Hàng ngày các tin tức thuộc loại tiêu cực đã quá nhiều. Nhiều tới mức câu chuyện “người Việt thuộc loại chuộng dùng hàng ngoại nhất châu Á” do một tổ chức nghiên cứu quốc tế nêu lên, và vài tờ báo trong nước đăng lại... chẳng khiến mấy ai bận tâm.
Thế nhưng vẫn có những người nhắc tới. Đó là đám bạn mà tôi tạm gọi là mấy anh A. B. C. D.
Thoạt tiên anh B. muốn chứng minh rằng hiện tượng sùng ngoại quá phổ biến bởi những lý do chính đáng:
- Vừa rồi tôi với bà xã vào một cửa hàng kiếm một cái áo phông. Chọn ngay được một cái mặc rất hợp, đến lúc xem kỹ lại hóa ra hàng Tàu. Hơi ngán, mới cố lùng bằng được mấy cái hàng nội. Nhưng của mình cứ thế nào ấy, gò bó khó chịu, mà trông lại cũn cỡn, mặc vào đâm hèn cả người.
Anh C., vốn thích nghiên cứu tâm lý, thử khái quát:
- Nền sản xuất ở ta xuất phát từ mặt bằng quá thấp. Làm bừa làm ẩu đã thành cái nếp phổ biến. Hồi trước cả xã hội khép kín, hàng hóa không có buộc người ta phải dùng. Dùng một cách rẻ rúng, với một định kiến nặng nề. Nay có điều kiện là người ta bung ra thôi, ai còn phân biệt nội với ngoại gì nữa!
Anh C. đồng tình:
- Trong thâm tâm, mọi người đã đinh ninh rằng hàng mình không bao giờ bằng hàng người. Không ai bảo ai đều nghĩ tranh thủ mua lấy những thứ hàng ngoại nhập, cho biết mùi văn minh và hiện đại.
Mọi người có vẻ ngùi ngùi cảm động. Anh D. có tiếng là lắm sáng kiến:
- Vậy ta phải làm cuộc vận động. Vừa phải giáo dục quần chúng lòng tự tin dân tộc lại vừa phải giúp các cơ sở sản xuất nâng cao chất lượng để lấy lại uy tín.
Lúc này anh A. mới lên tiếng. Đúng hơn là anh cho chúng tôi một gáo nước lạnh:
- Các anh nói xong chưa, đến lượt tôi nhé. Điều tôi nhấn mạnh là căn bệnh này nay đã quá phổ biến và người ta dường như chỉ còn biết khoanh tay để mặc cho nó hoành hành. Tại sao? Đặt mình vào tình thế người đi mua xem, người dân có cái lý riêng của họ. Như anh B. nói, căn bản là hàng của ta làm kém quá.
Theo khảo sát của Grey Group, 77% người tiêu dùng Việt Nam khi được phỏng vấn đã nói rằng họ ưu chuộng các thương hiệu nước ngoài. Ảnh: Lê Toàn.
Hãy xét về lý, tức thử tính mối quan hệ giữa chi phí và hiệu quả. Mua hàng nội tưởng là rẻ lại hóa đắt, mua hàng ngoại tưởng đắt lại hóa rẻ. Bởi vậy, không có tiền thì thôi, chứ có tiền tôi mua hàng ngoại ngay. Trong việc chi tiêu, không thể có chuyện sĩ diện và tự trọng hão được.
Đừng có ảo tưởng mà nghĩ rằng trong hoàn cảnh hiện nay, cần kêu gọi dùng hàng nội để giúp cho các ngành sản xuất trong nước phát triển. Đấy là lý thuyết thôi, chứ thực tế thì... Nói thật nhé, tôi cam đoan chính cái cánh hay kêu gọi mình dùng hàng nội ấy, lại toàn xài hàng ngoại. Vào nhà họ mà xem, con cái họ ăn ở thế nào thì biết ngay.
Chả trách họ được. Chúng ta đã quá quen với chuyện nói một đằng, làm một nẻo. Nói vì có yêu cầu phải nói như vậy, còn làm thế nào thì tùy. Nếu đây đó người ta còn dùng lại cái chiêu bài chiếu cố hàng nội, chẳng qua chỉ vì lảng tránh không dám bước vào cuộc cạnh tranh chính đáng. Tức muốn bảo vệ cho sự lười biếng trì trệ.
Nói ra thì bảo ác, chứ tôi cho rằng phải để cho hàng của nhiều hãng bị ế, công ty của họ phá sản thì may ra họ mới chịu đổi mới.
Đến lúc ấy nghĩ lại, họ lại cảm ơn mình không biết chừng. Vì nhờ mình ghẻ lạnh mà họ nên người.
- Vậy hóa ra theo anh, dùng hàng ngoại là một cách thúc đẩy xã hội tiến bộ?
- Tôi không cực đoan đến mức ấy. Tôi chỉ muốn nói rằng phải xem xét sự vật từ nhiều góc độ, và đừng bị những thói quen cũ chi phối.
Câu chuyện tại sao người mình ưa dùng hàng ngoại của chúng tôi kết thúc ở đây, mà chẳng đi đến một kết luận nào cả. Người nói cuối cùng, người ghi nhận rằng đây là một tình thế bất khả kháng, thấy thuyết phục chúng tôi dễ dàng quá, tự nhiên cũng bị hẫng. Anh thủng thẳng nói với giọng buồn buồn:
- Tôi nhớ nhất là khi vợ con ốm, mình phải đi mua thuốc. Trên đường đi đã tự nhủ loại này nước mình làm được, mua hàng nội cho nó đúng cái tinh thần hiện đại, mà lại được tiếng là một người yêu nước. Nhưng cứ đến lúc cô bán hàng hỏi anh dùng loại nào là y như rằng cho tôi mấy viên của Pháp, của Mỹ nếu không thì Hàn Quốc cũng được. Vì chỉ sợ mua hàng nội về kém chất lượng, người ốm có khi lại ốm thêm.
Thói quen này đã như một thứ tứ chứng nan y rồi, người ta đã quen chung sống với nó và hoàn toàn vô cảm, coi như tự nhiên. Thi thoảng, có lúc tự đối diện với bản thân, thấy ngay là con người mình đã tha hóa và hèn yếu đi từ lúc nào rồi! Nhưng ai cũng thế, tách riêng mình ra sao được?!
0 nhận xét:
Đăng nhận xét