Thứ Hai, 16 tháng 5, 2016
Vấn đề tri thức trong “trật tự tự phát” của Hayek
13:33
Hoàng Phong Nhã
No comments
Lữ Phương
1
“Trật tự” là khái niệm then chốt trong hệ thống lý luận của
Hayek, nhân vật được một số người gọi là “giáo chủ của chủ nghĩa tự do cực đoan”.[1] Vị “giáo chủ ” này có vẻ như là một người lạc quan, mọi thứ có như thế nào thì
đối với ông, tất cả đều được sắp xếp đâu vào đó rồi, thế giới mà chúng ta đang
sống đã tiến theo một lộ trình không hề hỗn loạn, tan vỡ như một số học giả đang
thuyết minh. Hayek hay nói đến khái niệm “trật tự” là như thế: chỗ nào cũng là
trật tự, “trật tự tự nhiên”, “trật tự thị trường”, “trật tự tự phát”, “trật tự
mở rộng”… nhưng có một thứ trật tự làm nền móng cho tất cả những thứ trật tự: đó
là “trật tự giác quan”, được Hayek nghiền ngẫm và phác ra từ những năm 1920 khi
ông mới bắt đầu theo trường phái Áo, sau này vào 1952 đem ra sửa chữa, viết lại
mang tên The Sensory Order. Nội dung của cuốn sách đặt ra một vấn đề cực
kỳ hóc búa về triết học, thường gọi là vấn đề nhận thức (“nhận thức luận”), đề
cập bản chất của cái phần tinh anh nhất của con người là cái hiện thực tinh thần
với những câu hỏi quen thuộc nêu ra cả nghìn năm nay vẫn còn tranh cãi – tinh
thần con người là gì, nó từ đâu tới với chúng ta, nó quan hệ với thế giới bên
ngoài như thế nào, bằng cách nào con người tiếp xúc và hiểu biết thế giới đó …
Có một điều hơi lạ mà nhiều người đã nhận ra (và Hayek dường như
cũng đồng ý) khi thấy bước khởi đầu của lý luận nhận thức ấy của Hayek có vẻ
hơi… duy vật chủ nghĩa! Tinh thần không thuộc cõi siêu nhiên, thần bí nào đó
nhập thể vào con người mà chính là sản phẩm của bộ óc của chúng ta. Nhưng với
Hayek sự giống nhau đó chỉ là bề ngoài: tinh thần tồn tại trong bộ óc và bằng bộ
óc, nhưng cơ quan này chỉ giữ vai trò một cái trạm trung gian chuyển hoá các dữ
kiện của thế giới bên ngoài thành một thứ trật tự mới hiện diện trong cơ thể con
người, trật tự này không phải là bản sao, bản chụp, không “phản ánh hiện thực”
bên ngoài, như lập luận của những nhà duy vật (thí dụ như Engels). Theo cách
nhìn đó trật tự ấy chính là một trật tự mang nội dung “tâm lý thần kinh” không
có cùng một trật với cái “trật tự tự nhiên” vốn chỉ có ý nghĩa vật lý đơn thuần.
Cần phải ghi nhận tính chất đặc biệt của cái trật tự vật lý này: không biết từ
đâu tới, không biết sẽ đi về đâu, nhưng khi tiếp xúc với giác quan của con người
thì nó chỉ có tác dụng kích thích, từ đó tạo ra những luồng thần kinh, những
luồng thần kinh này đi qua các đầu mối thần kinh dẫn đến hệ thần kinh trung
ương, để ở đây chúng được sắp xếp, phân loại theo những sơ đồ đã có sẵn đang chờ
đợi chúng.
Chính những sơ đồ sắp xếp này trong hệ thần kinh trung ương mới
là điều đáng chú ý đặc biệt trong lý luận về tinh thần của Hayek. Một cách triết
học, có thể hình dung những sơ đồ ấy giống như những “phạm trù tiên thiên” trong
quan niệm của Kant về giác tính, tức là những cái khuôn có sẵn do giác tính ban
cho để sắp xếp những dữ liệu bên ngoài đi vào và biến những dữ liệu ấy thành thứ
trật tự lý tính tồn tại trong thế giới loài người có lý tính. Thật ra đó cũng
chỉ là một so sánh đơn giản. Trong quan niệm của Hayek, không có một thực tại
tinh thần tiên thiên nào có sẵn trong bộ óc con người trước khi bộ óc ấy nhận
được những kích thích từ bên ngoài, để từ đó cùng với thời gian, nhờ lặp đi lặp
lại và được lưu giữ theo kinh nghiệm mà hình thành nên những cái khung mang dáng
vẻ các phạm trù của Kant, nhưng lại khác hoàn toàn về nội dung lẫn sự sinh
thành. Nói cách khác, những cái khung sắp đặt dữ liệu ấy trong lý luận của Hayek
là những sản phẩm ra đời một cách hậu nghiệm, từ những “trải nghiệm” của con
người với thế giới: tuy có nguồn gốc vật chất, từ bên trong (bộ óc) lẫn bên
ngoài (thế giới vật lý) nhưng chúng đã trở thành một hiện thực khác biệt, tuy
không tách rời nguồn gốc nhưng lại không thể quy giảm vào cái nguồn gốc ấy . Cái
trật tự mới này chính là đặc trưng của thế giới tâm lý, thế giới tinh thần của
con người.
Trong quá trình tự hình thành của cái thế giới tinh thần như vậy,
theo Hayek, ý thức và lý trí không hề giữ vị trí hàng đầu trong nhận thức như
chúng ta vẫn tưởng. Với Hayek, vai trò của lý trí trong nhận thức khác xa quan
niệm của nhận thức luận cổ điển: không phải nhờ vào thao tác gọi là trừu tượng
hoá mà chúng ta nâng những cảm giác lên thành tri giác, sau đó nâng tri giác lên
thành những khái niệm, cuối cùng dựa vào những khái niệm đưa ra những phán đoán,
và suy luận. Quá trình trừu tượng hoá ấy không phù hợp với những gì diễn ra
trong thực tế và điều này thì có thể nhận ra không mấy khó khăn: trong khi tiếp
xúc với thế giới bên ngoài cảm giác không bao giờ nẩy sinh như những sự kiện
“thuần tuý và đơn giản” (sau đó mới được trừu tượng hoá), trái lại luôn luôn
được lĩnh hội cùng một lượt với sự gợi lại từ ký ức những sơ đồ đã thiết lập sẵn
trong hệ thần kinh trung ương, được những sơ đồ ấy tiếp đón và ban cho nó những
ý nghĩa phù hợp. Cảm giác như vậy chỉ là cái cớ kích thích bộ máy thần kinh bao
gồm những sơ đồ có sẵn khởi động. Nếu nó được những sơ đồ “tiên thiên”đó xem là
đồng dạng thì sẽ được thừa nhận mời vào để “giải mã”. Ngược lại, nếu đó là
một cái gì thật mới mẻ, thật xa lạ thì nó sẽ bị khước từ, hắt hủi, sau này sẽ
phải khổ cực tiếp xúc, xâm nhập thật nhiều lần mà chưa chắc đã được coi là thân
quen.
Mặc dù quyết liệt chống mọi thứ lý luận thiết kế, nhưng
quan niệm
của Hayek về những phạm trù có sẵn trong hệ thần kinh trung ương không
thể không
gợi đến một trung tâm lưu giữ những sơ đồ thiết kế, một bộ chỉ huy điều
hợp dữ
liệu để tri thức và hành động. Robert Nadeau viết: “… không một thực
tại có ý
nghĩa nào tồn tại đối với tinh thần con người mà không được định hình
(formater)
tức thời bởi hệ thần kinh trung ương. Không có một cái gì trong ‘thế
giới bên
ngoài’ được sắp xếp trước, không có gì tương ứng một cách khách quan
theo phương
cách mà cơ thể con người cấu trúc và tổ chức cái kinh nghiệm nó có về
môi trường
xung quanh, không có gì được xem như một vật này, vật nọ, như một phẩm
chất này
hay một phẩm chất khác, một tính chất này hay một tính chất khác, trước
khi hệ
thần kinh trung ương chưa diễn giải những ký hiệu đến với nó từ khắp mọi
nơi. Trong tình cảnh đó việc kháng cự lại những cái mới như vậy là
thông thường,
chuyện xét lại các giá trị cũ trước những tác động mới của hiện thực là
ngoại
lệ”.[2]
Tính chất “tiên thiên” có phần khắt khe và mang tính “bảo thủ” của những sơ đồ
tinh thần của Hayek là khá rõ ràng.
Chính vì không thể hiểu được vị trí của mình trong trật
tự tổng
thể ấy mà lý trí thường có nhiều ảo tưởng về mình. Với viễn cảnh Hayek,
điều đó
dễ hiểu: ý thức thật sự chỉ là một bộ phận phụ tuỳ, một cái vòng tròn
nhỏ nằm
trong một cái vòng tròn lớn bao trùm lên nó, mang ý nghĩa cho nó, một
cách âm
thầm, ngoài sự nhận biết của nó. Cũng như cảm giác, ý thức cũng mang
trong bản
thân toàn bộ ký ức về lịch sử của sự hình thành đời sống tinh thần của
mỗi con
người. Sự xuất hiện của nó không phải là sự hiện diện của người chỉ huy
mà thật
sự là một kẻ thừa hành. Giống như phần nổi của một tảng băng trôi giữa
biển
không biết đến cái phần chìm nặng nề bên dưới đã quyết định hướng đi của
mình, ý
thức cũng không biết đến những sức mạnh từ chiều sâu, bao gồm rất nhiều
những
phần hạ thức, tiềm thức, vô thức đã điều động nó ngay từ lúc nó mới xuất
hiện. Là cái phần sáng chói nhất của tinh thần, nhưng do vị trí đó của
nó, lý trí
không thể nhận biết về bản thân và cũng vì đó tinh thần cũng không thể
có phương
cách nào để nhận biết về mình. Với Hayek, tinh thần (bao gồm lý trí)
chìm đắm và
đồng hoá với những hoạt động của nó, không có một kẽ hở nào để có thể
nhìn lại
mình, một cách tự giác. Nói cho văn vẻ một chút, tinh thần không thể
hồi đầu để
phản tư. Diễn giải theo một hình ảnh nôm na của Michael Polanyi, tình
thế của
tinh thần không khác gì tình thế của một người đeo kính:
người đeo kính không thể nhìn thấy cái kính mình đang đeo.
Với Hayek, vấn đề tri thức như vậy, đã được xem như là kết quả
của một thứ triết lý về tinh thần và cũng là về con người, một thứ triết lý hình
thành từ nhiều hệ thống lý luận rất khác nhau được Hayek tuyển chọn, phối hợp
theo mục đích xác định: khởi đầu từ cảm giác luận của Ernst Mach (phủ định khái
niệm “vật tự thân’”) sau đó kết hợp với những “phạm trù tiên thiên” của Kant để
cuối cùng mang nội dung những thói quen được ký ức tạo thành nếp theo quan niệm
của Hume. Tính chất thực chứng của tri thức luận ấy là rõ ràng nhưng đó lại là
một thứ chủ nghĩa thực chứng mà theo nhiều nhà nghiên cứu đã bị biến thái, vặn
xoáy, bản thân chứa không ít nghịch lý. Tuy vậy với Hayek điều đó lại là một
thao tác tổng hợp để ông căn cứ vào đó biện giải, tạo nên thứ chủ nghĩa tự do
riêng biệt mà luận điểm ban đầu thường được ông nhắc lại là tính chất giới hạn
của lý trí: con người phải biết khiêm tốn trong nhận thức, phải cảnh gíác với sự
“tự phụ của lý trí “ khi đề cập những vấn đề rộng lớn của xã hội.
