Nguyễn Vĩnh Châu & Vũ Ngự Chiêu
Bắc
Kinh và Hà Nội thường nói về tình “môi hở, răng lạnh,” hay “viện trợ
không kèm móc câu hay thòng lọng.” Thực tế, việc cắt đất cắt biển là
những lưỡi câu và thòng lọng mà dân tộc Việt đang và sẽ chịu đựng.
Tiếp theo phần I
NVC: Theo ông thì trong cuộc Cải Cách Ruộng Ðất, ông Hồ Chí Minh có trách nhiệm gì không?
Cải cách ruộng đất: đấu tố. Nguồn: Nguồn: © The Dmitri Baltermants Collection/CORBIS
VNC: Trước khi nói đến trách nhiệm của HCM hay Ðảng CSVN, cần
tìm hiểu rõ ràng về vai trò cải cách ruộng đât trong các xã hội nông
nghiệp, rồi đến trường hợp cá biệt Việt Nam.
A. Cải cách ruộng đất [CCRÐ] – tức làm sao có sự phân phối
ruộng đất hợp lý để nông dân có đất cày cấy – là điều quan tâm hàng đầu
của những nhà cai trị các xã hội nông nghiệp muốn dân giàu, nước mạnh.
Trong Ðường Kách Mệnh, HCM từng viết:
2. Tây đồn điền choán ruộng cách nào?
Nhiều cách.
Phần thì Tây đồn
điền cướp, phần thì các nhà thờ đạo chiếm. Các cố đạo chờ năm nào mất
mùa, đem tiền cho dân cày vay. Chúng nó bắt dân đem văn khế ruộng cầm
cho nó và ăn lời thật nặng. Vì lời nặng quá, đến mùa sau không trả nổi,
thì các cố xiết ruộng ấy đem làm ruộng nhà thờ.”[ 73]
3. Chính phủ Pháp đãi dân cày An Nam thế nào?
Tư bản Tây và
nhà thờ đã choán gần hết đất ruộng, còn giữ được miếng nào thì chính phủ
lại đánh thuế thật nặng, mỗi năm mỗi tăng.[ 73] 10 phần lấy mất một.[
p.73]
Mua rẻ nhân dịp dân phải đóng thuế; xuất cảng. Nó chở đi chừng nào, thì dân ta chết đói nhiều chừng ấy.
4. Bây giờ nên làm thế nào? phải tổ chức nhau để kiếm đường giải phóng.[ 74]
5. Cách tổ chức
dân cày thế nào?[ 74] Bất kỳ tiểu điền chủ trở xuống đều được vào; (trừ
đại địa chủ, mật thám, cố đạo, say mê rượu chè, cờ bạc và a phiến)[74]
Nông hội chống rượu chè, a-phiến khiến mất giống nòi.
Biết kách mệnh
tinh thần, kách mệnh kinh tế, thì kách mệnh chính trị cũng không xa.Từ
đầu thập niên 1930, cải cách ruộng đất, hay cách mạng thổ địa, là một
chiêu bài của Ðảng Cộng Sản Ðông Dương. Những khẩu hiệu như “Thanh trừ
trí phú địa hào, đào tận gốc, trốc tận ngọn” được nêu ra từ cuộc nổi dạy
1930-1931 tại Nghệ-Tĩnh và Nam Kỳ, và thống trị các tài liệu tuyên
truyền của Ðảng CSÐD cho tới năm 1935-1936. Lý luận Marxist-Leninist
phía sau chiêu bài sắt máu này là cuộc đấu tranh giai cấp giữa liên minh
nông-công chống lại và tiêu diệt giai tầng địa chủ phong kiến, nhằm thủ
tiêu hệ thống sản xuất cổ truyền, tiến tới việc xây dựng một xã hội
công bằng mà ai nấy đều được hưởng tương ứng với những gì mình sản xuất,
trên đường tiến đến xã hội Cộng Sản, ở đó ai nấy đều làm theo khả năng,
được hưởng theo nhu cầu.
