Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Bảy, 9 tháng 7, 2016

Toàn văn diễn văn của Tổng thống Obama tại trung tâm hội nghị quốc gia Mỹ Đình

Bản dịch của Ban Tin Tức/SBTN, đã được Phạm Nguyên Trường nhuận sắc.
Xin chào ! Xin chào Việt Nam !



Cám ơn các bạn. Cám ơn các bạn rất nhiều. Cám ơn chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón và tiếp đãi nồng nhiệt trong chuyến thăm này. Và cám ơn các bạn có mặt ở đây ngày hôm nay. Chúng ta có những người Việt Nam đến từ khắp đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.

Trong chuyến thăm này, tôi thật sự xúc động vì lòng tử tế của người Việt Nam, người Việt Nam vốn nổi tiếng là vì như thế. Tôi cảm nhận được tình bạn giữa hai dân tộc chúng ta trong những người đứng hai bên đường phố, mỉm cười và vẫy tay chào tôi. Đêm hôm qua, tôi đến thăm Phố Cổ Hà Nội và đã dùng vài món ăn nổi tiếng của Việt Nam. Tôi đã ăn thử bún chả. Uống vài chai bia Hà Nội. Nhưng tôi phải nói, những con đường đông đúc của thành phố này, tôi chưa bao giờ trông thấy nhiều xe máy như thế. Tôi chưa thử đi qua đường, nhưng có lẽ khi tôi trở lại, các bạn có thể chỉ cho tôi cách đi qua đường.
Tôi không phải là tổng thống Mỹ đầu tiên đến Việt Nam trong thời gian gần đây. Nhưng tôi là tổng thống đầu tiên, như rất nhiều người trong các bạn, đã trưởng thành sau cuộc chiến giữa hai nước của chúng ta. Khi những người lính Hoa Kỳ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, tôi mới 13 tuổi. Vì vậy, lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với Việt Nam và người Việt, là khi tôi đang ở tuổi trưởng thành ở Hawaii, cùng với cộng đồng người Mỹ gốc Việt đầy tự hào ở đó.

Cũng trong thời gian đó, nhiều người ở đất nước này trẻ hơn tôi rất nhiều. Giống như hai cô con gái tôi, nhiều người trong các bạn đã sống cả đời mình chỉ biết có một điều – đó là hòa bình và các quan hệ đã được bình thường hóa giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Do đó, tôi đến đây với ý thức về quá khứ, với ý thức về lịch sử khó khăn của chúng ta, nhưng hướng tới tương lai – sự thịnh vượng, an ninh và nhân phẩm mà chúng ta có thể cùng nhau thúc đẩy.

Tôi cũng đến đây với lòng tôn trọng sâu sắc đối với những di sản cổ xưa của Việt Nam. Trong suốt hàng ngàn năm, những người nông dân đã trồng cấy trên những mảnh đất này –những chiếc trống Đông Sơn đã cho chúng ta biết lịch sử như thế. Tại khúc quanh này của dòng sông, Hà Nội đã đứng vững trong hơn một ngàn năm. Thế giới yêu chuộng lụa và tranh Việt Nam, và Văn Miếu đồ sộ là nhân chứng cho tinh thần hiếu học của các bạn. Mặc dù vậy, trong suốt hàng trăm năm, vận mệnh của các bạn thường bị những nước khác quyết định. Đất nước yêu quý của các bạn không phải lúc nào cũng thuộc về các bạn. Nhưng như cây tre, tinh thần quật cường của dân tộc Việt đã được Lý Thường Kiệt thể hiện: “Sông núi nước Nam vua Nam ở. Rành rành đã định tại Sách Trời.”

Hôm nay, chúng ta cũng ôn lại giai đoạn lịch sử kéo dài hơn giữa người Việt và người Mỹ, nhưng lại thường xuyên bị bỏ qua. Hơn 200 năm trước, khi Tổ Phụ Lập Quốc của chúng tôi, Thomas Jefferson, tìm giống lúa cho trang trại của mình, ông đã tìm gạo Việt Nam, mà ông nói là “nổi tiếng vì nhìn thì trắng nhất, ăn thì thơm ngon nhất, và có năng suất cao nhất.” Chẳng bao lâu sau, những thương thuyền Mỹ đã đến các hải cảng của các bạn để mua và bán.

