Jack S. Levy,
War In the Modern Great Power System, 1495-1975 (Lexington: University Press of Kentucky, 1983); và Small and Singer,
Resort to Arms.
[10]
Không có cuộc chiến tranh lớn nào diễn ra ở Châu Âu trong giai đoạn
1815 – 1853 và 1871 – 1914, hai giai đoạn này dài gần bằng cuộc Chiến
tranh Lạnh trong suốt 45 năm. Tuy nhiên có một sự khác biệt quan trọng
giữa Chiến tranh Lạnh và những giai đoạn trước đó. Quan hệ giữa các
cường quốc xấu đi rõ rệt vào những năm cuối của hai thời kì này, và mỗi
trường hợp dẫn đến một cuộc chiến tranh lớn. Mặt khác, trật tự trong
Chiến tranh Lạnh ngày càng trở nên ổn định hơn theo thời gian và hiện
tại không có những mối đe dọa chiến tranh nghiêm trọng giữa NATO và khối
Hiệp ước Warsaw. Châu Âu chắc chắn sẽ hòa bình trong tương lai có thể
nhìn thấy trước nếu Chiến tranh Lạnh tiếp tục, đây là điểm làm nổi bật
tính ổn định ngoại lệ của trật tự Châu Âu ngày nay.
[11] Mức độ quan trọng tương đối của ba yếu tố này không được khẳng định chính xác, nhưng cả ba đều có tầm quan trọng đáng kể.
[12] Hai tác phẩm kinh điển về đề tài này là Hans J. Morgenthau,
Politics Among Nations: The Struggle for Power and Peace, 5th ed. (New York: Knopf, 1973); và Kenneth N. Waltz,
Theory of International Politics (Reading, Mass.: Addison-Wesley, 1979).
[13]
Những triển vọng răn đe này có thể chịu ảnh hưởng từ các tính toán nhằm
ổn định khủng hoảng. Xem John J. Mearsheimer, “A Strategic Misstep: The
Maritime Strategy and Deterrence in Europe,” International Security,
Vol. 11, No. 2 (Fall 1986), trang 6-8.
[14]
Xem Robert Jervis, “Cooperation Under the Security Dilemma,” World
Politics, Vol. 30, No. 2 (January 1978), trang 167-214; và Stephen Van
Evera, “Causes of War” (unpub. PhD dissertation, University of
California at Berkeley, 1984), chap. 3. Như đã nói ở trên, tôi tin rằng
sự khác biệt giữa vũ khí tấn công và phòng vệ và, tổng quát hơn, khái
niệm về sự cân bằng giữa tấn công – phòng vệ, đều có liên quan ở cấp độ
hạt nhân. Tuy vậy, tôi không tin những ý kiến này có liên quan ở cấp độ
thông thường. Xem John J. Mearsheimer, Conventional Deterrence (Ithaca:
Cornell University Press, 1983), trang 25-27.
[15]
Bá quyền tượng trưng cho kiểu phân chia quyền lực thứ ba. Trong trật tự
bá quyền, chỉ có duy nhất một cường quốc trong hệ thống. Còn lại là
những nước nhỏ không có khả năng thách thức nước lớn, nhưng phải hành
động theo mệnh lệnh của nước lớn. Mỗi quốc gia sẽ tìm cách đạt được
quyền bá chủ, vì nó sẽ đem lại an ninh lớn: không đối thủ nào dám gây ra
một mối đe dọa nghiêm trọng. Tuy nhiên hiếm khi trật tự này xảy ra bởi
vì quyền lực có xu hướng được phân chia tương đối đồng đều giữa các quốc
gia, vì những quốc gia bị đe dọa có động lực mạnh mẽ để gắn kết với
nhau nhằm ngăn chặn một nước bá quyền nhiều tham vọng, và cũng bởi chi
phí cho việc bành trướng luôn luôn vượt quá những lợi ích trước cả khi
có được quyền thống trị khiến việc mở rộng quyền lực trở nên thái quá.
Bá quyền chưa bao giờ là đặc trưng của hệ thống quốc gia Châu Âu ở bất
cứ thời điểm nào từ khi hệ thống này nổi lên ở thế kỷ 17, và không có
triển vọng nào cho bá quyền trong một tương lai có thể đoán trước được;
do đó, bá quyền không thích hợp để đánh giá triển vọng hòa bình tại Châu
Âu.
[16]
Những tác phẩm quan trọng về trật tự hai cực và đa cực gồm có Thomas J.
Christensen và Jack Snyder, “Chain Gangs and Passed Bucks: Predicting
Alliance Patterns in Multipolarity,”
International Organization,
Vol. 44, No. 2 (Spring 1990), trang 137-168; Karl W. Deutsch và J. David
Singer, “Multipolar Power Systems and International Stability,”
World Politics, Vol. 16, No. 3 (April 1964), trang 390-406; Richard N. Rosecrance, “Bipolarity, Multipolarity, and the Future,”
Journal of Conflict Resolution,
Vol. 10, No. 3 (September 1966), trang 314-327; Kenneth N. Waltz, “The
Stability of a Bipolar World, “Daedalus, Vol. 93, No. 3 (Summer 1964),
trang 881-909; và Waltz,
Theory of international Politics, chap.
8. Những kết luận của tôi về hệ thống lưỡng cực tương tự như của Waltz,
mặc dù có những điểm khác nhau quan trọng trong cách lý giải của chúng
tôi, sẽ được thể hiện dưới đây.
[17]
Mặc dù sự cân bằng quyền lực có thể giúp ngăn chặn chiến tranh hơn là
sự mất cân bằng quyền lực, nhưng sự cân bằng quyền lực giữa các quốc gia
không đảm bảo rằng có thể đạt được khả năng răn đe. Các quốc gia thỉnh
thoảng tìm ra những chiến lược quân sự mới có thể mang lại chiến thắng
trên chiến trường, thâm chí không cần có lợi thế rõ rệt về mặt cân bằng
sức mạnh quân sự cơ bản. Hơn nữa, những lực lượng chính trị rộng hơn
khiến một quốc gia đi đến chiến tranh đôi khi buộc các nhà cầm quyền
theo đuổi các chiến lược quân sự rất mạo hiểm, đẩy các quốc gia tới việc
thách thức những đối thủ ngang tài ngang sức hay thậm chí là đối thủ
mạnh hơn. Xem Mearsheimer,
Conventional Deterrence, đặc biệt chương 2.
[18]
Cuộc thảo luận về tính phân cực giả định rằng sức mạnh quân sự của các
cường quốc tương đương nhau. Hậu quả của sự bất đối xứng quyền lực giữa
những cường quốc sẽ được thảo luận bên dưới.
[19] Xem Stephen M. Walt,
The Origins of Alliances (Ithaca: Cornell University Press, 1987); và Waltz,
Theory of International Politics, trang 123-128.
[20]
Một ngoại lệ cần được đề cập: việc kết bè phái vẫn có thể xảy ra ở trật
tự đa cực trong trường hợp chỉ có ba cường quốc trong hệ thống, và do
đó nạn nhân sẽ không thể có được đồng minh nào.
[21] Xem Mancur Olson and Richard Zeckhauser, “An Economic Theory of Alliances,”
Review of Economics and Statistics, Vol. 48, No. 3 (August 1966), trang 266-279; và Barry R. Posen,
The Sources of Military Doctrine: France, Britain, and Germany between the World Wars (Ithaca: Cornell University Press, 1984).
[22]
Những cân nhắc về chính trị trong nước thỉnh thoảng cũng có thể gây cản
trở hành vi cân bằng quyền lực. Ví dụ như, Anh và Pháp đã miễn cưỡng
liên minh với Liên Xô trong thập niên 1930 vì mối ác cảm sâu xa của họ
đối với chủ nghĩa cộng sản.
[23] Xem Walt,
Origins of Alliances, trang 28-32, 173-178.
[24] Quan điểm này là chủ đề trung tâm của Waltz, “The Stability of a Bipolar World.” Xem Geoffrey Blainey,
The Causes of War (New York: Free Press, 1973), chap. 3.
[25]
Waltz, Theory of International Politics, pp. 163, 168 khẳng định hiệu
quả lớn hơncủa cân bằng bên trong so với cân bằng bên ngoài