Vì mục tiêu cuối cùng – tức xã hội cộng
sản, nơi nhà nước bị thăng hoa, chỉ có những người lao động sản xuất tự
quản lý công hữu–chưa đủ điều kiện chào đời, Ðảng Cộng Sản và liên minh
công-nông tiếp tục duy trì nhà nước chuyên chính vô sản, hay “dân chủ
tập trung,” thẳng tay tiêu diệt giai cấp địa chủ phong kiến, lấy đất
chia cho người nghèo, để họ tự làm chủ. Những nhà tiểu tư sản mới này sẽ
giúp tăng gia sản xuất lương thực, tạo nên thặng dư để góp vốn vào việc
công nghệ hóa nền kinh tế. Sự phát triển đồng thuận và song hành này sẽ
giúp đất nước sớm hiện đại hóa, nâng cao đời sống công nông, phát triển
nền văn hóa lành mạnh.
B. Ðấu tranh Giảm Tức, Giảm Tô
CCRĐ: đấu tố. Nguồn: © The Dmitri Baltermants Collection/CORBIS
Từ năm 1945, chính phủ Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hòa [VNDCCH] đã bắt đầu phát động chính sách đòi hỏi giảm tô (tức
giảm tiền thuê ruộng đất) và giảm tức (giảm tiền vay lãi), nhưng có nơi
thi hành, nơi không. Một trong những lý do chính là giai đoạn 1945-1946
còn có những nhu cầu và khó khăn, phức tạp cần giải quyết, liên hệ đến
chính sự sinh tồn của chế độ.
Từ đầu năm 1947 tới năm 1949, chính sách
nông thôn của Hồ chưa có thay đổi đáng kể, ngoại trừ những biện pháp
tận thu, giảm chi, trên nguyên tắc “chớ nên mị dân.” Tuy nhiên, chiến
thắng của Mao Trạch Ðông ở Hoa lục (1949) và sự thành hình của “giải
pháp Bảo Ðại” (1948-1949) khiến Hồ chẳng còn lựa chọn nào khác hơn trở
lại với khối tân Quốc tế Cộng Sản (Cominform), do Liên Sô Nga lãnh đạo.
Bên cạnh những chuẩn bị tái lập Ðảng Cộng Sản Ðông Dương (dưới tên mới
Ðảng Lao Ðộng Việt Nam từ năm 1949-1951), và do nhu cầu tăng gia thu
nhập cũng như củng cố sự yểm trợ của giới nông dân (bần cố nông và bần
nông), từ đầu năm 1949, BTV/TW Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mã Khắc Tư ra
Chỉ thị ngày 3/1/1949 cho các Khu ủy về sách lược vận động tranh đấu bắt
các địa chủ giảm tô 25% như chính phủ qui định. Mục tiêu lần này được
mở rộng tới các địa chủ “công giáo, và chỉ thị trên còn qui định việc
giảm tiền xin lễ, nhưng tránh không chạm đến tín ngưỡng.” (VKÐTT, 10,
2001:176-177)
Ðầu tháng 6/1949, BTV/TW lại gửi điện
ngày 1/6/1949 cho Liên khu [LK] IV về phong trào khuyến khích địa chủ
hiến đất. (VKÐTT, 10, 2001:241) Ngày 14/7/1949, HCM ký Sắc Lệnh Giảm Tô.
Ngày 14/10/1949, BTV/TW ra chỉ thị tạm cấp ruộng đất của Việt Gian cho
người nghèo. (VKÐTT, 10, 2001:299-303) Ngày 22/10/1949, BTV/TW chỉ thị
LK IV vận động giảm tô 25%. (VKÐTT, 10, 2001:307-308)
Ngày 18/11/1949, BTV/TW ra Thông tri về
việc chấn chỉnh tổ chức nông dân: Khéo léo đưa địa chủ ra khỏi Hội Nông
Dân Cứu Quốc bằng cách tổ chức vào những hội khác (Phụ lão, Liên Việt)
Thành phần BCH HNDCQ phải có bần cố nông, có người trẻ. Không nên có phú
nông; nếu có chỉ để làm vì. Ra sức tổ chức Hội nông dân trong vùng Công
Giáo. [Lê Văn Lương]. (VKÐTT, 10, 2001:314-315)
Ngày 5/7/1950,Trường Chinh đọc báo cáo
về chính sách nông thôn tại phiên họp mở rộng của Ban Kinh tế TW [5 tới
7/7/1950]. (VKÐTT, 11, 2001:591- 626) Ngày 17/7/1950: Ban Thường vụ TW
chỉ thị “hoàn thành giảm tô, thực hiện giảm tức.”
Tại Ðại hội tái lập Ðảng CS [Lao Ðộng]
vào tháng 2/1951, Tổng Bí thư Trường Chinh nhấn mạnh là CCRÐ chỉ nhắm
vào giảm tô, giảm tức. Ðịa chủ hiến đất đai. Kháng chiến thắng lợi sẽ
CCRÐ. [Ngày 16/4/1951 Hồ Viết Thắng được cử làm trưởng Tiểu ban Nông vận
(còn có Trương Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái, Trần Ðức Thịnh, Ca, Nông,
Di, Ðào). (VKÐTT, 12, 2001:526- 527)]
Ngày 22/4/1952, Hội nghị TW lần thứ ba
của ÐLÐVN [22 tới 28/4/1952] vẫn còn ra nghị quyết: “Trường kỳ kháng
chiến, tự lực cánh sinh.” (VKÐTT, 13, 2001:65- 75) Về chính sách ruộng
đất sẽ tập trung vào giảm tô, giảm tức, lôi kéo địa chủ; tịch thu ruộng
đất của Pháp và Việt gian cho dân cày nghèo. Chưa thủ tiêu bóc lột phong
kiến. ( VKÐTT)13, 2001:118- 128).
C. Chính thức phát động CCRÐ
Năm 1952, Mao Trạch Ðông mời Hồ Chí Minh
qua Bắc Kinh, ép phải cải cách ruộng đất. Ðồng thời thực hiện chỉnh
quân, chỉnh huấn. (Hoan, 1987:359-367). Ngày 15/8/1952, Ban Bí thư [BBT]
Ðảng LÐVN ra chỉ thị bổ sung chỉ thị 37 về chính sách ruộng đất: Từ nay
“Dựa vào bần cố nông, đoàn kết chặt chẽ với trung nông, liên minh với
phú nông, lôi kéo hoặc trung lập một số địa chủ, đánh đuổi đế quốc và
đại địa chủ phong kiến phản động.”(VKÐTT, 13, 2001:239) Ngày 25/11/1952,
BBT ra thông tri về việc điều tra nông thôn. (VKÐTT, 13, 2001:347- 360)
CCRĐ: đấu tố. Nguồn: Nguồn: © The Dmitri Baltermants Collection/CORBIS
Ðầu năm 1953, Trung Cộng cử Kiều Hiểu
Quang, Phó Bí thư Quảng Tây, phụ trách đoàn cố vấn cải cách ruộng
đất. (Theo Hoàng Tùng, La Quí Ba cũng ép Hồ phải đấu tố Nguyễn Thị Năm,
tức Cát Thành [Hanh] Long. “Mấy ngàn người bị xử tử.” (Tài liệu truyền
tay ký tên Hoàng Tùng. Hoàng Tùng phục vụ trong Ban Tuyên huấn của
Trường Chinh, nên có những thông tin đặc biệt. Theo tài liệu đã dẫn, HCM
rất bất mãn về áp lực của Bắc Kinh, nhưng không dám chống đối. Xem thêm
infra.)
16/4/1951: Nghị quyết ngày 16/4/1951 của
BCH/TW về việc thành lập các ban và tiểu ban giúp việc:Ban Tuyên huấn:
Trường Chinh, Phạm Tô, Tố Hữu, Trần Quang Huy, Hoàng Tùng, Xuân Thủy, Lê
Quang Ðạo, Nguyễn Chương, Nguyễn Khánh Toàn, Minh Tranh.