2
Nhiều ý tưởng của ông không phải là không xác đáng . Chẳng hạn
như sự phân biệt về mặt phương pháp luận giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội. Theo Hayek, đối tượng của khoa học tự nhiên là “trật tự tự nhiên” mà bản
chất của nó là vật lý, cho nên với thứ trật tự này, chúng ta chỉ có thể nhận ra
những sự lặp đi lặp lại trong mối quan hệ của các hiện tượng, có thể đo đạc và
định lượng mà người ta thường gọi là “định luật”. Nhưng dù thế nào đi nữa
thì sự hiểu biết của chúng ta trong lĩnh vực này cũng chỉ giới hạn trong những
hiện tượng, còn bản chất của thế giới, cái mà những triết gia thường gọi là “vật
tự nó”lại là điều vô nghĩa, mù mịt, bất khả tri, nêu ra chỉ đưa tới những tranh
cãi không bao giờ có lời giải đáp.
Nếu tính chất của đối tượng đã quy định phương pháp thì
những gì
thích hợp cho khoa học tự nhiên đem ra vận dụng cho các khoa học xã hội
là không
thoả đáng, sự bắt chước ấy đã bị Hayek phê phán nhiều lần là “duy khoa
học”. Trong lĩnh vực khoa học xã hội, điều mà chúng ta nhận ra vẫn là
những cái lặp đi
lặp lại nhưng do thuộc về lĩnh vực trật tự tâm lý khác với vật lý cho
nên không
thể dựa hoàn toàn vào phương pháp định lượng, đo đạc kiểu toán học hoặc
thuần kỹ
thuật để tìm hiểu, giải quyết. Hayek cho rằng người ta chỉ có thể đem
những
phương pháp ấy vào những vấn đề cụ thể, vi mô nhưng nếu đem áp dụng cho
những
vấn đề có tính chất khái quát về các trật tự của con người và xã hội là
không
thích đáng. Theo Hayek trong lĩnh vực này, nhiều lắm chúng ta chỉ có
thể đưa ra
những ước đoán, thăm dò chứ không thể trông đợi vào một thứ dự báo chính
xác.
Vận dụng học thuyết nhận thức vào vấn đề “hạch toán kinh tế ”,
Hayek đã chỉ trích gay gắt một loạt những thứ lý luận mệnh danh “xã hội chủ
nghĩa” đòi xoá bỏ thị trường, tập trung hết quyền lực điều hành vào một Trung
tâm Kế hoạch Trung ương do nhà nước nắm giữ. Hayek cho rằng chủ trương này hết
sức sai lầm là do nó gán cho cái trung tâm ấy một thứ khả năng mà nó không thể
có được: tự cho mình có thể nắm bắt được tất cả những kiến thức, những nhu cầu
của xã hội, những điều kiện cần thiết để hoạt động, căn cứ vào đó đề ra đường
lối sử dụng và phân phối tài nguyên tốt hơn thị trường thường vốn bị xem là chứa
đầy bất trắc và nhiều hỗn loạn. Việc phê phán liên hệ đến cái phạm trù gọi là
“xã hội chủ nghĩa” này có nhiều điều phải bàn cãi , nhưng riêng với cái mô hình
kinh tế kế hoạch hoá của những nước gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” thì có
thể khẳng định ý kiến của Hayek là đúng hoàn toàn. Cái cơ chế ấy không
những đẻ ra chế độ quan liêu xơ cứng, xa rời thực tế, bất lực trong phát triển
mà còn là cơ sở để dựng nên một chế độ chính trị chuyên chế, biến cả đất nước
thành một trại lính nữa.
Thật ra những ý kiến loại như trên không có gì đặc sắc lắm vì
cũng đã có nhiều người đã nói rồi (thí dụ mô hình xã hội chủ nghĩa nhà nước
xôviết đã bị chính những người cộng sản phê phán là “duy ý chí”). Điều đáng quan
tâm hơn ở đây là trong khi vận dụng để giải quyết hàng loạt những vấn đề khác,
Hayek đã đưa quan điểm gọi là chống “sự ngạo mạn của lý trí” vượt quá xa tầm mức
của nó. Không ngừng đặt giới hạn cho lý trí nhưng trong biện luận Hayek đã đẩy
đến chỗ triệt để cái vai trò hầu như là số không của lý trí trong đời sống tinh
thần của con người, sự lệ thuộc hầu như toàn bộ của lý trí vào tiềm thức, vào
những kinh nghiệm do vô thức tạo nên, bỏ qua hoàn toàn sự xuất hiện của lý trí
như bước đột phá trong quá trình hình thành ý thức con nguời với các chức năng
đặc biệt của nó là thức tỉnh, phản tư, tổng kết, dự báo trong nhận thức từ đó
đưa ra những dự phóng cải tạo hiện thực, cải tạo thế giới. Steven Horwitz (một
người ủng hộ Hayek) gọi học thuyết của Hayek là một chủ nghĩa tự do không duy lý[3](non-rationalist
liberalism), theo đó nếu chúng ta có nói đến một thứ chủ nghĩa phi lý tính
(l’irrationalisme) trong hệ thống lý luận ông thì không có gì là không thuận lý.[4]
Lấy quan điểm đó làm nền móng, Hayek đã tuỳ tiện đưa tất cả những
trào lưu tư tưởng nào có ý định sử dụng lý trí để phân tích các hiện tượng xã
hội vào cái phạm trù gọi là “chủ nghĩa thiết kế duy lý” một cách dễ dàng, từ
những nhà Bách khoa toàn thư Pháp cho đến những người chủ trương can thiệp nhà
nước vào hoạt động kinh tế, những người khuyến cáo xây dựng các Nhà nước phúc
lợi đến những người đòi thay đổi chủ nghĩa tư bản ở nhiều mức độ khác nhau, cải
lương như những người dân chủ xã hội, triệt để như những người mácxít, và thật
là thú vị: gộp luôn vào danh sách ấy cả những người theo chủ nghĩa dân tộc quốc
xã sôvanh và phátxít nữa! Một cách thật nghịch lý, cách thức sắp xếp ấy rõ ràng
bắt nguồn từ phương pháp quy giảm trừu tượng hoá rất… duy lý: trong hàng loạt
những nguyên nhân phức tạp tạo nên các hiện tượng , người ta chỉ rút ra một yếu
tố nào đó chung nhất mà cũng là duy nhất được xem là phù hợp với hệ thống của
mình, rối cứ thế mà suy diễn, gán ghép, bỏ qua những yếu tính khác cũng rất quan
trọng (rất đáng kể là những nguyên nhân lịch sử, xã hội). Tất cả những biện luận
của Hayek về sự giới hạn của lý trí chỉ là như vậy: nhân danh chống lại “sự tự
phụ của lý trí”, với phương pháp quy giảm tư biện và khái quát hoá trên đây, có
thể nói Hayek đã tạo ra một thứ lôgic ngược lại đồng tính chất: sự tự phụ của
tự duy phi lí tính. Mặc dù Hayek có lần muốn dựa vào Popper để cho rằng ông
đứng về phía chủ nghĩa duy lý “đích thực hơn” và gọi đó là thứ “chủ nghĩa duy lý
tiến hoá”, đối lập với thứ chủ “nghĩa duy lý ngây thơ”,[5]
nhưng sự biện bạch về chữ nghĩa ấy không thể làm thay đổi được tính chất nhất
quán trong hệ thống của ông.
Sự quy chụp dẫn xuất từ một phương pháp như vậy là không tránh
khỏi. Điều này bộc lộ rất rõ trong việc Hayek suy luận từ ý đồ ra kết quả của
những thứ lý luận mà ông muốn kết tội. Một trong những lập luận đáng chú ý nhất
là lập luận mà Hayek đưa ra trong cuốn
The Road to Serfdom
(1944) của ông: lòng tốt có thể biến thành tội ác, những người
theo đuổi lý tưởng, muốn làm điều thiện cho con người trong thực tế, ngoài ý
muốn, đã tự đưa mình và những người khác vào tai hoạ. Có một câu cách ngôn đã
nói như vậy rồi: đường dẫn đến địa ngục được lát bằng những ý định tốt. Với
Hayek, địa ngục ở đây là một thứ triết lý chính trị rất cụ thể: cái gọi là chủ
nghĩa thiết kế duy lý, biểu hiện dưới mọi hình thức của nó, trong kinh tế là
những dự tính kế hoạch hoá ở nhiều mức độ, nếu chỉ nhìn qua đó như lòng tốt thì
tất yếu sẽ bị nó dẫn vào chốn ngục tù không còn chút tự do nào. Với kiểu lập
luận này lý trí đã bị đẩy đến tận cùng của sự tệ hại: dù có một lòng tốt đi kèm,
lý trí vẫn có thể gây ra tội ác, như một thứ lôgic không thể nhận biết, và điều
này đã được Hayek tạo thành một thứ đẳng thức lịch sử tư tưởng: dù là Descartes,
Hegel, Marx hay Keynes…thì tất cả đều có cùng bản chất với Mussoloni và Hitler
thôi, bởi vì tất cả ít nhiều đều mang hơi hám của cái gọi là “thiết kế duy lý”!
Thái độ phản trí thức về lý luận đẩy đến chỗ khinh miệt trí thức
về mặt con người cũng là kết quả khi Hayek lên tiếng đả kích cả một lớp người mà
ông gọi một cách dè bỉu là “những kẻ chuyên nghề mua qua bán lại các ý tưởng”
(bài “The
Intellectuals and Socialism”). Nỗi ám ảnh thường xuyên của Hayek lúc nào cũng là “chủ nghĩa xã hội” đủ loại nên
trong trường hợp này ông cũng lấy nó ra làm chủ đề và cho rằng chính những người
gọi là “trí thức” mới chịu trách nhiệm về sự lan truyền rộng rãi của học thuyết
này. Hayek nói rất rõ rằng chủ nghĩa xã hội chỉ là sản phẩm của trí thức, không
quan hệ gì đến nhu cầu của thực tế và quần chúng chỉ là kẻ bị huyễn hoặc.Trong
sự mô tả của Hayek, những trí thức ấy là những người có lý tưởng, nhiệt tình,
ham mê những khái niệm trừu tượng, phổ quát, thiết tha muốn cải tạo xã hội nhưng
vì hiểu biết hời hợt, thiếu chuyên môn, do kiếm sống bằng nghề phổ cập ý tưởng
đến đám đông thích chạy theo thời thượng trong hệ thống truyền thông hiện đại,
đám đông này trình độ còn thấp hơn một bậc vì thế những gì họ mang đến cho quần
chúng chỉ là những thứ phó sản, thiếu nghiêm chỉnh. Nhưng cũng chính vị
vậy mà những người gọi là trí thức ấy không ngờ đã mang đến điều ghê gớm là làm
hại tự do, làm hại nền văn minh nhân loại.
