Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014

5. NHỮNG TÁC HẠI NGUY HIỂM CỦA CÁC SÁCH KINH CÔNG GIÁO

Để trưng dẫn các bằng chứng cụ thể về những tác hại nguy hiểm do các sách kinh nguyện Công Giáo gây ra cho tinh thần của giáo dân Việt Nam, chúng tôi chọn hai cuốn sách kinh nguyện tiêu biểu sau đây:
1. Sách kinh nguyện NHỰT KHÓA của tổng giáo phận Sài gòn, có sự phê duyệt của TGM Nguyễn Văn Bình ngày 19.3.1971, là sách kinh nguyện chính thức của cả Tổng giáo phận Sài gòn bao gồm tập thể giáo dân toàn Miền Nam.
2. Sách TOÀN NIÊN KINH NGUYỆN của hai địa phận Bùi Chu và Hà Nội in chung thành một cuốn, do Cơ Sở Dân Chúa – P.O Box 1419 Gretna, LA 70053, USA xuất bản. Địa phận Bùi Chu là cái nôi của Công gíao Việt Nam và địa phận Hà Nội nay đã thành Tổng giáo phận bao gồm tập thể giáo dân miền Bắc Việt Nam. Trong những lần xuất bản trước đây tại Việt Nam, những sách này đã được giám mục Hồ Ngọc Cẩn và các giám mục quản nhiệm khác duyệt xét cẩn thận. Trong lần xuất bản tại hải ngoại này, Linh Mục Việt Châu là chủ nhiệm nguyệt san Dân Chúa đứng ra xuất bản và viết lời giới thiệu với các giáo dân tại hải ngoại.
Do vậy, hai sách kinh nguyện này thiết tưởng cũng đủ là đại diện cho toàn thể các sách kinh nguyện của Giáo hội Công Giáo Việt Nam. Để tiện việc trích dẫn, chúng tôi dùng chữ tắt NK để chỉ sách kinh nguyện Nhựt Khóa và chữ TNKN để chỉ sách Toàn niên Kinh nguyện, số theo sau những chữ tắt nói trên là số trang trong các sách dẫn chiếu.
Những điều trình bày sau đây chỉ là những nét điển hình về tính chất phản văn hóa dân tộc và những tác dụng đầu độc tinh thần trong nội dung của một số bài kinh nguyện mà thôi. Hiện nay tại hải ngoại có nhiều tiệm sách Việt ngữ cũng có bày bán những sách kinh nguyện tương tự, chúng tôi đề nghị quí vị có quan tâm đến vấn đề này có thể mua về nghiên cứu để kiểm chứng và tìm hiểu thêm.
1. Đề cao bạo lực:
Người Công Giáo quan niệm Thiên Chúa là một vị thần chiến tranh luôn luôn đứng cùng phe với họ để giúp họ tiêu diệt những người chống họ hoặc không theo họ. Trong các lễ Misa ở nhà thờ, không bao giờ thiếu Kinh Nguyện Thánh Thể, trong đó có câu: "Thánh, thánh, thánh, Chúa là Thiên chúa các Đạo Binh. Đất trời đầy vinh quang Chúa. Hoan hô Chúa trên các tầng trời: (NK 581). Quan niệm này phát xuất từ đạo Do Thái của Moses qua chuyện kể trong Cựu Ước Exodus về việc dân Do Thái nổi loạn chống lại Ai Cập để thoát vòng nô lệ và tìm đến Đất Hứa. Người Do Thái xưa thường ca ngợi Thiên Chúa là Yahweh Sabaoth có nghĩa là Thiên Chúa của các đạo binh (God of Armies). Đây là một quan niệm ngây ngô của những bộ lạc bán khai về thần linh. Bà Karen Amstrong, nguyên là một nữ tu Công Giáo gốc Ái Nhĩ Lan, đã viết về quan niệm này trong tác phẩm bestseller của bà như sau: "Đây là một Thiên Chúa tàn bạo, thiên vị và hiếu sát, một vị thần chiến tranh hay nói đơn giản là vị thần của bộ lạc. (This is a brutal, partial and murderous god, a god of war... and is simply a tribal deity – A History of God, p.19).
Tâm lý chung của con người là luôn luôn muốn mình trở nên giống như thần tượng mà mình tôn thờ. Quan niệm về Thiên Chúa như một hung thần chiến tranh mà người Công Giáo ngưỡng mộ dần dần sẽ hình thành nơi tâm hồn họ xu hướng ham chuộng bạo lực. Lịch sử bành trướng đạo Công Giáo là lịch sử chiến tranh đẫm máu kéo dài qua nhiều thế kỷ đã chứng minh Công Giáo là một tôn giáo của bạo lực. Đây cũng là nét đặc trưng phản ảnh tính chất văn hóa phi nhân bản (inhumanity) của đạo này. Những bài kinh ca ngợi bạo lực đã làm xói mòn bản chất nhân hậu hiền hòa nơi những người giáo dân vốn xuất thân từ những nông dân chất phát Việt Nam. Điều này giải thích cho ta hiểu lý do vì sao mọi người Công Giáo đều mất gốc và đã tự biến thành những kẻ lạc loài trên quê hương Việt Nam.
2. Công Giáo Việt Nam hùa theo chủ trương diệt chủng Do Thái của Đế quốc La Mã:
Ai cũng biết đế quốc La Mã, chứ không phải dân Do Thái, bắt và đóng đinh Jesus trên thập giá vì vào thời đó nước Do Thái bị La Mã đô hộ nên quyền xét xử các tội nhân bản xứ hoàn toàn thống thuộc chính quyền của mẫu quốc. Đặc biệt việc áp dụng hình phạt đóng đinh trên thập giá là đặc quyền của đế quốc La Mã đối với nô lệ và dân thuộc địa. Người La Mã không áp dụng hình phạt này đối với các công dân của họ. Ngược lại, chính quyền bù nhìn Do thái thời đó do vua Herode cầm đầu cũng được phép xử tử tội nhân nhưng chỉ được dùng những cách thức thông thường như ném đá hoặc chém đầu chứ tuyệt đối không được phép áp dụng hình phạt đóng đinh tội nhân trên thập giá.
Đạo Công Giáo do hoàng đế La Mã Constantine thành lập năm 325, với ý đồ dùng tôn giáo làm phương tiện xâm lược toàn cầu, đã tôn Jesus vốn là nạn nhân của đế quốc La Mã lên thành Thiên Chúa tối cao nên bọn đế quốc đã tìm mọi cách đổ tội giết Jesus cho do Thái. Vì chẳng lẽ đế quốc La Mã lại tôn thờ một người do chính tay mình giết chết hay sao? Đó là nguyên nhân chính yếu đã khiến cho đế quốc La Mã ra sức tuyên truyền xuyên tạc lịch sử nhằm tạo nên thành kiến thù ghét Do Thái triền miên trong lịch sử Âu Châu và cũng từ đó dẫn đến chủ nghĩa diệt chủng Do Thái của Vatican trong nhiều thế kỷ qua. Để thực hiện chủ trương này, Vatican đã soạn ra những bài kinh nhằm mục đích chạy tội giết Jesus của đế quốc La Mã mà đại diện của nó là quan toàn quyền Phong-xi-ô Phi-la-tô (Pontius Pilatus). Những âm mưu nham hiểm này được biểu lộ rõ nét nhất qua những bài kinh ngắm 14 nơi của Đàng Thánh Giá (TNKN 69-86) và kinh Ba Ngày Lễ Đèn (NK 250-277).