Ban Mặt Trận: Hoàng Quốc Việt, Thoại Sơn, Hồ Viết Thắng, Xuân Thủy, Trần Cung, Lê Thành Lập, Dương Bạch Mai.
Ban Kinh tế-Tài chính: Phạm Tô, Cù Vân,
Trần Ðăng Ninh, Hồ Viết Thắng, Lê Văn Hiến, Ðặng Việt Châu, Bùi Công
Trừng, Nguyễn Văn Tạo, Trần Danh Tuyên, Nguyễn Ðức Thụ.Tiểu ban Nông
vận: Hồ Viết Thắng, Trương Việt Hùng, Nguyễn Hữu Thái, Trần Ðức Thịnh,
Ca, Nông, Di, Ðào. (VKÐTT, 12, 2001:526- 527)
Cũng có nhân chứng cho rằng cuối tháng
3/1950, khi từ Bắc Kinh trở lại Tuyên Quang, Hồ tuyên bố với Ban Thường
vụ Trung ương Hội Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư (tức Ðảng CSÐD, đã
được bí mật tái khai sinh từ năm 1948-1949) là Stalin muốn làm cách mạng
thổ địa, và Hồ muốn làm cách mạng thổ địa với sự tiếp tay của TC. (Võ
Nguyên Giáp, CÐTVV, 2001:349-350) Một tài liệu TC ghi ngày 5/3/1953, khi
cùng HCM [dưỡng bệnh ở TH] rời Bắc Kinh về VN, Vi Quốc Thanh được HCM
kể lại những chi tiết về chuyến qua Mat-scơ-va cuối năm 1952, và ý định
thực hiện CMTÐ, theo lệnh Stalin. “Không thể đứng giữa một ngọn đòn sóc.
(Vu Hóa Thẩm [Vương Chấn Hoa], “Vi Quốc Thanh,” (Vu Hóa Thẩm, LQB,
2008:59)
D. Hội nghị kỳ 4 Ðảng LÐVN (25-30/1/1953)
Theo tài liệu chính thức của Ðảng Cộng
Sản Việt Nam, Hội nghị lần thứ tư Trung ương Ðảng LÐVN (25-30/1/1953) đã
quyết định tiến hành cải cách ruộng đất, tức phong trào đấu tố (rập
khuôn Trung Cộng).
Ngày 25/1/1953, HCM đọc báo cáo về tình
hình trước mắt và nhiệm vụ CCRÐ. Triệt để giảm tô, tiến tới CCRÐ. Theo
Hồ, từ 1945, đã thực hiện giảm tô, nhưng tới nay chưa đúng mức: có nơi
giảm, nơi chưa giảm. Nay phải triệt để thực hiện giảm tô. Phải phát động
quần chúng nông dân tự giác tự nguyện đứng ra đấu tranh triệt để giảm
tô giảm tức và giành lấy ưu thế chính trị ở nông thôn. Ðảng và chính phủ
phải lãnh đạo, tổ chức, giúp đỡ, kiểm tra. Sau đó sẽ cải cách ruộng
đất. Nông dân là nền tảng của vấn đề dân tộc, và cũng là nền tảng của
cách mạng dân chủ chống phong kiến, chống đế quốc. Muốn kháng chiến
thắng lợi phải nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân,
chia ruộng đất cho nông dân. CCRÐ sẽ giúp Ðảng LÐ Việt Nam giải quyết
nhiều vấn đề:
Về quân sự: Nông dân hăng hái tham gia bộ đội; đồng thời làm tan rã ngụy quân.
Về kinh tế-tài chính: nông dân đủ ăn đủ mặc, sẽ giúp phát triển công thương nghiệp, hăng hái đóng thuế nông nghiệp.
Về chính trị: Nông dân nắm ưu thế trong làng xã, “nhân dân dân chủ chuyên chính sẽ được thực hiện rộng khắp và chắc chắn.”
Về văn hóa: “có thực mới vực được đạo.” Nông dân no đủ sẽ phát triển văn hóa.
Những vấn đề như thương binh, công an nhân dân dễ giải quyết.
Về Mặt Trận Liên Việt: Nông dân sẽ chiếm đa số, cơ sở công nông liên minh vững chắc hơn.
Ðấu tranh triệt để giảm tô giảm tức làm đà cho CCRÐ.
E. Hồ nêu lên kinh nghiệm CCRÐ ở Trung Hoa
CCRĐ, đấu tố, bên Trung Hoa. Nguồn: OntheNet
Tới cuối năm 1952, đã hoàn thành CCRÐ,
chia đất cho nông dân. Hơn 500,000,000 nông dân được chia hơn 700 triệu
mẫu ruộng. Nông dân giữ lại được hơn 30 triệu tấn thóc địa tô. Hăng hái
tăng gia sản xuất: Năm 1950 lương thực tăng 20% so với năm 1949; năm
1952 tăng 40%. Thành phần xã hội thay đổi rất nhiều: trung nông tăng từ
20% tới 80%; bần nông giảm từ 70% xuống còn 10-20%. Về chính trị, chỉ
tại bốn khu Hoa Trung, Trung Nam, Tây Nam và Tây Bắc nông hội đã có hơn
88 triệu hội viên, trong đó hơn 30% là phụ nữ; 60% đến 80% nông dân tổ
chức thành những đội đổi công, hợp tác xã. Nông dân trở thành trụ cột
của chính quyền ở nông thôn; nhân dân dân chủ chuyên chính và công nông
liên minh trở nên vững chắc. Công nghệ và thương nghiệp mau phát triển;
văn hóa cũng lên vùn vụt. Hơn 49 triệu trẻ em nông dân được đi học. Vì
trình độ giác ngộ lên cao, phong trào chống tham ô lãng phí, quan liêu
và chống Mỹ, giúp Triều nông dân hăng hái tham gia. (HCMTT, 7:1953-1955,
1996:8-9.
Thực ra HCM không hoặc không muốn nói
đến thực trạng sắt máu của bài học CCRÐ Trung Hoa. Từ ngày 1/10/1949 tới
cuối tháng 8/1951, có tới 28,000 bị hành quyết tại Quảng Ðông. Trong
nửa năm đầu 1951, khoảng 800,000 phiên tòa xét xử phản cách mạng, và
135,000 người bị tử hình. Từ 1949 tới 1952, khoảng 2 triệu người bị hành
quyết. Hơn 2 triệu người khác bị gửi vào các trại cải tạo. ( Maurice
Meisner, Mao’s China, 1977:81).
Năm 1952, Mao và Ðảng CSTH đã khiến giai
cấp đại địa chủ ngừng hiện hữu, nhưng cả Mao lẫn Hồ, đều hiểu rằng CCRÐ
chưa phải là cách mạng XHCN. Theo lý luận Marxist-Leninism, đây mới chỉ
là giai đoạn “tư sản” [bourgeoisie] của cách mạng, hay cái gọi là “Tân
Dân Chủ” của Mao. Nói theo Marx, “chế độ Bonaparte [Pháp] là triều đại
của nông dân.”