Hayek tỏ ra thông cảm với những con người như vậy: cái sai lầm
của họ là sai lầm chân thật, cần thấu hiểu nhưng dù sao cũng là những sai lầm
rất nặng nề. Tuy vậy trước sự chỉ trích ấy, người ta không thể không đặt
ra câu hỏi: anh đứng ở đâu mà anh có thể xem cả tập thể những người được gọi là
“trí thức” này là những kẻ hời hợt, trí tuệ lơ mơ? Họ là ai? Tại sao là những
người do chế độ đẻ ra, được chế độ nuôi dưỡng, chỉ vì ham mê những tư tưởng cứu
đời mà làm hại nền tự do, làm hại nền văn minh như vậy? Có thật tất cả những cái
gọi là “xã hội chủ nghĩa” mà họ giới thiệu đều có tác dụng làm hại cho văn minh
nói chung, làm hại ngay cả chế độ mà họ đang sinh sống? Trước những câu hỏi ấy
rõ rệt Hayek không cần chú ý, ông chỉ chăm chăm vào phần tri thức luận và đi tìm
nguyên nhân của chủ nghĩa xã hội thuộc lĩnh vực tư duy, thuộc giới trí thức và
cũng chỉ thấy cái phần ảo tưởng mà không thấy những ý nghĩa đóng góp mà các loại
tư tưởng này đã đem đến cho chính cái môi trường xã hội đã tạo điều kiện cho
chúng ra đời.
Cũng chính vì vậy mà Hayek không bao giờ thử đặt vài câu hỏi cho
những điều ông nêu ra: tại sao những nhà chuyên nghề buôn bán ý tưởng ấy không
đồng loạt ca ngợi chủ nghĩa phátxít, ca ngợi chủ nghĩa toàn thống tôn giáo, ca
ngợi chủ nghĩa khủng bố mà hầu hết lại tỏ ra có thiện cảm với các xu hướng xã
hội chủ nghĩa để ông phải ông chê trách. Ông không trả lời nhưng người đọc ông
thì thấy rõ: thay vì nhìn vào thực tế để lý giải, Hayek chỉ biết bám chặt vào
những sơ đồ tiên thiên trong cái hệ thần kinh trung ương chứa đầy những phạm trù
phi lý tính mà ông hình dung ra để suy diễn, căn cứ vào đó đổ hết tội lỗi lên
cái bộ não hời hợt, hay theo mốt của những người mà ông gọi là “trí thức”. Làm
sao không nghĩ rằng Hayek không thể nào làm được điều đó nếu không giả định rằng
ông đã được tự nhiên ban cho một bộ não có “thiết kế” khác thường! Người ta có
thể nghĩ như vậy vì khi trách móc những người “trí thức” ấy, Hayek vẫn muốn đứng
trên chín tầng chân lý để chiêu hồi họ, muốn lôi họ về phía những người như ông,
cùng ông mở lại một cuộc thập tự chinh hào hùng cho chủ nghĩa tự do do ông đề
xướng. Nhưng khi mong mỏi như vậy, Hayek lại quên hẳn rằng với một thứ
nhận thức luận ở đó không có một chỗ nào dành cho lý trí phản tỉnh, ông sẽ không
dẫn những con người ấy đi về đâu ngoài cái trật tự tri thức mờ đục mà ông đã tạo
ra như một thứ lăng kính để nhìn mọi sự vật, mọi hiện tượng.
3
Cái trật tự mà Hayek gọi là “trật tự tự phát” là kết quả tổng hợp
quan trọng nhất của thứ lý luận về tri thức nói trên. Khái niệm này đã vượt khỏi
giới hạn của những sơ đồ tâm lý thần kinh trong bộ óc để trở thành một sơ đồ xã
hội, một mô hình văn minh. Thật sự thì sơ đồ này không mới. Là người theo chủ
nghĩa tự do, tất nhiên với Hayek cái sơ đồ ấy không có gì khác ngoài cái “bàn
tay vô hình”, ẩn dụ về cái cơ chế thị trường có khả năng tự điều tiết mang lại
ích lợi cho toàn xã hội qua sự trao đổi giữa những tác nhân riêng biệt. Nhưng
khi phát triển ý nghĩa của cái cơ chế đó, Hayek đã thêm vào nhiều thay đổi đáng
kể. Thí dụ, nghịch lý của Mandeville: “những tật xấu cá nhân làm nên sự giàu có
cho các dân tộc”, những cái gọi là “tật xấu” ấy Hayek cho là không quan trọng,
vì điều cốt yếu của trật tự tự phát không tất định phải dựa trên cái người ta
gọi là “bản chất ích kỷ” của con người mà chính là “cái ý tưởng về các cấu trúc
toàn thể của xã hội có thể ra đời từ những hành vi của các cá nhân không hề có ý
định tạo ra chúng”.[6]
Quan
niệm về một trật tự tổ chức, tự điều tiết không cần có sự can thiệp của bất cứ
tính toán nào của con người (dù tốt hay xấu) đã được làm rõ nét hơn như một định
chế vô tâm, khách quan.
Sự diễn giải của Hayek với Adam Smith cũng có những thay đổi như
vậy. Alain de Benoist nhận xét rằng trong chủ nghĩa tự do cổ điển, lý luận về
bàn tay vô hình thực sự vẫn thuộc lĩnh vực kinh tế vĩ mô: “hoạt động của
những cá nhân, dù bộc lộ ra bên ngoài có vẻ vô trật tự,
cuối cùng
vẫn đồng quy một cách kỳ diệu về ích lợi chung, nghĩa là sự sung túc cho
tất cả. Vì vậy Smith còn chấp nhận sự can thiệp của công quyền khi
nào mục tiêu mang
tính chất cá nhân không thực hiện được lợi ích phổ quát. Hayek, ngược
lại, từ
chối chấp nhận ngoại lệ đó”.[7]
Cái ý tưởng về một cơ chế tự động tổ chức của thị trường chỉ có thể vận
hành
được suôn sẻ khi không có sự can thiệp của nhà nước cũng đã được nhấn
mạnh thêm. Đọc Hayek người ta có thể hiểu rằng với những điều chỉnh ấy,
trật tự tự phát ở
đây chính là một guồng máy vận hành không có chủ thể, một trật tự không
có ai
được cho là tác giả có danh xưng để nhận diện, và như vậy so ngay với
những quan
điểm về nhận thức luận của ông thì cái trật tự tự phát ấy cũng đã có
những khác
biệt: nếu trong bộ óc con người còn có một hệ thần kinh trung ương với
những sơ
đồ tiên thiên để sắp xếp các dữ liệu từ ngoài vào thì với cơ chế tự phát
lại
không có trung tâm nào điều khiển cả: nó đã vận hành theo nguyên tắc tự
động của
người máy (automate), như Pierre-Jean Dupuy khi nghiên cứu về Hayek đã
nhận xét.[8]
Nhưng cái trật tự tự phát ấy không hề cắt rời cuống rốn
của nó
khỏi nguồn gốc tri thức luận trong quan niệm của Hayek. Nó vẫn thể
hiện điều quan trọng nhất về sự giới hạn của con người trước bản thân và
thế
giới, sự giới hạn ấy biểu thị ở cái vị trí của lý tính bị chìm ngập
trong cái hệ
thống vô minh về trí tuệ của con người. Chỉ có lý trí mới có thể đưa
ra ánh sáng mọi vùng tối của ngu dốt, nhưng thân phận của lý trí lại lệ
thuộc
gần hết vào vô thức thì việc nhận biết được ý nghĩa và sự vận hành của
các cơ
cấu phức tạp là bất khả. Nhưng điều đó không có nghĩa là cái trật tự
tự phát ấy không có điều lý, không
có mục tiêu. Cái điều lý ấy, cái mục tiêu ấy chỉ vượt khỏi sự chiếm
lĩnh của lý
trí, nhưng trong thực tế thì vẫn có đó, tự thực hiện, bất chấp ý thức
của con
người bởi vì bản thân cái ý thức của con người là quá yếu đuối và giới
hạn, nếu
trí tuệ có le lói ở các cá nhân hoặc tập thể nào đó thì chỉ đem đến tai
hoạ mà
Hayek đã cảnh giác và chúng ta cũng đã biết. Trật tự tự phát không phải
là sự
“tha hóa”, hiểu theo nghĩa con người đánh mất bản thân trong cái thực
thể mình
làm ra mà ngược lại chính là sự lạc quan và an phận của con người được
sống
trong một trật tự xa lạ, không thể hiểu, không cần hiểu nhưng chỉ cần
đem sức
vóc cá nhân ra giành giật những thuận lợi mà nó mang lại để hưởng thụ là
đủ. Trật tự tự phát như vậy có thể hình dung như một thực tại siêu
việt với trí óc
con người, dù là của cá nhân hay tập thể.
Có rất nhiều thứ trật tự có tính chất tự phát như vậy
trong đời
sống mà Hayek thường kể ra như ngôn ngữ, phong tục, luật bất thành văn
(luật
tục), tiền tệ, luân lý v.v… các trật tự ấy tự sinh ra, tự phát triển,
không biết
nguồn gốc từ đâu, có từ bao giờ, không biết ai làm ra, nhưng vẫn cứ âm
thầm có
mặt và tác động theo những chức năng đặc biệt làm trơn tru cuộc vận hành
của
guồng máy xã hội. Nhưng trong những trật tự ấy Hayek đã đặc biệt nói
nhiều về cơ
chế thị trường do tính chất tiêu biểu về khả năng tập trung tri thức của
nó. Trong những dẫn chứng nêu ra để phản bác các hình thức lý luận của
những người
cổ vũ chủ nghĩa xã hội, Hayek không ngớt chứng minh thái độ ảo tưởng của
họ –
với tư cách là những cá nhân, những bộ phận – về mặt thu nhặt thông tin
được cho
là đầy đủ để xây dựng kế hoạch lãnh đạo kinh tế thay cho thị trường.
Trong khi
nhắc đi nhắc lại điều tiêu cực đó thì một mặt khác Hayek lại cũng không
ngớt nói
đến khía cạnh tích cực: chính việc không biết đó mới tạo ra những điều
kiện
thuận lợi cho công cuộc đi tìm cái mới, thúc đẩy con người dấn thân vào
những
thử thách tiền phong, lôi cuốn những người khác đi theo. Nếu tri thức
mà
được giả định là có sẵn, cho sẵn, biết được đầy đủ rồi thì cũng không
còn tìm
kiếm, sáng tạo, phiêu lưu hào hứng nữa.
Nhưng quan trọng nhất là cũng từ những giới hạn về tri thức ấy,
Hayek nói đến sự tuyệt diệu của sự vận hành của guồng máy tự phát thị trường:
đứng riêng ra từng cá nhân một, mỗi người không biết gì hơn những cái có trước
mũi họ, những nếu mọi người cứ như thế mà lo việc của mình, không cần biết và
đặt ra những mục tiêu chung liên hệ đến người khác, thì chính như thế mà kết quả
lại bật ra một cách diệu kỳ: trong lĩnh vực kinh doanh trao đổi, tri thức tuyệt
vời đó biểu hiện trên những bảng niêm giá trên các hiệu buôn, dấu hiệu chính xác
của đường cong cung cầu, tình trạng sức khoẻ của một nền kinh tế, ai cũng có thể
dựa vào sự biến động của các bảng giá đó tính toán chuyện làm ăn. Hayek đã khái
quát lên thành lý luận bằng cách dựa theo khái niệm “phân công lao động” trong
kinh tế cổ điển để đưa ra khái niệm mới gọi là “phân công tri thức”: tri thức
tổng thể, tuy không ai nhìn thấy được, nhưng vẫn tồn tại âm thầm trong sự vận
hành của thị trường, và tồn tại dưới những hình thức đặc biệt của nó là chia cho
mỗi tác nhân giữ một mẩu nhỏ, trong đó bao gồm phần lớn là những hiểu biết ngấm
ngầm, những bí quyết gia truyền không diễn tả ra được, những tri thức để làm chứ
không để nói…
[9]
Nhưng từ đó mà sự diệu kỳ xảy ra, như chúng ta đã biết về những cái bảng đề giá
ở thị trường, và vượt qua cả những cái bảng giá ấy là những hiệu quả vô biên
trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất, phục vụ nhu cầu sinh sống ngày càng
phức tạp, mở rộng của con người. Ở đây rõ ràng không còn là chuyện tật xấu riêng
tạo ra sự giàu có chung mà là sự ngu dốt riêng đã tạo sự khôn ngoan chung.
Không ai có thể ngờ được: khái niệm tự do mà Hayek coi là giá trị
thiêng liêng nhất với con người lại xuất hiện từ sự nghịch lý này. Nhưng đặt vào
hệ thống diễn giải của ông thì lại không có gì khó hiểu. Nó lập cước trên giả
định phải chấp nhận hầu như không cần bàn cãi về tính hiệu năng của cái cơ chế
thị trường tự phát, cơ chế ấy bảo đảm tạo ra tiến bộ và mang lại lợi ích phổ
quát cho tất cả mọi người, mọi người cứ nương theo đó mà sinh sống làm ăn, không
cần đặt vấn đề thay đổi hay cải tổ cái trật tự đã thành “tự nhiên” ấy. Và đó
chính là tự do, bởi vì trật tự tự phát ấy đã đặt ra một điều kiện không thể
thiếu được cho hình thái tự do đó: anh phải tuyệt đối vâng phục mọi sự sắp xếp
đã có của tôi thì anh mới có được tự do để hành động trong phạm vi tôi đã quy
định cho anh. Tự do của anh chỉ được giới hạn trong ứng xử của anh với những cá
nhân xung quanh anh, cũng làm một công việc như anh, làm ăn, đi lại, cạnh tranh,
giành giật làm giàu, được thua hay thất bại là tuỳ theo anh… Anh cũng không nên
ngán ngại cái thực thể gọi là nhà nước bởi vì cái nhà nước ấy, nếu hiểu theo
nghĩa chân chính phải là sản phẩm của cái trật tự tự phát, được lập ra cùng với
những thứ gọi là pháp chế đi chung với nó, mục đích quan trọng nhất không có gì
khác hơn là bảo vệ quyền tự do đó của anh cùng với điều kiện để thực thi là
quyền tư hữu của anh. Nếu quả là như vậy thì đứng về về mặt tri thức mà xét,
trong khi sự ngu dốt cá nhân đã tạo ra lợi ích chung thì đứng trên quan điểm đạo
đức, sự ngu dốt đó cũng chính là điều kiện để mang lại ý nghĩa cho tự do nữa.
Hiển nhiên tự do ở đây phải được giới thuyết trong hệ thống của Hayek: một thứ
tự do hoàn toàn giới hạn trong phạm vi cá nhân và nội dung của thứ tự do đó cũng
phải mang tính chất hoàn toàn tiêu cực: không phải tự do để hoàn thành một viễn
cảnh nào đó liên hệ đến người khác (liberty to) mà chỉ là thứ tự do không để ai
đụng tới bản thân mình và mình không đụng tới bản thân ai (liberty from).
Tri thức luận của Hayek không thể không dẫn đến kết quả hiển
nhiên này: muốn có tự do cá nhân người ta phải biết phục tùng tuyệt đối cái trật
tự tự phát ấy, và điều đó cũng có nghĩa là dùng một chút lý trí le lói của mình
để chấp nhận hoàn toàn tình trạng vô minh của con người trước cái trật tự đó,
một thứ vô minh dầy đặc, mờ đục không khác gì cái trật tự vật lý ù lì của thế
giới tự nhiên mà con người không thể biết được cái đàng sau nó là gì. Trái ngược
hẳn với một quan niệm tự do được giới thuyết theo chiều hướng hoàn toàn mang đặc
trưng của con người: không có ý thức về điều mình hành động, không ý thức được
mối liên hệ của mình với người khác, với cái xã hội mình sinh sống thì sẽ không
bao giờ có thể có tự do: tự do không phải là phải biết tất cả nhưng không bao
giờ có thể đi chung với vô minh, ngu dốt trước cái môi trường sinh sống của
mình. Thái độ vô minh và ngu dốt đó không làm nên gì điều gì ngoài sự nô lệ. Tự
do của mỗi cá thể cũng không thể nào tách rời khỏi tự do của toàn thể, hơn nữa
của cái toàn thể đem lại tự do cho cá thể. Quan niệm này không thể không đòi hỏi
sự có mặt của lý trí để phán đoán, quyết định và chọn lựa, quan niệm ấy tất
nhiên không thể nào được Hayek biết đến vì nó mang quá nhiều hơi hám của “lý trí
thiết kế”, nhưng dù sao đó là một quan niệm trong những quan niệm có thể có, cần
phải đem ra đối chiếu để rọi sáng thêm quan niệm của Hayek về mối liên hệ giữa
tri thức và tự do.
4
Một câu hỏi tất yếu sẽ phải đặt ra: đàng sau tất cả những kỳ diệu của sự điều
hợp đồng bộ, vừa mang lại hiệu nghiệm về mặt kinh tế, vừa làm xuất hiện tự do
như một giá trị đạo đức ấy là gì mà khiến Hayek đặt hết niềm tin vào đó? Bàn
tay vô hình là gì? Là không có một bàn tay nào cả như lý luận về “người máy” đã
cho là vậy? Nhưng nếu cho rằng đó chỉ là một cách nói, rằng xã hội con người
không thể nào là một guồng máy vô nhân xưng, phi nhân tính thì có thể cho rằng
“bàn tay vô hình” vẫn hàm nghĩa có một bàn tay, nhưng bàn tay ấy lại tự giấu đi
không cho chúng ta trông thấy hoặc do khả năng giới hạn của mình, con người
không thể thấy? Vậy thì làm sao nhận ra được cái bàn tay kỳ diệu ấy trong thứ lý
luận của chủ nghĩa tự do và của chủ nghĩa tự do của Hayek?
Chúng ta không thể không nhớ tới những đơn tử (monade) siêu hình của Leibniz,
những thực thể được xem là “không có cửa cái lẫn cửa sổ”, sống biệt lập với nhau
hoàn toàn, nhưng do thông phần với bản chất của Chúa nên cuối cùng vẫn chung
sống trong trạng thái hài hoà cực kỳ tốt đẹp. Lực lượng điều hợp những khác biệt
của những cá thể trần gian ở đây rõ rệt là “bàn tay của Chúa”. Nhưng về sau càng
có nhiều người khước từ lối giải thích thần bí ấy, do sự phát triển của khoa
học, cho nên đã quay về dựa vào tự nhiên để giải thích. Thí dụ như lý luận về
khế ước xã hội: giả định từ nguồn gốc của nó, xã hội bao gồm những cá nhân mạnh
ai nấy theo bản chất tự nhiên của mình (bản chất này khác nhau tuỳ theo các tác
giả như Thomas Hobbes, John Locke, Jean-Jacques Rousseau…) nhưng do phải sống
chung nên đã phải đồng ý với nhau thảo ra những hợp đồng (vâng phục hoặc hợp
tác), biểu hiện thành ý chí chung, căn cứ vào đó điều hành đời sống xã hội.
Bên cạnh đó có nhiều lý luận dựa vào tính chất tự nhiên mang đặc trưng của xã
hội con người để đưa ra các thứ lý luận ngược lại: không có những cá nhân tồn
tại tự thân như những đơn vị cô lập mà chỉ có những con người của một cộng đồng
sống trong những tổng thể siêu cá nhân (gia đình, xã hội, giai cấp, dân tộc,
nhân loại…) mà nội dung của những thực thể ấy hàm chứa ý nghĩa của một cái gì đó
vượt khỏi con số cộng các thành phần riêng lẻ (Auguste Comte, Karl Marx…).
Chủ nghĩa tự do cổ điển có phương cách của mình. Mandeville nói đến bản chất ích
kỷ có thể tạo ra giàu có là đã giả định một mối quan hệ tự nhiên tạo ra được sự
hoà hợp chung. Những người theo thuyết duy lợi (Jeremy Bentham, John Stuart
Mill…) cũng có những lập luận tương tự khi cho rằng cá nhân và xã hội có thể đạt
được hoà hợp dựa trên lợi ích riêng biệt. Có khác biệt, Hayek vẫn không thoát
khỏi được xu hướng tự nhiên đó, nhưng với quan niệm riêng về tri thức luận của
mình, ông đã mang đến cho chủ nghĩa tự do một cách lý giải mới: giống như những
sơ đồ tiên thiên trong hệ thần kinh trung ương, các thứ trật tự tự phát của ông
mang đậm nội dung văn hoá, truyền đạt qua thời gian do bắt chước, học tập, giáo
dục thường xuyên mà trở thành “những quy tắc ứng xử đúng đắn” mang tính chất
truyền thống để con người cứ theo đó mà noi theo không cần suy nghĩ, tính toán
trong hành động. Có thể gọi đó là một thứ chủ nghĩa tự nhiên văn hoá vì
văn hoá chính là một thứ “tự nhiên thứ hai” tuy do con người tạo ra nhưng lại
mang tính chất tất yếu như những quy tắc không thể đi ngược lại. Hayek cho rằng
cái hình thái văn hoá đó là đặc trưng của xã hội con người, nó tự hình thành, tự
tích tụ dần dà qua lịch sử, bật ra vào một lúc nào đó như nước ngầm ở dưới đất
vọt lên mặt đất, bất ngờ, không ai tiên đoán được, không biết ai là người tạo
ra. Một sản phẩm thuần tuý cộng đồng tự phát.
Quan niệm về thứ trật tự ấy thật sự cũng không có gì mới mẻ. Cuộc sống con người
là một dòng chảy liên tục ở đó bao giờ truyền thống cũng có sức nặng chi phối
đời sống hiện tại như một điều không thể tránh khỏi, vừa là kinh nghiệm đã tích
tụ thành thói quen, cần noi theo để tạo ra sự liên tục trong tiến hoá, nhưng mặt
khác cũng lại là sức ỳ quán tính ngăn cản những đổi thay nhanh chóng cần phải có
để thích ứng. Hayek không nhìn truyền thống như vậy, ông chỉ nhìn thấy mặt thuận
lợi của những cái đã đọng lại thành nếp quen, coi đó chính là di sản của văn
minh, dựa vào đó kết hợp với tri thức luận về tính chất phụ thuộc của lý trí vào
những sơ đồ đã định hình trong hệ thần kinh, phát triển thành một chủ nghĩa phi
lý tính, đẩy vào hàng đối lập mang tính phá hoại mọi ý định muốn thừa kế truyền
thống theo đường lối canh tân hoặc cách mạng. Mặc dù có lần đính chính không
phải là người bảo thủ, nhưng xét về mặt lý luận, Hayek không thể nào thoát khỏi
sự vây bọc của thứ chủ nghĩa phi lý tính do ông tạo ra để tự trói chân mình vào
một thứ chủ nghĩa truyền thống bảo thủ vào bậc nhất của chủ nghĩa tư bản tự do;
lý do thì chúng ta đã biết, đáng nói nhất là chủ trương chống lại tất cả mọi
hình thức can thiệp vào sự vận hành của thứ chủ nghĩa tư bản tự do ấy, dù chỉ là
những dự án điều tiết khiêm tốn hoặc cải cách cục bộ.[10]
Trước những lập luận cực đoan đó, Hayek vẫn tìm cách giữ sự nhất quán của hệ
thống của mình bằng cách viện đến những phương thức giấu mặt hoặc đưa vào những
yếu tố ngoại lai. Để tranh luận với những nhà “thiết kế” (đủ loại) ông hay dựa
vào một thứ tri thức toàn diện giả định có thể có được, tuy con người không thể
nhận ra, nhưng vẫn ẩn tàng và phân tán trong cơ chế thị trường, dựa vào đó đả
kích những ảo tưởng toàn tri của những ai muốn có được một thứ trí thức như vậy
để phục vụ các chương trình kế hoạch hoá. Đó là cách lý luận có mục đích đẩy
người đối thoại vào đường cùng mà họ không bao giờ đặt ra và muốn đạt tới. Vấn
đề ở đây không phải là bảo vệ hay phủ định kinh tế kế hoạch hoá mà là vấn đề của
những người làm kế hoạch: các kế hoạch họ dựng nên có thể sai lầm từ đầu, nhưng
không người làm kế hoạch nào lại đặt cho mình mục tiêu phải có được những tri
thứ toàn diện thì mới hành động, và khi làm như vậy lại cho là đã đầy đủ để có
thể bắt tay thực hiện, không cần phải điều chỉnh, bổ sung, kể cả làm lại những
gì đã phác hoạ. Với Hayek, những “quy tắc ứng xử đúng” của trật tự tự phát có
thể hình thành từ quá trình “thử và sai” nhưng với sự thao tác của lý trí thì
lại không được ông cho phép. Cái lôgíc đẩy sự kiện tới chỗ tuyệt đối như
vậy để buộc phải chọn hoặc “có” hoặc “không” là hoàn toàn xa lạ với cái biện
chứng của đời sống thực tiễn.
Nhưng điều đó đã trở thành tự nhiên trong tư duy của
Hayek. Ông chỉ thấy điều
ông cần đạt về mặt lập thuyết là làm sao chứng minh cho được sự tất yếu
của
những trật tự tự phát. Ngoài việc dựa vào một thứ tri thức tuyệt đối để
đẩy lui
các đối thủ ra khỏi tầm mắt, ông còn dựa vào cái tri thức toàn diện bí
mật nằm
phục trong cơ chế thị trường để mặc nhiên bảo vệ cái tri thức luận phi
lý tính. Giả định về một tri thức toàn diện chứa đựng trong các trật tự
tự phát, dưới
hình thức phân tán, không nhận thức được bằng lý trí phân tích, với
Hayek cũng
là giả định cho rằng, ngoài chuyện thứ tri thức toàn diện ấy chỉ có thể
thu gom
và sử dụng được trong điều kiện con người buông xuôi để mặc cho thị
trường muốn
làm gì thì làm, muốn dắt mình đi đâu cũng được, còn là chuyện buộc con
người
phải nhắm mắt lại, tuyệt đối tin vào một thứ sức mạnh vô hình, toàn trí,
toàn
tri mà mình chỉ có thể phủ phục vâng lời, không cần nhìn thấy, không cần
tìm
hiểu. Không thể nói khác đi về một thứ sức mạnh như thế: đó chính là sức mạnh
của một đấng bậc có thể tạo những điều kỳ diệu mà không cho ai thấy mặt. Một
đấng bậc như vậy rất cần đến sự biện luận của Hayek về sự mờ đục trong tri thức
luận của con người. Sự ngu dốt
[11]
ở đây đã được thăng trật lên đỉnh cao nhất của quyền lực tinh thần: nó thực hiện
được một cách không có ý thức sức mạnh vạn năng của một Ông Trời giấu mặt! “Thiên
hà ngôn tai …”!
Jean-Pierre Dupuy tìm hiểu cơ sở lý luận của chủ nghĩa tự do đã gọi thứ tri thức
vạn năng giấu mặt trên đây trong hệ thống của Hayek là một “Tri thức Tuyệt đối”,[12]
một trong những yếu tố “ngoại tại” mà những người theo chủ nghĩa tự do thường
đem vào để bù đắp cho hệ thống nội tại của mình: phải có một cái tuyệt đối
nào đó mang ý nghĩa trần gian thay cho cái tuyệt đối siêu việt (như cái
monade của Leibniz). Điều này cho biết hệ thống của tất cả những nhà lý luận của
chủ nghĩa tự do đều không thể tự đứng vững được trên nền tảng nội tại của nó:
dựa vào tính vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa, tham lam, ham mê vật chất, đố kỵ, tranh
giành mù quáng… coi là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, nếu để cho
tự do phát huy hết năng lực, thì tất yếu chúng sẽ đưa xã hội trở lại trạng thái
tự nhiên thật khủng khiếp mà Hobbes đã hình dung ra: đó là “cuộc chiến tranh của
mọi người chống mọi người”. Cũng chính vì thế mà lý luận tự do, dù mỗi xu
hướng có khác nhau, đều tìm cách tìm ra một yếu tố bền vững bao hàm một giá trị
nào đó để vừa hạn chế bớt những hỗn loạn lại vừa duy trì được thành quả chung do
cuộc cạnh tranh gây ra.
Nhưng những giá trị mà chủ nghĩa tự do thường viện tới, do dựa vào những yếu tố
vẫn mang ý hướng nội tại, không thoát khỏi tiền đề coi những tác nhân biệt lập
là những bản vị, đã tỏ ra không mấy hiệu nghiệm: thiện cảm, điều hoà lợi ích,
lòng tốt tự nhiên… dù có lặp lại bao nhiêu lần vẫn không đem lại được một hệ
thống giá trị làm nền cho một xã hội văn hoá và chính trị phát triển trong ổn
định, nhân đạo. Nó chỉ tạo ra một cái mà người ta gọi là “xã hội dân sự” có nội
dung cạnh tranh thuần kinh tế mang tính chất tư bản chủ nghĩa tự do. Sự
hiện diện của các định chế nhà nước trong điều kiện đó được giao cho vai trò hạn
chế cuộc tranh giành hỗn loạn giữa những cá nhân, nhưng trên thực tế, trong
nhiều thời kỳ, nhiều trường hợp đã bị những kẻ có ưu thế chiếm lĩnh và biến
thành công cụ, làm cho cường độ bất bình đẳng cá nhân phát triển thành bất bình
đẳng xã hội, hình thành các đường lối chính trị tước đoạt, thống trị, mở rộng
thành xâm lược diễn ra trên quy mô toàn cầu, dưới nhiều hình thức khác nhau
trong lịch sử.
Đưa ra một thứ “Tri thức Tuyệt đối” đạt được bằng ngu dốt để làm mới học thuyết
tự do nhằm chống đỡ cho cái trật tự thị trường tự phát trước những bất toàn của
chủ nghĩa tư bản không ngớt bị công kích gay gắt và bị đe doạ thay thế, lập luận
của Hayek không thể đem lại nhiều thuyết phục, do tính chất lén lút và không
sòng phẳng trong biện luận của ông như chúng ta đã thấy. Lập luận ấy không bao
giờ có thể dập tắt được những mưu toan thay đổi hệ thống giá trị của chủ nghĩa
tư bản tự do, những phương án canh tân, dù nhiều lần tỏ ra không tưởng và thất
bại, nhưng vẫn không giảm bớt sự kiên trì trong tìm kiếm.
5
Nhưng hệ thống của Hayek chưa phải đã chấm dứt tại đó.
Ngoài yếu tố ngoại tại được gọi là “Tri thức Tuyệt đối” nói trên, Hayek còn sử
dụng một yếu tố ngoại tại khác, lần này được biện luận một cách công khai, minh
bạch, không cần giấu mặt: đó là việc vận dụng lý luận tiến hoá sinh vật của
Darwin để giải thích sự vận hành của trật tự tự phát, mục đích làm cho lý luận
của ông mang một màu sắc khách quan, không cần viện đến những lối giải thích cũ
của các trường phái duy lợi, khế ước, hoà hợp lợi ích… Nhưng cũng chính từ nỗ
lực này mà hệ thống của Hayek đã bộc lộ tất cả tính chất ngộ biện và mâu thuẫn
trầm trọng của nó.
Lý luận của Darwin mô tả sự tiến hoá của các giống loài; bất cứ giống loài nào,
kể cả con người, đều nằm trong vòng sàng lọc tự nhiên: giống nào thích nghi với
tự nhiên thì mới tồn tại, giống nào không làm được điều đó thì bị diệt vong. Dựa
vào quan niệm sàng lọc tự nhiên đó, Hayek đã mang đến cho lý luận về tri thức và
trật tự tự phát một chiều kích mới gọi là sự sàng lọc văn hoá: chỉ thích hợp với
nhu cầu tồn tại của con người những định chế và những quy cách ứng xử được thời
gian tuyển chọn và đọng thành truyền thống có thể giao lại cho các thế hệ đi sau
như một di sản. Nhiều nhà nghiên cứu nhân việc này cho rằng lý luận tiến hoá
theo kiểu “cha truyền con nối” liên tục như vậy đã nghiêng về phía Lamarck nhiều
hơn là Darwin. Điều đó thật ra không quan trọng lắm vì Hayek chỉ mượn thuyết
tiến hoá nói chung như một luận cứ mới để củng cố cái khung nội tại cho hệ thống
của ông, làm cho hệ thống ấy có được một cơ sở tự nhiên vững chắc hơn các thứ lý
luận tự nhiên mang hơi hám “bản tính người” vẫn còn còn tỏ ra mơ hồ.
Cũng giống những phạm trù tiên thiên lấy nguồn cảm hứng từ triết học Kant, lý
luận tiến hoá sinh vật mượn từ Darwin ở đây đã được giao cho một vai trò có tính
chất chức năng: kết hợp với lý luận về tri thức và các trật tự tự phát, nó khoác
cho chủ nghĩa phi lý tính của Hayek cái vòng hoa chiến thắng trong cuộc đấu
tranh sinh tồn dai dẳng cho con người và được con người tuyển chọn, bảo vệ như
một truyền thống không thể nào thay đổi được. Ý nghĩa của lý luận đấu
tranh sinh tồn về mặt văn hoá cũng dẫn xuất từ đó: những con người tự do ngu dốt
trước đây không biết được mình là gì trong cuộc vận hành vô ngã, phi nhân tính
của những thứ trật tự tự phát thì bây giờ dưới ánh sáng của lý luận về tiến hoá
văn hoá do Hayek tạo ra, đã có thể sử dụng cái phần lý trí ít oi của mình để
hiểu rằng cái trật tự tự phát phủ đầy những vòng hoa đó là do chính mình tạo nên
và nên thoả mãn với vị trí khiêm tốn của mình trong cái vòng trật tự ấy. Ở đây, người chiến
thắng không phải chiến thắng cho bản thân mà là tạo động lực để những người khác
noi gương bắt chước đi theo, làm cho trật tự thị trường ngày trở thành một thứ
giá trị phổ biến, đương nhiên. Còn kẻ thua cuộc thì dù đắng cay như thế
nào đi nữa cũng nên chấp nhận số phận và nên coi đó là bài học về sự tiến thân
mà giả sử như có thất bại nhiều lần nữa thì cũng phải hiểu đó là sự hy sinh cần
thiết cho cuộc sàng lọc tiến hoá của văn minh nhân loại.
Tính chất huyễn hoặc trong một viễn cảnh lý luận như vậy là không thể nào che
giấu được. Không ít người nghiên cứu đã nhận ra những mảnh ghép không nhất quán
và cả mâu thuẫn trong hệ thống của Hayek.[13] Muốn vượt qua chủ nghĩa duy lợi trực tiếp, tầm thường, nhưng sau khi đi qua một
vòng chân trời, Hayek vẫn không thoát khỏi chủ nghĩa duy lợi dưới một hình thức
gián tiếp mượn từ thế giới sinh vật áp dụng vào xã hội con người: chỉ những gì
có ích cho sự tồn tại của con người được sàng lọc qua cạnh tranh sinh tồn mới
được lưu giữ để biến thành truyền thống. Và như vậy cái cơ chế vận hành của
những trật tự tự phát vẫn không khác bao nhiêu với cái cơ chế đặt trên tiền đề
về sự điều hợp tự nhiên của những lợi ích vị kỷ, bây giờ mờ đục hơn, quanh co
hơn thôi. Về một mặt khác, trong khi mượn lý luận tiến hoá sinh vật tạo cho hệ
thống của mình cái dáng vẻ khoa học để, vừa bảo vệ các thứ trật tự tự phát như
một sự kiện hiện thực, lại vừa cấp cho hiện thực ấy khả năng phát khởi tự do để
thưởng công cho những tác nhân đã phục vụ nó hết lòng, Hayek đã tự dẫn mình vào
môt cung cách tư duy ngược với nguyên lý sơ đẳng của biện luận triết học: lợi
ích và lý tuởng, cái tồn tại và cái phải tồn tại, là hai bình diện khác nhau
hoàn toàn về bản chất – tự do như một giá trị không thể phát khởi từ
những cuộc tranh giành vô minh, mù quáng giữa những cá nhân không bao giờ biết
nghĩ đến người khác và không bao giờ có ý định san sẻ cho người khác bất cứ một
điều tốt đẹp nhỏ bé nào.
Những gì Hayek, dựa vào lý luận sàng lọc đó đề xuất một số luận điểm liên quan
đến các lĩnh vực văn hoá, chính trị cho toàn xã hội, không đề xuất nào được xem
là hài hoà về lý thuyết có thể đem áp dụng vào thực tế. Lý do chủ yếu là Hayek
đem lý luận sàng lọc sinh vật vận dụng vào cuộc cạnh tranh tự do để biến cuộc
đấu đá sinh tồn của những cá nhân miệt mài chạy theo lợi nhuận thành một trò
chơi, căn cứ vào đó giải quyết vấn đề gây căng thẳng nhiều nhất từ trước đến
nay là “công bằng xã hội”. Theo lập luận của Hayek thì trong cuộc chơi mạnh được
yếu thua ấy, chuyện công bằng hay không công bằng chỉ liên hệ đến những thành
viên tham dự, nghĩa là chỉ thành vấn đề cho cuộc chơi khi có những thành viên
nào cố ý lừa bịp, tước đoạt, ăn gian. Vậy mà mấy chuyện đó chẳng có gì rắc rối
cả: trong bất cứ cuộc chơi nào cũng có những trọng tài và hãy để cho họ làm việc
và những trọng tài xã hội ấy không ai khác hơn là Nhà nước pháp trị mà Hayek coi
là không thể thiếu để cơ chế thị trường giữ được tính chất nghiêm chỉnh của nó
trong hoạt động. Vì thế việc thắng hay thua của những thành viên trong
cuộc chơi ấy là thuộc vận may của mỗi người, chẳng thể đổ lỗi cho bản thân cuộc
chơi, cũng chẳng dính dáng gì đến các cơ quan công quyền do nhà nước đảm trách.
Dựa trên quan niệm đó, Hayek công kích gay gắt những người đưa ra khái niệm gọi
là “công bằng xã hội”, một khái niệm hàm nghĩa đòi hỏi “công bằng” trên phạm vi
toàn “xã hội” bằng biện pháp phân chia lại thu nhập chung, thực hiện qua áp lực
của những tổ chức dân sự (như các nghiệp đoàn), hoặc bằng sự can thiệp của nhà
nước dưới nhiều hình thức (đáng chú ý nhất là Nhà nước phúc lợi). Hayek cho rằng
đó là những điều hết sức vô lý, vô nghĩa và chúng ta đã biết lập luận của ông ra
sao: thị trường là một cơ chế phi nhân tính, tự vận động như một guồng máy không
có chủ thể, guồng máy ấy lại là một trật tự được sàng lọc có lợi cho sự phát
triển của xã hội, cho nên đặt vấn đề “công bằng” hay “không công bằng” với cái
trật tự đại biểu cho xã hội đó là vô lý, vô nghĩa, không thể giải quyết được, vì
không có ai giải quyết, nếu nhà nước nhẩy vào thì không thể tránh khỏi vi phạm
chức năng trọng tài mà thị trường đã giao cho nó. Vả lại như chúng ta cũng
đã biết: với Hayek bất cứ hình thức can thiệp cố ý nào của con người vào cơ chế
tự phát ấy sẽ là bất khả vì sẽ không có cách nào hiểu được sự vận hành tự động
của nó, đã như vậy mà lại dựa vào “sự ngạo mạn của lý trí” để tìm cách cải tạo
này nọ thì tai hại với nền “văn minh” lâu đời của loài người sẽ vô cùng tồi tệ.
“Ý đồ” biện hộ của Hayek cho tính điều hợp vô minh của thị trường như thế nào
thì chúng ta cũng đã biết và có thể hiểu được trong cái văn cảnh thuần lý của
nó. Nhưng lý luận và thực tế là những chuyện khác nhau. Mải mê trong
tư biện, Hayek không chịu nhận ra sự kiện rất đơn giản này: những người chiến
thắng và những người thua cuộc, có thể luân phiên thay nhau với tư cách là những
cá nhân, nhưng dần dà trong mối quan hệ với nhau như là những thực thể xã hội
(Hayek không thể nói đây không phải là truyền thống) họ đã mặc nhiên cùng nhau
hình thành những tập hợp liên-cá nhân (vì những lợi ích nhiều mặt, không nhất
thiết là kinh tế), và mọi thứ sẽ không còn diễn ra như lúc cuộc chơi mới bắt đầu
nữa: không còn là sự tranh giành của những cá nhân mà sẽ là cuộc đối đầu của
những tổng thể, những quan hệ xã hội biểu hiện dưới hình thức những tầng lớp,
những tập đoàn, những siêu tập đoàn, những giai cấp, những dân tộc… – những thực
thể mà Hayek nhất quyết không thừa nhận nhưng vẫn cứ diễn ra trong thực tế, hôm
qua và cả hôm nay.
Những tổng thể ấy sẽ dẫn cuộc chơi đến những viễn cảnh khác hẳn với sự trông chờ
của Hayek: không còn có sự thắng thua mù quáng, vô minh của hãnh tiến, hả hê
hoặc của quy phục, nhẫn nhục mà sẽ là sự mù quáng, vô minh của những đam mê,
thống trị, oán ghét, hận thù, tất cả có thể dẫn đến nhiều con đường trước mặt
như những khả thể, con đường nào cũng có đầy đủ lý do để tồn tại: hoà bình hay
chiến tranh, ổn định hay loạn lạc, cải tổ hay cách mạng, tất cả sẽ hoàn toàn tuỳ
thuộc vào cái cách mà những cá nhân tồn tại trong cái trật tự tự phát ấy có biết
bừng tỉnh để sử dụng hay không: cầu viện đến cái phần lý trí nhỏ bé của mình
(như Hayek cho là vậy) để giải quyết những vấn đề do cái trật tự tự phát mù
quáng ấy gây ra, với tư cách là những con người của một giống loài biết liên đới
với nhau trước những tai hoạ chung, chứ không còn là những monade của một cơ chế
vô minh lén lút đi tìm một Chúa Trời cho mình như Hayek đã tin có thể tìm được.
Chủ trương của Hayek giao cho nhà nước vai trò làm trọng tài điều hành cơ chế
thị trường hoạt động cũng có thể hiểu như sự biểu hiện của lòng tin đó. Mọi thứ
đã do một đấng bậc giấu mặt nào đó (Tri thức Tuyệt đối, Trật tự Sàng lọc) lo
liệu tất cả rồi, việc còn lại của con người chỉ là tuân theo để tổ chức vận hành
thôi. Xã hội con nguời vốn phức tạp, nên để ngăn chặn những cái quá đà, những
lạc hướng, những hồi đầu thụt lùi, nhất là những toan tính dùng lý trí phá vỡ
trật tự đã an bài, phải có một thực thể duy nhất được phép độc quyền sử dụng
cưỡng chế để bảo đảm cho cái trật tự ấy vận hành suôn sẻ. Nhà nước đặt trong
viễn cảnh ấy đã trở thành công cụ của trật tự tự phát, trật tự thị trường: nó
phải tự tạo ra một cơ chế luật lệ và tổ chức để không cho phép xẩy ra những mưu
tính lộng quyền vượt qua khỏi cái chức năng đã được quy định của nó. Nhưng
cũng giống như tự do cá nhân thuần tuý hình thức, luật pháp của nhà nước cũng là
luật pháp mang tính chất hoàn toàn hình thức như vậy: tất cả những cá nhân đều
bình đẳng trên giấy tờ còn trong thực tế thì không bình đẳng lại là tất yếu,
trên luật pháp ai muốn làm gì thì làm nhưng trong thực tế không ai được đụng tới
cái nền luật pháp do bản thân cơ chế thị trường tạo ra: luật pháp đó bảo vệ mọi
người để mọi người cúi đầu vâng phục trật tự thị trường.
Đấy chính là nguyên tắc tồn tại của nhà nước pháp quyền theo viễn cảnh Hayek, và
từ nguyên tắc ấy, ngoài việc hoàn thành những dịch vụ công cộng, an ninh, luât
pháp…,[14]
nhất quyết không cho phép nhà nước can thiệp vào sự vận hành tự động của thị
trường và cũng từ những nguyên tắc ấy thúc đẩy các hoạt động tư nhân, cá thể đến
mức tối đa, toàn diện: quyền tư hữu tài sản là thiêng liêng cũng như quyền thừa
kế (dù là nguồn tích tụ tài sản tạo ra không bình đẳng trong cuộc chơi ), không
cho phép thực hiện thuế luỹ tiến, bài bác những đòi hỏi của công nhân và đại
biểu của họ là công đoàn (những yêu sách gây ra lạm phát, tạo ra bè phái tìm
kiếm lợi ích), cho phép tư nhân hoá tiền tệ, hình thành những tập đoàn độc
quyền, thừa nhận sự hợp lý của đầu cơ … nói chung là tạo ra những điều kiện tối
đa để cái xã hội dân sự thuần tuý kinh tế khẳng định mình như một thực thể độc
lập, vận hành như một guồng máy tự động, tự đầy đủ với mình, tự làm luật cho
mình, không có một tác nhân nào bên ngoài xen vào can thiệp.
Đối với một hình thái xã hội dân sự như vậy, cái duy nhất còn mang hơi hám một
thứ không gian công cộng nào đó trong lý luận của Hayek chính là sự tồn tại của
một nhà nước mang chức năng của một cơ quan quản lý thuần về kỹ thuật, một nhà
nước trên danh nghĩa – Hayek thích gọi đó là một “chính quyền” hơn là một nhà
nước – nhưng trong thực tế đã hợp nhất với xã hội dân sự thành một bộ phận hữu
cơ tự phát của nó, một xã hội ở đó cái tinh thần tự động của cơ chế thị trường
đã được mở rộng và trùm lấp tất cả mọi lĩnh vực của đời sống, một xã hội tiến
tới chỗ tự định nghĩa như một xã hội kinh tế. Một nhà nước như vậy thực
tế cũng đã mang ý nghĩa của một “nhà nước tiêu vong”, tồn tại trong một xã hội
mà chính trị được định nghĩa như những dự phóng có ý thức khác nhau trong một
thứ xã hội do con người làm chủ đã không còn lý do để tồn tại. Theo viễn
quan của Marx,[15]
người ta có thể cho rằng sự tiêu vong của một nhà nước như vậy không phải là sự
nhường ngôi cho một cộng đồng phổ quát ra đời mà chính là sự hoàn tất của cái
quá trình vô minh hoá toàn bộ thế giới mà sự chiến thắng của quá trình này đã
trở nên đồng nghĩa với sự chiến thắng phổ biến của một thứ trật tự ở đó từ nay
trở đi ý thức cộng đồng, ý thức xã hội trong đời sống cũng đã trở thành thừa
thãi.
6
Có thể nói Hayek đã hoàn tất giấc mơ của những nhà tự do của thế kỷ 18 muốn hình
thành một xã hội trần tục, dân sự, thoát khỏi mọi sự khống chế của những bàn tay
hữu hình của các giáo hoàng, những ông vua, những lãnh chúa – kể cả những thực
thể chính trị định hướng trực tiếp đời sống tự nhiên do những nhà theo chủ nghĩa
khế ước tạo ra – bằng cách tìm ra từ nội tại xã hội con người một động cơ tự
sinh, tự vận hành, ở đó những lợi ích về kinh tế được xem như giữ vai trò quyết
định, chủ đạo, trùm lấp. Theo cách nói của Pierre Rosanvallon, ở đây, cái kinh
tế đã được quan niệm như phương cách thực hiện cái chính trị để một xã hội kinh
tế ra đời thay cho xã hội chính trị thoát khỏi những can thiệp mang tính chất
chủ quan của những thực thể xâm phạm vào sự tồn tại độc lập của những cá nhân,
hoàn thành phương châm mộng tưởng của những người theo chủ nghĩa tự do: “đem sự
quản lý những đồ vật thay cho sự quản lý những con người”.[16]
Để thực hiện mục tiêu ấy, Hayek đã tiến hành một cuộc đảo lộn triệt để về phương
pháp tư duy: một mặt tẩy trừ khỏi chủ nghĩa tự do cổ điển, rồi sau này là chủ
nghĩa tân cổ điển, mọi dấu vết của những biện luận lý tính, những yếu tố chủ
quan về đam mê hoặc trách nhiệm của con người có liên hệ đến những vấn đề tổng
quát về xã hội và lịch sử, mặt khác đã đẩy về phía tiêu cực (và cả thù địch) hầu
hết những thành tựu đã trở thành truyền thống – không thể nói là không “tự phát”
– của những công trình suy tưởng lý tính do nhiều trường phái học thuật tạo ra –
không ít là những công trình của những người gần gũi với chủ nghĩa tự do, ngay
cả với những nỗ lực bảo vệ chủ nghĩa tư bản như lý luận của Keynes – và thế vào
đó một truyền thống gọi là tự phát tự động, trong đó thị trường với cơ chế vận
hành vượt lên khỏi mọi nhận thức đối với lý trí của con người, được coi là mẫu
mực, căn cứ vào đó đề xuất cho chủ nghĩa tự do một mô hình tư bản chủ nghĩa lầm
lũi đi tới như một chiếc xe ủi đất đã cài đặt chương trình.
Tồn tại như một mô hình không có chủ thể như vậy, chủ nghĩa tư bản đã được bảo
vệ một cách hiệu nghiệm như chưa bao giờ có được: ngoài việc dùng chủ nghĩa phi
lý tính để khẳng định sự hiệu nghiệm kinh tế của một cơ chế mang lại tự do giả
định cho các cá nhân, lý luận của Hayek còn giúp cho chủ nghĩa tư bản chối bỏ
mọi trách nhiệm trước những tệ hại mà nó có thể gây ra. Với một guồng máy như
thế con người không biết làm gì hơn là khuất phục, có phản kháng thì mọi thứ
cũng sẽ rơi vào hư vô: không thể thay đổi được gì mà cũng chẳng phản kháng được
gì bởi vì ở đó mọi lời nói sẽ trở thành vô nghĩa, vô hiệu, ở đó không ai có đủ
lý trí để nói chuyện vớí nhau, mà giả sử như có thể cất tiếng thì cũng chỉ là
cuộc đối thoại với … một cục sắt thôi! Ý định chống đỡ cho một thứ trật tự xã
hội như vậy đã đẩy thế giới vào một tình thế cực đoan: ban cho con người một thứ
tự do hoàn toàn hình thức – dù sau này có tặng thêm cho nó cái gọi là “một mức
sống tối thiểu” như một nhân nhượng từ thiện
[17]
– để vĩnh viễn tước mất hết tính nhân loại của nó, làm cho nó trở nên một kẻ lạ
mặt với cái xã hội do chính nó tạo ra.
Xét về lâu dài và xét trên tổng quát, hệ thống lý luận
của Hayek không thể xem
là thật sự nghiêm chỉnh: nhiều lắm nó chỉ đưa ra một số lý lẽ phủ định
được
những chế độ có tính chất trại lính kiểu xôviết, vốn là một mô hình mạo
danh
“chủ nghĩa xã hội” đã được chỉ ra từ lâu, điều mà Hayek đã không cần
biết đến. Dựa vào những sai lầm hiển nhiên của thứ “chủ nghĩa xã hội”
đó để tiên đoán sự
sụp đổ của nó, Hayek đã cung cấp cho những người sùng bái ông ảo tưởng
về tính
chất hiệu nghiệm và phổ biến của những giải pháp do ông đề xuất để bảo
vệ nền
văn minh của loài người, quên hẳn rằng những giải pháp đó chỉ mang ý
nghĩa tình
thế, thường xuyên diễn ra trong sự chuyển động của xã hội như những
chuyển đổi
thay thế khi cần thiết, không hề có giá trị như một chọn lựa cuối cùng
cho chính
nền “văn minh” ấy. Nhất là khi những giải pháp đề xuất đã đi ngược lại
cái
truyền thống thông thường của lý trí, phủ nhận bừa bãi mọi vận động của
lý tính,
ở đây là những phê phán nhắm vào nền móng chế độ tư bản chứa đầy bất
toàn, những
phê phán đã làm cho chế độ ấy mất đi tính chất hoang dại vào thời ban sơ
của nó.
Xuất hiện ngay vào đầu thế kỷ 20, trước mọi xoay sở lúng túng của các ý thức hệ
bảo vệ chủ nghĩa tư bản rơi vào khủng hoảng, lý luận có tham vọng chống đỡ triệt
để cho chủ nghĩa tư bản ấy của Hayek luôn bị gạt ra khỏi dòng chính thống, chưa
lúc nào được thừa nhận như giải pháp phổ biến cho mọi trường phái thuộc chủ
nghĩa tự do: chỉ vào giai đoạn cuối đời, Hayek, gặp một số tình thế thuận lợi,
chưa hẳn có thể kéo dài, mới được
đề cao quá mức, cố ý bỏ qua rất nhiều khuyết điểm trong phương pháp tư biện của
ông, Nhưng đối chiếu với thực tế, đẩy các tiền đề lý luận đến những kết quả rốt
ráo của chúng, không ít những nhà nghiên cứu đã nhận ra những gì mà Hayek cố
gắng làm mới chủ nghĩa tự do về phương diện lý luận để củng cố chủ nghĩa tư bản
đã không mang đến điều gì khác hơn là đưa chủ nghĩa tư bản trở lại thời kỳ khởi
đầu hoang dại, được bổ sung thêm một tính chất tệ hại hơn nhiều lần nhờ những
đóng góp mới của ông: biến môi trường sống của con người thành một cấu trúc vô
minh, một guồng máy phi nhân tính ở đó con người trở thành công cụ của nó.[18]
Những sai lầm, mâu thuẫn trong hệ thống của Hayek, được nhiều nhà
nghiên cứu đưa ra như đã phân tích ở trên, chứng tỏ cái trật tự tự phát mà Hayek
coi là vừa hiệu nghiệm vừa đem đến tự do cho con người thực chất chỉ là một
“thiết kế” tạo ra bằng tư biện và lôgíc, là kết quả của một phương pháp suy lý
vượt lên trên hiện thực, thoát ly khỏi các điều kiện lịch sử. Điều quan trọng làm nên triết
học Hayek chính là tính chất ý thức hệ của nó và do vậy không tưởng cũng chính
là đặc trưng của nó. Như tất cả những hệ thống tự biện khác, chính tính chất
không tưởng đó đã tạo ra sức hấp dẫn cho lý luận của Hayek nhưng đồng thời cũng
lại là sự tự phủ định trước thực tế của lý luận ấy với tư cách là một hệ
thống: thứ chủ nghĩa tư bản mà những người sùng bái Hayek muốn đem vào thực tế để cứu vớt nền “văn minh” lâu đời của
nhân loại, cuối cùng vẫn chỉ là một thứ sơ đồ trừu tượng dẫn xuất từ cái chủ
nghĩa phi lý tính về nhận thức luận của người sáng tạo ra nó, chứ không phải là
cái gì khác.
LP
21.4.2008
Chú thích
[1]
Denis Boneau: “Friedrich von Hayek, pape de l’ultra- libéralisme”,
Voltairenet
[2]
Robert Nadeau: “Frederich Hayek et la théorie de l’esprit”, trong La
Philosophie autrichienne de Bolzano à Musil, Histoire et actualité,
collectif publié sous la dir. de Kevin Mulligan et Jean-Pierre Cometti,
Paris, Librairie Philosophique J. Vrin, 2001, p. 209-227.
[3]
Steven Horwitz: “From The Sensory Order to the Liberal Order: Hayek’s
Non-rationalist Liberalism”, Review of Austrian Economics, 13:
23-40 (2000).