Sự thật lịch sử là quan toàn quyền La Mã Pontius Pilatus (Pilate) đã tuyên án xử tử Jesus về tội xúi giục dân chúng chống chính quyền, cũng tương tự như vua Herode chém đầu sư phụ của Jesus là Gio-an Bao-ti-xi-ta về tội này ba năm về trước. Chính Pilate trao Jesus cho toán lính La Mã thuộc quyền, do đại úy Longinus dẫn đầu, đem Jesus lên núi Sọ (Golgotha = Skull) để hành hình bằng cách lột trần truồng trước khi đóng đinh vào thập giá. Cái khố của Jesus trên thập giá tuy chỉ là một vật ngụy tạo nhỏ xíu nhưng thật sự nó là một tấm màn vĩ đại che lấp mọi sự dối trá bỉ ổi của Ki-tô Giáo nói chung và của Công Giáo La Mã nói riêng. Xin đọc thêm "Cái Khố Của Jesus Trên Thập Giá" của Charlie Nguyễn đăng trên Đông Dương Thời Báo – Houston, số 69 ngày 30.7.1998. Bài này được in lại trong tác phẩm "Thực Chất Của Giáo Hội La Mã", quyển 1 của giáo sư sử học Nguyễn Mạnh Quang, tr. 360 –365).
Tuy nhiên sự ngụy tạo cái khố của Jesus trên thập giá không bỉ ổi cho bằng sự kiện quân lính La Mã luôn luôn hiện diện trong suốt lộ trình của Đàng Thánh Giá nhưng trong 14 bài kinh của nghi thức cầu nguyện này không hề nói đến quân La Mã mà chỉ dùng những danh từ như "quân dữ", "quân độc ác" hoặc "quân Giu-dêu" để chỉ người Do Thái. Thí dụ những câu như: "quân dữ toan đóng đinh Đức Chúa Giê xu thì nó lột áo ra hết"; "Tôi khen lòng mạnh bạo bà Veronica chẳng sợ quân dữ". Khi đọc các bài kinh này, giáo dân Việt Nam có ấn tượng "quân dữ" là người Do Thái chứ không phải là quân La Mã!. Ngoài ra còn có nhiều câu kinh miệt thị Do Thái và cố ý qui trách nhiệm giết Jesus cho họ như: "Đừng bắt chước quân Giu-dêu... Khi Phi-la-tô nghe lời quân Giu-dêu gắn vó van nài xin tha Baraba thì liền phú Đức Chúa Giê-xu cho quân lính đánh đòn cho đẹp lòng dân Giu dêu..." (KN 297). Ghê gớm nhất là lời nguyền rủa truyền kiếp độc địa được gán cho là lời của Jesus nguyền rủa dân tộc mình trong kinh Ba Ngày lễ Đèn (NK 250-277): "Đức Chúa Giê xu liền trở mặt lại mà phán rằng: Ớ con thành Giê-ru-sa-lem bay chớ khóc thương Tao làm chi, bay hãy khóc thương bay cùng các con cháu bay ngày sau phải khốn mà chớ..." (NK 266). Nhiều câu kinh khác trắng trợn xuyên tạc lịch sử để gở tội cho La Mã: "Khi phi-la-tô thấy quân độc ác làm khốn cho Đức Chúa Giêxu thới quá [Thái quá, quá nhiều.]
thì động lòng thương" (NK 263), "Vậy quan ấy tra hỏi căn do mới biết Người chẳng có tội gì cho nên quan ấy có ý muốn tha mà quân Giu-dêu ngăn cản chẳng chịu" (NK 259).
3. Công Giáo Việt Nam coi rẻ công ơn cha mẹ tổ tiên và các anh hùng dân tộc, ngược lại họ hết sức tôn sùng những kẻ loạn luân mất dạy. Điều này cho ta thấy Công Giáo là đạo mất dạy số Một.
Trong kinh Ăn Năn Tội có câu: "Lạy Chúa là cha rất nhân từ hơn cha mẹ thế gian bội phần" (NK 745). Câu kinh này phản ảnh đúng theo lời dạy của Jesus. Bản thân Jesus là một đứa con hoang nên Jesus thù ghét cha nuôi và mẹ ruột của y. Vì thế y đã dạy người khác bất hiếu với cha mẹ của họ. Phúc âm của Matthew (10:34-37) có chép lời Jesus như sau: "Chớ tưởng rằng ta đem hòa bình cho thế gian. Ta đến không phải đem lại hòa bình mà là gươm giáo. Ta đến để phân rẻ con trai với cha, con gái với mẹ, con dâu với mẹ chồng và mọi người trong gia đình là thù nghịch của nhau. Ai yêu cha mẹ hơn yêu ta thì không xứng đáng với ta". (Think not that I am come to send peace on earth. I came not to send peace but a sword. For I am come to set a man at variance against his father, and the daughter against her mother and the daughter in law against her mother in law. And a man’s foes shall be they of his own household. He that loveth father or mother than me is not worth of me). Chỉ có những đứa con bất hiếu mới nghe nỗi những lời mất dạy đó của Jesus. Nếu quả thật Jesus đã nói những lời đó thì Jesus cũng là một gả mất dạy số Một và cái chết thê thảm của y trên thập giá cũng chưa đủ đền tội của chính y!
Trong nhiều thế kỷ qua, các giáo hoàng La Mã luôn luôn qui kết việc thờ cúng tổ tiên là thờ cùng ma quỉ nên người Công Giáo không lập bàn thờ gia tiên ở trong nhà. Đối với các vị anh hùng dân tộc thì người Công Giáo hoàn toàn dửng dưng. Ngược lại, người Công Giáo Việt Nam rất tôn sùng những kẻ loạn luân và vô đạo đức như Abraham và David... Abraham lấy em gái ruột làm vợ và toan giết con ruột mình để tế thần. David là một tên vua dâm dật vô độ. Y có cả ngàn cung nữ trong các nhà chứa gọi là ‘harem" mà vẫn chưa đủ thỏa mãn dục vọng. Vì quá say mê vẻ đẹp của bà Bathseba trong dịp David nhìn trộm bà Bathseba tắm truồng trên sân thượng nên y đã tìm cách sát hại chồng của bà là một vị tướng dưới quyền để cướp vợ của ông. Kinh Thánh Tân Ước không coi chuyện này là một điều xấu xa tội lỗi mà còn hãnh diện xác nhận cuộc tình tội lỗi này đã sinh ra các tổ tiên của Jesus. Tất cả để chứng tỏ Jesus là hậu duệ đời thứ 28 của tên dâm David! Chuyện tình tội lỗi bẩn thỉu này chẳng có gì đáng hãnh diện cho David và Jesus. Vậy mà các sách kinh Công Giáo hết lời ca ngợi David là Vua Thánh: "Xin Chúa làm cho tôi khinh dễ sự đời là chốn muông chim cầm thú, xin làm cho tôi đặng về quê thật đặng hiệp làm một cùng vua thánh David" (NK 330).
Trong kinh cầu Đức Bà có câu: "Đức Bà là lầu đài David". Mọi người Công Giáo Việt Nam muốn hiểu lầu đài David" là cái gì thì hãy chịu khó đem sách kinh Cựu Ước ra đọc (Các Vua-Sách thứ nhất) tất nhiên sẽ thấy đó là các harem chứa gái cho tên hôn quân David hành lạc! Ở đây tôi xin trích một đoạn ngắn để quý vị rõ. Quí vị sẽ thấy chuyện trong Thánh Kinh còn hay hơn chuyện "Chú Tư Cầu" hoặc chuyện "Cậu Chó" của Việt Nam trước 1975: "Vua David đã già vì đã cao tuổi lắm, người ta đã lấy vải phủ lên Ngài rất nhiều nhưng ngài vẫn chẳng thấy ấm chút nào. Bọn hầu cận bàn với nhau là cần phải tìm cho ngài một cô gái trinh thật đẹp dẫn đến trước mặt ngài. Hãy dạy cho cô ta biết cách làm cho ngài thích thú. Hãy đặt cô ta nằm trong lòng ngài thì vua thánh của chúng ta mới sưởi ấm". Xin để quý vị đọc tiếp Chapter 1, the Third Book of the Kings của Cựu Ước, tôi xin miễn kể tiếp!