Trong Thế chiến II, người Mỹ đã đến đây để hỗ trợ cuộc kháng chiến của các bạn nhằm chống lại ách chiếm đóng. Khi những phi công Mỹ bị bắn rơi, người dân Việt Nam đã giúp giải cứu họ. Và trong ngày Việt Nam tuyên bố độc lập, nhiều người ở thành phố này đã đổ ra đường, và Hồ Chí Minh đã nhắc tới Tuyên Ngôn Độc Lập Mỹ. Ông nói, “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền bất khả tương nhượng; trong đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”

Trong một thời đại khác, việc tuyên xưng những lý tưởng mà chúng ta cùng nhau chia sẻ đó và câu chuyện chung về việc lật đổ chủ nghĩa thực dân có lẽ đã đưa chúng ta xích lại gần nhau sớm hơn nữa. Nhưng không những thế, những cuộc đối đầu trong Chiến tranh Lạnh và sự sợ hãi chủ nghĩa cộng sản đã lôi chúng ta vào cuộc xung đột. Tương tự như những cuộc xung đột khác trong suốt lịch sử loài người, một lần nữa, chúng ta biết rõ hơn một sự thật cay đắng – rằng chiến tranh, không phụ thuộc vào ý định của chúng ta, chỉ mang đến đau khổ và bi kịch.

Tại đài tưởng niệm chiến tranh cách đây không xa, và với mỗi bàn thờ trong từng gia đình trên khắp đất nước này, các bạn đang tưởng nhớ khoảng 3 triệu người Việt, binh sỹ và thường dân, ở cả hai bên, đã thiệt mạng. Tại bức tường tưởng niệm của chúng tôi ở Washington, chúng tôi có thể chạm vào tên của 58.315 người Mỹ đã bỏ mình trong cuộc xung đột đó. Ở cả hai đất nước của chúng ta, các cựu chiến binh và gia đình những người đã ngã xuống vẫn còn đau đớn vì bạn bè và người thân đã mất. Cũng như chúng tôi ở nước Mỹ đã nhận thức được rằng, ngay cả khi chúng tôi bất đồng về cuộc chiến, chúng tôi vẫn luôn phải vinh danh những người đã chiến đấu và chào đón họ trở về với sự trân trọng mà họ xứng đáng được hưởng, ngày hôm nay, chúng ta, người Việt và người Mỹ, có thể đến với nhau và thừa nhận nỗi đau và những hy sinh của cả hai bên.

Gần đây hơn, trong hai thập kỷ qua, Việt Nam đạt được tiến bộ lớn lao, và hôm nay thế giới có thể thấy những bước tiến dài mà các bạn đã làm được. Với những cải cách kinh tế và thỏa thuận về mậu dịch, trong đó có những thỏa thuận với Hoa Kỳ, các bạn đã bước vào nền kinh tế toàn cầu, các bạn đang bán sản phẩm của mình ra khắp thế giới. Nhiều khoản đầu tư nước ngoài nữa đang đổ vào. Và với một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất Châu Á, Việt Nam đã tiến lên để trở thành quốc gia có thu nhập trung bình.

Chúng ta thấy tiến bộ của Việt Nam trong những tòa tháp và cao ốc của Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, trong những thương xá mới và những trung tâm đô thị. Chúng ta thấy điều đó trong những vệ tinh mà Việt Nam đưa vào không gian và một thế hệ mới lên mạng, mở ra những doanh nghiệp mới và điều hành những thương vụ mới. Chúng ta thấy điều đó trong hàng chục triệu người Việt kết nối với nhau trên Facebook và Instagram. Và các bạn không chỉ đăng ảnh tự chụp – mặc dù tôi nghe nói các bạn chụp rất nhiều – và đến nay, đã có một số người xin tự chụp ảnh cùng với tôi. Các bạn cũng đang lên tiếng vì những mục đích mà các bạn quan tâm, như cứu cây cổ thụ ở Hà Nội.

Như thế, toàn bộ sự năng động này tạo ra tiến bộ thật sự trong cuộc sống của người dân. Ở nước Việt Nam này, các bạn đã giảm đáng kể tình trạng nghèo khổ cùng cực, các bạn đã gia tăng thu nhập trong từng hộ gia đình và đưa nhiều triệu người vào tầng lớp trung lưu đang phát triển rất nhanh về. Đói nghèo, bệnh tật, tỉ lệ tử vong ở trẻ em và phụ nữ, tất cả đều giảm. Số người có nước uống sạch và điện, số trẻ em trai và gái đến trường, và tỉ lệ biết đọc biết viết của các bạn – đều tăng. Đây là tiến bộ phi thường. Đây là điều mà các bạn đã đạt được trong một khoảng thời gian rất ngắn.

Và khi Việt Nam chuyển hóa, mối quan hệ giữa hai quốc gia chúng ta cũng chuyển hóa. Chúng ta đã học một bài học của thiền sư Thích Nhất Hạnh, khi ông nói: “Trong cuộc đối thoại chân thành, cả hai bên đều sẵn sàng thay đổi”. Bằng cách này, chính cuộc chiến đã ngăn cách chúng ta lại trở thành suối nguồn chữa lành vết thương. Nó tạo điều kiện cho chúng tôi tìm kiếm những người mất tích và cuối cùng là đưa họ về nhà. Nó tạo điều kiện cho chúng tôi giúp tháo gỡ mìn và bom chưa nổ, bởi vì không thể để cho bất cứ đứa trẻ nào bị mất chân chỉ vì chơi ở bên ngoài. Ngay trong khi chúng tôi tiếp tục hỗ trợ những người Việt khuyết tật, trong đó có trẻ em, chúng tôi cũng tiếp tục giúp dọn sạch Chất Da Cam – dioxin – để cho Việt Nam có thể lấy lại thêm đất. Chúng tôi tự hào về công việc chúng ta cùng làm ở Đà Nẵng, và chúng tôi hy vọng sẽ giúp các nỗ lực của các bạn ở Biên Hòa.

Chúng ta hãy đừng quên rằng sự hòa giải giữa hai đất nước chúng ta đã được dẫn dắt bởi các cựu chiến binh của chúng ta, những người đã từng chạm trán với nhau trên chiến trường. Hãy nghĩ đến Nghị Sĩ John McCain, người từng bị giam nhiều năm tại đây như là một tù binh chiến tranh, ông đã gặp Tướng Giáp, người nói rằng hai nước chúng ta không nên là kẻ thù mà là bạn bè. Hãy nghĩ đến tất cả các cựu chiến binh, Việt và Mỹ, đã từng giúp chúng ta chữa lành vết thương và xây dựng những mối quan hệ mới. Ít người đã làm được nhiều về mặt này trong những năm qua hơn cựu trung úy Hải quân, và giờ đây là Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, John Kerry, người cũng đang có mặt ở đây. Và thay mặt cho tất cả chúng ta, John, chúng tôi cám ơn ông vì những nỗ lực phi thường của ông.

Vì các cựu chiến binh của chúng ta đã chỉ đường cho chúng ta, vì các chiến sĩ đã có can đảm theo đuổi hòa bình, hai dân tộc chúng ta giờ đây gần nhau hơn bao giờ hết. Thương mại của chúng ta đã tăng vọt. Các sinh viên và học giả của chúng ta cùng nhau học hỏi. Chúng tôi nhận nhiều sinh viên Việt Nam hơn bất cứ nước nào khác ở Đông Nam Á. Và mỗi năm, các bạn chào đón thêm ngày càng nhiều du khách Mỹ, trong đó có những người Mỹ trẻ đeo ba lô, đến 36 phố phường của Hà Nội và những cửa hàng của Hội An, và kinh thành Huế. Là người Việt và người Mỹ, tất cả chúng ta đều có thể cảm nhận được những lời này của Văn Cao – “Từ nay người biết quê người. Từ nay người biết thương người.”

Trên cương vị Tổng Thống, tôi đã trông cậy vào sự tiến bộ này. Với Quan Hệ Đối Tác Toàn Diện mới của chúng ta, hai chính phủ của chúng ta đang làm việc chặt chẽ với nhau hơn bao giờ hết. Và cùng với chuyến thăm này, chúng ta đã đặt mối quan hệ của chúng ta lên nền tảng vững vàng hơn cho nhiều thập niên tới. Theo nghĩa này, câu chuyện dài giữa hai quốc gia chúng ta, bắt đầu với Thomas Jefferson cách đây hơn hai thế kỷ, giờ đây đã đi trọn một vòng tròn. Mất nhiều năm và đòi hỏi nỗ lực cực kì to lớn. Nhưng giờ đây chúng ta có thể nói một điều mà trước đây không thể nào tưởng tượng được: Hôm nay, Việt Nam và Hoa Kỳ là đối tác của nhau.

Và tôi tin rằng kinh nghiệm của chúng ta chứa đựng những bài học cho thế giới. Vào lúc, khi nhiều cuộc tranh chấp tưởng chừng không thể giải quyết được, tưởng chừng như sẽ không bao giờ kết thúc, chúng ta đã chỉ ra rằng con tim có thể làm thay đổi và có thể có một tương lai khác, khi chúng ta không chấp nhận làm tù nhân của quá khứ nữa. Chúng ta đã chỉ ra rằng hòa bình có thể tốt hơn chiến tranh đến mức nào. Chúng ta đã chỉ ra rằng tiến bộ và nhân phẩm được thúc đẩy mạnh mẽ nhất bằng hợp tác chứ không phải bằng xung đột. Đó là điều mà Việt Nam và Mỹ có thể trình bày trước thế giới.

Hiện nay, quan hệ đối tác mới của Mỹ với Việt Nam ăn sâu bén rễ trong một số sự thật căn bản. Việt Nam là một quốc gia độc lập, tự chủ, và không một quốc gia nào có thể áp đặt ý chí của mình lên các bạn hay quyết định vận mệnh của các bạn. Hiện nay, Hoa Kỳ quan tâm đến đất nước này. Chúng tôi quan tâm tới thành công của Việt Nam. Nhưng Quan Hệ Đối Tác Toàn Diện của chúng ta vẫn còn ở giai đoạn đầu. Và với thời gian còn lại của tôi, tôi muốn chia sẻ với các bạn viễn cảnh mà tôi tin sẽ dẫn dắt chúng ta trong những thập kỷ tới.

Thứ nhất, chúng ta hãy hợp tác để tạo cơ hội và thịnh vượng thực sự cho người dân hai nước. Chúng ta biết những yếu tố mang tới thành công về kinh tế trong thế kỷ thứ XXI. Trong nền kinh tế toàn cầu của chúng ta, đầu tư và thương mại đổ đến bất cứ nơi nào có chế độ pháp quyền, bởi vì không ai muốn bắt đầu công việc kinh doanh mà phải đưa hối lộ. Không ai muốn bán hàng hoặc tới trường nếu họ không biết mình sẽ được đối xử như thế nào. Trong những nền kinh tế dựa trên tri thức, việc làm sẽ tới những nơi mà người dân có quyền tự do suy nghĩ, tự do trao đổi ý kiến và sáng tạo. Và những quan hệ đối tác kinh tế thực sự không chỉ là quốc gia này khai thác tài nguyên của một quốc gia khác, mà là đầu tư vào nguồn lực lớn nhất của chúng ta, đó là người dân của chúng ta, các kỹ năng và tài năng của họ, dù các bạn sống ở một thành phố lớn hay nông thôn thì cũng thế. Và đấy là quan hệ đối tác mà Hoa Kỳ đề nghị.

Như tôi đã công bố hôm qua, Tổ Chức Hòa Bình lần đầu tiên sẽ tới Việt Nam, tập trung vào việc dạy tiếng Anh. Một thế hệ sau khi thanh niên Hoa Kỳ đến đây để chiến đấu, một thế hệ người Mỹ mới sẽ đến đây để dạy học và xây dụng và làm cho tình bạn giữa chúng ta ngày càng sâu sắc hơn. Một số công ty công nghệ và học viện hàng đầu của Hoa Kỳ sẽ hợp tác với các trường đại học của Việt Nam để tăng cường đào tạo trong các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán và y học. Bởi vì ngay cả khi chúng tôi tiếp tục đón nhận thêm nhiều sinh viên Việt Nam tới Hoa Kỳ, chúng tôi cũng tin rằng thanh niên xứng đáng được hưởng một nền giáo dục đẳng cấp thế giới ngay tại Việt Nam.

Đó là một trong những lý do chúng tôi rất vui mừng báo tin vào mùa thu này, trường Đại Học Fulbright Việt Nam sẽ mở cửa tại thành phố Hồ Chí Minh – trường đại học độc lập, phi lợi nhuận đầu tiên của quốc gia này – đấy là nơi tự do học thuật được thể hiện một cách trọn vẹn và học bổng cho những người có nhu cầu. Sinh viên, học giả, các nhà nghiên cứu sẽ tập trung vào chính sách công, quản trị và kinh doanh; vào kỹ thuật và khoa học điện toán; và văn học nghệ thuật – tất cả mọi thứ, từ thơ Nguyễn Du, cho đến triết lý của Phan Chu Trinh, cho đến toán học của Ngô Bảo Châu.

Và chúng tôi sẽ tiếp tục đồng hành với thanh niên và doanh nhân, vì chúng tôi tin rằng chỉ cần các bạn tích lũy được kỹ năng và công nghệ và số vốn cần thiết, thì không gì có thể cản trở được các bạn – và điều đó tất nhiên bao gồm cả những người phụ nữ Việt Nam tài năng nữa. Chúng tôi cho rằng bình đẳng giới là một nguyên tắc quan trọng. Từ thời Hai Bà Trưng đến nay, những người phụ nữ mạnh mẽ, tự tin đã luôn giúp đưa đất nước Việt Nam tiến lên. Bằng chứng thật rõ ràng – tôi nói điều này ở bất cứ nơi nào tôi đến trên khắp thế giới – gia đình, cộng đồng và đất nước thịnh vương hơn khi các bé gái và phụ nữ có cơ hội bình đẳng để thành công ở trường học và tại nơi làm việc và trong chính quyền. Điều đó đúng ở mọi nơi, và điều đó đúng ngay tại Việt Nam.

Với Hiệp Định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương, chúng tôi sẽ tiếp tục làm việc nhằm mở rộng tất cả tiềm năng của nền kinh của các bạn. Ở Việt Nam, TPP sẽ tạo điều kiên cho các bạn bán thêm nhiều sản phẩm của mình ra thế giới và sẽ thu hút thêm nhiều khoản đầu tư mới. TPP sẽ đòi hỏi những cải cách nhằm bảo vệ công nhân và chế độ pháp quyền và sở hữu trí tuệ. Và Hoa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ khi Việt Nam thực thi đầy đủ các cam kết của mình. Tôi muốn các bạn biết rằng, trên cương vị Tổng Thống Hoa Kỳ, tôi ủng hộ mạnh mẽ TPP bởi vì các bạn cũng sẽ có thể mua thêm hàng hóa của chúng tôi, “Made in America.”

Hơn nữa, tôi ủng hộ TPP vì những lợi ích chiến lược quan trọng của nó. Việt Nam sẽ bớt lệ thuộc vào bất cứ một đối tác thương mại nào và được hưởng những mối quan hệ rộng rãi hơn với nhiều đối tác hơn, trong đó có Hoa Kỳ. Và TPP sẽ củng cố sự hợp tác trong khu vực. Nó sẽ giúp giải quyết bất bình đẳng về kinh tế và sẽ thúc đẩy nhân quyền, với mức lương cao hơn và điều kiện làm việc an toàn hơn. Lần đầu tiên ngay tại Việt Nam, quyền thành lập nghiệp đoàn lao động độc lập và những điều khoản cấm lao động cưỡng bức và lao động trẻ em. Và nó có những điều khoản bảo vệ môi trường mạnh mẽ nhất và những tiêu chuẩn chống tham nhũng mạnh mẽ nhất trong tất cả các thỏa thuận thương mại trong lịch sử.

Đó là tương lai mà TPP hứa hẹn cho tất cả chúng ta, bởi vì tất cả chúng ta – Hoa Kỳ, Việt Nam, và những nước ký kết khác – sẽ phải tuân thủ những luật lệ mà chúng ta đã cùng nhau lập ra. Đó là tương lai cho tất cả chúng ta. Do đó, giờ đây chúng ta phải hoàn tất nó – vì sự thịnh vượng kinh tế của chúng ta và vì an ninh quốc gia của chúng ta.

Điều này đưa tôi đến lĩnh vực thứ hai mà chúng ta có thể hợp tác, và đó là bảo đảm an ninh chung của chúng ta. Với chuyến thăm này, chúng ta đã đồng ý nâng hợp tác về an ninh lên tầng cao mới và xây dựng thêm niềm tin giữa hai quân đội. Chúng tôi sẽ tiếp tục huấn luyện và cung cấp thiết bị cho lực lượng Tuần Duyên của các bạn để củng cố khả năng hàng hải của Việt Nam. Chúng tôi sẽ cộng tác để gửi viện trợ nhân đạo khi xảy ra thảm họa. Với tuyên bố mà tôi đưa ra ngày hôm qua về việc dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm bán vũ khí quốc phòng, Việt Nam sẽ tiếp cận rộng rãi hơn với thiết bị quân sự mà các bạn cần để bảo đảm an ninh của mình. Và Hoa Kỳ đang thể hiện lời cam kết về việc bình thường hoá hoàn toàn quan hệ với Việt Nam.

Nói rộng ra, thế kỷ thứ XX đã dạy cho tất cả chúng ta – trong đó có Hoa Kỳ và Việt Nam – rằng trật tự quốc tế, nền tảng an ninh chung của chúng ta, có những luật lệ và tiêu chuẩn nhất định. Mọi quốc gia đều có chủ quyền, không phân biệt nước lớn hay nước nhỏ, chủ quyền của mỗi quốc gia phải được tôn trọng, và không ai được xâm phạm lãnh thổ của bất cứ quốc gia nào. Nước lớn không được bắt nạt nước nhỏ. Và mọi tranh chấp phải được giải quyết một cách hoà bình. Và các thiết chế khu vực, như ASEAN và Thượng Đỉnh Đông Á (East Asia Summit), phải tiếp tục được củng cố. Đấy là niềm tin của tôi. Đấy là niềm tin của Hoa Kỳ. Đó là quan hệ đối tác mà nước Mỹ đề nghị với khu vực này. Tôi mong sẽ thúc đẩy tinh thần tôn trọng và hoà giải này trong thời gian tới, trong năm nay, khi tôi trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ đầu tiên đến thăm Lào.

Ở Biển Đông, Hoa Kỳ không phải là người tham gia trong các cuộc tranh chấp hiện nay. Nhưng chúng tôi sẽ sát cánh cùng các đối tác trong việc đề cao những nguyên tắc cốt lõi, như tự do hàng hải và hàng không, và thương mại hợp pháp không bị ngăn trở, và giải quyết tranh chấp một cách hoà bình, thông qua các phương tiện pháp lý, phù hợp với luật pháp quốc tế. Trong khi tiến về phía trước, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục bay, đi lại bằng tầu thủy và hoạt động ở tất cả những nơi mà luật pháp quốc tế cho phép, và chúng tôi sẽ ủng hộ quyền của tất cả các nước trong khi họ làm như thế.

Ngay cả khi chúng ta hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong những lĩnh vực mà tôi vừa nói, quan hệ đối tác của chúng ta bao gồm yếu tố thứ ba – giải quyết các lĩnh vực mà chính phủ của chúng ta không đồng ý, trong đó có nhân quyền. Tôi nói điều này không phải để nhắm vào một mình Việt Nam. Không quốc gia nào hoàn hảo. Sau hai thế kỷ, Hoa Kỳ vẫn phải nỗ lực để sống theo những lý tưởng có từ thời lập quốc. Chúng tôi vẫn phải giải quyết những khiếm khuyết của mình – quá nhiều tiền trong nền chính trị, và bất bình đẳng kinh tế gia tăng, thiên vị chủng tộc trong hệ thống tư pháp hình sự, cùng làm một việc, phụ nữ vẫn không được trả lương như nam giới. Chúng tôi vẫn có những vấn đề. Và tôi cam đoan với các bạn là chúng tôi cũng bị chỉ trích. Tôi nghe chỉ trích mỗi ngày. Nhưng sự xét nét đó, cuộc tranh luận công khai đó, đối mặt với sự không hoàn hảo của chính mình, và cho phép mọi người có quyền nêu ý kiến đã giúp chúng tôi phát triển mạnh mẽ hơn và thịnh vượng hơn và công bằng hơn.

Trước đây tôi đã từng nói – Hoa Kỳ không tìm cách áp đặt hình thức chính quyền của mình cho Việt Nam. Tôi tin rằng những quyền mà tôi nói đến không phải là những giá trị của Mỹ; tôi nghĩ đấy là giá trị phổ quát, được ghi trong Tuyên Ngôn Phổ Quát Về Nhân Quyền. Chúng cũng được ghi trong hiến pháp Việt Nam, trong đó rằng “mọi công dân có quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, và có quyền tiếp cận thông tin, quyền hội họp, quyền lập hội và quyền biểu tình.” Đó là trong hiếp pháp Việt Nam. Do đó, thật vậy, đây là vấn đề về tất cả chúng ta, mỗi quốc gia, cố gắng áp dụng nhất quán những nguyên tắc này, để bảo đảm rằng chúng ta – những người trong chính phủ – đang trung thành với những lý tưởng này.

Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được một số tiến bộ. Việt Nam đã cam kết làm cho luật lệ phù hợp với hiến pháp mới và với các tiêu chuẩn quốc tế. Theo một số đạo luật được thông qua gần đây, chính phủ sẽ tiết lộ về nhiều hơn về ngân sách và công chúng sẽ có quyền tiếp cận với nhiều thông tin hơn. Và, như tôi đã nói, Việt Nam đã cam kết cải cách kinh tế và lao động theo TPP. Vì vậy, tất cả đều là những bước đi tích cực. Và rốt cuộc, tương lai của Việt Nam sẽ do người dân Việt Nam quyết định. Mỗi nước sẽ vạch ra con đường của riêng mình, và hai nước chúng ta có truyền thống khác nhau, có hệ thống chính trị khác nhau và nền văn hóa khác nhau. Nhưng trong tư cách một người bạn của Việt Nam, cho phép tôi chia sẻ quan điểm của tôi – tại sao tôi tin rằng các quốc gia sẽ thành công hơn khi các quyền phổ quát được tôn trọng.

Khi có tự do diễn đạt và tự do ngôn luận, và khi mọi người có thể chia sẻ ý tưởng và truy cập Internet và truyền thông xã hội không hạn chế, điều đó cung cấp nhiên liệu cho quá trình đổi mới mà các nền kinh tế cần để phát triển. Đó là nơi những ý tưởng mới phát sinh. Đó là cách một Facebook bắt đầu. Đó là cách mà một số công ty tuyệt vời nhất của chúng tôi bắt đầu – vì một người nào đó đã có một ý tưởng mới. Ý tưởng khác hẳn. Và họ có thể chia sẻ. Khi có tự do báo chí – khi các nhà báo và blogger có thể soi rọi ánh sáng vào bất công hay lạm quyền – điều đó khiến các viên chức có trách nhiệm giải trình và xây dựng niềm tin nơi công chúng rằng hệ thống đang hoạt động. Khi các ứng cử viên có thể tranh cử và tự do vận động, và các cử tri có thể chọn người lãnh đạo của mình trong những cuộc bầu cử tự do và công bằng, điều đó làm cho đất nước ổn định hơn, bởi vì người dân biết rằng tiếng nói của họ được tính đến và sự thay đổi ôn hòa là khả dĩ. Và nó đưa những người mới vào hệ thống.

Khi có tự do tôn giáo, điều này không chỉ cho phép mọi người thể hiện đầy đủ tình yêu thương và lòng từ bi vốn là trọng tâm của tất cả các tôn giáo lớn, mà còn cho phép các nhóm tôn giáo phục vụ cộng đồng của mình thông qua các trường học và bệnh viện, và chăm sóc người nghèo và người dễ bị tổn thương. Và khi có tự do hội họp – khi người dân được tự do thành lập tổ chức trong xã hội dân sự – thì đất nước có thể giải quyết tốt hơn những thách thức mà chính quyền đôi khi không thể tự giải quyết được. Vì vậy, quan điểm của tôi là việc duy trì các quyền này không phải là một mối đe dọa đối với ổn định, mà trên thực tế, là củng cố ổn định và là nền tảng của tiến bộ.

Nói cho cùng, chính vì khát vọng có được những quyền này mà mọi người trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam, có được nguồn cảm hứng để lật đổ chủ nghĩa thực dân. Và tôi tin rằng việc duy trì những quyền này là biểu hiện đầy đủ nhất của nền độc lập mà rất nhiều quốc gia trân trọng, kể cả tại đây, một quốc gia tự tuyên bố là “của Dân, do Dân và vì Dân.”

Việt Nam sẽ làm khác Hoa Kỳ. Và mỗi nước chúng ta sẽ làm khác với nhiều nước khác trên thế giới này. Nhưng, có những nguyên tắc căn bản mà tôi nghĩ tất cả chúng ta đều cố gắng hoàn thiện và cải tiến. Và tôi nói điều này như một người sắp rời nhiệm sở, cho nên giờ đây tôi có gần tám năm để suy ngẫm về cách thức hoạt động và tương tác của hệ thống của chúng tôi với các nước khác trên khắp thế giới, trong khi họ cũng liên tục cố gắng để cải tiến hệ thống của mình.

Cuối cùng, tôi nghĩ rằng quan hệ đối tác của chúng ta có thể đáp ứng được những thách thức toàn cầu mà không một nước nào có thể tự giải quyết được. Nếu chúng ta muốn bảo đảm được sức khỏe của người dân chúng ta và vẻ đẹp của hành tinh này, thì phát triển phải là bền vững. Những kỳ quan thiên nhiên như Vịnh Hạ Long hay Hang Sơn Đoòng phải được bảo tồn cho con cháu chúng ta. Nước biển dâng lên đe dọa bờ biển và sông ngòi mà rất nhiều người Việt Nam dựa vào. Và vì vậy, như là đối tác trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu, chúng ta cần thực hiện những cam kết mà chúng ta đã đưa ra ở Paris, chúng ta cần giúp nông dân và làng xóm và những người sống bằng ngư nghiệp, để họ có thể thích nghi và đưa thêm năng lượng sạch đến những nơi như đồng bằng sông Mekong – một vựa lúa của thế giới mà chúng cần để nuôi dưỡng những thế hệ tương lai.

Và chúng ta có thể cứu được biết bao sinh mạng bên ngoài biên giới của mình. Bằng cách giúp những nước khác củng cố hệ thống y tế của họ, ví dụ như thế, chúng ta có thể ngăn chặn những vụ bùng phát bệnh tật, để chúng không trở thành nạn dịch đe dọa tất cả chúng ta. Và trong khi Việt Nam cam kết thêm nữa với Liên Hiệp Quốc về việc gìn giữ hòa bình, Hoa Kỳ tự hào vì giúp huấn luyện lực lượng gìn giữ hòa bình của các bạn. Và đó thật là một điều đáng ghi nhận – hai nước chúng ta từng đánh nhau nhưng giờ đây sát cánh bên nhau để giúp đỡ những nước khác cùng đạt được hòa bình. Như thế, ngoài quan hệ song phương, mối quan hệ đối tác của chúng ta cũng tạo điều kiện cho chúng ta giúp định hình môi trường quốc tế bằng những biện pháp tích cực.

Tuy vậy, việc hiện thực hóa hoàn toàn viễn cảnh tôi vừa mô tả hôm nay sẽ không xảy ra ngay lập tức, và nó cũng không phải là tất yếu. Sẽ có những vấp váp và những bước lùi trên đường đi. Sẽ có những lúc hiểu lầm. Cần phải có những nỗ lực bền bỉ và đối thoại chân thành để hai bên đều tiếp tục thay đổi. Nhưng khi xét lại toàn bộ lịch sử và những trở ngại mà chúng ta đã vượt qua, hôm nay, đứng trước các bạn tôi rất lạc quan về tương lai chung của chúng ta. Và, bao giờ cũng thế, niềm tin của tôi ăn sâu bén rễ vào tình bạn và những khát vọng chung của hai dân tộc chúng ta.


Tôi nghĩ đến tất cả những người Mỹ và Việt đã từng vượt qua một đại dương mênh mông – một số người đang đoàn tụ với gia đình lần đầu tiên sau nhiều thập niên – và những người, như Trịnh Công Sơn đã nói trong ca khúc của mình, nối vòng tay lớn, và đang mở rộng lòng mình và nhìn thấy tình người của chúng ta trong nhau.

Tôi nghĩ đến tất cả những người Mỹ gốc Việt đã thành công trong mọi lãnh vực – bác sĩ, nhà báo, quan tòa, quan chức. Một người trong số họ, được sinh ra ở đây, đã viết cho tôi một lá thư nói rằng, nhờ “Ơn Thượng Đế, tôi đã sống được Giấc Mơ Mỹ… Tôi rất tự hào là một người Mỹ nhưng cũng rất tự hào là một người Việt.” Và hôm nay, ông ấy đang ở đây, trở về quê hương nơi sinh của ông, bởi vì, theo ông nói, hoài bão của ông là “cải thiện đời sống của mỗi người Việt Nam”.

Tôi nghĩ đến một thế hệ người Việt mới – rất nhiều người trong các bạn, rất nhiều người trong những người trẻ đang ở đây – những người sẵn sàng tạo dấu ấn của mình trên thế gian này. Và tôi muốn nói với tất cả những thanh niên đang lắng nghe: Tài năng của các bạn, nghị lực của các bạn, những giấc mơ của các bạn – chính là trong những thứ đó, Việt Nam có tất cả những điều mà đất nước này cần để trở thành phồn vinh. Các bạn nắm trong tay vận mệnh của mình. Đây là thời khắc của các bạn. Và trong khi các bạn theo đuổi tương lai mà các bạn mong muốn, tôi muốn các bạn biết rằng Hoa Kỳ sẽ ở ngay bên cạnh các bạn như một đối tác và một người bạn.

Và sau đây nhiều năm, khi có thêm nhiều người Việt và Mỹ hơn nữa cùng nhau học hỏi; cùng nhau sáng tạo và kinh doanh; cùng nhau bảo vệ an ninh của chúng ta; và cùng nhau thúc đẩy nhân quyền và bảo vệ hành tinh của chúng ta – tôi hy vọng các bạn sẽ nhớ lại thời điểm này và tìm thấy hy vọng từ viễn cảnh mà tôi gửi gắm hôm nay. Hay là, liệu tôi có thể nói một cách khác – bằng những lời mà các bạn đã biết rõ từ Truyện Kiều – “Rằng trăm năm cũng từ đây. Của tin gọi một chút này làm ghi.”

Cám ơn các bạn. Cám ơn các bạn rất nhiều. Cám ơn, Việt Nam. Cám ơn.

Nguồn: https://www.whitehouse.gov/the-press-office/2016/05/24/remarks-president-obama-address-people-vietnam

0 nhận xét:

Đăng nhận xét