[4] Ngoài
“non-rationalist”, có người sử dụng khái niệm “anti-rationaliste” để nói
về lý luận nhận thức xã hội của Hayek, nhưng theo tôi, khái niệm
“irrationaliste” (phi lý tính) có vẻ thích hợp hơn: chủ nghĩa phi lý
tính ( l’irrationalisme) chỉ thị những kinh nghiệm, những khả năng nhận
thức các hiện tượng, các thực thể, không phải bằng lý trí, không tuân
theo quy luật của lý trí, cho rằng những cách hiểu đó đích thực hơn, sâu
sắc hơn nhưng lại không thể diễn tả được, không giải thích được (Wikipédia). Từ đó có thể nói chủ nghĩa phi lý tính về xã hội của Hayek không
phải là cái hỗn loạn, cái phi lý (l’absurdité), cái trực giác, cái bất
khả tri… mà là cái trật tự hiện thực, phổ quát, tất yếu,
tự vận hành, tự thực hiện, không
thể nhận thức được bằng lý trí, không
cần nhận thức bằng lý trí.
[5]
Xem Gilles Dostaler: “Hayek et sa reconstruction du libéralisme”,
Wikiberal
[6]
Eric Oudin:”Hayek et Mandeville”,
Catallaxia
[7]
Alain de Benoist: “Contre Hayek”, Telos, Winter 98, Issue 110,
http://evans- experientialism.freewebspace.com/benoist.htm.
[8]
Jean-Pierre Dupuy: Éthique et philosophie de l’action, Ellipses,
Paris, 1999, Chương VIII “Friedrich Hayek ou la morale de l’économie” p. 259
[9]
Xem Đinh Tuấn Minh: “Sử dụng tri thức trong xã hội”, talawas 18.7.2006
(dịch và giới thiệu bài “The Use of Knowledge in Society” (1945) của
Hayek)
[10]
Không ít tác giả đã liệt Hayek vào hàng “Cánh hữu Mới” (Simon
Marginson), hoặc
gọi ông là “một người hùng của Cánh hữu” (Jesse Larner).
[11]
Ignorant, từ
mà Hayek hay dùng,
nghĩa là “không
hiểu biết”, cũng có thể diễn đạt bằng từ “ngu dốt” về phương diện tri
thức. Giống như từ “vô minh”( ở đây không theo nghĩa Phật giáo mà
chỉ nói đến thái độ chấp nhận trạng thái mờ đục của xã hội với con
người), từ “ngu dốt” có tính chất trung lập nói về nhận thức luận của
Hayek: cá nhân (và tập thể những cá nhân) là ngu dốt nhưng cơ chế tự
phát là sáng suốt, toàn tri (biết tất cả), sự toàn tri của cơ chế ấy chỉ
có thể tự biểu hiện được qua hành động của những cá nhân ngu dốt không
tự biết (để không can thiệp), cho nên tốt nhất với con người là nên sử
dụng cái lý trí cá nhân có được để chấp nhận mọi cái đã có, đã định hình
một cách vô điều kiện.
[12]
Jean-Pierre Dupuy: sđd, p. 288
[13]
Bài viết của Alain de Benoist: “Contre Hayek”, sđd, đã phân tích một
cách toàn diện những sai lầm , mâu thuẫn và nguỵ biện về mặt phương pháp
luận của Hayek (Xem “Chống Hayek”, Lữ
Phương dịch , viet-studies 31-3-2008 )
[14]
“Các loại công ích chính có thể cung cấp cho tất cả mọi người, không
phân biệt, theo Hayek là: chống bạo lực, dịch bệnh thiên tai, lụt lội,
động đất, hoả hoạn; phân lớn đường xá (trừ những đường phải đóng tiền),
một số dịch vụ đô thị; chuẩn mực hoá cân đo, cung cấp thông tin như địa
bạ, bản đồ, thống kê linh linh, chứng nhận chất lượng hàng hoá. Vấn đề ô
nhiễm môi trường được Hayek quan tâm và thừa nhận như là tác động bên
ngoài. (Gilles Dostaler: “ Hayek et sa reconstruction du libéralisme ”).
[15]
Nhiều tác giả đã so sánh Hayek với Marx và cho rằng giữa hai người đã có
rất nhiều điểm tương đồng! Đây là một nghịch lý khá thú vị, hy vọng có
dịp nào đó, có thể đề cập vấn đề này.
[16]
Pierre Rosanvallon: Le libéralisme économique, Éditions du Seuil,
Paris, 1999, “Penser le libéralisme”, p. 10.
[17]
“Bảo đảm cho mỗi cá nhân một mức nguồn lực tối thiểu, hay một kiểu mức
cơ bản mà dưới mức ấy không ai có nguy cơ rơi xuống cho dù không có khả
năng tự trang trải cuộc sống. Có thể xem đó không những chỉ là sự phòng
vệ hoàn toàn chính đáng chống lại một rủi ro chung cho mọi người, mà
còn là một yếu tố cần thiết của Xã hội mở rộng trong đó từ nay cá thể
không còn món nợ tinh thần nào đối với các thành viên của nhóm đặc biệt
trong đó mình sinh ra”. (Dẫn theo Gilles Dostaler: Le libéralisme de
Hayek – Paris, La Découverte, 2001, bản tiếng Việt:
Chủ nghĩa tự do của Hayek
do Nguyễn Đôn Phước dịch, NXB Tri Thức, Hà Nội, 2008,
tr.116). Người ta không biết khi
thực hiện chủ trương của Hayek không chấp nhận thuế luỹ tiến, chống công
bằng xã hội, nhà nước sẽ lấy tiền ở đâu để thực hiện công cuộc từ thiện
nói trên! Chẳng lẽ ghép quỹ từ thiện đó vào quỹ an ninh bảo vệ cơ chế
catallaxie!
[18]
“Đọc
Hayek là một niềm vui, mặc dù nỗ lực mà đôi lúc việc này đòi hỏi và sự
cáu giận tạo ra không tránh khỏi”.
(Gilles
Dostaler: như trên,
tr.172).
Một số tài liệu tham khảo
Sách:
Alan Ebenstein:
Friedrich Hayek, cuộc đời và sự nghiệp, Lê Anh Hùng dịch , Đinh
Tuấn Minh hiệu đính và giới thiệu, Nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội, 2007
Pierre Rosanvallon:
Le libéralisme économique, histoire de l'idée de marché,
Editions du seuil, Paris, 1989
Raymond Aron:
Essais sur les libertés, Calmann-Lévy, Paris, 1965
Gilles Dostaler:
Le libéralisme de Hayek, La Découverte, Paris 2001
(Chủ nghĩa tự do của Hayek,
Nguyễn Đôn Phước dịch, NXB Tri Thức, Hà Nội, 2008)
Francisco Vergara:
Les fondements philosophiques du libéralisme, La Découverte,
Paris, 2002 (Nguyễn Đôn Phước dịch, NXB
Tri Thức sắp xuất bản)
Jean-Pierre Dupuy:
Libéralisme et justice sociale, Calmann-Lévy, 1992
Milton Friedman:
Capitalism and Freedom, The University of Chicago Press, USA,
1971
Bài trên Internet:
Trần Hữu Dũng: “Nobel Kinh tế 2007”, giới thiệu sơ lược về “lý thuyết thiết kế cơ chế”
(mechanism design theory), Diễn Đàn 24-10-07
Trần Hải Hạc: “Cuộc
chơi WTO: Cách đặt vấn đề của J. E. Stiglitz »,
Thời đại mới
số 12 tháng 11/2007
Trần Hải Hạc:
“Keynes và kinh tế thị trường: hai cách đọc khác nhau” (II)., Thời
đại mới số 7, tháng 1/2002
Hoàng Ngọc Liêm: “Vài
nhận xét lý luận phi chính thống về các cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa
tư bản tân tự do”, Thời
Đại
số 6/2002
Đinh Tuấn Minh:
“ Thế kỷ Hayek”, talawas 19.7.2006
Đinh Tuấn Minh:
“Hayek và Việt Nam” (Lời giới thiệu cho cuốn Friedrich Hayek,
Cuộc đời và sự nghiệp của Alan Elbenstein, Lê Anh Hùng dịch, Nxb. Tri thức, Hà Nội, 6.2007)
Đinh Tuấn Minh:
dịch Hayek:
Chủ nghĩa cá nhân: Chân và Giả,
talawas 17.7.2006
Đinh Tuấn Minh
dịch Hayek: Sử dụng tri thức trong xã hội, talawas18.7.2006
Đinh Tuấn Minh
dịch Hayek: Giới trí thức và chủ nghĩa xã hội, talawas 3.11.2006
Phạm Minh Ngọc dịch Hayek: Đường về nô lệ , bản rút gọn cuốn The Road to
Serfdom của Reader’s digest, talawas 21.8.2007
Nguyễn Quang A dịch Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô (với lời giới thiệu
của
Milton Friedman), talawas 26-8-2005
Simon Marginson:
“They Make a Desolation and They Call It F.A. Hayek: Australian
Universities on the Brink of the Nelson Reforms”, Australian book
review, April 2004.
Steven Horwitz:
“From The Sensory Order to the Liberal Order: Hayek’s Non-rationalist
Liberalism”, Review of Austrian Economics, 13: 23-40 (2000)
Mark Pennington:
“Hayekian Political Economy and the Limits of Deliberative Democracy”,
Political Studies:
2003 Vol 51, 722-739
Mark Pennington:
“Hayek on socialism” www.politics.qmul.ac.uk/staff/pennington/Socialism.doc
-
Jacques Peltier:
“Hayek and Myrdal”,
Catallaxia.
Bruce Caldwell:
“Hayek and Socialism”, Journal of Economic Literature Vol. XXXV
(December 1997), pp. 1856-1890
Norman Barry:”The
Tradition of Spontaneous Order”,
Literature of
Liberty: A Review of Contemporary Liberal Thought
, vol. V, no. 2,
Summer 1982
Jesse Larner: “Who’s
Afraid of Friedrich Hayek? The Obvious Truths and Mystical Fallacies of
a Hero of the Right”, Dissent,
http://dissentmagazine.org/article/?article=992
Denis Boneau:
“Friedrich von Hayek, pape de l’ultra-libéralisme”,
http://www.voltairenet.org/auteur2144.html?lang=fr
Catallaxia:
“Entretien avec F.A. Hayek” (1977)
Gilles Dostaler:
“ Hayek et sa reconstruction du libéralisme ”
http://www.wikiberal.org/wiki/Friedrich_August_von_Hayek_(Litt%C3%A9rature_secondaire
Alain de Benoist:
“Contre Hayek”, Telos, Winter 98, Issue 110,
http://evans-experientialism.freewebspace.com/benoist.htm. Lữ Phương
dịch, viet-studies 31-3-2008
Eric Oudin:”Hayek
et Mandeville”, Catallaxia
l
Eric Oudin: “Le libéralisme intégral de Hayek”,
http://www.appep.net/libint.pdf
Robert Nadeau:
“Frederich Hayek et la théorie de l’esprit”, trong La Philosophie
autrichienne de Bolzano à Musil, Histoire et actualité, collectif
publié sous la dir. de Kevin Mulligan et Jean-Pierre Cometti, Paris,
Librairie Philosophique J. Vrin, 2001, p. 209-227.
Maurice Lagueux “Qu'est
ce que le néolibéralisme?”,
http://www.philo.umontreal.ca/textes/Lagueux_neoliberalisme.pdf
© Thời Đại Mới
0 nhận xét:
Đăng nhận xét