Điều bỉ ổi hơn nữa là Công Giáo La Mã ngụy tạo những bài kinh để che dấu những dối trá bịp bợm đã có sẵn từ trước. Đó là trường hợp hai bài kinh sau đây:
1. Kinh Ông Thánh Gioakim (trang 189 TNKN): "Lạy ông Thánh Gioakim là đấng rất sang trọng về dòng dõi vua David, Đức Chúa Trời đã chọn mà ban mọi sự lành cho cả loài người ta vì đã dùng người cho được làm nên những mầu nhiệm Đức Chúa Trời tuyền ở thế gian này..."
2. Kinh Bà Thánh Anna (trang 212 TNKN): "lạy ơn Bà Thánh Anna là mẹ Thánh Nữ Vương, bà làm sáng thiên hạ vì sinh được con thanh sạch sáng láng hơn mặt trời mặt trăng. Bà là đấng sang trọng thuộc dòng vua David..."
Vấn đề đặt ra là tại sao Công Giáo phải bịa ra hai bài kinh nói trên?
Chuyện rắc rối khởi đầu từ việc Cựu Ước của Do Thái "tiên tri" Chúa Cứu Thế phải là người thuộc dòng dõi của vua David. Dù cho David hoang dâm vô độ nhưng lịch sử Do Thái vẫn coi Daid là vị anh hùng số một. Chúa Cứu Thế được dân chúng mong chờ như một David tái thế, do đó Chúa Cứu Thế được người Do Thái quan niệm như một vị vua David mới (Christ is the New King David). Chuyện rắc rối kế tiếp là trong thế kỷ I sau Công Nguyên, người viết Tân Ước lại chỉ nhấn mạnh đến ông Joseph là chồng của bà Maria và là cha ruột của Jesus nên tác giả Tân Ước đã thuật lại cả một hệ thống dọc gia phả từ David đến Joseph và không hề viết một điều nào chứng tỏ bà Maria là người thuộc dòng dõi vua David cả. Như vậy rõ ràng Jesus thuộc dòng dõi David vì là con ruột của Joseph, cho nên Jesus có thể được chấp nhận là đấng Cứu Thế như Cựu Ước đã tiên tri. Nhưng nếu điều nầy được chấp nhận thì bà Maria không thể Đồng trinh!
Vấn đề rắc rối kế tiếp xảy ra năm 451, sau khi Công đồng Chalcedon công bố tín điều Đức Mẹ trọn đời đồng trinh (dogma of the Perpetual Virginity). Người ta tự hỏi: "Nếu Chúa Jesus là con của Đức Chúa Thánh Thần và Đức Bà Đồng Trinh thì Chúa Jesus đúng là con của Đức Chúa Trời thật, Ngài không phải là Chúa Cứu Thế [ Chúa trời và Chúa Cứu Thế là hai nhân vật khác nhau.]
vì Ngài không thuộc dòng dõi vua Thánh David như Cựu Ước đã tiên tri! Chẳng lẽ Đức Chúa Thánh Thần cũng là con cháu của David"? Theo lẽ thường ở trên đời, mọi sự gian dối luôn luôn đẻ ra những sự gian dối khác, nhưng mọi sự gian dối thường lâm phải tình trạng "dấu đầu hở đuôi". Tuy vậy, vốn sẵn bản chất đại lưu manh chuyên nghiệp, tòa thánh La Mã đã trơ trẽn sáng chế hai bài kinh nói trên (mặc dầu không có căn bản Thánh Kinh – Unscriptural) nhưng cốt để tín đồ tin rằng cả cha lẫn mẹ của bà Maria là Gioakim và Anna đều thuộc dòng dõi của vua David, cho nên Jesus dù là con của Chúa Thánh Thần và bà Maria đồng trinh cũng vẫn thuộc dòng dõi David như thường! Tôi nêu lên những điều trên đây để yêu cầu Linh Mục Việt Châu, Chủ nhiệm Nguyệt San Dân-Chúa kiêm đại diện Cơ Sở Xuất Bản Dân-Chúa (P.O. Box 1419 Gretna, LA 70053) chịu trách nhiệm xuất bản sách Toàn Niên Kinh Nguyện, trả lời cho độc giả bốn phương được biết Kinh Thánh nói ông Gioakim và bà Anna thuộc dòng dõi vua David ở đoạn nào? Nếu LM Việt Châu không trả lời nổi thì mọi cuốn sách Toàn Niên Kinh Nguyện Bùi Chu-Hà nội cần phải được thu hồi để vứt bỏ.
Cho nên người ta gọi Công Giáo là đạo bịp hay đạo dối, thật không sai chút nào. Nếu phải kể cho hết những chuyện bịp của Công Giáo chắc phải viết một tràng thiên tiểu thuyết thì may ra mới tạm đủ. Riêng về chuyện Thánh Phêrô là giáo hoàng đầu tiên cũng có hàng chục chuyện bịp. Chẳng hạn cái được gọi là "Chiếc ghế Phêrô" (Chair of Peter) cốt để mọi người tin rằng Công Giáo là đạo chính truyền của chúa Jesus qua thánh Phêrô. Vào tháng 7 nam 1968, một phái đoàn khoa học quốc tế đã đến tận Tòa Thánh giảo nhiệm bằng phương pháp Carbon (Carbon dating method) đã xác nhận chiếc ghế này được ngụy tạo trong thế kỷ 9. Còn tượng thánh Phêrô bằng đồng đen rất lớn đứng gần bàn thờ chính trong Đền Thánh Phêrô đã được toàn giáo hội Công Giáo tôn kính nhiều thế kỷ qua với hàng triệu triệu người đã quì mọp hôn chân tượng này. Các nhà khoa học và khảo cổ xác định bức tượng này là tượng Thần Jupiter của các hoàng đế thời cổ La Mã vài thế kỷ trước khi Jesus ra đời!. (Babylon Mystery Religion, p. 78-). Chúng ta thường nghe Vatican khoe khoang rằng: "Giáo hoàng là đấng thừa kế ngôi vị của Thánh Phêrô" (Saint Peter’s Successor) nhưng có lẽ ít ai biết giáo hoàng nào là người đầu tiên nêu lên danh hiệu này. Tôi xin kể lại một lần nữa hầu quí vị nghe câu chuyện thương tâm của giáo hoàng Joanne như sau:
Giáo hoàng này nguyên là một cô gái, hồi còn nhỏ có tên là Catherine tinh nghịch. Vào đầu thế kỷ 9, cô gái đến tuổi trưởng thành đã giả trai xin vào tu ở một Dòng Nam với sự cải tên là Joanne. Dần dần bà trở thành một thầy tu rất nổi tiếng về tài hùng biện. Bà đã để lại nhiều bài diễn văn độc đáo hiện còn lưu trữ trong văn khố của Tòa Thánh. Nhiều sử gia Ý như Petrarch, Boccacio đã viết sách ca ngợi sự học vấn uyên bác của bà. Vào năm 855, Giáo hoàng Leo IV qua đời. Hội thánh Công Giáo lúc đó nhận thấy chỉ có tu sĩ Joanne là người xứng đáng nhất kế vị giáo hoàng. Kết quả là Hội Thánh dưới sự "hướng dẫn" của Đức Chúa Thánh Thần đã bầu tu sĩ Joanne vào ngôi vị Đại Diện Chúa Ki Tô Dưới Trần Thế. Trong lễ đăng quang, ngài tuyên bố "Giáo hoàng là người kế vị Thánh Phê-rô". Giáo hoàng Joanne cai trị Hội Thánh của Chúa được ba năm rất ngon lành thì một tai biến bất ngờ xảy ra cho ngài. Năm 858, tòa Thánh tổ chức một cuộc rước kiệu trọng thể tại Rome. Trong lúc Đức Thánh Cha đang nghiêm trang đi theo đoàn kiệu thì bất ngờ ngài bị té xỉu, máu ra lênh láng ướt hết đũng quần và bộ lễ phục giáo hoàng lộng lẫy sang trọng. Lúc đó cả giáo hội kinh ngạc khám phá ra là Đức Giáo Hoàng bị... sẩy thai!. Ngay lập tức sau đó, Giáo hoàng Joanne [Trong nhiều sách liệt kê các triều đại giáo hoàng, không có tên nữ giáo hoàng nầy.]
bị lột trần truồng và bị đám tu sĩ của Tòa Thánh lôi ra Công trường Colossium để cho dân chúng ném đá đến chết tại chỗ. Nữ giáo hoàng thật ra chẳng có tội gì, ngài đã chết thảm chỉ vì ngài là một phụ nữ. Linh mục nữ còn không được chấp nhận huống hồ là Nữ Giáo Hoàng!
