Việt nhân cả nước đang là một công trường dựng tượng đài ông Hồ Chí Minh.
I.THẾ NAÒ LÀ NGƯỜI TÀI, ĐỨC?
Người Bình thường và người Tài, Đức có ranh giới rất rõ ràng.
Người Bình thường là người nghĩ và làm những việc bình thường. Trong xã hội số này luôn chiếm số lượng tuyệt đối.
Người Tài, Đức là người nghĩ và làm những việc vĩ đại mà những người Bình thường không nghĩ và làm được. Trong xã hội số này luôn chiếm thiểu số tuyệt đối, gần bằng không, tức hiếm lắm.
35 triệu năm qua, hàng tỷ con người đã sống và đã chết ở trái đất này, trong đó số lượng người Tài, Đức của chủng tộc Người chỉ đủ đếm trên đầu ngón tay.
Người Việt Nam ta cũng vậy. 35 triệu năm qua có cả tỷ người đã sống và chết trên mảnh đất hình chữ S này, nhưng số lượng người Tài, Đức được dân tộc định vị, tôn vinh, cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Người tài hiếm đến mức, ai đã học qua lịch sử Việt Nam đều có thể xòe tay mình ra đếm hết số lượng người Tài. Đức mà không sợ bỏ sót người Tài, Đức nào. Xa lắc xa lơ có hai Bà Trưng, Bà Triệu; gần một ngìn năm trở lại đây có Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Ánh, Quang Trung; có thể kể thêm những người Tài, Đức hạng dưới như Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi.
Ở thì đương đại, người đang được ĐCSVN tung hô là người Tài, Đức nhất Việt Nam từ xưa đến nay, đã tốn kém cả hàng chục tấn vàng tiền dựng tượng đài la liệt khắp non song- Người đó có tên: Hồ Chí Minh.
Nhưng có thực ông Hồ Chí Minh là người Tài, Đức nhất Việt Nam từ xưa đến nay?
I.1. TÀI
Nếu đem chân lý Tài là người nghĩ và làm những điều vĩ đại mà người thường không nghĩ và làm được thì thấy:
– Ông Hồ cướp được chính phủ Trần Trọng Kim không tốn một giọt máu nào thì quả ông là người Tài.
– Ông Hồ đánh Pháp và thắng Pháp, ông cũng là người Tài.
– Ông Hồ đánh Mỹ, đã đánh cho Mỹ cút về nước, ông cũng là người Tài.
– Ông Hồ đem học thuyết Mác- Lenin về Việt Nam rồi gom một nửa dân nước Việt Nam đa phần còn mù chữ vào những cái chuồng HTX, xếp hàng chỉnh tề, vừa cầm liềm búa đi lên Chủ nghĩa xã hội, vừa cầm súng, cầm gậy đánh giặc với đường lối, chủ trương “biến không thành có”, với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, trong khi thày ( Mac –Lenin) của ông dạy ông, phải là một nước có nền công nghiệp phát triển mới có thể xây dựng được Xã hội cộng sản. Thế mà, từ già đến trẻ, từ kẻ vô học đến trí thức, từ người chỉ biết uống nước ao, gặm cỏ ở ruộng làng cho đến kẻ đi Tây, đi Tàu, ăn bơ dư, sữa hậu cũng nhất tin theo, đi theo, làm theo. Ông cũng là người Tài.
– Thêm Tài nữa, ông có vợ có con hẳn hoi, nhưng ông tuyên bố “tôi không vợ, không con” mà cả dân tộc Việt Nam từ gìa đến trẻ, từ trí thức đến vô học, đều tin và thừa nhận điều này. Ông cũng là người tài.
– Ông là con của ông Nguyễn Sinh Sắc và bà Hòang Thị Loan, là con cháu chút chít trụt trịt của Lạc Long Quân và Âu Cơ, của Vua Hùng, Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lý Công Uẩn, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Ánh… mà ông tự xưng mình là “Cha gìa dân tộc”. Thế mà cả trăm họ con dân Đại Việt đều phấn khởi tin và cúi đầu, chắp tay thành kính thừa nhận. Ông cũng là người Tài.
Thật, từ cổ chí nay, từ già đến trẻ, từ kẻ vô học cho đến trí thức Việt, chưa từng có một đại thánh nhân, một lãnh tụ vĩ đại nào của con dân trăm họ Đại Việt làm được những điều này. Ông thực sự là một người Tài.
I.2. Đức.
Đức vĩ đại, lớn lao và cao cả của một người Bình thường hay Vĩ đại là luôn biết hy sinh quyền và lợi của riêng mình cho đất nước, cho dân tộc. Vì đất nước, vì dân tộc họ sẵn sàng hiến dân cả mạng mình cho sự nghiệp đó.
– Thời nhà Trần,Trần Bình Trọng chấp nhận cái chết, không chấp nhận ngôi Vương để làm tay sai cho người Hán cướp nước Đại Việt, nên ông đã mắng thẳng vào mặt người Hán, kẻ dụ dỗ ông, rằng: “Ta thà làm quỷ nước Nam chứ không thèm làm Vương đất Bắc”. Trần Bình Trọng là người có Đức vĩ đại. Hoặc như Trần Hưng Đạo, nhất nhất bảo vệ nền độc lập của Đại Việt trước hùng thế ào ạt xâm lược Đại Việt của Nguyên Mông, rằng: “Bệ hạ muôn đầu hàng xin hãy chém đầu thần trước đã”.
– Ông Hồ Chi Minh, tuổi còn non trẻ, nhưng đã nhận ra nỗi nhục của một đất nước không có độc lập nên rời đất nước ra đi, tìm đường cứu nước, khởi thủy, ông cũng là người mang trong lòng nỗi niềm đạo đức.
III- Có thực ông Hồ Chí Minh là người Tài, Đức?
III. 1- Nhưng trên đường đi tìm đường cứu nước, mới chân ướt chân ráo vào đến Sài Gòn, ông đã bập yêu ngay bé Huệ, rồi thề ước với nhau: “Hẹn gặp lại Sài Gòn”, để út Huệ mỏi mòn chờ đợi cho đến già hết kiếp vẫn không gặp được người hẹn hò tình yêu với mình. (Theo truyện Búp Sen Xanh của NV Sơn Tùng và phim Tài liệu Việt Nam: “Hẹn gặp lại Sài Gòn). Ông Hồ biết ngày mình ra đi, chưa biết bao giờ biết ngày trở lại, mà thề bồi hẹn ước với người ta, để người ta chờ đợi đến tàn cả một đời mà ông không có động thái gì quan tâm đến người ta sau đó, trong khi ông đã là Chủ tịch nước Việt Nam đầy quyền uy, mưu mẹo. Ứng xử giữa người với người như thế, ông không thể được xem là người có đạo đức.
III.2 – Ông có vợ, con mà nói “tôi không vợ, không con”, là hành vi gian dối, không có đạo đức.
III.3 – Ông thuộc thế thứ mấy ngàn của lớp lớp con cháu Lạc Hồng, là con đẻ cụ thể của ông Nguyễn Sinh Sắc và bà HoàngThị Loan mà ông dám xưng xưng mình là “Cha già dân tộc”. Ông là kẻ mất dạy, không có đạo đức.
III. 4- Ông đã ít nhất có hai vợ, hai con, một với bà Tăng Tuyết Minh, người Trung Quốc, cưới năm 1926 tại nhà hàng Thanh Bình bên Trung Quốc và sinh được một cháu gái nhưng chết yểu ( Tài liệu công bố của ĐCSTQ); hai với bà Nông Thị Xuân người Việt Nam, sinh con với bà Xuân năm 1956 ( tài liệu công khai trên mạng Internet). Ấy mà, ở cương vị Chủ tịch nước, quyền uy nhất nước, mưu mẹo thiên tài; một, ông lại không đoái hoài gì đến bà Tăng Tuyết Minh, để bà sống trong nỗi chờ đợi mỏi mòn cô đơn cho mãi đến năm 1991 mới chết; hai, ông sinh con với bà Xuân, nhưng ông không dám cưới bà ấy, để mặc cho tay chân của ông là ông Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Bộ Công an, thủ tiêu mà không có bất kỳ sự ngăn chặn hay thương xót gì ( tài liệu công khai trên mạng Internet). Ông là người ích kỷ, tàn ác, không có đạo đức.
III.5 – Chị ruột ông, bà Nguyễn Thị Thanh, một chiến sĩ cách mạng, lần mò từ Nghệ An ra Hà Nội, ông chỉ gặp có 15 phút rồi biến, để chị ông phải ngậm ngùi, uất tức trở về quê, mang tâm nguyện trong lòng “Thề không bao giờ gặp thằng Sinh Cung nữa”. Ruột già, máu trên máu dưới mà đổi xử với nhau như vậy, ông chỉ là một kẻ vô tình, bạc nghĩa, không có đạo đức làm người tối thiểu.
III. 6 – Cướp được chính quyền của Trần Trọng Kim, không chấp nhận nước Việt Nam non trẻ nằm trong một thể chế cộng hòa thuộc Khối Liên hiệp Pháp, quyết đưa cả dân tộc, hơn 20 triệu người, đang đói nghèo xác sơ, suy dinh dưỡng vào cuộc chiến tranh 9 năm đánh Pháp, làm mấy vạn thanh niên trai tráng, sinh lực cốt yếu của dân tộc, bị bỏ mạng, bị thương lê lết trong trận Điên Biên phủ. Ông là người tàn ác, không có đạo đức cứu sinh cho dân tộc.
Sự thật, cái Tài này của ông, chỉ qua sau 6 năm đã bộc lộ ra cái Tài Ngu. Sự thật, năm 1960 Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc đã ra nghị quyết và “TUYÊN BỐ VỀ TRAO TRẢ ĐỘC LẬP CHO CÁC NƯỚC VÀ CÁC DÂN TỘC THUỘCĐỊA, 1960” ( Xem toàn văn tuyên bố đính kèm phía dưới), cáo chung cho chế độ thực dân. Nhờ đó, hàng loạt các nước ở châu Phi, châu Á, Châu Mỹ đã nhận về sự độc lập dân tộc mà không bị hao tổn của cải và xương máu với các nước đế quốc như: Anh , Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha… Như thế, Việt Nam, nếu có hay không có trận chiến Điện Biên Phủ với Pháp, hao tổn người và của cải, thì Việt Nam cũng sẽ được trao trả độc lập vào năm 1960. Rõ ràng, máu xương và của cải đổ xuống ở trận Biên Phủ Phủ là lợi ít, hại nhiều. Với những người chủ trương cuộc chiến này, đứng đầu là ông Hồ Chí Minh, phải nhận về sự Ngu nhiều, Tài ít là không thể phủ nhận. Tài ở đây là đánh thắng được Pháp. Ngu ở đây là không biết thời, biết thế, đợi thời, đợi thế như nhiều nước, để mục tiêu vẫn đạt được mà xương máu, sinh lực của dân tộc không phải đổ ra một cách phí phạm nhiều hơn là có ích như vậy. Lịch sử thế giới đã diễn ra, đủ rõ ràng để chứng thực điều này.
Như vậy, với chiến thằng Điện Biên Phủ “Vang dội năm châu, chấn động địa cầu” chỉ là chiến thắng của kẻ vừa ngu, vừa ác.
III. 7 – Cái ngu và cái ác còn được ông Hồ Chí Minh và đám tay chân thuộc hạ của ông ta tiếp tục thực hiện trong cuộc trường kỳ 20 năm phiêu diêu đánh Mỹ. Tuy có kết cục là Mỹ cút, nhưng dân tộc Việt Nam đã bị thiêu vào đây 5 triệu mạng người và cả dân tộc với mấy chục triệu người bị thương lê lết; non sông gấm vóc từ Mục Nam Quan đến Mùi Cà Mâu bị bom đạn cày xới, bị thuốc độc hóa học hủy diệt tanh bành, bung nát.
Ngu là, chỉ thấy người Mỹ có mặt trên đất nước mình thì lao đầu vào đánh, chẳng biết Mỹ, người Mỹ, xã hội Mỹ là thế nào, tại sao họ lại có mặt ở nước mình? Không biết Mỹ là thế nào, cắm mặt cắm mũi vào đánh nhau với Mỹ, quyết giành thắng lợi kỳ được bằng mọi giá, dù phải đánh tới người Việt Nam cuối cùng, cũng chỉ là suy nghĩ của số đông người bình thường, không phải của người Tài. Người Tài phải là người luôn biết kẻ thù là ai, như thế nào và đặc biệt phải biết thời, biết thế, biết “bánh xe lịch sử” tất yếu quay như thế nào, và quan trọng bậc nhất là nó quay theo hướng nào. Cụ thể, người Tài phải biết, nước Mỹ là nước dân chủ nhất thế giới, giàu có nhất thế giới, khoa học kỹ thuật hàng đầu thế giới, quân sự mạnh nhất thế giới. Mục đích người Mỹ có mặt ở Việt Nam, không phải xâm lược Việt Nam, thống trị dân Việt Nam, kiếm lợi từ Việt Nam mà chỉ là để ngăn chặn sự bành trướng của cái quái thai nhân loại là Chủ nghĩa Cộng sản, đứng đầu là Liên Xô, Trung Quốc đang hùng hổ bành trướng xuống vùng Đông Nam Á, và khai sáng văn minh, dân chủ cho người Việt Nam mà thôi. Ta đánh Mỹ không chỉ là đem sức cào cào, châu chấu của ta ra đọa với voi, nguyên tử mà còn trực tiếp đánh vào dân chủ, văn minh của nhân loại và của chính dân tộc Việt Nam đang khao khát mãnh liệt. Bởi vậy, khi đuổi được Mỹ ra khỏi Việt Nam, cả dân tộc trong cơn hấp hối lại tìm mọi cách để cầu thân với Mỹ để mong Mỹ ra tay cứu vớt. Điều này cũng đã rõ như ban ngày.
Vì vậy,việc quyết định đánh Mỹ đến tận tâm, tận lực của cả dân tộc để giành thắng lợi cho kỳ được, không phải là suy nghĩ và quyết định của người Tài, nó chỉ là suy nghĩ và quyết định của người bình thường. Nó chỉ là quyết định của kẻ cuồng tín, ngu muội và thích làm điều ác.
Lịch sử 70 năm của ĐCSVN cầm quyền, đứng đầu là ông Hồ Chí Minh và kế tiếp là những người do ông lựa chọn và đào tạo là lịch sử lầm đường, lạc lối, là lịch sử của cái Ác kế tiếp nhau, không ngừng nở rộ. Nhìn chung, không thể tìm đâu ra cái Đức vì đất nước, vì dân tộc của những người cộng sản cầm quyền ở Việt Nam mà đứng đầu là ông Hồ Chí Minh.
Những sự thật trên, đủ để kết luận, ông Hồ Chí Minh không phải là người có Tài và càng không phải là người có Đức. Ông chỉ là người bình thường. Đơn giản vì ông cầm đầu cả Đảng CSVN, cả dân tộc Việt Nam quyết chọn đường đi cho dân tộc Việt Nam với những mất mát, đau thương về của cải và mạng người Việt Nam tới ngút trời, ngập đất mà không mang lại một giá trị tiến bộ xã hội nào cho nước Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Hơn nữa, con đường ông quyết chọn, đã và đang đưa đường dân tộc phải đối mặt với nguy cơ mất nước bởi bọn Tàu Cộng.
Một người không biết thời thế, không biết tất yếu nhân loại phải tiến lên trên con đường nào, đã đưa cả dân tộc vào bão lửa chiến tranh, chui sâu vào hầm mộ, lạc loài với con đường đi tất yếu của thế giới văn minh, người đó sao có thể có Tài được? Không, nhất định không thể.
Ai đó, thậm chí cả một dân tộc, thừa nhận ông Hồ là người Tài, người Đức, người đó, dân tộc đó chỉ là đồng bọn và thuộc hạ cùng tàn bạo, ngu dốt như ông ta mà thôi.
Những kẻ thi nhau làm ăn trên thân xác của ông Hồ bằng cách dựng tượng đài la liệt khắp non sông để bòn rút kiếm ăn mồ hôi nước mắt của 90 triệu dân, kẻ đó còn khốn nạn, còn ác, còn ngu, còn táng tận lương tâm hơn ông Hồ Chí Minh gấp hàng vạn lần.
Tóm lại, nôm na sự thậy là thế này: Anh ( ông Hồ) bảo với nhân dân Việt Nam hãy theo tôi, đi trên con đường mới Xã hội chủ nghĩa này sẽ có dân chủ, tự do, ấm no, hạnh phúc. Nhân dân Việt Nam cũng tin và đi theo, tự nguyện để cho anh ( ông Hồ) ngốn tươi 5 triệu mạng người, cả dân tộc bị thương lê lết, non sông gấm vóc bị bom cày, đạn xới tan nát, tanh bành. Hơn nữa, sau 70 năm, đám đệ tử của ông lãnh đạo “toàn diện và triệt để” đất nước, tiếp tục đi theo con đường ông đã vạch, nhân dân vẫn chẳng thấy tự do, ấm no, hạnh phúc ở đâu mà chỉ thấy toàn điều ngược lại, đất nước, dân tộc lại còn phải đối mặt với họa mất nước, mất dân tộc bởi Tàu Cộng. Như thế là anh ( ông Hồ) đã dẫn dân tộc đi sai đường, tức nhầm đường, lạc lối. Một người được công nhận là Tài, phải là người “thấy trước được điều thiên hạ thấy” và khôn khéo dẫn dắt cả dân tộc đi theo với thương vong và khổ đâu ít nhất. Anh ( ông Hồ) đã không thấy và làm được điều này mà ông cũng chỉ nghĩ và làm được những việc bình thường như chán vạn người Việt Nam bình thường khác.Vậy thì, còn căn cứ nào để Đảng của anh (ông Hồ), dân tộc Việt Nam của anh( ông Hồ) tôn vinh anh (ông Hồ) là người Tài? Không thể có căn cứ nào nữa.
Ôi khổ hạnh thay cho dân tộc Việt Nam tôi.
BĐX.
Toàn văn:
TUYÊN BỐ VỀ TRAO TRẢ ĐỘC LẬP CHO CÁC NƯỚC VÀ CÁC DÂN TỘC THUỘC ĐỊA, 1960.
(Được thông qua theo Nghị quyết số 1514 (XV) ngày 1/4/1960 của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc).
Đại Hội đồng,
Lưu ý đến quyết tâm đã được các dân tộc trên thế giới tuyên bố trong Hiến chương Liên Hợp Quốc nhằm tái khẳng định sự tin tưởng vào các quyền cơ bản của con người, nhân phẩm và giá trị của con người, quyền bình đẳng giữa nam và nữ và giữa các quốc gia lớn và nhỏ, đồng thời nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội và các tiêu chuẩn sống tốt đẹp hơn với sự tự do rộng rãi hơn;
Nhận thức sự cần thiết của việc tạo ra các điều kiện cho ổn định và phồn vinh cũng như mối quan hệ hòa bình và hữu nghị trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc về quyền bình đẳng và tự quyết của các dân tộc và sự tôn trọng rộng rãi và tuân thủ quyền con người và những tự do cơ bản dành cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo;
Thừa nhận sự khao khát cháy bỏng về tự do của các dân tộc phụ thuộc vào vai trò quyết định của các dân tộc đó trong việc giành được nền độc lập của họ;
Nhận thức rõ những xung đột đang tăng lên do sự chối bỏ hoặc những cản trở đối với con đường đến với tự do của các dân tộc này, đang gây ra sự đe dọa nghiêm trọng cho hòa bình thế giới;
Xét vai trò quan trọng của Hiến chương Liên Hợp Quốc trong việc trợ giúp phong trào độc lập tại các lãnh thổ quản thác và chưa tự quản;
Thừa nhận rằng, các dân tộc trên thế giới mong muốn mạnh mẽ việc chấm dứt chủ nghĩa thực dân dưới mọi hình thức biểu hiện của nó;
Tin tưởng rằng, sự tiếp tục tồn tại của chủ nghĩa thực dân sẽ ngăn cản sự phát triển của hợp tác kinh tế quốc tế, gây trở ngại cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của các dân tộc phụ thuộc và cản trở ý tưởng của Liên Hợp Quốc về một nền hòa bình cho toàn thế giới;
Khẳng định rằng, các dân tộc có thể, vì các mục đích của chính mình, tự do định đoạt nguồn của cải và tài nguyên thiên nhiên mà không làm ảnh hưởng đến bất kỳ trách nhiệm nào phát sinh từ việc hợp tác kinh tế quốc tế, trên cơ sở nguyên tắc đôi bên cùng có lợi và pháp luật quốc tế;
Tin tưởng rằng, tiến trình giải phóng là không thể thể cưỡng lại được và rằng để tránh những khủng hoảng nghiêm trọng, chủ nghĩa thực dân và tất cả những sự ngăn cách và phân biệt đối xử đi kèm theo nó phải bị kết thúc;
Hoan nghênh sự xuất hiện trong những năm gần đây của một số lượng lớn các lãnh thổ phụ thuộc trở thành tự do và độc lập, và thừa nhận những xu hướng mạnh mẽ đang tăng lên đối với tự do ở những lãnh thổ chưa giành được độc lập;
Nhận thức rằng, tất cả các dân tộc có quyền bất di bất dịch đối với tự do hoàn toàn và với sự thực hiện chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của mình;
Long trọng tuyên bố sự cần thiết thực hiện việc kết thúc nhanh chóng và không điều kiện chủ nghĩa thực dân cùng tất cả các hình thức biểu hiện của nó;
Và vì mục đích này
Tuyên bố rằng:
- Sự nô dịch các dân tộc xuất phát từ ách cai trị, sự đô hộ và bóc lột của ngoại bang cấu thành sự phủ nhận các quyền cơ bản con người là trái với Hiến chương Liên Hợp Quốc và là một sự cản trở đối với việc thúc đẩy hòa bình và hợp tác trên thế giới.
- Tất cả các dân tộc có quyền tự quyết xuất phát từ quyền này, các dân tộc tự do quyết định địa vị chính trị của mình và tự do theo đuổi sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa.
- Việc thiếu sự sẵn sàng về chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa không bao giờ được dùng như lý do cho việc trì hoãn (trao trả) độc lập cho các dân tộc.
- Tất cả mọi hoạt động vũ trang hoặc các biện pháp đàn áp dưới bất kỳ hình, thức nào nhằm chống lại các dân tộc phụ thuộc phải bị chấm dứt để tạo khả năng cho các dân tộc đó thực hiện một cách hòa bình và tự do quyền độc lập hoàn toàn của họ, và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia của họ phải được tôn trọng.
- Các bước tiến hành phải sớm được thực hiện tại các lãnh thổ quản thác và chưa tự quản hoặc tại tất cả các lãnh thổ khác chưa giành được độc lập, để chuyển tất cả quyền lực cho nhân dân của những lãnh thổ nào mà không có bất kỳ điều kiện hay sự bảo lưu nào phù hợp với ý chí và nguyện vọng được bày tỏ một cách tự do của họ không có bất kỳ sự phân biệt nào về chủng tộc, tín ngưỡng hoặc màu da, để tạo ra khả năng cho các dân tộc này được hưởng thụ nền độc lập và tự do hoàn toàn.
- Bất kỳ cố gắng nào nhằm gây phá vỡ toàn bộ hay một phần sự thống nhất quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của một đất nước là trái với các mục tiêu và nguyên tắc của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Nguồn: https://badamxoevietnam2.wordpress.com/2015/08/12/ong-ho-chi-minh-co-thuc-la-nguoi-tai-duc/
0 nhận xét:
Đăng nhận xét