Mục tiêu chính của Mao chỉ là: mở rộng
cơ sở ủng hộ; kiểm soát hành chính xuống các xã thôn; làm gia tăng mức
sản xuất nông phẩm. Bài diễn văn ngày 14/6/1950 của Liu Shaoqi [Lưu
Thiếu Kỳ] hầu như đã được phỏng dịch lại trong bản báo cáo của HCM: thực
hiện CCRÐ từng bước với sự thận trọng và biệt phân, trong khi lượng sản
xuất nông phẩm gia tăng; phải dựa vào bần và cố nông, liên minh với
trung nông, và vô hiệu hóa phú nôngHồ cũng không nhắc gì đến những con
sóng bạo lực và sự phẫn nộ của 20 triệu người Hoa bị “vạch thành phần”
là địa chủ, sự chống đối của họ [107- 108]. Bi thảm hơn nữa là dù CCRÐ
đã hoàn tất, tình trạng nghèo khổ của nông dân TH không thay đổi. Chỉ có
Ðảng CSTH đại thắng khi thay thế những kỳ hào cũ của các thôn xã bằng
những người trẻ trung hơn, giúp đẩy mạnh việc trung ương tập quyền cho
Ðảng và Trung Hoa Nhân Dân Cộng Hòa Quốc. Ðồng thời chuẩn bị cho bước
tái tổ chức kế tiếp, tức tập trung sản xuất [collectivation].Trường
Chinh báo cáo về mục đích, ý nghĩa, phương châm, phương pháp và kế hoạch
thực hiện CCRÐ. (VKÐTT, 14:30- 83.
Ngày 30/1/1953, ra Nghị Quyết “Thẳng tay phát động triệt để giảm tô.” (VKÐTT, 14:128- 132)
F. Ngày 5/2/1953, Trường Chinh ra chỉ thị về cách phổ biến Nghị Quyết của Hội nghị lần thứ tư BCHTW (khóa II)
Chỉ phổ biến CCRÐ tới cấp khu ủy và đại
đoàn ủy, nhưng tạm thời giữ bí mật thời điểm thực hiện. Cấp tỉnh ủy và
trung đoàn ủy chỉ nói giảm tô, tiến tới CCRÐ. Cấp dưới, không nói đến
CCRÐ, chỉ nói đến 5 công tác trong năm 1953. (VKÐTT, 14:136-137).
Trong khi đó, Hồ liên tục xuất hiện phát
động các kế hoạch rập khuôn Trung Cộng khác: Ngày 5/2/1953, HCM nói
chuyện trước Hội nghị nông vận và dân vận toàn quốc. Hôm sau, 6/2/1953,
HCM nói chuyện trước lớp chỉnh huấn cán bộ Ðảng, Dân, Chính ở cơ quan
TW. Hồ nhắc nhủ các cán bộ: “Ngồi giữa hai ghế thì nhất định sẽ ngã.”
Ngày 22/4/1953, Ban Bí thư ra chỉ thị
v/v 10 điều kỷ luật của cán bộ khi thi hành CCRÐ. Ngày 24/4/1953, Ban
CHTW ra Chỉ thị v/v phát động quần chúng trong năm 1953.
Chỉ thị của BCT ngày 4/5/1953 v/v Mấy
vấn đề đặc biệt trong phát động quần chúng trong năm 1953 phản ảnh khía
cạnh sắt máu của kế hoạch CCRÐ:
Trừng trị địa chủ phản động và gian ác
Mức thoái tô, dây dưa tiền công
Tước vũ khí của địa chủ [vụ đồn điền Vũ Ngọc Hoành]
Yêu cầu về trình độ tổ chức trong cuộc phát động quần chúng
Chỉ thị số 43/CT/TW của BCT ngày
10/6/1953 v/v Hướng dẫn công tác phát động quần chúng. (VKÐTT, 14:223-
234. Theo tin quân sự Pháp, thời gian này tại miền Bắc, Pháp chỉ kiểm
soát được 1,129 làng (trên tổng số 7,000 làng). (10H 282).
Phản ứng của dân chúng, và nhất là cán
bộ cực kỳ xúc động. Ngày 29/6/1953, Thông Tri của Ban Bí thư về vấn đề
tuyên truyền phát động quần chúng. ghi nhận “Ngay đến một số cán bộ lãnh
đạo chưa thấm nhuần đường lối của CP. Nhiều nơi, địa chủ và ngay cả phú
nông, trung nông tự tử.”( VKÐTT, 14: [tr. 246])
Ngày 3/7/1953, để trả lời những thắc mắc
như “có CCRÐ trong kháng chiến hay không?,” BCT khẳng định Hội nghị TW
lần thứ 4 (1/1953) đã quyết định CCRÐ trong kháng chiến.
G. Luật CCRÐ 19/12/1953
Trung tuần tháng 11/1953, tại Hội nghị
lần thứ 5 BCH/TW Ðảng LÐVN và Hội nghị Toàn quốc lần thứ nhất Ðảng LÐVN
(14-23/11/1953), kế hoạch CCRÐ được chính thức công bố. Bước kế tiếp chỉ
còn là việc của Quốc Hội. Ngày Thứ Ba, 1/12/1953, Quốc Hội VNDCCH họp
khóa thứ ba [tới 4/12/1953]. HCM tham dự. Ðọc báo cáo về tình hình thế
giới, kháng chiến và CCRÐ.
Trên mặt trận tuyên truyền, người ta chỉ
được giải thích là lấy ruộng đất của “địa chủ phong kiến, Việt Gian ác
ôn” chia cho người nghèo, với khẩu hiệu người cày có ruộng. Trên thực
tế, để tiêu diệt cái gọi là chế độ sản xuất phong kiến, chính phủ Hồ áp
dụng “công lý bần nông,” tức các phiên tòa đấu tố, bắt ép những người bị
qui [vạch] vào thành phần địa chủ, cường hào, ác ôn hay Việt Gian phải
nhận cả những tội lỗi họ chưa bao giờ vi phạm; rồi sau đó xử tử hình, hạ
tầng công tác hay tập trung cải tạo.
Ðợt thí nghiệm ở Thái Nguyên (dân số
10,781 người) từ tháng 12/1953 tới tháng 3/1954. Tịch thu, trưng thu,
trưng mua 2,609 mẫu cho 6,089 nông dân. (VKÐTT, 15:1954, p. 201).
Số nạn nhân của kế sách CCRÐ được ước lượng từ 15,000 tới 50,000 người. (Catton, 2002; Brocheux, 2003:225).
Cần nhấn mạnh, mục tiêu chiến lược của
CCRÐ vào thời gian này: bên cạnh quyết tâm “tiêu hủy giai cấp địa chủ
phong kiến,” nhắm mở rộng sự kiểm soát các làng xã, tiêu diệt khả năng
chống đối của địa chủ, gia tăng thu nhập lương thực và thuế, gia tăng số
người nhập ngũ và “dân công” phục vụ nhu cầu chiến trường (lên tới hơn
100,000 trong chiến dịch Ðiện Biên Phủ). Mãi tới sau đợt cải cách ruộng
đất thứ 5 vào mùa Xuân-Hè 1956–trong không khí chống đối, bất mãn khắp
nơi, kể cả biến cố nông dân Quỳnh Lưu nổi dạy, Võ Giáp phải mang quân
lính đến đánh dẹp–Hồ mới họp Hội nghị TWÐ lần thứ 10 (khóa II,
8-10/1956), nhìn nhận khuyết điểm, tự chỉ trích và phê bình; rồi tự mình
thay Trường Chinh làm Tổng Bí thư, và trừng phạt chiếu lệ những cán bộ
điều khiển chính sách cải cách ruộng đất. (TTLTQG 3 (Hà Nội) có một số
tư liệu của Kho Quốc Hội đã giải mật. Bộ Văn Kiện Ðảng Toàn Tập cũng in
lại khá đầy đủ những nghị quyết và chỉ thị cơ bản về chính sách CCRÐ của
Ðảng Cộng Sản từ năm 1949 tới 1957. Xem, Chính Ðạo, “Mặt Trận Nông
Thôn: Từ Cải Cách Ruộng Ðất tới Ấp Chiến Lược;” Cuộc Thánh Chiến Chống
Cộng, tập II (Houston: Văn Hóa, đang in).
HCM đã chịu áp lực của Bắc Kinh để thực
hiện việc cướp đoạt tập thể tài sản dân chúng này. nhưng qui trách cho
sai lầm của Trường Chinh, không phải do các cố vấn TQ. (Hoan,
1987:366-367)
Kết luận sơ khởi của chúng tôi là cuộc
cách mạng thổ địa vừa từ trên xuống (theo nghĩa do đảng LÐVN lãnh đạo,
phát động, tổ chức và kiểm soát) vừa từ dưới lên (bạo lực tự phát của
giới nông dân nghèo khổ, ao ước được chia đều phương tiện sản xuất, kể
cả đất đai) chỉ mới thành công về chính trị và quân sự hơn kinh tế và xã
hội hay văn hóa.
NVC: Trong vụ án “Nhân Văn-Giai Phẩm”, ông Hồ Chí Minh có trách nhiệm gì không?
VNC: Vụ án Nhân Văn-Giai Phẩm là
hậu quả đương nhiên của quyết định độc quyền cai trị bằng họng súng của
Ðảng CSVN. Là Chủ tịch Ðảng và Nhà Nước, HCM chịu trách nhiệm. Riêng với
HCM, đó còn là sự phản bội chính những đòi hỏi thuở trung niên của Hồ.
NVC: Còn về vụ thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế, ông Hồ Chí Minh có chịu trách nhiệm gì không?
VNC: Thời điểm này, HCM hầu như
không còn thực quyền. Lê Duẩn-Lê Ðức Thọ đã nắm hết quyền lực. Vấn đề
đặt ra là liệu những viên chức địa phương đã vượt qua chỉ thị vào tháng
1/1968 của Lê Duẩn? (Phá cho tan hậu cứ VNCH, tức các đô thị).
NVC: Hiện tại, nhiều đồng bào
trong nước cũng như hải ngoại rất quan tâm và bất bình về vấn đề mất
đất, mất các quần đảo do Trung Cộng chiếm đoạt. Vậy, theo ông thì ông Hồ
Chí Minh có trách nhiệm gì không?
VNC: Dĩ nhiên là có. HCM là người
cầm đầu Ðảng và Nhà Nước. Thư ngày 14/9/1958 của Phạm Văn Ðồng gửi Chu
Ân Lai – tự nguyện nhìn nhận biên giới do Trung Cộng tự vẽ, với những
dấu chấm ở vùng lãnh hải phía Nam – phải được sự phê chuẩn của HCM và Bộ
Chính Trị Ðảng Lao Ðộng Việt Nam như Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Văn
Hoan, Lê Ðức Thọ, v.v.
Bắc Kinh và Hà Nội thường nói về tình
“môi hở, răng lạnh,” hay “viện trợ không kèm móc câu hay thòng lọng.”
Thực tế, việc cắt đất cắt biển là những lưỡi câu và thòng lọng mà dân
tộc Việt đang và sẽ chịu đựng.
NVC: Qua những điều đã trình bày thì theo ông, Hồ Chí Minh đã để lại di sản gì cho Dân Tộc Việt Nam?
VNC: Một di sản buồn.
Ba mươi năm chiến tranh, hàng triệu
người chết và thương tật, sự tàn phá của làng mạc, ruộng vườn, đất đai.
Và mối hận thù khó nguôi của các giai tầng xã hội.
Một tương lai, mù sương, trong cuộc hành
trình vô định, đầy thử thách từ một xã hội nông nghiệp, nửa thực dân
nửa phong kiến đã chết, tới một thể chế chưa đủ khả năng chào đời.
Từ năm 1991 bắt đầu nhập cảng thứ lý
thuyết Marxist bị Hán hóa từ phương Bắc, và thay thế bảng hiệu “tư tưởng
Mao Trạch Ðông, lý luận Ðặng Tiểu Bình” bằng “tư tưởng Hồ Chí Minh.”
NVC: Nói tóm lại, theo ông thì Hồ Chí Minh có công hay có tội đối với dân tộc Việt Nam?
VNC: Có lẽ còn quá sớm để đánh giá HCM.
Vấn đề tùy thuộc ở những gì những người kế vị HCM sẽ thực hiện trong tương lai.
Houston, 1/2009
Posted in: Chính Trị,Nguyễn Ái Quốc
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét