Biên dịch: Đoàn Trương Hiên | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Lực lượng gìn giữ hòa bình đã được triển khai để bảo vệ người dân khỏi một chuỗi những cuộc xung đột vũ trang rắc rối và chồng chéo nhau giữa chính phủ trung ương ở Khartoum, các nước láng giềng, và các nhóm dân quân đối địch. Theo ngôn từ của một quan chức phụ trách viện trợ của phương Tây thì, Sudan “giống như là một cuộc loạn đả. An ninh đơn giản là không tồn tại nơi đây” (International Herald Tribune, 10 tháng 7, 2008, http://www.iht.com). Liên Hiệp Quốc ước tính rằng từ năm 2003 đến 2008, khoảng gần 300.000 người đã chết ở tỉnh Darfur vì xung đột chính trị, thiếu ăn, và bệnh tật, và khoảng 2,7 triệu người đã phải di tản đến các trại tị nạn. Theo một nhà ngoại giao có tiếng của Châu Phi, nếu chiến tranh tiếp tục leo thang, “cánh cửa địa ngục sẽ được mở ra” (trích từ Natsios 2008, 81).
Bảo vệ Sudan khỏi rơi vào vòng hỗn loạn khá phức tạp bởi bản chất đa chiều của xung đột. Một chiều là mâu thuẫn lâu đời giữa những người Hồi giáo Ả Rập thống trị về mặt chính trị sống ở miền Bắc thung lũng sông Nile và những người Thiên Chúa Giáo phi Ả Rập và những người theo thuyết duy linh có dân số lớn hơn sinh sống ở phía Nam. Sự thù địch giữa hai phía đã từng được dập tắt bởi một hiệp ước hòa bình năm 1972 nhưng lại trỗi lên 11 năm sau, làm cho 2,5 triệu người phương Nam thiệt mạng và khiến 4,6 triệu người mất nơi cư trú. Sau những cuộc đàm phán chậm chạp và khó khăn, một hiệp ước hòa bình mới ra đời năm 2005, dựa vào sự dàn xếp chia sẻ quyền lực chính trị giữa phíaĐảng Đại hội Dân tộc Ả Rập (NCP)và nhóm nổi dậy phía nam, Phong trào Giải phóng Dân tộc Sudan (SPLM). Thêm vào đó, một chính phủ bán tự trị của người Nam Sudan đã được thành lập trong 6 năm, sau đó, một cuộc trưng cầu ý dân diễn ra để xác định miền Nam có li khai hay không. Mặc dù đã có hiệp ước với nhau như vậy, các mối quan hệ giữa đảng NCP và SPLM vẫn căng thẳng liên quan đến tình trạng của tỉnh Abyei, một vùng giàu tài nguyên dầu lửa mà mỗi bên đều thèm muốn.
Chiều kích thứ hai của những xung đột chính trị đang tràn ngập Sudan là cuộc xung đột vũ trang giữa chính phủ trung ương thống trị bởi người Ả Rập, và những người nổi dậy Hồi Giáo da đen phi Ả Rập ở vùng Darfur nằm ở phía Tây, những người tìm kiếm một hiệp ước chia sẻ quyền lực với Khartoum tương tự như một hiệp ước đạt được bởi nhóm SPLM. Năm 2003, trong bối cảnh những căng thẳng dâng cao về vấn đề nguồn nước và quyền lợi đối với vùng đồng cỏ chăn thả gia súc của những người chăn thả gia súc Ả Rập trong vùng và những người nông dân da đen thuần nông, thì lại có hai nhóm nổi dậy, nhóm Quân đội Giải phóng Sudan (SLA) và Phong trào Công lý và Bình đẳng (JEM), bắt đầu tấn công các văn phòng của chính phủ và các trại lính. Khartoum đã đáp trả bằng một chiến dịch tàn bạo chống lại dân cư người Phi, do quân đội Sudan và các dân quân Janjaweed ủng hộ chính phủ tiến hành. Trong 5 năm sau đó, khoảng 2.700 ngôi làng đã bị phá hủy, dẫn đến việc tổng thống Omar al-Bashir bị gán tội diệt chủng bởi công tố viên trưởng của Tòa án Hình sự Quốc tế. Trong khi đó, những nhóm nổi dậy ở tỉnh Darfur đã vỡ ra thành khoảng hơn 20 bè phái cạnh tranh lẫn nhau, càng làm cho những nỗ lực chấm dứt cuộc chiến trở nên phức tạp hơn nữa.
Chiều kích thứ 3 của những xung đột tiếp diễn là chiến tranh ủy nhiệm giữa Sudan và Chad. Xích mích giữa hai quốc gia láng giềng này đã tăng cao trong vài năm trở lại đây bởi vì người tị nạn Darfur ùa qua biên giới Chad, và theo gót họ là dân quân Janjaweed. Mối quan hệ càng trở nên xấu đi nhanh chóng vào đầu năm 2008 khi mà chính quyền Sudan chống lưng cho những chiến binh du kích người Chad, những kẻ đã tấn công vào N’Djamena, thủ đô của Chad với âm mưu lật đổ chính quyền tổng thống Idriss Déby – một người thuộc bộ tộc Zaghawa vốn liên kết với thủ lĩnh của các nhóm nổi dậy Darfur. Chad trả đũa 3 tháng sau đó bằng cách hỗ trợ một cuộc phản công của Phong trào Công lý và Bình đẳng tới tận ngoại ô Khartoum. Các nhóm binh lính người Sudan, tới lượt họ, tấn công vào một đơn vị đồn trú gần biên giới của người Chad ở Ade, gây nên bầu không khí sợ hãi rằng chiến tranh lạnh giữa hai nước có thể leo thang thành một cuộc đối đầu quân sự.
Và chiều kích cuối cùng của bạo lực chính trị ở Sudan có thể có liên quan đến sự suy yếu dần của hiệp ước hòa bình năm 2006 giữa chính quyền trung ương và nhóm người Beja và người Rashida ở phía Đông. Được sự chống lưng của nước láng giềng Eritrea, một nhóm nổi dậy được biết với tên gọi Mặt trận Phía Đông đã tham gia vào những cuộc đụng độ lẻ tẻ với các nhóm quân đội chính phủ. Lo lắng bởi những vấn đề đa chiều mà Khartoum đang phải đối đối, nhà ngoại giao Anh Mark Malloch-Brown cảnh báo rằng Sudan có thể ở trên bờ vực của “một điểm tới hạn nguy hiểm, nơi mà đất nước sẽ có thể bị rơi tự do” (International Herald Tribune, 30 tháng 6, 2008, http://www.iht.com). Đúng như vậy, theo một đánh giá, Sudan đứng thứ 2 trên thế giới về mức độ dễ bị sụp đổ nhà nước (“Failed State Index” 2008, 67).
Trong quan hệ quốc tế, xung đột thường diễn ra khi mà các chủ thể trên vũ đài thế giới có những mâu thuẫn nảy sinh do có những lợi ích xung khắc nhau. Tuy nhiên, cái giá phải trả có thể trở nên lớn hơn nhiều nếu như những chủ thể xung đột này sử dụng vũ trang để giải quyết những khác biệt của họ. Hầu hết mọi người quan niệm xung đột vũ trang giống như một cuộc chiến tranh bình thường – một cuộc chiến tranh kéo dài giữa những đơn vị vũ trang thông thường của các quốc gia chủ quyền nhằm ép buộc đối thủ khuất phục. Nhưng như cuộc chiến Sudan minh họa, quan niệm này dường như quá hạn hẹp. Các phe tham chiến có thể bao gồm một tập hợp đa dạng các chủ thể quốc gia và phi quốc gia tiến hành chiến tranh thông qua những phương tiện truyền thống lẫn phi truyền thống. Chương này khám phá những thách thức mà các cuộc xung đột vũ trang đa chiều tạo ra trên chính trường quốc tế, phân tích đánh giá những xu hướng, nguyên nhân và hình thức đang thay đổi của chúng kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Các xu hướng của xung đột vũ trang
Trong suốt tiến trình lịch sử, chiến tranh gây ra những nỗi khổ cực không kể xiết của nhân loại. Theo một ước tính, trong khoảng 3.400 năm vừa qua, “con người chỉ có hòa bình hoàn toàn trong khoảng 268 năm, hay chỉ 8% thời gian lịch sử được ghi nhận lại” (Hedges 2003). Những nhà khoa học xã hội đã nỗ lực đo đạc mức độ thường xuyên của xung đột quân sự để biết được liệu mức độ bạo lực quốc tế có đang tăng, giảm, hay giữ nguyên qua thời gian. Các số liệu trong bảng 7.1 được chia ra theo số xung đột vũ trang trên toàn thế giới theo hai cách nhìn: cách thứ nhất nhìn vào những thay đổi theo thập niên kể từ năm 1400; cách thứ 2 nhìn gần hơn vào những năm sau 1950 bằng cách phân tích con số hàng năm của những cuộc xung đột vũ trang đang diễn ra. Những xu hướng này tiết lộ mức độ thường xuyên của những xung đột vũ trang đã tăng lên một cách đáng kể trong 300 năm vừa qua, với thế kỉ 20 đặc biệt bạo lực.
Một số mẫu hình xung đột vũ trang đã xuất hiện kể từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, gây nên những tác động cho tương lai toàn cầu. Tổng cộng 231 cuộc xung đột vũ trang đã diễn ra từ năm 1946 đến 2005. Mặc dù số lượng tử vong trung bình đã giảm trong 20 năm vừa qua, số quốc gia vướng vào xung đột lại nhiều hơn bao giờ hết trong 6 thập kỉ vừa qua (Hewitt, Wilkenfeld, và Gurr 2008). Vào đầu năm 2007, đã có 32 cuộc xung đột vũ trang diễn ra ở 23 nơi trên thế giới (Harbom và Wallensteen 2007, 632). Đằng sau những con số thống kê mức độ thường xuyên này là những xu hướng chung sau đây:
- Số lượng các quốc gia trên thế giới dính líu tới những cuộc chiến tranh liên quốc gia[1] đã giảm những năm gần đây
- Đặc biệt, những cuộc chiến giữa những cường quốc đã giảm; từ năm 1945 thế giới chứng kiến một giai đoạn hòa bình lâu dài – một giai đoạn kéo dài lâu nhất trong lịch sử thế giới hiện đại trong đó không có cuộc chiến nào xảy ra giữa những quốc gia mạnh nhất thế giới.
- Hầu hết các cuộc xung đột vũ trang hiện nay diễn ra ở Phương Nam, là nơi có nhiều quốc gia nhất, dân số đông nhất, nhưng thu nhập ít nhất và sở hữu những chính quyền kém ổn định nhất
- Đại đa số các cuộc xung đột vũ trang này là nội chiến[2]
(Vui lòng download file để xem hình)
Bảng số liệu 7: Số lượng trung bình các cuộc xung đột vũ trang diễn ra mỗi thập kỉ kể từ năm 1400Vấn đề càng phức tạp hơn khi các mối đe dọa an ninh cũ đã xuất hiện trở lại trong hình thức mới. Cướp biển được trang bị súng trường tấn công và súng phóng lựu đã sử dụng thuyền máy thể thao tốc độ cao để tấn công các tàu thương mại lớn ở một số tuyến đường biển quan trọng trên thế giới. Vì không đủ nguồn lực để tuần tra các vùng biển ven bờ nên các quốc gia Châu Phi như Somalia, Tanzania, và Nigeria không có khả năng ngăn chặn cướp biển cướp tàu và bắt cóc thủy thủ đoàn để đòi tiền chuộc. Theo Cục Hàng hải Quốc tế (International Maritime Bureau), trong thập kỉ vừa qua, đã có 3.200 người đi biển bị bắt cóc, 500 người bị thương, 160 người bị giết trong các cuộc tấn công của cướp biển trên thế giới (New York Times, 20 tháng 4, 2008, 12). Lo ngại những mối đe dọa an ninh phi truyền thống này, một số quốc gia và công ty đã quay ra tìm kiếm sự giúp đỡ từ lính đánh thuê và những nhà đầu tư để tiến hành các hoạt động vốn được các đơn vị vũ trang thông thường thực hiện trong quá khứ (Kibble 2004).
Hai bức hình mô tả sự thay đổi mức độ thường xuyên của các cuộc xung đột vũ trang
Xung đột vũ trang giữa các quốc gia đã tồn tại ngay từ khi các quốc gia chủ quyền xuất hiện, như xu hướng trong bảng bên trái chỉ ra – 2.566 cuộc chiến tranh đơn lẻ diễn ra ở mỗi thập kỉ kể từ năm 1400.
Nguồn: Bảng bên trái: Lấy từ “The characteristics of Violent Conflict since 1400 A.D.” của tác giả Peter Brecke. Được cho phép sử dụng. Bản quyền: Đại học Hamburg, trình bày trong Vital Sign 2006-2007, trang 83; Harbom và Wallensteen (2007, 62)
Những xu hướng như trên làm dấy lên những câu hỏi liên quan đến bản chất của chiến tranh đương đại. Tại sao những chủ thế quốc gia và phi quốc gia sử dụng đến bạo lực? Những nhân tố nào là nguyên nhân làm tăng khả năng xảy ra xung đột vũ trang? Chúng có tương tác với nhau qua một chuỗi các diễn biến không ngừng vốn dần xuất hiện qua thời gian hay không? Để tìm kiếm câu trả lời, hãy nghiên cứu một số những lí thuyết phổ biến nhất về nguồn gốc gây ra chiến tranh.
Nguyên nhân của xung đột vũ trang
Trong lịch sử, đã có nhiều nỗ lực để giải thích tại sao con người lại sử dụng bạo lực có tổ chức. Những kho dữ liệu tóm tắt nguồn gốc chiến tranh (xem Cashman 2000; Midalarsky 2000; Vasques 2000; Geller và Singer 1998) nhìn chung đồng ý rằng những hành vi thù địch bắt rễ từ nhiều nguồn phức tạp được tìm thấy ở nhiều cấp độ phân tích khác nhau. Một số là những nguyên nhân hầu như trực tiếp ảnh hưởng tới xác suất chiến tranh; một số khác lại là những nguyên nhân khá xa và không trực tiếp, tạo ra những điều kiện nền tảng có tính chất dễ gây bùng nổ chiến tranh, chính những điều kiện này sẽ kích hoạt một trong số những yếu tố trực tiếp thổi bùng bạo lực. Ba nguồn gốc gây ra chiến tranh được trích dẫn nhiều nhất có thể được chia thành 3 nhóm: (1) đặc điểm hiếu chiến tìm thấy ở con người; (2) những đặc tính quốc gia nguy hại sản sinh ra những quốc gia có xu hướng xung đột; và (3) cấu trúc không ổn định và các quá trình biến đổi nhanh chóng trong hệ thống quốc tế khuyến khích quân sự hóa những mâu thuẫn.
Cấp độ phân tích thứ nhất: bản chất con người
Theo một nghĩa nào đó, thì tất các cuộc chiến của các quốc gia bắt nguồn từ quyết định của những nhà lãnh đạo quốc gia, những người mà quyết định của họ sẽ quyết định cuối cùng việc xung đột vũ trang có diễn ra hay không (xem Chương 3). Do đó chúng ta phải bắt đầu tìm kiếm những nguyên nhân của chiến tranh từ cấp độ phân tích cá nhân, nơi mà những câu hỏi về bản chất của con người sẽ là trung tâm.
Chiến tranh liên tiếp bùng nổ đã dẫn đến việc một số nhà tâm lí học như Sigmund Freud (1968) kết luận rằng tính hiếu chiến vốn là một phần bản năng của bản chất con người xuất phát từ cấu trúc tâm lý và lập trình gen quy định. Khi xác định người tinh khôn là loài nguy hiểm nhất, các nhà nghiên cứu hành vi (những người nghiên cứu về hành vi của động vật để hiểu hành vi con người) như Konrad Lorenz (1963) đều đưa ra ý kiến tương tự nhau rằng loài người là một trong số ít những loài thực hiện hành động gây hấn trong nội bộ giống loài mình (thường giết lẫn nhau), trong khi hầu hết các sinh vật khác chỉ thực hiện gây hấn với các chủng loài khác (chỉ trừ những trường hợp bất thường nhất – như trường hợp ngoại lệ ở một số loại cá vùng nhiệt đới ăn thịt lẫn nhau). Robert Ardrey (1966) đưa ra “nhu cầu lãnh thổ” để giải thích lí do của bạo lực trong cùng chủng loài: Như hầu hết động vật, con người theo bản năng bảo vệ lãnh thổ mà họ tin là thuộc về mình. Các nhà nghiên cứu hành vi chủng loài trong tự nhiên cũng đưa ra những giải thích đồng tình với những nhà chính trị hiện thực – những người cho rằng ham muốn quyền lực là bẩm sinh và không thể nào biến mất. Một vài người trong số những nhà nghiên cứu hành vi này thậm chí còn áp dụng những tư tưởng của Charles Darwin về tiến hóa vào trong chính trị thế giới. Đối với những người được gọi là những nhà Darwin “xã hội” (social Darwinist), thì môi trường thế giới là một cuộc đấu tranh sinh tồn của loài nào mạnh nhất, nơi mà chọn lọc tự nhiên sẽ loại bỏ những đặc điểm cản trở cạnh tranh thành công.
Nhiều học giả đã đặt nghi vấn về những cách nhìn trên cả trên thực tiễn và logic. Nếu sự gây hấn là xu hướng thuộc về bản chất sâu bên trong bản ngã con người, vậy thì đáng ra tất cả mọi người đều phải biểu hiện hành vi này chứ? Hầu hết mọi người tất nhiên là không phải như vậy; họ từ chối giết chóc, xem giết chóc là xấu xa và không chấp nhận việc người khác giết người dù có lí do hay không. Ở một số mức độ cơ bản, theo Francis Fukuyama (1999; xem thêm Gazzaniga 2005), thì loài người được tạo nên cho sự đồng thuận chứ không phải cho xung đột: “Con người cảm thấy cực kì không thoải mái nếu họ sống trong xã hội mà không có những quy tắc đạo đức.” Thậm chí dù chấp nhận chọn lọc tự nhiên là một lí giải cho sự tiến hóa của con người thì cũng không cần thiết dẫn đến kết luận rằng sự gây hấn được quy định từ trong di truyền. Như James Q. Wilson (1993) đã lập luận, “nhận thức đạo đức phải có giá trị thích nghi; nếu không thì chọn lọc tự nhiên sẽ đã đào thải những người có những đặc điểm vô ích như đồng cảm, tự chủ, hay người có xu hướng mong muốn công bằng, trong khi làm lợi cho những người có khuynh hướng trái nghịch với họ.”
Hầu hết các nhà khoa học xã hội đều không đồng tình một cách mạnh mẽ với giả thuyết rằng con người tiến hành chiến tranh bởi sự thúc đẩy của bản năng có tính di truyền. Mặc dù mâu thuẫn giữa con người ở đâu đâu cũng có, nhiều bằng chứng ngành nhân chủng học đã chỉ ra rằng nhiều xã hội khác nhau đã cố tránh tuyệt đối tình trạng chiến tranh. Một số, như là người Semi ở Bán đảo Mã Lai đã thực hiện được điều này nhờ vào vào việc làm cho sự kiềm chế về mặt tâm lý trở thành bản chất bên trong con người; một số khác như người Mehinaku sống dọc sông Xingu của Brazil, đã làm được điều này nhờ vào những ràng buộc văn hóa – xã hội từ bên ngoài (Gregor và Robarcheck 1996). Vì những lí do trên, Tuyên bố Sevill 1986 được hơn 12 tổ chức học thuật chuyên nghiệp ủng hộ đã cho rằng “về mặt khoa học sẽ thật không đúng” nếu nói rằng “chúng ta thừa hưởng xu hướng gây chiến tranh từ tổ tiên động vật của chúng ta,” hoặc chiến tranh đã “được lập trình trong gen, trở thành bản chất của con người.”
Nếu những nguồn gốc của chiến tranh không nằm trong yếu tố bản năng căn bản, vậy có những yếu tố nào khác ở cấp độ phân tích cá nhân có thể làm tăng khả năng xung đột leo thang thành chiến tranh hay không? Ở Chương 3, chúng ta đã thấy làm cách nào mà những đặc tính, nhận thức, và niềm tin của những nhà lãnh đạo chính trị có thể, trong một số trường hợp, làm hỏng việc ra quyết định một cách lí trí, điều có thể dẫn đến hành vi không khoan nhượng thậm chí cả khi mà những khác biệt chính trị giữa các đối thủ có thể khắc phục được. Chắc chắn là một số xung đột vũ trang được những người châm ngòi thực hiện một cách có ý thức. Nhưng điều này không có nghĩa rằng chiến tranh là một sản phẩm của bản năng bạo lực đã ăn sâu của loài người. Ngược lại, một số nguồn gốc các cuộc chiến được truy ra từ những quá trình tâm lý của những là lãnh đạo cụ thể tại một số thời gian nhất định. Ví dụ như do phải chịu căng thẳng, các nhà lãnh đạo thường dễ nhạy cảm hơn với những hành động thù địch chống lại họ. Trong không khí khủng hoảng họ có xu hướng rút ra những bài học nông cạn từ quá khứ gần, thổi phồng ý nghĩa của những thành công gần đó và bỏ lơ thông tin đi ngược lại niềm tin của họ. Tin rằng đối thủ của họ có nhiều lựa chọn hơn họ có, họ nhìn nhận vũ lực như là một cách giải quyết vấn đề đơn giản nhất (Vasquez 1993, 205). Tuy nhiên, như vị tướng Phổ Karl von Clausewitz ở thế kỉ 18 đã nhấn mạnh, “chiến tranh là sự tiếp nối của chính sách bằng các phương tiện khác”. Là một công cụ của việc quản lí đất nước, chiến tranh không nên đem ra sử dụng mà không có những phân tích kĩ lưỡng về mục đích chính trị, các ảnh hưởng bên lề có thể diễn ra, và tác động về lâu dài. Một biểu hiện xa xưa cho cảnh báo này đó là, người Athens đã nói với người Sparta trước thềm cuộc chiến tranh Peloponese rằng sẽ là một sai lầm nếu đi đến chiến tranh sai cách, rằng cứ tiến hành chiến tranh rồi sau đó mới đi đến thảo luận về các phí tổn, những nguy cơ, và các đánh đổi (xem Áp dụng: Khi nào thì đáng tiến hành chiến tranh?)
ÁP DỤNG: Khi nào thì đáng tiến hành chiến tranh? |
Sáng sớm ngày 2 tháng 8, 1990, một hàng xe tăng T-72 của
lực lượng Vệ binh Cộng hòa tinh nhuệ của Iraq vượt qua biên giới phía
Nam của quốc gia giáp Kuwait và di chuyển nhanh trên đường cao tốc 6 làn
hướng đến thủ đô. Trong vài giờ, sự kháng cự cuộc xâm lược này hoàn
toàn thất bại. Saddam Hussein, lãnh đạo người Iraq, người đã chỉ huy
cuộc tấn công tuyên bố rằng tiểu vương quốc Ả Rập nhỏ bé và giàu dầu mỏ
này sẽ được sáp nhập. Nếu Hussein tiếp tục sau đó một cuộc xâm chiếm nữa
vào Ả Rập Saudi, thì ông ta sẽ nắm trong tay gần như một nửa lượng dầu
dự trữ trên thế giới.Trong đoạn văn sau, tướng Colin Powell, lúc đó là
chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ, trong một cuộc họp của
Hội đồng An ninh Quốc gia triệu tập bởi tổng thống H. W. Bush để thảo
luận về việc Mỹ nên có động thái gì trước mối đe dọa tiềm tàng từ phía
Iraq đối với Ả Rập Saudi. Lặp lại Clausewitz, ông yêu cầu nhóm họp đánh
giá về giá trị chiến lược của một cuộc chiến với Iraq trước khi tập
trung vào vấn đề hậu cần và chiến thuật.
[Bộ trưởng bộ quốc phòng] Cheney quay qua bảo tôi đánh giá các lựa
chọn quân sự. Một lần nữa, tôi trình bày kế hoạch bảo vệ Ả Rập Saudi.
Tôi miêu tả những đơn vị có thể đưa tới vùng Vịnh một cách gấp rút. Tôi
khá chắc chắn rằng người Iraq vẫn chưa quyết định tấn công vào Ả Rập
Saudi. Tôi cũng tự tin rằng họ sẽ không thích thú việc có một cuộc chiến
với nước Mỹ. “Nhưng điều quan trọng là”, tôi nói, “cắm lá cờ Mỹ trên sa
mạc Saudi càng sớm càng tốt, nếu chúng ta có được sự đồng ý của họ.”
Chúng ta không muốn việc chúng ta không hành động sẽ làm cho Saddam càng
lấn tới. … Và sau đó tôi đưa ra câu hỏi liệu việc đi đến chiến tranh có là cần thiết để giải phóng Kuwait hay không. Đó là một câu hỏi kiểu Clausewitz mà tôi đưa ra để quân đội biết cần phải chuẩn bị những gì nếu phải đi đến chiến tranh. Tôi phát hiện thấy sự trầm lặng bao trùm căn phòng. Câu hỏi … đáng lí ra không nên được khơi ra từ tôi. Tôi đã đi quá giới hạn quy định. Tôi đang không phải là Cố vấn An ninh Quốc gia; Mọi người trông chờ tôi đưa ra những lời khuyên về quân sự mà thôi. Tuy nhiên, … với vị trí nghề nghiệp một sĩ quan cấp trung, tôi đã khiếp sợ trước sự nhu nhược của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân, tham chiến ở Việt Nam mà không hề thúc ép các vị lãnh đạo chính trị đưa ra những mục đích cụ thể cho họ. Trước khi bắt đầu nói về việc cần bao nhiêu sư đoàn, phương tiện chuyên chở, và các cánh tấn công cần thiết, tôi nói rằng phải thảo luận về cái kết cục chúng ta muốn đạt được như thế nào? … [Sau đó] Cheney nhắc lại cuộc họp trước đó với Tổng Thống. “Colin,” anh ta nói. “ông là Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân. Ông không phải là Ngoại trưởng. Ông cũng không phải là Cố vấn An ninh Quốc gia nữa. Và cũng không phải là Bộ trưởng Quốc phòng. Nên ông hãy tập trung vào vấn đề quân sự.” …Tuy nhiên, tôi không cảm thấy hối tiếc vì đã nói toạc ra ý kiến của mình tại Nhà Trắng. Những gì tôi đã nói về việc những mục tiêu quân sự rõ ràng cần phải được đề cập tới cần phải được nói ra (Powell 1995, 464 – 466) Vào ngày 7 tháng 8, Ả Rập Saudi đề nghị sự giúp đỡ từ phía Mỹ để chặn đứng một cuộc tấn công mà Iraq có thể tiến hành và ngày sau đó Tổng Thống Bush ra lệnh triển khai binh lính Mỹ tới Vịnh Péc-xích. Vào tháng 11, Nghị quyết số 678 của Liên Hiệp Quốc thông qua việc cho phép các quốc gia thành viên sử dụng tất cả các hành động cần thiết để đánh bật Iraq ra khỏi Kuwait. Ngày 17 tháng 1 năm 1991, Mỹ bắt đầu một cuộc không kích mạnh mẽ vào các vị trí của quân Iraq, tiếp tục vài tuần sau đó là một cuộc tấn công trên bộ. Kuwait đã được giải phóng vào 26 tháng 2. Hai ngày sau, tổng thống chấm dứt các hoạt động tấn công quân sự. Đó là một chiến thắng quân sự rất ấn tượng. Tuy nhiên, ít người nghĩ về việc phân tích những hậu quả chiến lược lâu dài của Iraq hậu chiến vốn vẫn nằm dưới sự trị vì của Saddam Hussein |
Có phải các kiểu quốc gia khác nhau sẽ có mức độ liên quan đến chiến tranh khác nhau? Kiến thức thông thường sẽ chỉ ra rằng sự khác biệt về địa lí, văn hóa, xã hội, kinh tế và thể chế chính quyền quốc gia ảnh hưởng đến việc các vị lãnh đạo của họ có khơi mào chiến tranh hay không. Để đánh giá tuyên bố này, chúng ta cần phải xem xét những nghiên cứu về những yếu tố nội tại quốc gia ảnh hưởng đến lựa chọn liên quan đến sử dụng vũ lực của các nhà lãnh đạo.
Vị trí địa lý. Các nguồn tài nguyên thiên nhiên, các tuyến đường vận tải, biên giới chiến lược và một số yếu tố khác liên quan đến lãnh thổ quốc gia đã từ lâu được nhìn nhận như những nguồn gốc quan trọng trong những va chạm quốc tế. Theo sau sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh, những cuộc cạnh tranh về quyền tiếp cận những hàng hóa giá trị, từ nguồn dầu lửa cho đến nước, “đã sản sinh ra một kiểu xung đột mới do địa lí, một bản đồ địa lí phải vẽ lại mà trong đó những dòng chảy tài nguyên chứ không phải những phân tách chính trị và tư tưởng cấu thành nên những đường đứt gãy chủ yếu” (Klare 2001; và Flint 2004)). Những vấn đề lãnh thổ có thể được xem như những nguyên nhân sâu xa và nền tảng gây ra chiến tranh. Điều này để nói rằng, tùy vào việc những vấn đề đó được giải quyết như thế nào, chúng có thể chúng sẽ tạo ra một chuỗi các sự kiện làm tăng khả năng xảy ra chiến tranh. Các nhà nghiên cứu đã tìm ra rằng các quốc gia kề nhau chứ không phải những quốc gia có khoảng cách địa lí xa nhau có những tranh chấp leo thang thành chiến tranh quy mô toàn diện (Gibler 2007), đặc biệt là khi chúng có liên quan đến vấn đề lãnh thổ. Hơn nữa, các quốc gia có liên quan đến những tranh chấp lãnh thổ có xu hướng sẽ phải trải nghiệm những xung đột lặp đi lặp lại (Hensel 2000).
Những nhân tố chính trị cũng ảnh hưởng đến viễn cảnh xảy ra nội chiến. Ví dụ, những quốc gia nhiều núi có những vùng sâu vùng xa ít dân số, được nhận thấy là những quốc gia phải đối mặt với nguy cơ nhiều cuộc nổi loạn hơn, khi mà những nguồn tài nguyên thiên nhiên giá trị được khám phá ra, bởi vì người dân sống ở những vùng như vậy bỗng nhiên có một động lực vô cùng lớn để ly khai. Thêm nữa, những cuộc nổi dậy có thể có được nguồn tiền từ việc buôn bán những nguồn tài nguyên đó để duy trì tài chính cho việc hoạt động (Collier 2005).
Cuối cùng, địa lý ảnh hưởng đến nội chiến thông qua ảnh hưởng của láng giềng. Khả năng xảy ra sự bất ổn chính trị trong nước tăng lên khi mà nước láng giềng đang xảy ra xung đột vũ trang, đặc biệt là khi có những mối quan hệ sắc tộc với những nhóm tham gia vào xung đột đó (Buhaug và Gledtsch 2008).
Áp lực dân số. Một số những nhân tố dân số góp phần vào việc nổ ra xung đột vụ trang. Bản đồ 7.1 chỉ ra rằng nguy cơ nội chiến là lớn nhất ở những quốc gia mà các động lực dân số ảnh hưởng mạnh tới điều kiện sống.
(Vui lòng download file để xem hình)
Bản đồ 7.1 Áp lực dân số và khả năng xảy ra nội chiếnCó ảnh hưởng một cách đặc biệt là sự hiện diện của một phần tỉ lệ lớn của nam giới trẻ, thất nghiệp trong dân số (Urdal 2006). “Các nước có tỉ lệ người trưởng thành dưới 30 tuổi cao thì thường có khả năng xảy ra những xung đột nội bộ gấp 2,5 lần so với những quốc gia có tỉ lệ người lớn tuổi cao hơn trong dân số” (Cincotta và Engleman 2004, 18).
Khả năng xảy ra nội chiến tăng đột ngột khi mà một số lượng lớn thanh thiếu niên thất nghiệp tập trung trong các thành phố. Bản đồ này chỉ ra những quốc gia có những áp lực dân số sẽ làm tăng khả năng diễn ra nội chiến trong một vài năm tiếp theo.
Nguồn: The Security Demographic (Washington, DC: Population Action International, 2003), trang 71.
Các giá trị văn hóa. Hành vi con người bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi văn hóa. Một số quốc gia đề cao văn hóa chính trị để khuyến khích công dân chấp nhận bất cứ thứ gì mà người lãnh đạo tuyên bố là cần thiết cho an ninh quốc gia, bao gồm cả việc sử dụng vũ lực quân sự để giải quyết những bất đồng quốc tế. Mối hiểm họa chiến tranh tăng lên bất cứ khi mà những giá trị ủng hộ chủ nghĩa bài ngoại[4] và sự phục tùng mù quáng được chấp thuận rộng rãi.
Chủ nghĩa dân tộc có thể trở thành một cái vạc mà trong đó sôi sục những giá trị tự ca tụng chính mình và phỉ báng những người khác (Van Evera 1994). “Khuynh hướng đại đa số tập trung sự trung thành tối cao của họ cho quốc gia – dân tộc,” Jack Levy (1989a) giải thích, là một chất xúc tác mạnh mẽ cho chiến tranh. Khi người dân “có một sự cam kết mãnh liệt với quyền lực và thịnh vượng quốc gia [và] cam kết này được tăng cường bởi những huyền thoại nhấn mạnh sức mạnh đạo đức, của cải, và chính trị của quốc gia, và bởi cảm giác bất lực của các cá nhân, dẫn tới xu hướng họ phải tìm kiếm bản sắc và sự toại nguyện thông qua quốc gia thì … chủ nghĩa dân tộc lúc này góp phần tạo nên chiến tranh.”
Mối liên hệ giữa chủ nghĩa dân tộc và chiến tranh đã tồn tại từ lâu và đã gây nên nhiều tranh cãi (xem Tranh luận: Lòng ái quốc có gây ra chiến tranh với các các quốc gia khác hay không?). Những người phê phán chủ nghĩa dân tộc đã rất lớn tiếng trong thế kỷ qua. Nhà văn người Anh Aldous Huxley đã từng gọi chủ nghĩa dân tộc là “tôn giáo của thế kỷ 20”. Ngày nay các tình cảm dân tộc chủ nghĩa vẫn còn mạnh mẽ ở nhiều nơi trên thế giới, và tiếp tục kích động bạo lực ở những nơi chưa có địa vị quốc gia, muốn xây dựng các nhà nước độc lập cho riêng mình.
Dù không phủ nhận sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, nhưng thuyết vị nữ chỉ ra một tập hợp các giá trị văn hóa khác có thể dẫn đến chiến tranh. Như đã chỉ ra ở Chương 2, một số người theo thuyết vị nữ tin rằng sự gây hấn bắt nguồn từ các đặc tính nam tính, khiến con người chấp nhận chiến tranh và xem trọng các chiến binh như anh hùng (đặc biệt xem trong Enloe 2000 và Tickner 2002). Họ lập luận rằng việc tung hô các vai trò nhất định của giới tính và gạt ra bên lề những người khác góp phần làm quân sự hóa xã hội. Thiên hướng hướng tới chiến tranh không phải sản sinh ra trong chân không, nó được xã hội hóa[5] sản sinh ra. Khi các thể chế xã hội hùng mạnh thúc đẩy các giá trị chấp nhận bạo lực có tổ chức, tranh chấp bên trong và giữa các quốc gia có nhiều khả năng được giải quyết thông qua vũ lực hơn là các thủ tục hoà giải (Lind 1993). Hơn nữa, như các học giả vị nữ khẳng định, xung đột nội bộ phổ biến hơn khi các chuẩn mực văn hóa lờ đi sự đàn áp giới tính (Caprioli 2005; Melander 2005).
Các điều kiện kinh tế
Các thể chế chính trị
————-
[1] Interstate war: xung đột vũ trang kéo dài giữa hai hay nhiều quốc gia chủ quyền
[2] Civil war: xung đột vũ trang bên trong quốc gia giữa chính phủ trung ương với một hoặc nhiều nhóm nổi dậy, thường được gọi là nội chiến.
[3] Internationalized civil war: một cuộc xung đột vũ trang giữa chính truyền trung ương của một quốc gia với những kẻ nội dậy có sự can thiệp của bên ngoài, và những kẻ này được trợ giúp bởi ít nhất một quốc gia.
[4] Xenophobia: sự sợ hãi đối với người ngoại quốc.
[5] Socialization: các quá trình mà con người học hỏi những niềm tin, giá trị và hành vi có thể chấp nhận được trong một xã hội nhất định.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét