Chủ Nhật, 22 tháng 5, 2016
Thomas A. Bass - Nhà báo và nhà kiểm duyệt
07:47
Hoàng Phong Nhã
No comments
Phạm Thị Hoài
Mở đầu
Dường như mọi câu chuyện liên quan đến
Phạm Xuân Ẩn đều có thêm ít nhất một mặt bất ngờ khác. Khi cho đăng bài
phóng sự dài “Rừng Sát: Về việc bị kiểm duyệt ở Việt Nam” của Thomas A.
Bass, kể lại việc xuất bản cuốn sách của ông về nhà tình báo huyền thoại
của Việt Nam, đi kèm với việc công bố bản dịch trọn vẹn của tác phẩm này,
tôi đã thực sự ngỡ ngàng: không ít dư luận trên các mạng xã hội không
đồng tình với việc ông phơi bày tất cả, người thật, việc thật, tên tuổi
thật lên mặt báo, và thấy trong đó hành vi bội tín (breach of confidence), phản bội nguồn tin, bị coi là vi phạm đạo đức nghề báo và ở một số nước thậm chí có thể là tội bị kết án hình sự.
Sự việc không chỉ dừng ở đó, ngoài tội,
ông nhà báo Mỹ còn phải chịu cái lỗi khó lòng gỡ nổi, vì ngoài việc bị
ông “đâm sau lưng”, những người bị ông đem ra kể tuốt tuồn tuột kia có
thể bị chính quyền sờ gáy, thậm chí bị tù tội, nhẹ nhất cũng bị ảnh
hưởng đến công danh sự nghiệp. Đến đây sự việc cũng chưa dừng lại, đời
sống dư luận là như vậy, nó phải đâm chồi nảy nhánh cho đến khi nào hút
cạn nguồn dinh dưỡng, bây giờ đến lượt sứ giả bị chặt đầu vì đưa hung
tin. Bỗng nhiên người dịch phóng sự của Thomas A. Bass, cũng như tôi,
người đăng bài trên trang của mình, được mệnh danh là những kẻ chỉ điểm,
tiếp tay cho một nhà báo Mỹ phản trắc, ích kỉ, vô đạo đức nghề nghiệp,
đã thế còn dốt nát và nhầm lẫn lung tung trong kiến thức về Việt Nam,
làm hại một số người nhất định trong ngành xuất bản ở Việt Nam, những
người đã đầy nỗ lực giúp cho cuốn sách của ông được ra đời. Song đến đây
dường như câu chuyện vẫn chưa đi hết đà của nó, người ta phát hiện ra
là bản gốc tiếng Anh của phóng sự đó chưa đăng công khai ở đâu cả và như
vậy có nghĩa là bản tiếng Việt chỉ có thể bất hợp pháp, không khác gì
một văn bản không chính thức, ra đời một cách mờ ám vì thiếu hẳn nguồn
gốc rõ ràng.
Trong bối cảnh dư luận đang hoài nghi về
cả tính lương thiện lẫn tính hợp pháp của bài phóng sự này, dịch giả
Phạm Nguyên Trường đã đề nghị rút bản dịch của mình
xuống. Hiển nhiên là tôi tôn trọng và đã đáp ứng đề nghị ấy. Tôi thành
thật xin lỗi đã sơ suất để anh, một người bạn mà tôi trân trọng từ hơn
mười năm nay, phải rơi vào tình huống này. Song cũng hiển nhiên, một bản
dịch khác đang được thực hiện và sẽ sớm lên mạng. Về việc này, xin được
trở lại sau.
Khi sự ngỡ ngàng ban đầu qua đi, tôi
nhận ra và mừng rằng những phản ứng nói trên trong dư luận cũng bất ngờ
tặng chúng ta một món quà, một cơ hội bổ ích để tìm hiểu về những tiêu
chí và khái niệm then chốt như breach of confidence, đạo đức
nghề báo, sự lương thiện của phóng viên, nguyên tắc bảo vệ nguồn tin,
nguồn gốc của thông tin và văn bản, ranh giới của điều được phép trong investigative journalism, quyền riêng tư (right of privacy), quyền được biết của công luận (the public´s right to know)…
Phần lớn đó là những tiêu chuẩn của các nền báo chí tự do, được những
nhà báo giỏi và giàu lòng yêu nghề nhất ở Việt Nam quan tâm và đưa vào
thực hành trong giới hạn có thể.
Tác giả Thomas A. Bass đã được biết về những dư luận xung quanh bài viết của mình và hứa sẽ có phản hồi. Qua pro&contra, ông gửi lời xin lỗi rằng hôm nay và ngày mai (6-7/11/2014), ông bận tham dự Hội thảo Quốc tế “Engaging with Vietnam” lần thứ 6, tổ chức tại Đại học Oregon, Hoa Kỳ; trong nhóm đề tài “The Powers of the Written Word”
ông cũng sẽ dùng câu chuyện đeo đẳng mình 5 năm vừa rồi mà kết quả là
bài phóng sự đang được chú ý để thuyết trình: về kiểm duyệt tại Việt
Nam.
Các nhà báo ở phương Tây, đặc biệt là
nhà báo viết phóng sự, đặc biệt là nhà báo viết phóng sự điều tra, đặc
biệt là nhà báo viết phóng sự điều tra ở Mỹ, có lẽ không ai không thuộc
lòng câu mở đầu bất hủ của nhà báo nữ khó thương nhưng khó cưỡng Janet
Malcolm trong Nhà báo và Sát nhân (The Journalist and the Murderer): “Every
journalist who is not too stupid or too full of himself to notice what
is going on, knows that what he does is morally indefensible.” Bất
kì nhà báo nào, nếu không quá ngớ ngẩn hoặc không quá tự mãn để hiểu
điều gì đang diễn ra, đều biết rằng việc mình làm là không thể biện hộ
về phương diện đạo đức. Một luận điểm đủ sốc để cảnh báo lâu dài. Janet
Malcolm là một trong hai tác giả nữ viết essay thường xuyên gây
cảm hứng cho tôi – người kia là Dubravka Ugrešić. Nhan đề bài viết này
của tôi được gợi từ tên tác phẩm nổi tiếng và trước sau vẫn phân cực
mạnh mẽ nói trên của bà.
Sự khó chịu trong sự thật
Câu hỏi đầu tiên nên trả lời trong vụ
“Rừng Sát” là: bài phóng sự của Thomas A. Bass về kiểm duyệt tại Việt
Nam có trình bày đúng thực trạng đó không? Theo tôi, đúng. Và hay. Chân
dung truyền thần sinh động của ông về bộ mặt kiểm duyệt ở Việt Nam thật
đến mức khó chịu. Nó bao quát hiện tượng kiểm duyệt, khắc họa bản chất
của kiểm duyệt, phác họa cấu trúc và các hình thái của kiểm duyệt, tìm
hiểu bối cảnh của kiểm duyệt và miêu tả chi tiết kiểm duyệt diễn ra như
thế nào. Nó là một áng văn hấp dẫn, một tư liệu giá trị. Nếu tôi không
quá nhầm thì công luận phải mong muốn nó được phổ biến. Song điều phiền
toái nằm ngay trong giá trị của bài phóng sự.
Tác giả, như thông lệ của phóng viên
điều tra phương Tây, đã không dùng nút bấm điều khiển từ xa, không tổng
hợp và lọc tin từ bàn phím, không nghe qua tai, nhìn qua mắt và phát
ngôn qua miệng người khác, mà tuân thủ đạo đức hay điều răn hàng đầu của
nghề báo: ông không bịa ra một bài phóng sự mà tiếp cận người thật,
việc thật, và lấy trường hợp thật của chính mình làm chất liệu.
Chuẩn mực đầu tiên này của sự thật có vẻ
lạ lùng với báo chí Việt Nam. Để lấy một ví dụ: khi “em bé đuốc sống”
Lê Văn Tám đã được người trong cuộc, một nhân chứng, một giáo sư sử học
đầy uy tín chính thống, tiết lộ là nhân vật hư cấu để tuyên truyền thì nhà báo Trần Trọng Tân, người từng đứng đầu ngành văn hóa tư tưởng của đất nước, vẫn khẳng định
em bé này là có thật, vì một số sách báo sau này đã thuật lại sự kiện
này. Tôi không biết có ai sẵn sàng trả tiền mua tin của Thông tấn xã
Việt Nam hay không, song sở dĩ các hãng tin nước ngoài như Reuters, AP,
AFP, UPI, DPA…, hầu hết của phương Tây, bán được loại hàng đặc biệt này
vì bên cạnh những ưu thế khác, trước hết là giá trị xác thực của món
hàng được đảm bảo: người thật, việc thật, phóng viên thật. Bán một chiếc
túi nhái Louis Vuitton rất dễ; cả giá trị sử dụng lẫn giá trị thẩm mĩ
của nó có khi còn cao hơn của hàng xịn, vấn đề chỉ còn là nguồn gốc toát
ra từ chính người dùng; nhưng bán tin fake Reuters thì không thể, giá trị sử dụng của nó là zero. Trong hai tác phẩm đáng chú ý nhất hai năm vừa qua, Bên thắng cuộc của Huy Đức và Đèn cù
của Trần Đĩnh, chúng ta có thể tìm được vô số ví dụ về việc toàn bộ
guồng máy tuyên truyền của Việt Nam đã hư cấu, bịa đặt, giả mạo, bóp
méo, lũng đoạn, dụng ý gây nhiễu, định hướng, kiểm soát và kiểm duyệt
thông tin một cách toàn diện và hệ thống như thế nào. Bài báo, “phát
pháo mở đầu cuộc Cải cách Ruộng đất” về vụ đấu bà Nguyễn Thị Năm – Cát
Hanh Long, do chính ông Trần Đĩnh viết, “ký một cái tên ú ớ không còn
nhớ và sau đó cũng không mó đến nó bao giờ”, như ông cho biết. Song bản
thân ông không dự đấu tố. Để xào ra một “tường thuật”, ông “khai thác”
người cấp dưỡng của ông Trường Chinh, theo sự “pha phách thêm nếm” của
đồng chí phóng viên đầu bếp này, để rồi “phối hợp” với nó, chúng ta có
bài “Địa chủ ác ghê” của một CB nổi tiếng. Ít nhất thì ông Hồ đã “bịt
râu đến dự một buổi”, nhưng chắc chắn không phải vì tuân thủ đạo đức báo
chí.
Và để so sánh: báo chí Đức ồn lên một dạo vì một vụ tai tiếng. Bỉnh bút của tờ Süddeutsche Zeitung,
ông Heribert Prantl, một trọng lượng lớn trong làng báo Đức, bị chỉ
trích vì trong một bài chân dung về người đứng đầu Tòa Bảo hiến Liên
bang, ông miêu tả cảnh thực khách của vị chánh án được phân công làm
bếp, như thể ông đã trực tiếp chứng kiến, trong khi ông chỉ nghe kể lại
chứ chưa bao giờ ngồi trong căn bếp ấy. Tờ báo phải đăng đính chính. Một
nhà báo khác, ông René Pfister của tờ Spiegel, được trao một
giải thưởng báo chí danh giá cho một bài viết về Thống đốc bang Bayern,
trong đó có đoạn miêu tả sưu tập mô hình tàu hỏa trong tầng hầm nhà vị
chính khách này. Ngay sau đó ông bị tước giải thưởng vì chỉ biết đến sưu
tập đó qua nguồn khác, song lại quên nêu rõ, khiến độc giả tưởng ông đã
đích thân đặt chân xuống tầng hầm này.
Nếu cũng áp dụng những chuẩn mực như
vậy, báo chí Việt Nam còn lại gì? Cần nói ngay rằng báo chí độc lập,
thiếu hẳn điều kiện – tài chính, nhân sự, bộ máy tổ chức – và quyền tự
do tiếp cận các sự kiện, đành giới hạn mình trong chức năng bình luận;
dễ hiểu rằng nhiều nhận định nghiêm túc xuất hiện ở “lề trái” lại vô giá
trị, vì dựa trên các thông tin hư cấu hoặc đã xào nấu nát bét nguồn gốc
trong những chiếc vạc đại táo của các đầu bếp quốc doanh. Đó là chưa kể
vô vàn những diễn đàn nặc danh mà tọa độ chính trị còn đáng ngờ hơn cả các thông tin được những người ngồi trong bóng tối lôi ra từ tay áo.
Trở lại với ông nhà báo Mỹ. Ông có thể
kể câu chuyện hoàn toàn thật của mình, do chính mình trải qua, đích thân
tai nghe mắt thấy, bằng cách giấu tên các nhân vật thật trong đó không?
Tôi cho là không. Vì sao? Vì chỉ giấu họ trong những cái tên hư cấu là
vô nghĩa, không cần là người trong ngành xuất bản ở Việt Nam cũng dễ
dàng xác định who is who trong trường hợp này. Thao tác giấu
tên bắt buộc phải kéo theo một loạt các hư cấu khác: ông phải tưởng
tượng ra một nhà xuất bản khác, cuốn sách bị kiểm duyệt của ông phải
mang một cái tên khác và tất nhiên một nội dung khác, bản thân ông cũng
cần xuất hiện với một bút danh khác, và toàn bộ câu chuyện nên xảy ra ở
một xứ tưởng tượng, phi thời đại, tốt nhất là ở Macondo. Nó sẽ không còn
là một phóng sự điều tra mà trở thành một roman à clef. Tác phẩm được coi là roman à clef nổi tiếng, tiểu thuyết Mephisto
của Klaus Mann – con trai Thomas Mann – là một ví dụ tốt. Dù nhân vật
chính mang một cái tên hoàn toàn khác và được đặt trong những tình tiết
hư cấu, nhưng bối cảnh là nước Đức thời Quốc xã không thay đổi, nên
người đọc vẫn dễ dàng nhận ra đó là diễn viên Gustaf Gründgens, anh rể
cũ của tác giả, một nghệ sĩ có tài, nhiều tham vọng, leo đến đỉnh cao sự
nghiệp sân khấu của mình nhờ thỏa hiệp với chính quyền Hitler. Song
Thomas A. Bass không có ý định viết tiểu thuyết. Tác phẩm của ông là một
phóng sự người thật việc thật, thể loại đặc biệt, được coi là đỉnh cao
và niềm tự hào của báo chí phương Tây.
Để lấy tiếp một ví dụ – hiển nhiên không
phải để so sánh sự kiện, một sự kiện nằm ngoài khả năng hình dung của
chúng ta – mà để hiểu, khi được gắn với những nhân vật cụ thể, có thực
và có thể kiểm chứng, thì sự thật bỗng hiện ra trong toàn bộ sự khó chịu
của nó như thế nào: Trước khi Seymour Hersh bám lấy viên trung úy
William Calley Jr. để anh ta, chuếnh choáng sau một lượng bia kha khá,
kể chuyện mình đã thực hiện lệnh search and destroy, tìm và diệt, tại làng Mỹ Lai ngày 16/3/1968, đúng tinh thần Big Count,
càng nhiều xác địch càng vẻ vang, của Chiến dịch Phượng Hoàng ở cao
điểm của Chiến tranh Việt Nam; trước khi nhà báo này cày tung nước Mỹ để
tìm ra từng nhân chứng, với người thật, tên thật, những người lính
trong quân đội Hoa Kỳ đã tham gia hoặc tận mắt chứng kiến vụ thảm sát
ấy, với 504 xác người già, phụ nữ và trẻ em, thì công luận Hoa Kỳ không
phải là không biết đến vai trò đáng ngờ của quân đội Hoa Kỳ trong những
cái được gọi là “tổn thất ngoài dự kiến” trong Chiến tranh Việt Nam.
Song khi cả nạn nhân và thủ phạm đều đứng khuất trong chốn no name thì sự thật còn chịu được theo một nghĩa nào đó. Phải đến khi phóng sự của Hersh
xuất hiện, sau gần một năm ngược xuôi không nơi nào muốn công bố, cái
sự thật ấy bỗng có những gương mặt thật, những chân dung thật, những cái
tên thật, và mới thật sự trở thành khó chịu, sự khó chịu dẫn đến phong
trào phản chiến, rồi góp phần đáng kể vào việc chấm dứt sự tham dự của
Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam.
Câu hỏi bên trên cũng có thể diễn đạt
theo cách khác: Thomas A. Bass có cần, thậm chí có tránh nhiệm giấu tên
các nhân vật thật trong câu chuyện thật của mình không? Một lần nữa,
theo tôi là không. Song để thuyết phục nhiều người đã quen với “hoàn
cảnh Việt Nam”, nơi vị nguyên thủ khai quốc dùng bút danh CB hay X.Y.Z
để viết những bài báo agitprop kích động hoặc những mẩu chuyện
đả kích bỗ bã, và đương kim Chủ tịch nước gọi đương kim Thủ tướng là
“đồng chí X”, thì không dễ. Nhưng muốn thế nào, ít nhất từ hôm qua độc
giả đã không còn là trẻ con, và hôm nay các nhân vật được đề cập còn
chưa là những Lord Voldemort để tác giả “Rừng Sát” cần gọi nhà sử học
kiêm đại biểu Quốc hội trong bài viết của mình là “ông Y” hay vị giám
đốc công ti xuất bản Nhã Nam là “ông Z”. Họ là các nhân vật có tên tuổi
đàng hoàng của giới chính trị, hàn lâm, truyền thông và xuất bản.
Ở phương Tây hiện tại, chẳng những ban
lãnh đạo mà nhân viên của các nhà xuất bản, phóng viên các hãng truyền
thông và báo chí, giới hàn lâm trong các trường đại học và viện nghiên
cứu, những người làm việc trong các hãng quảng cáo và tổ chức sự kiện xã
hội, trong các thư viện và bảo tàng…, đều công khai danh tính, thậm chí
kèm cả ảnh và địa chỉ email cho bất kì ai muốn liên lạc. Công luận có
quyền biết những nhân vật đang hàng ngày đào tạo, rèn rũa, tác động đến ý
thức và dư luận xã hội là ai. Không phải chỉ chính khách và It Girl mà nhóm nói trên cũng được coi là những nhân vật ít nhiều đứng trong công luận, những public figure
từ khía cạnh đặc thù của công việc họ làm. Phần lớn trong số họ đều có
trang cá nhân chính thức, với đầy đủ tiểu sử, bước đường sự nghiệp,
thành tích, tác phẩm, và thường kèm kết nối công khai trên các mạng xã
hội.
Ở Việt Nam, nơi các nhà lãnh đạo đất nước được công khai đại diện bằng một hệ thống đồ sộ các trang mạng nặc danh vui vẻ truyền bá cuốn Mein Kampf
như một “tác phẩm hấp dẫn” với những hình ảnh máu lửa giật gân, tên
tuổi tự chúng đã sống những số phận khác hẳn. Công ti xuất bản Nhã Nam có một website,
nhưng ở đó tuyệt đối không có một cái tên nào của những người nào chịu
trách nhiệm. (Ở Đức chẳng hạn, luật pháp bắt buộc các doanh nghiệp – dĩ
nhiên một công ti xuất bản là một doanh nghiệp – không những công khai
tên các nhân sự chịu trách nhiệm, mà hàng loạt thông tin khác, kể cả mã
số thuế doanh thu và mã số doanh nghiệp trên trang nhà.) Còn Nhà xuất
bản Hồng Đức, cũng được nhắc tới trong vụ “Rừng Sát”, thì tồn tại kín
đáo ngoài thời đại internet. Song không riêng gì họ. 99 % những cái tên
kí dưới hàng chục ngàn bài báo và bản tin hàng ngày đăng trên hàng trăm
tờ báo ở Việt Nam thực ra là thừa. Chúng vô nghĩa, vì không khác gì vô
danh khi không công khai gắn với một con người thật, tên tuổi thật.
Chúng ta đã trải qua một chặng đường
dài. Cột cây số đầu tiên cắm bảng “Đừng nghĩ”. Đi hết ba thế hệ mới gặp
bảng “Nghĩ thì nghĩ, miễn đừng nói”. Đến đây tốc độ có vẻ cao hơn, chỉ
một thế hệ sau đã đến cây số “Nói thì nói, miễn đừng nêu tên” và đi thêm
một chút thì gặp tấm bảng khổng lồ “Đừng hành động”. Song một người
Việt điển hình hôm nay vẫn là một người Việt dùng vô số nickname
và ngại nêu danh tính thật. Bạn cứ thử gọi điện đến một tổ chức, cơ
quan, doanh nghiệp, hiệp hội… Ở phương Tây, lời đầu tiên mà người bên
kia đường dây nói ra là tên mình, như điều đương nhiên nhất trần đời. Ở
Việt Nam, đó là điều cuối cùng mà người ta muốn tiết lộ, như bí mật lớn
nhất nhân gian. Dĩ nhiên nỗi e ngại này có nguồn gốc bất hạnh của nó,
song nó cũng rất tiện dụng để làm cái cớ, biện minh cho tình trạng vô
danh của trách nhiệm. No name là môi trường giết chết những thương hiệu khả tín, nhưng là chốn an toàn cho những tầm vóc thấp chốt ở vị trí cao. No name, như đã nói ở trên, là nơi sự thật còn chịu được theo một nghĩa nào đó.
Ông nhà báo Mỹ vác cái bản thảo bị bằm
vặp của mình, nhằm thẳng quả bom kiểm duyệt xông tới, sau khi mon men ở
vòng ngoài. Chui hẳn vào bụng nó chắc ông cũng dám lắm, nhà báo nước
ngoài không có gì để mất ngoài cái story của họ, nhưng vòng sâu
nhất mà ông có thể tiếp cận là chỗ đứng của những người gác bom, những
người vạch cho ông bằng bút đỏ, đâu là ranh giới cuối cùng. Trong cái story
của ông, họ là những nhân vật chính mà tên tuổi thật, như dấu chấm tất
yếu trên chữ i, khiến câu chuyện ấy không thể thật hơn. Song sự kinh
ngạc từ phía độc giả Việt Nam cho thấy, cú sốc văn hóa Việt-Mỹ đã hoàn
hảo. Như cái tên Tố Hữu trong cuốn sách của ông bị các nhà kiểm duyệt
viết tắt – một cách lố bịch và vô nghĩa – thành T.H, có lẽ ông phải tự
kiểm duyệt tên các nhân vật trong bài phóng sự của mình? Ông sẽ có khá
nhiều lựa chọn: CB, T.H, X, hoặc XYZ. Muốn kể một câu chuyện về kiểm
duyệt, trước hết bạn hãy tự kiểm duyệt. Chào mừng bạn đến với đất nước
của hài hước, chúng tôi đơn giản là Việt Nam!
Vâng, đó là cố hương của tôi, một nhà
văn viết tiếng Việt, lần cuối cùng được xuất bản trong nước là 19 năm
trước, 1995, một tập truyện ngắn bị đình chỉ ngay sau khi phát hành. Tám
năm sau, lần cuối cùng tôi được về thăm nhà, ông Trịnh Đình Khôi,
chuyên viên cao cấp phụ trách mảng văn hóa văn nghệ thuộc Ban Tư tưởng
Văn hóa Trung ương, nay là Ban Tuyên giáo Trung ương, khẳng định với tôi
rằng ông không liên quan đến cái lệnh cấm đó, thậm chí ông đã bênh vực
cuốn sách của tôi trong cuộc họp phê bình nhà xuất bản. Ai cấm, ông
không biết. Nhưng ông không biết, thì ai biết? Cái đó thì phải hỏi bên
Bộ, ông nói. Tức bên chính phủ. Cấu trúc hai nhà nước trong một nhà nước
của Việt Nam, bên này Ban, bên kia Bộ, quả là một sáng kiến vĩ đại.
Chúng ta đều trở thành những con lắc, chóng mặt giữa hai bờ quyền lực,
và một giây nào đó chợt bừng tỉnh để ngay sau đó lại trở về quán tính
chao đảo thì gần ba phần tư thế kỉ đã trôi qua.
Ngồi trong căn phòng tuềnh toàng của Ban
ở một biệt thự Pháp chỉ còn cái xác nhưng vẫn giữ vẻ khang trang đường
bệ so với các kiến trúc của người Việt, cách Lăng Hồ Chủ tịch không đầy
một cây số, với bộ bàn ghế rẻ tiền, bộ ấm chén cáu bẩn cùng chiếc bô
nhựa màu đỏ đầy ắp bã trà, một trong những vật dụng ám ảnh tôi nhất
trong mọi phòng tiếp khách của các cơ quan nhà nước từ trung ương đến
địa phương thuở đó, tôi hoàn toàn tin rằng ông chuyên viên tư tưởng
thành thật. Cũng thành thật như thế, ở một tầm khác, là người đứng đầu
ngành tư tưởng văn hóa của đất nước, ông Trưởng Ban, Ủy viên Bộ Chính
trị, một nhà thơ, người đã phá mọi kỉ lục cấm sách của các bậc tiền
nhiệm, song với một điểm son là sách tuy bị đình chỉ nhưng tác giả bình
an. Song cả ông Nguyễn Khoa Điềm dường như cũng không liên quan gì đến
cuốn sách bị cấm của tôi. Nhận chén trà từ tay người phục vụ – hay phải
gọi là người thư kí? – mang tới, tôi không thấy chiếc bô nhựa màu đỏ
trong phòng tiếp khách bề thế hơn nhiều của ông, ghế bọc giả da, nhưng
hơi thở của quyền lực ở đây không ồn ào, chỉ lạnh lẽo. Ông nhắc đến
những bài thơ thuở nào của tôi mà chính tôi không còn nhớ, mấy trăm bài
thơ đầu tay tôi đã đốt sạch để không bao giờ còn bị môn thể thao đá cầu
chữ nghĩa trong nghệ thuật này ở Việt Nam cám dỗ. Chúng tôi trò chuyện
về talawas, trang mạng do tôi phụ trách lúc đó. Ông gọi nó là một cửa sổ nhìn ra thế giới và quan tâm tới giải thưởng văn chương mang tên Bùi Giáng mà tôi từng đề nghị. Song sự thân ái giữa người cầm bút và người cầm bút đó không ngăn cản việc sáu tháng sau, talawas
bị chặn, các biên tập viên ở Việt Nam lần lượt bị công an triệu tập.
Cha mẹ tôi, gần đất xa trời, cũng phải lập cập lên “làm việc” với an
ninh. “Nhờ hai cụ nhắn với chị Hoài, chắc chị ấy cũng muốn về thăm gia
đình chứ”, Stasi Việt Nam ngọt ngào tiễn cha mẹ tôi ra về.
Khi tôi ra khỏi dinh thự của Văn phòng
Trung ương Đảng do người Pháp để lại, trời đã tối, nhưng vẫn còn những
cán bộ cởi trần mặc quần đùi vờn bóng bàn ở sân. Bây giờ, mười một năm
sau, chắc họ chơi golf. Bàn ghế chắc đã thay bằng cái gì khảm
trai, cái gì gỗ gụ, như cái thẩm mĩ búa liềm rồng phượng của đất nước
này đòi hỏi. Nhưng chiếc bô nhựa đỏ, tôi tin là nó bất diệt. Nó vẫn còn.
Còn nguyên như khu rừng nhiệt đới của kiểm duyệt. Lạc trong đó, bạn sẽ
đầy lòng cảm ơn người kiểm lâm đã cứu bạn khỏi bị hùm xé xác, bằng cách
vạch cho bạn một đường thoát qua khu đầm lầy. Lún đến đâu, tùy vào bạn.
Tôi ngoái lại nhìn một lần nữa cái trụ sở của quyền lực ấy và nhẹ người,
tôi sẽ không phải gieo một con xúc xắc nào trong ván mạt chược lớn,
cuộc chơi của các nạn nhân, ân nhân, thủ phạm và đồng phạm đó nữa. Lời
của chàng thanh niên 25 tuổi Karl Marx viết năm 1843 cho người cộng sự Arnold Ruge
khi quyết định rời khỏi nước Đức, bắt đầu cuộc đời lưu vong tròn 40 năm
của mình, vẳng lên trong tôi như một bằng chứng nữa, rằng lịch sử dành
cho mọi người Việt – trong đó có tôi, người đang sống, đến nay vừa tròn
20 năm, ở Đức – một quy chế hài hước đặc cách. Ông viết: “Tôi đã mệt mỏi
vì sự thớ lợ, ngu xuẩn, vì công quyền thô thiển, vì thói bợ đỡ, luồn
cúi, quay lưng của chúng ta và vì tệ chẻ chữ.” Lí do cho sự mệt mỏi đó
là chế độ kiểm duyệt tại Đức mà nạn nhân là tờ Rheinische Zeitung do Marx chủ biên, với loạt bài nổi tiếng của ông bàn về tự do báo chí và xuất bản.
In doubt we publish
Một nhà báo nghiêm túc có được phép khai thác hay dẫn nguồn, chẳng hạn, từ đoạn băng ghi cuộc điện đàm “Fuck the EU” giữa bà Trợ lí Ngoại trưởng Hoa Kỳ Victoria Nuland và Đại sứ nước này tại Ukraine Geoffrey Pyatt, hay đoạn băng ghi cuộc điện thoại “dọn sạch tiền trong nhà” giữa cha con Erdoğan, thời còn là Thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ, hay đoạn băng ghi âm
ông Chủ tịch Tập đoàn Đại Dương Hà Văn Thắm cùng đàn em dọn dẹp hậu
trường đi đêm giữa giới mafia tài phiệt và thượng đỉnh quyền lực chính
trị? Theo quan niệm báo chí truyền thống, câu trả lời là không. Đó là
những tư liệu chưa được kiểm chứng và bất hợp pháp. Luật pháp của hầu
hết mọi quốc gia đều nghiêm cấm việc bí mật đặt máy nghe trộm rồi đem
công bố. Song theo Wikileaks, câu trả lời sẽ là: In doubt we publish.
Đúng 10 năm trước, cùng tòa soạn talawas tôi đứng trước một quyết định: Có nên đăng tập tài liệu mang tên “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng”
của nhà báo Nhật Hoa Khanh không. Lí do để không đăng ít nhất cũng
nhiều bằng lí do để đăng. Tác giả hoàn toàn im lặng trước những cáo buộc là giả mạo, xuyên tạc, bịa đặt, vu khống,
từ chính vợ ông Tố Hữu, trên báo chí chính thống. Việc thẩm định độ xác
thực của tài liệu nằm ngoài khả năng của chúng tôi, song có hai điểm
quan trọng ủng hộ cho việc công bố: thứ nhất, tác giả có thật, được biết
đến ở Việt Nam dưới bút danh này; thứ hai, Tố Hữu là một nhân vật mà
công luận quan tâm. Quyền được biết của công luận, đã giành được và được
dành vị trí ưu tiên.
Nhưng the public´s right to know
là một khái niệm co giãn. Nó đã nhiều lần bỏ rơi các nhà báo chân chính
và chống lưng cho báo chí giật gân lá cải. Ngay ở các nước có đủ các
định chế chính trị, luật pháp và văn hóa, cộng thêm một truyền thống báo
chí tự do lâu đời và một trình độ dân trí tương đối cao, người ta vẫn
không dễ dàng xác định quyền được biết của công luận chấm dứt và quyền
riêng tư bất khả xâm phạm bắt đầu từ ranh giới nào.
Khi nước Mỹ rúng động về vụ cô thực tập
sinh có mái tóc bồng, tôi – lúc đó mới sống 5 năm ở phương Tây – đã đi
từ ngạc nhiên này đến sững sờ khác. Người Mỹ dường như không có việc gì
đáng làm hơn là bình luận hàng tháng trời về oral sex có phải là sex. Báo chí truyền thông Hoa Kỳ dường như không thấy một đề tài nào quan trọng hơn điếu xì-gà, chiếc váy xanh vấy tinh dịch và blow job trong Oval Office. Rồi khi ông Bill Clinton đứng ra trước ống kính truyền hình từ Map Room trong Nhà trắng ngày 17/8/1998 vừa xin lỗi vừa tự vệ, vừa mếu máo vừa hùng hồn: Even presidents have private lives,
Tổng thống cũng có quyền có đời tư không liên quan gì đến ai, tôi đồng ý
ngay, chỉ tiếc là cái gu ái tình của người đàn ông bảnh bao và giàu
quyền lực nhất thế giới này có vẻ xích về hướng ăn tạp hơn ăn tinh.
Tôi
đến từ một xứ sở, nơi một nhúm nhân vật đứng đầu quốc gia ra những
chính sách để một bộ máy công quyền với tay vào tận giấc mơ và những thứ
khác trong giường ngủ của dân chúng, nhưng chính họ thì tồn tại cách li
khỏi công luận. Báo chí Việt Nam thoải mái đăng hình Obama khiêu vũ với
vợ, cầm tay vợ, ôm vợ, hôn vợ, đút thức ăn cho vợ; người Việt biết rõ
đệ nhất phu nhân Hoa Kỳ mặc váy của nhà thiết kế nào vào dịp nào, hai đệ
nhất khuyển trong Nhà trắng tên là gì, lai lịch ra sao; hai đệ nhất
tiểu thư học trường nào, đóng bao nhiêu học phí. Người Việt cũng được
thông tin kha khá về gia tộc họ Kim, thậm chí biết cả vụ Kim con phải
điều trị mắt cá chân vì thích đi giày đế cao. Nhưng không biết gì về các
nhà lãnh đạo quốc gia của chính mình. Kim con cao 175 cm so với Kim cha
160, Putin 170, Sarkozy 165, Đặng Tiểu Bình 152, Tập Cận Bình 180 và
Omaba 185 cm. Nhưng đố ai biết chiều cao của các nhà lãnh đạo Việt Nam,
kể cả Hồ Chí Minh. Tôi thật sự muốn biết Bộ Chính trị phải dùng chung
một loại thuốc nhộm tóc hay được tùy ý lựa chọn trên thị trường tự do.
Trừ ông Nguyễn Phú Trọng bạc minh bạch và ông Nguyễn Thiện Nhân bạc do
dự, tóc tất cả các vị đã trên lục tuần ấy đều đồng bộ đen nhánh. Tóc
đen, cà vạt đỏ có phải là điều kiện bắt buộc để làm chính trị tại Việt
Nam không? Hay phu nhân của Thủ tướng đã sắm chiếc áo dài ren màu tím rùng rợn khi tiếp vợ chồng Thủ tướng Singapore ở chợ nào? Phu
nhân của Tổng Bí thư đã đứng bao lâu trước gương để chọn cho mình bộ áo
dài tuyết nhung loang lổ hoa văn đáng kinh hãi, bên ngoài khoác thêm
chiếc áo vét cán bộ màu be, khi tiếp vợ chồng Chủ tịch Lào? Thế hệ màu
be là thảm họa toàn cầu, thành tích riêng của các mệnh phụ Việt Nam là
kết hợp nó với xì-tai áo dài sặc sỡ quệt sát đất. Song tôi e rằng đó
cũng là những bí mật quốc gia, hoặc khu vực riêng tư cấm nhà báo xâm
phạm. Cho nên, sống thêm 15 năm nữa ở phương Tây, khi bà nhà báo Valérie
Trierweiler, cựu đệ nhất tình nhân nước Pháp, tung ra cuốn sách về Tổng
thống bê bối François Hollande, tuy ghét trò kể tội người tình xưa và
rất không ưa chuyện đem đồ lót ra phơi ở quảng trường, tôi vẫn thấy hành
động của bà hơn hẳn truyền thống ngậm miệng làm thinh của các Đệ nhất
Phu nhân khác của nước Pháp, bà Pompidou, bà d’Estaing và đặc biệt bà
Mitterrand, để các đấng ông chồng trăng hoa của họ có vợ lớn, vợ bé, con
chung, con riêng, thậm chí bằng tiền dân đóng thuế. Ở Việt Nam, chỉ một
bài báo hé lộ rằng Hồ Chủ tịch từng có vợ người Hoa chứ chưa cần mở một
cánh cửa phòng the nào đã khiến Tổng biên tập một tờ báo lớn mất chức.
Quyền được biết của công luận thắt lại
đến tối thiểu trong định nghĩa bóp nghẹt của một nền độc tài chính trị
và phình ra đến tối đa trong định nghĩa vụ lợi của một nền độc tài
thương mại giải trí. Ở một xã hội chưa ra khỏi nền độc tài kể trước đã
sắp bước vào nền độc tài kể sau như Việt Nam, định nghĩa nào đủ hiệu lực
cho một hiện thực vừa thả cửa bùng phát vừa giam hãm o bế, vừa vô chính
phủ vừa chuyên chế, vừa hỗn loạn vừa định hướng gắt gao? Báo chí hồn
nhiên trưng ảnh chụp hàng loạt chứng minh thư và giấy tờ tùy thân của
người dân để giật tít về những cái tên “độc” ở Việt Nam. Báo chí vô tư
trình ra các bệnh án cá nhân, kể cả của người đang điều trị về tâm thần,
trước bàn dân thiên hạ. Những bé gái bị xâm phạm tình dục xuất hiện với
đầy đủ họ tên, địa chỉ, thậm chí kèm cả ảnh trên mặt báo. Cáo trạng
được đăng trước khi xét xử. Nghi can bị công luận chỉ mặt gọi tên trước
khi tòa truy tố. Sao lớn sao nhỏ bày mông đùi như xếp cỗ. Đời những phụ
nữ bán dâm bị mở tanh bành. Hàng vạn khách hàng bị một công ti với slogan
“Giá trị thực cho niềm tin bền vững” gài phần mềm nghe trộm. Chính
quyền yêu cầu dân khai cả số điện thoại và địa chỉ email vào phiếu lí
lịch. Và ít nhất 500 triệu tài khoản Facebook của 90 triệu người Việt
trở thành chốn riêng tư công khai khổng lồ, nơi họ, cộng đồng FB tự
nguyện thi đua tích cực nhất thế giới, hăng hái triển lãm mình và nhân
tiện trưng luôn cả anh hàng xóm, như thể ngày tận thế là ngày FB down. Nếu internet
truyền được cả mùi, tôi tin rằng anh hùng FB đầu tiên chia sẻ cái mùi
vô cùng độc đáo của mình với cộng đồng mạng mênh mông sẽ đến từ Việt
Nam. Song ở chính đất nước ấy, việc báo chí truyền thông điều tra nghi
án gian lận tuổi của một cầu thủ nổi tiếng lại bị coi là xâm phạm bí mật
đời tư. Ở chính đất nước ấy, ly hôn thì xử công khai còn chính trị xử
kín, và sức khỏe của giới lãnh đạo là bí mật quốc gia. Đầu năm 1984, dân
chúng Liên Xô tuyệt không biết gì, nhưng người phụ trách văn phòng của
tờ Washington Post tại Moskva, nhà báo Dusko Doder, thì đưa trúng tin Tổng Bí thư Yuri Andropov vừa qua đời
ngày 9/2, trước cả thông báo chính thức từ chính quyền Xô-viết. Khẳng
định của ông dựa vào một số dấu hiệu, chẳng hạn trụ sở Bộ Quốc phòng
Liên Xô sáng đèn suốt đêm, và một chương trình nhạc jazz trong
đài phát thanh bỗng được thay bằng nhạc cổ điển. Khi Brezhnev mất hai
năm trước, đài Liên Xô cũng đổi chương trình nhạc, từ đại chúng sang cổ
điển. 25 năm sau kỉ nguyên Xô-viết, công luận Việt Nam trở tay không kịp
với tin ông Phạm Quý Ngọ đột ngột từ trần, còn bệnh tình của ông Nguyễn
Bá Thanh là cả một kì án.
Vì thế tôi hiểu sự phân vân, ngay trong giới truyền thông và xuất bản Việt Nam, rằng bài phóng sự của Thomas A. Bass
có thể xâm phạm quyền riêng tư của những nhân vật được đề cập. Tôi
không băn khoăn như vậy. Các nội dung được ông nhà báo Mỹ tường thuật
thuần túy tập trung vào công việc giữa ông và những người liên quan
trong quá trình xuất bản cuốn sách của ông. Song chủ đề khó khăn này
thường vượt quá thẩm quyền bình luận của các cá nhân đứng ngoài. Phán
quyết cuối cùng nên thuộc về tòa án, nếu người ta được sống trong một hệ
thống tư pháp ít nhiều đáng tin cậy. Để lấy một ví dụ: Spickmich,
một trang mạng chấm điểm giáo viên ở Đức ra đời mấy năm trước, với gần
một triệu học trò là thành viên tham gia đánh giá thày cô giáo. Đó quả
là một ý tưởng đặc biệt. Thày và trò bỗng đổi vai. Kết quả được đăng
công khai: tên giáo viên, dạy môn gì, ở trường nào, được học trò cho mấy
điểm, căn cứ trên một số tiêu chí như năng lực chuyên môn, nhiệt tình
giảng dạy, tư cách trên bục giảng, thái độ ứng xử với học trò, sự công
bằng khi chấm bài, và cả phong cách thời trang. Đầu tiên là một cô giáo
bị điểm quá xấu đâm đơn kiện, rồi kéo theo hàng loạt thày cô khác, với
sự ủng hộ đáng kể trong dư luận xã hội, nhiều người đòi cấm hẳn trang
này. Họ cho rằng những thông tin cá nhân và quyền riêng tư của các giáo
viên bị xâm phạm nghiêm trọng. Song từ Tòa Tiểu bang đến Tòa Thượng thẩm
Tiểu bang, rồi Tòa Thượng thẩm Liên bang và cuối cùng là Tòa Bảo hiến
Liên bang, tất cả các cấp thẩm quyền của hệ thống tòa án ở Đức đều bác
bỏ đơn kiện của các thày cô. Tòa phán, giáo viên phải chấp nhận việc học
trò có thể đánh giá mình không như mình mong đợi. Dù học trò chấm sai,
thậm chí không loại trừ cả những động cơ cá nhân, nhưng quyền nhận định
về giáo viên của học trò – rốt cuộc đó là quyền tự do chính kiến – được
đặt cao hơn quyền bảo vệ thông tin của các thày cô, vả lại những thông
tin ấy không thực sự là riêng tư vì chúng gắn với công việc. Đã đánh giá
một giáo viên thì không thể không nêu đích danh tên, trường, bộ môn
dạy, và chấm điểm cho từng mục, kể cả nhận định rằng cô giáo ăn mặc tẻ
nhạt hay sexy.
Một nghi vấn khác cũng được đặt ra trong vụ “Rừng Sát” là breach of confidence. Tác giả đã có lời trần tình,
thậm chí còn cho biết đã gửi bài cho những người liên quan xem lại từ
vài tuần trước khi công bố. Gây dựng hay phản bội lòng tin, rốt cuộc chỉ
chính những người trong cuộc tự biết. Đôi khi sự thỏa thuận chỉ ở trong
một ánh mắt, trong một lời ngập ngừng, trong một cái cười nửa môi,
những điều không có hiệu lực gì trước luật pháp vô tình. Song ngay cả
khi sự bội tín của nhà báo là không thể chối cãi thì phán quyết từ cả dư
luận lẫn những định chế luật pháp cuối cùng vẫn cần dựa trên sự cân
nhắc: lợi ích chung của xã hội trong mỗi trường hợp cụ thể có đủ lớn để
biện minh cho thiệt hại riêng của cá nhân liên quan hay không. Không có
công thức pha sẵn nào cho mọi trường hợp.
Nhà báo Heribert Schwan vốn được tuyển làm ghostwriter,
người viết thuê cho cựu Thủ tướng Đức Helmut Kohl. (Viết thuê ở phương
Tây rất phổ biến. John F. Kennedy khi còn là Thống đốc Massachusetts
thậm chí còn đoạt giải Pulitzer cho Profiles in Courage, cuốn sách do trợ lí Ted Sorensen của ông viết. Cuốn It Takes a Village: And Other Lessons Children Teach Us của Hillary Clinton khi đang là Đệ nhất Phu nhân do bà Barbara Feinman, một giáo sư báo chí viết. Bài được báo chí Việt Nam coi là “diễn văn lịch sử” của Putin
tháng Ba năm nay, đón chào Krym trở về nước mẹ Nga, do Vladislav
Surkov, cố vấn riêng của Putin chấp bút.) Sau ba tập hồi kí và cả một
cuốn nhật kí, tổng cộng 3000 trang đứng tên nhà chính khách, ông bị sa
thải vì xung đột gay gắt với người vợ mới của nhà chính khách, người
muốn chăm sóc một hình ảnh hoàn hảo về Helmut Kohl cho hậu thế. Nhưng
ông còn bản sao 630 tiếng đồng hồ trong 200 cuốn băng ghi 105 cuộc trò
chuyện với Helmut Kohl, và đầu tháng Mười năm nay, ông xuất bản cuốn Di sản: Biên bản Helmut Kohl,
đứng tên mình, khắc họa một chân dung chính khách không lấy gì làm đáng
mến; moi ra những rác rưởi đằng sau bốn nhiệm kì 16 năm quyền lực của
ông cựu Thủ tướng; tiết lộ những lời mạt sát của ông này về nhiều nhân
vật chính trị ở cả Đức và trên đấu trường quốc tế. Tất cả trên cơ sở
những lời thổ lộ trong chỗ tin cậy, không che đậy, thành thực đến tối đa
của ông cựu Thủ tướng với ghostwriter của mình. Ông nhà báo đã
bội tín, không có gì phải bàn thêm. Song có điên mới không xuất bản một
cuốn sách như thế, cả các đồng nghiệp đang bịt mũi trước đạo đức nhà
báo bốc mùi hôi rình của ông cũng phải đồng ý như vậy. Đó là một tác
phẩm chứa đầy tư liệu vô giá về một chương quyết định trong lịch sử nước
Đức, gồm cả giai đoạn Bức tường Berlin sụp đổ và hai nước Đức thống
nhất. Vụ kiện tụng diễn ra rầm rộ. Theo phán quyết của tòa, từ lần tái
bản tiếp theo tác giả phải loại bỏ chính xác 115 câu trích dẫn nguyên
văn lời ông cựu Thủ tướng vì liên quan đến bản quyền, còn 200.000 cuốn
đang phát hành thì được giữ nguyên. Tôi phục là tòa xử giỏi. Các bên
liên quan đều có thua, có thắng. Thắng triệt để là bên đứng ngoài: lợi
ích của công luận.
Người thường xuyên đi quá tất cả các
ranh giới được coi là đạo đức nghề nghiệp thông thường, từ xâm phạm bí
mật đời tư, giả mạo nhân thân, cải trang hình dạng, đặt băng bí mật đến
phản bội lòng tin nổi tiếng nhất trong làng báo Đức là Günter Wallraff.
Tên ông đã được chuyển thành khái niệm wallraffing để biểu thị trường phái báo chí undercover mà ông là đại diện tiêu biểu. Ông từng giả mạo tên tuổi, vào làm biên tập viên ba tháng trong tòa soạn báo Bild,
tờ lá cải có số lượng phát hành ở thời điểm ấy khoảng 5 triệu bản hàng
ngày, để sau đó viết một cuốn sách phanh phui những cung cách thông tin
thiếu lương thiện của Bild. Tất cả những nỗ lực của tờ báo giàu
thế lực này không ngăn cản được cuốn sách. Nó thành công vang dội.
Trong những lần tái bản tiếp theo, một số đoạn dẫn nguyên văn lời các
biên tập viên tòa soạn báo Bild bị bôi đen, nhưng từ năm 2009 đã xuất hiện trọn vẹn trên Wikileaks. In doubt we publish, mượn từ nguyên tắc căn bản trong các nền luật pháp tiên tiến, In dubio pro reo. Trong trường hợp sự bất hợp pháp của văn bản còn chưa được chứng minh đầy đủ, còn tồn tại hoài nghi, thì công bố.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét