Thời gian thì nhiều mà sao quá ư vội vã! Những bước chân hụt hẫng không điểm tựa, không thấy được tương lai. Những bước chân đi trong thực tại mà giống như đang đi trong một cõi hư ảo mơ hồ, của cái trạng thái một người đang rơi và đơn độc trong cơn ác mộng.
Cái gì đã làm cho có người chối bỏ tương lai, tình yêu và tuổi trẻ của mình? Câu hỏi này đã được trả lời khi chúng ta đọc quyển Tuổi trẻ Tình yêu Lý tưởng (2005) và Nói với tuổi hai mươi (1965) của thiền sư Nhất Hạnh...
Thiền sư đặt nhiều hy vọng ở người trẻ. Dù họ có những vụng dại, lỡ lầm nhưng người trẻ có thể học được từ những lỡ lầm. Hay nhất là giới trẻ ít có thành kiến và mỗi lần ngã xuống là biết đứng dậy.
Thiền sư đã viết hai cuốn sách Nói với tuổi hai mươi (1965) và Tuổi trẻ Tình yêu Lý tưởng (2005) ở những giai đoạn hoàn cảnh đất nước khác nhau. Thiền sư luôn tìm cách trao truyền cho người trẻ tinh thần lạc quan và trẻ trung của mình.
Điều Thiền sư muốn gửi gắm là trong cuộc sống thường ngày đôi khi ta gặp những phản bội, hư hỏng, đạo đức giả, thế nhưng người trẻ phải luôn vươn tới để tìm hướng đi mới. Điều quan trọng là đừng bao giờ để trái tim mình mất “lửa”, mất niềm tin.
Đoạn dưới đây ông viết trong cuốn Nói với tuổi hai mươi:
...Chúng ta rút vào trong cái vỏ của chúng ta với ước mong được yên thân. Nhưng chúng ta không được yên thân hơn chút nào. Đối diện với niềm cô đơn của chúng ta, đối diện với chính chúng ta, chúng ta không đủ sức chịu đựng. Con trai thì leo lên xe gắn máy đi tìm một thằng bạn, bất cứ thằng bạn nào, để rồi cùng vào ngồi nơi quán nước, trao đổi vài câu chuyện, nhìn người đi kẻ lại qua khói thuốc của mình. Con gái thì khoác vào một chiếc áo dài , xuống phố theo đám đông , trôi xuôi hai bên bờ đại lộ. Các em trốn không khí gia đình tìm đến nơi đám đông để rồi lại từ đám đông trở về với cái cô đơn của mình. Các em không có bản lĩnh thực sự cho nên các em không dám đối diện với cái cô đơn ấy. Và các em phải thường trực chạy trốn , trốn chạy sự cô đơn, trốn chạy chính bản ngã của các em.
Trong khi đó, chán ghét gia đình, em vẫn phải bám lấy gia đình; chán ghét học hành, các em vẫn phải chui đầu vào lớp học. Em vẫn phải học, phải thi, phải đỗ, phải kiếm việc làm. Không tin ở giá trị những việc em làm, em có mặc cảm rằng em giả dối. Em không thừa nhận những bảng giá trị hiện tại nhưng em vẫn phải phục tùng. Em vẫn phải phục tùng vì những lí do thật đơn giản; em phải ăn, phải mặc, phải ngủ, nói tóm lại em có nhu cầu ngũ uẩn phải được thỏa mãn. Có phải bi kịch của con người là ở chỗ vừa phủ nhận vừa phải phục tùng những ước muốn ác liệt của số phận không? Mà số phận là gì nếu không phải là những gì do con người tạo ra, để rồi nó quay trở lại khống chế chính họ?...
Thiền sư luôn luôn khuyến khích họ tin tưởng vào cuộc đời, đi tới mà đừng có thái độ bi quan, chán nản hay đầu hàng. Mở đầu cuốn Tuổi Trẻ Tình Yêu Lý Tưởng, tuy đã tám mươi tuổi, Thầy vẫn tiếp tục tinh thần trẻ trung, dấn thân ấy, mời người trẻ tham dự vào giấc mơ của mình:
Này người bạn trẻ, tôi muốn mời anh, tôi muốn mời chị tham dự vào một giấc mơ, tôi tạm gọi giấc mơ ấy là giấc mơ Việt Nam.
Giấc mơ chung của chúng ta
Giấc mơ Việt Nam là có một nước Việt Nam thật đẹp, thật hiền, chơi chung với các nước Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Myanmar, với Hàn Quốc và Nhật Bản, và sau đó, với cả Trung Quốc, một cách thân ái trong tình huynh đệ, dân chúng các nước qua lại không cần chiếu khán, và tất cả sử dụng một đồng bạc chung.
Giấc mơ Việt Nam là dân tộc Việt Nam biết để thì giờ ra để đi chơi, ngồi chơi, leo núi, đi biển, sống với cảnh đẹp thiên nhiên, hàng ngày có nhiều cơ hội dựng xây tình huynh đệ mà không để hết thì giờ chạy theo sắc dục, tiền bạc, quyền hành và danh vọng.
Giấc mơ Việt Nam là trẻ em và người lớn đều ý thức được rằng đất hứa, thiên đường hay cõi tịnh độ là cái đang có mặt đích thực trong giờ phút hiện tại, và ta phải biết và phải có khả năng thích ý rong chơi.
Giấc mơ Việt Nam là người Việt có khả năng sống đơn giản mà hạnh phúc, có thì giờ và tình thương để làm việc giúp cho người trong nước và ngoài nước vượt thắng nghèo khổ, bệnh tật, thất học, hòa giải được với người thân và tìm được nguồn vui sống.
Giấc mơ Việt Nam là sông, núi, rừng, biển và ruộng vườn của chúng ta được bảo vệ an lành để chúng ta và con cháu chúng ta cũng như thế giới cũng được bảo vệ an lành và để cho mọi người được tiếp tục thừa hưởng tất cả những gì hùng vĩ, cẩm tú và giàu sang của đất nước này.
Giấc mơ Việt Nam là những người Việt sống trong một nước có quyền tin theo bất cứ một tôn giáo, một chủ thuyết nào, nhưng tất cả đều thấy được rằng không có tôn giáo và chủ thuyết nào cao hơn tình huynh đệ, cao hơn lòng cởi mở và lượng bao dung, và bất cứ ai cũng học được và thừa hưởng được những châu báu của các truyền thống và quan điểm khác để làm giàu cho tuệ giác và hạnh phúc của mình.
Giấc mơ Việt Nam là các quốc gia lân cận, kể cả Trung Quốc, biết thương mến và thưởng thức cái đẹp và cái dễ thương của đất nước, văn hóa và con người Việt Nam mà không còn có ý muốn xâm chiếm và giành giật nhau, tại vì người Việt đã học được cách bảo vệ sông núi, văn hóa và con người của mình bằng nếp chung sống hòa bình, bằng tình huynh đệ, bằng tài ngoại giao, bằng nếp sống tương trợ với các nước chung quanh mà không tin rằng chỉ có vũ khí và quân sự mới làm được chuyện ấy.
Ô hay, bạn sẽ nói, thầy Nhất Hạnh lâu nay khuyên mình sống trong giây phút hiện tại mà bây giờ lại tìm cách trao cho mình một giấc mơ, gọi là giấc mơ Việt Nam! Thầy Nhất Hạnh có còn là thầy Nhất Hạnh nữa không, khi thầy muốn dìu mình đi vào một giấc mơ, dù là một giấc mơ thật đẹp?
Người bạn trẻ ơi, sở dĩ tôi nói tới giấc mơ, tại vì giấc mơ này có thể trở thành sự thật, và đang bắt đầu trở thành sự thật. Một giấc mơ không bao giờ có thể trở thành sự thật một trăm phần trăm, nhưng nó có thể dần dần trở thành sự thật mỗi ngày, và ta có thể sống với sự thật ấy trong giây phút hiện tại.
Lý tưởng lớn, hoài bão rộng là gì, nếu không phải là một giấc mơ? Trong đạo Bụt người ta dùng danh từ Tâm Bồ Đề. Tâm bồ đề đâu có phải chỉ là giấc mơ? Tâm bồ đề là một sự thật, một năng lượng mà ta đang sống và đang cho ta nhiều niềm tin và hạnh phúc. Giấc mơ có thể trở thành sự thật từ từ trong từng giây phút của cuộc sống. Mấy mươi năm nay, không lúc nào mà tôi không đang chứng kiến giấc mơ trở thành sự thật, trong đời sống hàng ngày của tôi.
Thiền sư Thích Nhất HạnhThiền sư Thích Nhất Hạnh, pháp danh Trừng Quang, sinh năm 1926 tại Thừa Thiên-Huế. Năm 16 tuổi ông xuất gia ở chùa Từ Hiếu, tốt nghiệp Viện Phật học Bảo Quốc ở miền Trung VN và tu học thiền theo trường phái Mahayana của Phật giáo.
Thiền sư đã phối hợp kiến thức uyên thâm của ông về nhiều trường phái thiền truyền thống khác nhau, với các phương pháp từ Phật giáo Theravada và ý tưởng từ tâm lý học phương Tây để tạo thành cách tiếp cận hiện đại của ông đối với thiền. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã trở thành một người có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của Phật giáo phương Tây.
Thiền sư là người khai sơn: Phương Bối Am (Bảo Lộc, Lâm Đồng, 1956), chùa Lá Pháp Vân (Tân Phú, Sài Gòn, 1964), tại Pháp có Phương Vân Am - Troyes (1970), Phương Khê - Gironde (1978), đạo tràng Mai Thôn (1982) có các chùa Pháp Vân và Sơn Hạ - Dordogne, Cam Lộ - Lot et Garonne, Từ Nghiêm - Gironde, tại Mỹ có tu viện Rừng Phong và Thanh Sơn - Vermont (1997), tu viện Lộc Uyển - Escondido, California (2001). Thiền sư đã từng giảng dạy tại Đại học Columbia, Boston và New York (Hoa Kỳ), Đại học Amsterdam (Hà Lan), Đại học Sorbonne (Pháp)...
0 nhận xét:
Đăng nhận xét