Ngoài các bài kinh ca ngợi tên hôn quân dâm dật khét tiếng David, sách kinh Công Giáo Việt Nam cũng không thiếu gì những bài kinh cầu ca ngợi tên mất dạy Abraham – ông tổ chung của đạo Do Thái, đạo Kitô và đạo Hồi. Nhưng điều đáng nói là trong những bài kinh này, người Công Giáo Việt Nam đã sỉ nhục dân tộc mình: "Xin Chúa đoái thương dân tộc Việt Nam đang còn ngồi trong bóng tối tăm ngọai giáo. Chúa đã phán rằng ngày sau sẽ có nhiều kẻ bởi đông tây đến nghỉ ngơi cùng thánh Abraham trên nước thiên đàng" (NK 144-145); "Xin các thánh thần đem linh hồn này lên nơi vui vẻ cùng ông thánh Abraham" (NK 330). Những bài kinh như vậy đã dẫn dắt người Công Giáo Việt Nam xa rời dân tộc và từ đó đi tới chỗ phản quốc không còn bao xa. Sách kinh Công Giáo chính là cội nguồn sâu xa đã đưa họ vào con đường phản bội tổ quốc và dân tộc Việt Nam!
4. Những câu kinh nhục mạ các dân tộc Đông phương là mọi rợ và nói lên ý đồ của Công Giáo Việt Nam muốn tiêu diệt đạo Phật:
Trong kinh cầu ông Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e có những câu như: "Ông Thánh Phan-xi-cô soi sáng phương Đông... là đá tảng đỡ Hội thánh Phương Đông... Ông Thánh Phan-xi-cô phá tan đạo bụt thần... Ông Thánh Phan-xi-cô là lịnh rao tiếng Đức Chúa Thánh Thần cho những dân mọi rợ" (NK 782-791). Với những câu kinh nói trên, rõ ràng Giáo hội Công Giáo Việt Nam đã công khai bày tỏ ý muốn "phá tan đạo Phật" và công khai nhục mạ các dân tộc Đông phương, trong đó có Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc, Đại Hàn, Tân Gia Ba, Thái Lan... là những dân tộc mọi rợ! Quê hương của Phan-xi-cô là Tây Ban Nha so với những con rồng Châu Á thôi chứ chưa cần phải so sánh với Nhật Bản cũng đủ thấy cách xa nhau một trời một vực. Nếu dịch các câu kinh này ra tiếng Tây Ban Nha cho họ đọc, chắc chắn những người Tây Ban Nha có liêm sỉ phải cảm thấy xấu hổ.
Chúng ta cần phải hiểu thế nào là mọi rợ. Theo tôi thì người Công Giáo hiện nay còn đang ở trong tình trạng rất mọi rợ về tâm linh và còn lâu họ mới có thể trở thành người văn minh về phương diện này. Trước hết, họ luôn luôn mang tâm cảm là những "con chiên" tức những con cừu non (Lamb: young sheep). Giống cừu, nhất là cừu non, thường rất ngu, chúng chỉ hùa theo bày như chuyện những con cừu của Panurge mà học sinh trung học thời trước đã học qua những giờ về Littérature Francaise đều biết. Muốn trở thành người Việt Nam bình thường, người Công Giáo phải trải qua nhiều bước trong quá trình tiến hóa tâm linh mới đạt được. Bước đầu tiên họ phải gạt bỏ cái mặc cảm là bầy chiên ngu ngốc của Vatican để nhận ra nhân cách con người của mình. Nghĩa là họ phải trải qua quá trình tiến từ súc vật để trở thành người đứng thẳng (Homo Erectus).
Sau đó, họ cần phải loại bỏ cái thói xấu thích ăn thịt người (Cannibal) dù chỉ là ăn thịt người tưởng tượng khi họ xếp hàng lên phía bàn thờ cố đạo cho "Rước Mình Thánh Chúa". Phép bí tích Mình Thánh Chúa đã biến người Công Giáo thành những kẻ ăn thịt người vừa man rợ vừa ngây ngô đến tức cười sống giữa xã hội văn minh của loài người chúng ta. Cách đây vài chục năm, tôi đã có lần lên chịu lễ nhưng tôi không nuốt bánh Thánh. Tôi ra khỏi nhà thờ, nhổ bánh Thánh xuống đất và dùng gót giầy đạp lên nó. Tôi đạp lên bánh Thánh với cảm giác như mình đang hết sức đạp thẳng vào Giáo Hội Công Giáo Hoàn Vũ và giáo hoàng ở Vatican. Nhờ hành động này, tôi cảm thấy đã tiến hóa một lúc tới hai bước: Một là tôi từ bỏ thân phận làm con cừu của Vatican để "trở lại" làm người. Đồng thời tôi đã tiến một bước nhảy vọt về tâm linh từ một tên mọi rợ dã man ăn thịt người để "trở lại" thành người bình thường trong xã hội. Sau khi trở lại làm người bình thường, tôi phải học hỏi về cội nguồn dân tộc và nhận thức được giá trị rất cao của nền văn hóa nhân bản của tổ tiên chúng ta. Phải trải qua một quá trình tự giáo dục và chiến đấu với bản thân hết sức quyết liệt, tôi mới có thể cải hóa tâm linh của mình từ một tín đồ Công Giáo để tiến lên làm một người Việt Nam bình thường như mọi người Việt Nam bình thường khác. Cho tới bây giờ, tôi mới dám tự hào được làm một người Việt Nam bình thường! Khi bình tâm nghĩ lại tôi cảm thấy đồng bào Công Giáo của mình thật đáng thương vì họ còn ở trong tình tạng bán khai tâm linh mà chính họ không biết nên đã quay ngược chê dân tộc mình là mọi rợ. Thật là một sự đau xót vô cùng.
Trở lại với bài Kinh Cầu Ông Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-e, sau khi truy tìm qua nhiều sách kinh bằng Anh Ngữ, tôi nhận thấy Phan-xi-cô tuy được coi là một cộng sự viên của Loyola lập ra Dòng Tên [Dòng Tên (Jesuit) là một trong những dòng giáo sĩ hung hản của Vatican, nhất là trong phong trào đi chiếm thuộc địa.]
nhưng chỉ một mình Ignatius Loyola được Vatican lập lễ kính hàng năm vào ngày 31 tháng bảy. Phan-xi-cô không có cái vinh dự này. Trong các sách kinh Công Giáo bằng Anh ngữ đều có kinh cầu "thánh" Ignatius Loyola nhưng không có kinh cầu "thánh" Phan-xi-cô. Do vậy, tôi nghĩ rằng bài "kinh cầu ông thánh Phan-xi-cô" nói trên là sản phẩm riêng của giáo hội Công Giáo Việt Nam. Bài kinh này rất dài so với các bài kinh khác vì nó chiếm tới 10 trang trong sách Nhựt Khóa (782-791). Đọc bài kinh này, chúng ta sẽ thấy tác giả của nó là một kẻ có đầu óc u tối hẹp hòi và hoàn toàn mù tịt về tiểu sử của Phan-xi-cô Xa-vi-e (Francis Xavier). Tiểu sử của F. Xavier chứng minh rằng tu sĩ này đã thành công phần nào ở Ấn Độ là nhờ biết sống hòa mình với đám tiện dân vốn bị khinh rẻ trong xã hội theo Ấn giáo. Ông được dân địa phương có cảm tình đặc biệt vì ông đã liên tục lên án gay gắt sự vô đạo đức và thói tham lam tàn bạo của bọn thực dân Âu châu trên đất Ấn.
Phan-xi-cô sinh năm 1506 trong một gia đình quí tộc tại Tây Ban Nha. Khi lớn lên, y được cha mẹ cho đi du học Đại học Sorbonne – Paris. Tại đây vào năm 1530, y gặp tu sĩ Ignatius Loyola và đã cùng với tu sĩ này lập ra dòng Tên (có nghĩa là một dòng tu mang tên Jesus – The Jesuit Order) vào năm 1534. Từ năm 1540 đến 1548, Phan-xi-cô hợp tác với các tu sĩ Bồ Đào Nha giảng đạo ở Ấn Độ, đã dụ dỗ được trên 100.000 dân nghèo Ấn Độ theo đạo. Do công trạng này, Phan-xi-cô được Vatican tuyên dương là "tông đồ của Ấn Độ (Aspostle of India). Sau khi giảng đạo tương đối có kết quả tại Ấn Độ, Phan-xi-cô có tham vọng chinh phục Nhật Bản. Ngày 15 tháng 8 năm 1549, Phan-xi-cô Xa-vi-e đặt chân lên đất Nhật và cố gắng truyền đạo tại đây trong 27 tháng nhưng hoàn toàn thất bại vì tinh thần dân tộc của người Nhật quá cao. Phan-xi-cô Xa-vi-e quá chán nản nên đã viết thư gửi cho Ignatus Loyola như sau: "tôi nghĩ rằng chúng ta sẽ không bao giờ tìm được một dân tộc nào có thể sánh ngang với người Nhật. Họ là những người có phong độ tốt, hết sức tôn trọng danh dự là vật quí giá hơn bất cứ cái gì khác trên thế giới này. Họ chỉ nghe những điều được dẫn chứng bằng lý luận và khi ai lý luận với họ chứng minh được điều họ làm là xấu thì họ sẽ bị thuyết phục bởi lý luận đó". (It seems to me that we shall never find another race to equal the Japanese. They are a people of good manners. They are men of honor to a marvel and prize honor above all else in the world. They like to hear thing propounded according to reason and when one reasons with them, pointing out that what they do is evil, they are convinced by this reasoning – All Saints by Robert Ellsberg, The Crossroad Pub. NY - 1997, P. 528-529).
Năm 1552, sau khi để lại ở Nhật hai tu sĩ dòng Tên người bản xứ là Arima và Bungo do y đào tạo để tiếp tục truyền đạo, Phan-xi-cô một mình tìm cách nhập lậu vào Trung Quốc. Khi mới đến đảo Sancian ở ngài khơi Hồng Kông thì Phan-xi-cô đột nhiên bị bệnh và chết cô đơn tại đây ngày 3 tháng 12 năm 1552. Phan-xi-cô hiển nhiên là một nhân tài và là một tông đồ truyền giáo xuất sắc, nhưng không biết vì lý do gì, Chúa chỉ cho y được hưởng dương có 46 năm. Và dù cho Chúa có cho y được sống tới 460 năm chăng nữa chắc chắn y cũng chẳng bao giớ "phá tan đạo bụt thần ma qủy" như những tu sĩ cuồng tín Việt Nam ước mơ. Xa-vi-e được Vatican thương tình phong thánh năm 1662. Năm 1927, y được Vatican ban thêm cho tước hiệu "Thánh quan thầy của các đoàn thuyền giáo hải ngoại" (Patron of foreign missions). Có lẽ vì tước hiệu này mà xứ đạo Công Giáo người Hoa ở cuối đường Đồng Khánh – Chợ Lớn đã nhận Phan-xi-cô Sa-vi-e làm thánh bổn mạng và dựng tượng Phan-xi-cô trên tháp chuông nhà thờ của họ. Dân Saigon thường quen gọi cái nhà thờ Công Giáo Ba Tàu Chợ Lớn này là nhà Thờ Cha Tam, một địa danh đi vào lịch sử Việt Nam với cái chết thê thảm đền tội xứng đáng của anh em Diệm – Nhu năm 1963. Tạ ơn Chúa! Deo Gracias! Tiện thể tạ ơn luôn cả Thánh Phan-xi-cô cho thánh đỡ tủi.
Vào năm 1587, tại Nhật có khoảng 100.000 tín đồ Công Giáo, phần đông tập trung tại Nagasaki. Trong thời gian này, nhiều tàu chiến của Bồ Đào Nha đến xâm chiếm Nhật. Chính quyền Nhật nắm được đầy đủ bằng cớ chứng tỏ các tu sĩ và giáo dân Công Giáo làm nội ứng cho địch. Do đó, chính quyền Nhật ra lệnh xử tử bằng cách đóng đinh các tu sĩ ngoại quốc và chém giết rất nhiều giáo dân. Tuy nhiên, các tu sĩ dòng Tên vẫn tiếp tục nhập lậu vào Nhật truyền đạo. Năm 1614, chính quyền Nhật mở cuộc hành quân đợt hai do tướng Tokogawa Yagasu chỉ huy. Năm 1638, giáo dân còn sót lại ở Nagasaki nổi loạn chống chính quyền. Lần này chính quyền Nhật nhất quyết thẳng tay trừng trị nên đã ra lệnh cho tướng Iemitsu mang đại quân đến dẹp loạn đồng thời đẩy lui quân Bồ Đào Nha xâm lược. Quân Nhật giết luôn một lúc 37.000 giáo dân tại Nagasaki, đóng đinh các tu sĩ và đánh đuổi bọn xâm lược Bồ Đào Nha ra khỏi lãnh thổ. Một số tàn quân Bồ Đào Nha và giáo dân Nhật sống sót tìm cách vượt biên bằng thuyền đến tỵ nạn tại Hội An - Việt Nam. Từ đó, trong hơn hai thế kỷ, nước Nhật sạch bóng quân ngoại xâm và bọn giáo dân phản quốc (The Secret History of the Jesuits, by Edmond Paris, translated from French 1975. Chick Publications USA, p.51-52; National Geographic Magazine, Vol.182, No.1, Nov.11.1992, p.56-93: "Portugal’s Sea Road to the East").
Chiến thắng vẻ vang do quyết tâm tiêu diệt tà đạo Công Giáo của người Nhật đã bảo toàn nền độc lập và văn hóa của nước Nhật. Tinh thần dân tộc Nhật đã được hun đúc bởi Thần Đạo (Shinto), tinh thần Võ sĩ đạo (Samourai) và tinh thần Phật Giáo đã cứu nước Nhật thoát ách ngoại xâm và đưa nước Nhật lên địa vị siêu cường ngày nay. Tiểu sử của Phan-xi-cô cũng như lịch sử nước Nhật đã chứng minh không hề có chuyện Phan-xi-cô "phá tan đạo bụt thần" như tác giả thiếu trí tuệ của bài kinh đã tưởng tượng và Phan-xi-cô cũng chẳng bao giờ dám coi một dân tộc Đông phương nào là mọi rợ cả! Ngược lại, Phan-xi-cô rất tôn trọng phong tục tập quán của các nước ông ta đến giảng đạo và đó chính là yếu tố thành công của ông. Bài kinh nói trên là một bằng cớ cụ thể chứng tỏ tính vong bản nặng nề của các tu sĩ Công Giáo Việt Nam. Chúng đã mù quáng xuyên tạc tiểu sử của Phan-xi-cô và tán tận lương tâm đến mức dám cố tình nhục mạ tổ quốc và các dân tộc Đông phương là những dân mọi rợ! Các tu sĩ này thật sự là một đám cỏ dại trên cánh đồng văn hóa Việt Nam. Muốn bảo vệ cánh đồng văn hóa Việt Nam, chúng ta không thể không tính đến chuyện trừng trị đám cỏ dại nguy hiểm này. Việc đặt Công Giáo ra ngoài vòng pháp luật phải là điều đương nhiên trong giai đoạn sắp đến như nước Nga đã làm mấy năm trước đây.
5. Những câu kinh gây hận thù và chia rẽ dân tộc:
Sau hơn bốn thế kỷ xâm nhập Việt Nam, tổng số tín đồ Công Giáo cũng chỉ chiếm được khoảng 8% dân số cả nước. Cái thiểu số này đã coi 92 % còn lại của dân tộc Việt Nam là "những người ngoại đạo khinh rẻ công ơn cứu chuộc của Chúa". Kinh Cầu Cho Kẻ Ngoại có câu: "Cúi xin Chúa từ rày về sau đừng để những người ngoại đạo khinh dễ công ơn cứu chuộc, một xin Chúa nhậm lời cầu nguyện các thánh cùng hội thánh là bạn thanh sạch con Chúa mà dong thứ cho những kẻ ấy. Xin Chúa hãy nhớ lòng nhân từ Chúa mà che lấp lỗi những kẻ ấy xưa nay đã lạc đàng thờ lạy bụt thần (TNKN Bùi Chu, Hà Nội, tr.18). Tệ hơn nữa là tới năm 1971, sách Kinh Nhựt Khóa của TGP Saigon vẫn còn những câu kinh nhục mạ Phật Giáo nặng nề như sau: "Ai chẳng nghe lời Hội Thánh trong mọi việc ấy là chẳng nghe lời Chúa tôi. Tôi ước ao cho muôn vàn kẻ ngoại xứ này đặng bỏ bụt thần ma quỉ mà trở lại cùng Chúa tôi" (NK 139). Trong thực tế, chẳng có ai thờ quỷ cả, vì quỉ là những kẻ có tội bị Chúa giam cầm trong lửa hỏa ngục đời đời, như tín đồ Công Giáo đã được dạy như thế, làm gì còn quyền hành tung hoành tùy ý được. Chẳng qua là các tu sĩ Công Giáo sử dụng danh từ "ma quỉ" chỉ nhằm mục đích để hạ nhục Phật Giáo cho bỏ ghét mà thôi.
Nhưng theo kinh nghiệm bản thân của tôi thì Kinh Bản (Kinh Bổn) nguy hiểm nhất vì kinh này trước đây giáo hội buộc những người tân tòng và các trẻ em trong các gia đình Công Giáo đều phải học thuộc. Riêng kẻ viết bài này đã bị cha mẹ bắt phải học thuộc lòng từ năm lên bảy tuổi để được chịu phép xưng tội và rước lễ lần đầu. Kinh Bổn được viết theo lối vấn đáp và trước đây ở quê nhà, kinh này thường được đọc tại nhà thờ vào ngày Chủ nhật. Tôi nhớ như in câu kinh sau đây vì nó đã làm cho tôi có ác cảm với mọi người ngoại đạo trong suốt thời niên thiếu của tôi: "Hỏi: Kẻ lành là ai? – Thưa: Kẻ lành là kẻ giữ đạo nên. Kẻ dữ là kẻ chẳng có đạo và kẻ giữ đạo chẳng nên" (TNKN 325). Câu kinh này đã gây ấn tượng sâu xa trong đầu óc non nớt của tôi cho rằng mọi người không theo đạo Công Giáo đều là những kẻ ác cả? Do đó trong lòng tôi luôn luôn mang nặng một mặc cảm nghi ngờ và thù ghét mọi người ngoại đạo. Sau này, khi đến tuổi lớn khôn, tôi tự hỏi là tôi làm sao có thể sống sót được nếu tôi phải sống giữa một đất nước có tới 92% dân số là những kẻ ác? Và nếu 8% dân số Việt Nam theo đạo Công Giáo vẫn sống còn và phát triển như ngày nay thì hiển nhiên những người Việt Nam ngoại đạo không phải là những kẻ ác như kinh Bổn đã dạy! Quả thật, Kinh Bổn đã là công cụ đầu độc tinh thần trẻ thơ Công Giáo Việt Nam trong nhiều thế hệ qua, và nay cũng vẫn còn tiếp tục. Ngoài ra, người Công Giáo Việt Nam còn bị nhiễm cái định kiến của giáo sĩ ngoại quốc cho rằng "có đạo" là văn minh và ngoại đạo (Heathen) đồng nghĩa với kém văn minh (uncivilized) hay mọi rợ (barbarous). Với các định kiến sai lầm về dân tộc cũng như đối với đồng bào ngoại giáo do các sách kinh nguyện đầu độc, tập thể Công Giáo Việt Nam vĩnh viễn xa rời dân tộc và vĩnh viễn bị coi như cùi hủi đáng ghê tởm trên quê hương mình. Các sách kinh nguyện đã biến tập thể Công Giáo thành một đám người xa lạ không hồn, chẳng những sống gửi vô ơn trên quê hương Việt Nam mà còn luôn luôn sẵn sàng làm nội ứng đắc lực cho đủ loại kẻ thù của Tổ Quốc.
6. Những bài kinh nguyện sặc mùi văn hóa du mục Do Thái – Ả Rập đã biến tập thể Công Giáo Việt Nam thành một giáo hội súc vật hèn hạ:
Như đã trình bày ở trên, nếu cứ nhìn theo bề ngoài thì ta thấy mọi người Công Giáo đều là những người bình thường, nhưng sự thật bên trong họ là những tim óc bán khai. Họ không phải là bán khai sao được khi họ còn ham đến nhà thờ để được ăn thịt uống máu Chúa (cannibal). Nam nữ tín đồ ăn thịt uống máu (Chúa) cho đả để rồi sau đó nam nữ tín đồ bài tiết Chúa ra ngoài qua lối cửa trên hoặc cửa dưới um tùm. Thấy phát khiếp.
Do hậu quả của sự tự kỷ ám thị, những bài kinh sặc mùi văn hóa du mục đã biến các tín đồ Công Giáo thành một đàn cừu non và hạng tu sĩ đương nhiên trở thành những "chủ chăn" của họ. Đầu óc ô nhiễm giáo lý Công Giáo của họ u tối như đêm ba mươi không đèn không đóm nên họ không thấy điều đó là nhục. Trong khi đó, các tu sĩ cao cấp như giám mục , hồng y, giáo hoàng cứ tưởng mình là những "đấng" chăn cừu chăn dê thật nên mỗi khi làm lễ, chúng thường cầm cây gậy mạ vàng tượng trưng cho cây gậy của những kẻ mục đồng trên những đồng cỏ hoang dã ở Do Thái – Ả Rập xưa kia. Dưới con mắt của tu sĩ cao cấp này, đoàn giáo dân chỉ là một bầy súc vật để cho chúng ăn thịt. Kinh Dâng Cõi Đông Dương cho Đức Nữ Đồng Trinh Maria có câu: "Sau nữa, vì công nhiệp, Đức Mẹ chuyên cầu, xin cho cả dân cõi Đông Dương nhờ có máu châu báu của con Đức Mẹ đã đổ ra mà cứu chuộc, thảy đều nên một ràn cùng một kẻ chăn." (NK 170-172).
Trong sách kinh Công Giáo Việt Nam đầy dẫy những câu kinh nhồi sọ giáo dân tinh thần nô lệ mù quáng khiến họ chỉ biết cúi đầu tuân phục mọi mệnh lệnh của Vatican và tuyệt đối tin tưởng vào một điều quái đản là "giáo hoàng La Mã không thể sai lầm". Chẳng hạn như trong kinh Phạt Tạ Rất Thánh Trái Tim Đức Chúa Giê-xu có câu: "Chúng tôi xin đền tội chung cho các nước thiên hạ hằng chống cưỡng cùng chẳng vâng phục lời Hội Thánh Chúa truyền dạy" (N 130-131). "Ai chẳng vưng lời Hội Thánh truyền dạy trong mọi việc là chẳng vưng lời Chúa tôi" (NK 137). "Chính đấng cai trị ở trên trời là Đức Chúa Giê-xu và đấng ở dưới đất cai trị các giáo hữu khắp thế gian là Đức Giáo Hoàng ở thay mặt Đức Chúa Giê-xu... Đức Chúa Trời hằng gìn giữ Đức Giáo Hoàng cho nên chẳng có lẽ nào sai lầm được" (TNKN 126-127). Tập thể giáo dân trở thành một bầy con chiên tức bầy cừu non dại hoàn toàn tùy thuộc vào sự lãnh đạo của hệ thống tu sĩ đứng đầu bởi giáo hoàng.
Giáo hoàng và bộ tham mưu đầu não trung ương của thế giới Công Giáo đặt tại Vatican. Bộ tham mưu địa phương của chúng nằm vùng tại các quốc gia có tín đồ Công Giáo là các Hội Đồng Giám Mục. Tại nước ta, HĐGMVN trụ sở đặt tại số 40 phố Nhà Chung, Hà Nội, là bộ tham mưu của bọn Việt gian nằm vùng thường trực trong lòng dân tộc Việt Nam. Mọi mệnh lệnh của Vatican ban ra đều được ban tham mưu này răm rắp thi hành, miễn sao phục vụ tối đa quyền lợi của Vatican, chẳng bao giờ quan tâm đến quyền lợi và danh dự của dân tộc. Các sách kinh nguyện là những công cụ chiến tranh tâm lý hữu hiệu của Vatican nhằm đầu độc tinh thần giáo dân và biến họ thành một lực lượng chính trị của Vatican mai phục sẵn trong lòng dân tộc Việt Nam. Điều nguy hiểm là lực lượng chính trị này đồng nhất, đa số là những tim óc bán khai và hung hăng cuồng tín, cho nên kẻ lưu manh quốc tế ở Vatican rất dễ dàng xử dụng họ để tha hồ thao túng lũng đoạn nội bộ nước ta. Các sách kinh nguyện thực sự đã trở thành những trái mìn cài sẵn trong mọi ngóc ngách của căn nhà Việt Nam.
7. Các lời cầu nguyện của GH Jean Paul II trong lễ phong thánh cho 117 tử đạo Việt Nam năm 1988 tại Vatican có nội dung vinh danh hay mạ lỵ người Công Giáo Việt Nam?.
Các sách kinh Công Giáo đều có những "kinh cầu các thánh tử đạo Việt Nam". Nhưng các kinh ngày thường chỉ là những lời ca tụng suông mà thôi. Phải đợi đến khi giáo hoàng Jean Paul II tuyên đọc những lời cầu nguyện để tôn vinh 117 tử đạo Việt Nam ngày 19 tháng 6 năm 1988 [Trong Tòa "Thánh" Vatican có một số giáo sĩ người Việt, họ đã vận động cố tình chọn ngày 19-6 với mưu đồ chính trị. Đó là ngày của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.]
tại Vatican, chúng ta mới có thể hiểu được những người tử đạo Việt Nam đã chết cho ai và với mục đích gì. Trong bài kinh phong thánh có những câu sau đây:
"Các Ngài là niềm vinh quang của Jerusalem
"Là nỗi vui mừng của Israel
"Và là vinh dự của dân tộc Việt Nam!
Tôi dám quả quyết rằng ngoài một thiểu số tín đồ Công Giáo cuồng tín ra, tuyệt đại đa số người Việt ở trong nước cũng như tại hải ngoại chẳng có ai cảm thấy một vinh dự nào trong việc Vatican phong thánh cho 117 tử đạo Việt Nam. Trái lại, sự phong thánh đó chỉ làm cho người Việt Nam gai mắt vì bị coi là một hành vi khiêu khích đối với cả một dân tộc. Bởi lẽ người Việt Nam không quên rằng sự du nhập đạo Công Giáo đã là nguyên nhân chính yếu đưa dân tộc Việt Nam vào vòng nô lệ thực dân Pháp trong hơn 80 năm đau thương ô nhục!. Chính những người tử đạo đã là nguyên nhân gây hận thù và chia rẽ dân tộc mà hậu quả là việc thành lập các lực lượng cuồng tín hiếu sát của Tự Vệ Công Giáo ở Phát Diệm, Bùi Chu, Thái Bình và Lực Lượng Tự Vệ Công Giáo ở Miền Nam Việt Nam, gọi tắt là UMDC (Unités Mobiles de Defense des Chrétiens) trong công cuộc chiến tranh Việt-Pháp 1946-1954.
Trong cuộc chiến tranh tái chiếm thuộc địa của thực dân Pháp 1946-1954, các giám mục Việt gian Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi đã ra sức phục vụ cho thực dân tại miền Bắc dưới chiêu bài chống Cộng Sản vô thần. Sau 1954, Lê Hữu Lễ và đàn em là Hoàng Quỳnh tiếp tục phục vụ quyền lợi của thực dân pháp tại Việt Nam bằng cách hợp tác với đại tá Le Roy, Tổng chỉ huy UMDC và đảng cướp Bình Xuyên. Từ 1954 đến 1963, người Công Giáo huênh hoang tự phong cho mình là những người chống cộng hàng đầu. Họ đã điên cuồng chống cộng không phải vì yêu nước hay vì chính nghĩa quốc gia mà chỉ để phục vụ cho chủ trương chống cộng cực đoan của giáo hoàng Pio XII (1939-1958). Pio XII là tên trùm của siêu quyền lực Mafia. Trước khi lên ngôi giáo hoàng, Pio XII đã sống nhiều năm ở Đức. Mặc dầu là người Ý, nhưng rất thông thạo về mọi vấn đề của Đức quốc và nói tiếng Đức như tiếng mẹ đẻ. Trong thế chiến thứ hai, Pio XII đã góp công đặc lực cho Hitler tiêu diệt Do Thái. Hiện nay tại bảo tàng viện Bronx (New York) có một gian hàng triển lãm tội ác của Pio XII với một tấm bảng ghi: "Tên đồ tể Quốc xã tại Rome" (The Nazi butcher at Rome). Pio XII là một giáo hoàng rất cuồng tín đã ra lệnh cho giáo phận Bùi Chu lập Dòng Đồng Công trong thập niên 1940 do LM Trần Đình Thủ đứng đầu. Pio XII tích cực hỗ trợ thực dân Pháp tái chiếm Việt nam. Năm 1954, chính y đã kêu gọi Mỹ ném bom nguyên tử xuống Bắc Việt để cứu Pháp nhưng người Mỹ đã bác bỏ đề nghị này của y.
Sau khi Pio XII chết vào năm 1958, các giáo hoàng kế nhiệm là John XXIII (58-63) và Paul VI (63-78) đã quay ngược 180 độ bắt tay với Liên Xô. Đầu thập niên 1960, John XXIII móc nối với Hồ Chí Minh để thiết lập chính phủ trung lập tại Nam Việt Nam và hợp tác với Kennedy sát hại anh em Ngô đình Diệm năm 1963. TGM Ngô Đình Thục suốt đời làm thân khuyển mã cung cúc phục vụ quyền lợi của đế quốc thế tục Pháp và đế quốc tinh thần Vatican nhưng đã bị bỏ rơi tàn nhẫn. Vatican (sau Công đồng tháng Mười 1962) đã không ngần ngại ban cho tên tổng giám mục Việt gian này án phạt tuyệt thông, đó là một hình phạt nặng nề và nhục nhã nhất đối với một tín đồ Công Giáo. Ngày 30.1.1967, GH Paul VI tiếp thủ tướng Liên Xô tại Vatican. Cũng trong thời gian này (65-67), LM Hoàng Quỳnh và hàng chục ngàn giáo dân liên tục biểu tình phá rối trị an tại Nam Việt Nam, nhất cử nhất động đều răm rắp theo lệnh của Vatican! Ngày 12.11.1974, LM Hoàng Quỳnh cùng với gán điệp CS Vũ Ngọc Nhạ đến Củ Chi họp mật với MTGPMN để lập Thành Phần Thứ Ba trong chính phủ liên Hiệp theo như hiệp định Paris dự liệu. Sau 1975, GH Paul VI đã ban thưởng huy chương cho gián điệp Vũ Ngọc Nhạ và không thèm đếm xỉa gì đến các chiến sĩ QLVNCH chống cộng đang nằm trong các trại tù cải tạo. Giới trí thức Công Giáo hoàn toàn nín khe không dám nói nửa lời chống lại các hành vi phản bội trắng trợn này của Vatican đối với Việt Nam Cộng Hòa. Vậy mà tại hải ngoại, bất cứ ai lên tiếng đả kích Công Giáo về bất cứ vấn đề gì, luôn luôn bị nhóm trí thức Công Giáo này gán ngay cho cái mũ Cộng Sản vô thần.
Nhưng sự thật lịch sử xưa và nay đều chứng minh rằng tập thể Công Giáo Việt Nam chỉ là một bầy cừu hèn hạ luôn nép mình dưới cái gậy chỉ huy độc đoán và cực kỳ nham hiểm của Vatican. Vì cuồng tín, họ đã tự biến mình thành một tập thể Việt gian luôn luôn có hành động đi ngược lại quyền lợi của dân tộc. Trách nhiệm hàng đầu thuộc về cái gọi là Hội Đồng Giám Mục. Xét cho cùng, mọi hành vi xuẩn động phản quốc của tập thể Công Giáo là do hậu quả của những bài kinh cầu xin Chúa cho làm súc vật: "Xin Chúa hãy lùa tôi vào một đoàn cùng các con chiên Chúa." NK 721). "Vì công nghiệp Đức Mẹ chuyển cầu, xin cho cả dân Đông Dương (Indochine Francaise) thảy nên một ràn cùng một kẻ chăn" (NK 170-172). Thiên Chúa là đấng thiêng liêng chẳng thấy đâu, cho nên đoàn chiên gọi là của Chúa trong thực tế chỉ là một bầy cừu khờ dại của Vatican!.
Tu sĩ Công Giáo Việt Nam là những kẻ đốn mạt tự nguyện từ bỏ tư cách làm người để hạ mình ngang hàng súc vật. chỉ có tín đồ cuồng tín mới tôn họ lên làm "Các Vị Lãnh Đạo Tinh Thần" và tâng bốc gọi họ là Cha, Đức Cha, Đức Ông hoặc Các Đấng Bề trên mà thôi. Các tu sĩ Công Giáo hay ghi nhớ nằm lòng những điều đó và chấm dứt ngay hành vi láo xược xưng Cha xưng Ông với những người Việt Nam ngoại giáo. Trình độ nhận thức của dân tộc Việt Nam ngày nay về thực chất của đạo Công Giáo đã khác xa với thời Ngô Đình Diệm và tấm gương sáng oanh liệt Nagasaki của Nhật Bản thế kỷ 16-17 sẽ được dân tộc Việt Nam học tập. Sống trên quê hương Việt Nam, những người Công Giáo chỉ biết ca ngợi hết lời đối với quân cướp nước và bán nước rồi quay đầu lại nhục mạ dân tộc mình là mọi rợ. Các người mù quáng đến độ Giáo hoàng Jean Paul II đã chưởi khéo mà các người không biết.
Lời cầu nguyện của GH John Paul II trong lễ phong thánh cho 117 tử đạo năm 1988 đã cho chúng ta thấy rõ là những người tử đạo đó đã hy sinh tính mạng nhằm phục vụ cho ai: "Người là niềm vinh quang của Jerusalem, là nỗi vui mừng của Israel!". Thật rõ ràng là họ đã chết không phải vì dân tộc Việt Nam mà vì Jerusalem và Israel! Chúng ta hãy tự hỏi: Cái thành phố Jerusalem kia có liên quan gì đến dân tộc Việt Nam mà 117 kẻ tử đạo đã phải chết để đem lại vinh quang cho nó? Ngay cái thành phố này tự nó đã là hiện thân của sự chia rẻ tôn giáo đáng nguyền rủa, hà cớ gì người Việt Nam lại phải đem sinh mạng của mình để lo cho vinh quang của nó? Báo Washington Post ngày 25.3.2000 loan tin GH Jonh Paul II đến nhà thờ The Holy Sepulbsher tại Jerusalem làm lễ đã kêu gọi bảy giáo phái Ki-tô Giáo tại thành phố này hãy xóa bỏ hận thù chém giết lẫn nhau trong nhiều thế kỷ qua để hợp nhất trong tinh thần anh em cùng cha là Chúa Ki-tô. Nhưng trong khi GH John Paul II làm lễ thì các nhà thờ thuộc các giáo phái Ki-tô khác đã khua chuông ầm ĩ để phá đám! Một giới chức trong phái đoàn của giáo hoàng đã phải thở dài và than rằng: "Phương cách này là một cuộc chiến!" (This process is a battle) và John Paul II cũng đành thú nhận: "Từ xưa đến nay, tôn giáo vẫn được xử dụng làm phương tiện cho sự chia rẽ và chiến tranh" (Religion has been used as a means for division and war). Như vậy rõ ràng Jerusalem là một chứng tích hùng hồn về sự thất bại của cái gọi là "công ơn cứu chuộc của Chúa Jesus" và là biểu tượng nhục nhã của chiến tranh tôn giáo đã gieo rắc biết bao thảm họa cho nhân loại trong 2000 năm qua. Cả hàng triệu tử đạo trên khắp thế giới cũng không đủ sức đem lại một chút xíu vinh quang nào cho Jerusalem huống hồ 117 tử đạo cắc ké Việt Nam?
Mọi người Việt Nam ngoại giáo rất ngạc nhiên vì không thể hiểu nổi tại sao người Công Giáo Việt Nam lại phải đổ máu cho nỗi vui mừng của Israel?. Các đây 4000 năm, cháu nội của Abraham là Jacob đã đặt tên cho nước Do Thái là Isra-El để vinh danh con bò thần tên EL. Chẳng lẽ cái chết của 117 tử đạo Việt Nam chỉ để mang lại niềm vui cho dân tộc thờ bò? Người Việt Nam vẫn thường quan niệm con bò là biểu tượng của sự ngu đốt, vì vậy tục ngữ Việt Nam có câu: "ngu như bò". Không có một trường hợp nào có thể áp dụng câu tục ngữ này thích hợp cho bằng trường hợp những người Việt Nam tử đạo "vì vinh quang của Jerusalem và vì nỗi vui mừng của Israel". Thật đau buồn để phải nhận ra rằng máu bò Do Thái còn quí hơn máu tử đạo Việt Nam bội phần! Do đó, những lời cầu nguyện của Giáo hoàng Jean Paul II đọc trong lễ phong thánh cho 117 tử đạo Việt Nam năm 1988 thực chất là những lời nhục mạ Công Giáo Việt Nam! Bà Joanne Meehl viết: "bỏ đạo là từ chối làm kiếp con bò" (refusing to be a cow) thật là chí lý!
 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét