Hà Nội, Việt Nam
Chủ Nhật, 9 tháng 2, 2014
Một cách nhìn mới về văn hoá Việt Nam thông qua việc so sánh với văn hoá Nhật Bản
04:20
Hoàng Phong Nhã
No comments
Nhân
đọc Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá của Vĩnh Sính
Vương Trí Nhàn
Hà Nội, Việt Nam
Hà Nội, Việt Nam
Qua người hiểu mình
là một trong những con đường nhận thức được nhiều người công nhận là cần thiết
và “có triển vọng”, tức có khả năng tạo nên hiệu ứng có giá trị đích thực đối
với những chủ thể đang muốn tự hiểu về mình.
Nhưng lâu nay ở Việt Nam, việc làm này có nhiều
chỗ khó. Do những lý do thuộc về địa lý và lịch sử, dân ta thường ít đi rộng ra
ngoài mảnh đất sinh sống, từ đó những hiểu biết của mỗi chúng ta về những xứ sở
khác, những con người khác, thường thiếu hệ thống thiếu toàn diện, không đủ giúp
ta có dịp tốt để đối chiếu so sánh. Mặt khác ta chưa sẵn sàng muốn tái khám phá
bản thân. Ta quá tự tin, và tưởng sự mình biết về mình đã quá đủ, không mấy ai
ngồi tính xem cần đi đâu thêm, hỏi thiên hạ thêm điều gì nữa.
May thay, vào những ngày này, những hạn chế ấy có
điều kiện để khắc phục. Người Việt có mặt trong khắp thế giới hòa nhập vào đời
sống khoa học quốc tế, từ đó có dịp nhìn về quê hương mình sáng rõ hơn.
Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá[1]
là một tập sách có nội dung khá phong phú. Có bài khái quát Vị trí lịch sử
của Trung quốc đối với Việt Nam và Nhật Bản hoặc đề cập tới Trục giao lưu
văn hoá Nhật Bản Trung quốc Việt Nam vào đầu thế kỷ XX. Có bài giới thiệu
về các nhân vật của lịch sử Nhật như Fukuzawa Yukichi và Asaba Sakitarô, những
người mở đầu nền mậu dịch Nhật Việt như Suminokura Ryooi và Yoichi. Có bài so
sánh những bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ với những đề án có tính cách khải
mông của những học giả trong hội trí thức Meirokusha. Có bài giới thiệu
tác phẩm cổ điến văn học Nhật như bản dịch Lối lên miền Oku của Matsuo
Bashô.
Đằng sau những câu chuyện cụ thể ấy, theo ý tôi,
phần nội dung có tính chất nền tảng của tập sách lại là những nhận thức của tác
giả về một số khía cạnh cấp bách của văn hoá Việt Nam, quá trình nhận thức này
được tiến hành thông qua việc so sánh với quan niệm về những vấn đề đó ở Nhật
Bản.
Dưới đây tôi xin phép trình bày một ít thu hoạch
rút ra từ Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá. Nếu cách đọc của tôi
không trùng với cách đọc của nhiều người, thậm chí không trùng với cách đọc mà
chính tác giả đề nghị, thì xin cũng được coi là điều bình thường.
Mối quan hệ
giữa lòng yêu nước và nhu cầu chung sống với thế giới
Một trong những bài viết quan trọng nhất của tập
sách này là dành để đề cập tới “Quan niệm về độc lập quốc gia của Việt Nam
và Nhật Bản thông qua trường hợp Phan Bội Châu và Fukuzawa”.
Xuất phát từ nhu cầu mở cửa đất nước trong thời
đại toàn cầu hoá, nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam gần đây đã trở lại với tình hình
đầu thế kỷ XX, trong đó có trường hợp Phan Bội Châu và phong trào Đông Du do
Phan khởi xướng. Nhưng cách chúng ta giới thiệu còn chung chung và cũ. Hoặc nói
nhiều tới các hoạt động hơn là tìm hiểu tư tưởng Phan Bội Châu. Hoặc cũng đề cập
tới những quan niệm có tính cách mạng, chẳng hạn tư tưởng dân chủ mà Phan tiếp
nhận được, song không đi vào phân tích cụ thể, trong mối liên hệ với các quan
niệm thiết yếu khác. Còn trong
Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá,
Vĩnh Sính có điều kiện lần tới những vấn đề cơ bản đặt ra với cả xã hội ta đầu
thế kỷ XX. Ông bắt đầu từ quan niệm về quốc gia của nhà cách mạng Việt Nam, và
lấy nhà tư tưởng hàng đầu của nước Nhật là Fukuzawa để so sánh.
Theo cách trình bày của Vĩnh Sính, đặc điểm của
lòng yêu nước ở Fukuzawa (1834-1901) là tính chất lý trí của nó. Lòng yêu nước
ấy được thận trọng chuyển hoá vào trong công việc suy nghĩ và nghiên cứu.
Fukuzawa quan niệm : Khi người nước ngoài tới, trước tiên ta phải tìm hiểu họ,
xem họ như thế nào, có gì khác mình giống mình, tại sao họ lại đến được nước
mình. Phải thấy về lâu dài, một nước thả nào cũng tìm được tiếng nói chung với
các nước khác trên thế giới. Cái gì mình chưa biết thì phải học, học để trở nên
văn minh. Công thức tóm tắt “ Phương sách giữ gìn độc lập không thể tìm đâu
ngoài văn minh… Độc lập quốc gia là mục tiêu và nền văn minh quốc dân là phương
tiện để đạt được mục tiêu đó” (tr. 152).
Từ trường hợp của Fukuzawa,Vĩnh Sính đưa ta quay
trở lại soi tỏ trường hợp Phan Bội Châu. Trong khi chăm chú vào công việc cấp
bách, Phan ít có cái nhìn rộng ra ngoài. “Phan không bao giờ có ý định tìm hiểu
về người Pháp và nước Pháp”, “Nhận thức về quan hệ quốc tế của Phan vừa lỗi thời
vừa chủ quan.” ( tr. 299 ). Ông không nhận chân được tình hình chính trị phức
tạp và đa dạng của thế giới cận đại cùng những nguyên nhân đã đưa Nhật Bản và
các nước phương Tây lên địa vị phú cường. Ngay đối với nước Nhật mà ông muốn cậy
nhờ, sự hiểu biết của ông cũng “sơ sài, chủ quan và nông cạn” (tr. 148). Ông sẽ
chẳng lặn lội đi đâu, nếu ở trong nước mà cứu được nước. Với ông kẻ thù đến là
đánh, dùng biện pháp gì để đánh cũng được, bất cứ giá nào cũng chấp nhận miễn là
thành công. Trong bức tranh toàn cảnh về một đất nước Việt Nam như Phan mong
muốn, điều quan trọng là nhất thiết không có cường quốc bảo hộ, ngoài ra các vấn
đề quan hệ đối ngoại không được đặt ra.[2]
Trong khi Fukuzawa chủ trương chấp nhận trật tự
thế giới lúc bấy giờ và từng bước canh tân Nhật Bản theo mô hình các nước phương
Tây, thì Phan Bội Châu có xu hướng thiên về ảo tưởng, và cả sự manh động, với hy
vọng “đảo ngược thời cuộc” (tr. 143 -144). Lòng yêu nước ở ông có phần đơn giản.
Nó dựa trên tình cảm hơn nhận thức. Đúng hơn có thể mượn lời Phan Châu Trinh[3]
mà nói thẳng Phan Bội Châu là một nhà đại hào kiệt “có lòng thương nước” nhưng
đã “không biết cái đạo thương nước” (tr. 302 ). Nguồn gốc của những thất
bại của Phan một phần bắt nguồn từ đấy chăng ? Nhưng chẳng phải là nhờ thế, nó
lại có ích cho chúng ta hôm nay như một vết xe đổ phải tránh?
Không khó khăn gì lắm, có thể tìm ngay ra được rất
nhiều nhân tố để bảo rằng nhà khai sáng Nhật Fukuzawa có gì đó may mắn hơn Phan
Bội Châu: Đất nước Phù Tang không bị rơi vào ta kẻ xâm lược, mà chỉ có vài hiệp
ước bất bình đẳng buộc phải ký. Và người dân của đất nước ấy đã trải qua nhiều
cuộc tiếp xúc khôn ngoan, nhiều bước giác ngộ sâu sắc để có sự trưởng thành trên
nhận thức, cũng như bản thân Fukuzawa sớm có dịp tìm hiểu văn hoá nước ngoài và
các mối quan hệ quốc tế một cách khoa học. Còn với Phan Bội Châu, dân trí
thấp kém là một tình trạng có thật, nếu cứ chờ dân trưởng thành thì không bao
giờ giải quyết được công việc. Những hạn chế của Phan chính là hạn chế của dân
tộc khi chưa chuyển sang thời hiện đại.
Những liên hệ với tình
hình trước mắt
Cần nhớ là bên cạnh lòng
yêu nước theo kiểu kịch liệt và thiên về bạo động của Phan Bội Châu, đương thời
còn có lòng yêu nước trước tiên đặt vấn đề phải nâng cao dân trí học hỏi phương
Tây rồi hãy làm tiếp, một cách yêu nước mới mẻ và khó khăn mà Phan Châu
Trinh là đại diện.
Nghĩa là cách nghĩ như của
Phan Bội Châu không phải là định mệnh.
Trong khi đó thì cho tới
hôm nay, nhiều người chúng ta lại gần như chỉ chấp nhận một cách nghĩ như thế và
xem nó là duy nhất đúng. Lòng yêu nước bị chúng ta tuyệt đối hoá.Ta chỉ cho nó
có một cách hiểu. Ta xem nó thiêng liêng nên không cho phép ai được bàn thêm,
mọi sự bàn bạc đều bị xem là báng bổ có lỗi. “Quốc dân không có chí khí độc
lập, không có tinh thần tự do thì lòng yêu nước cũng hàm hồ nông cạn, vô trách
nhiệm”: Một cách nói rất dứt khoát như thế – Fukuzawa đã viết trong cuốn
Khuyến học – đối với chúng ta dễ gây sốc. Yêu nước thì bao giờ cũng tốt đẹp
chứ làm sao lại có thứ yêu nước hàm hồ nông cạn và vô trách nhiệm? – ta nghĩ
đơn giản vậy. Tóm lại, ta để cho lòng yêu mến và kính trọng với Phan Bội Châu
bao trùm tất cả dẫn đến suy tôn một chiều, mà không tìm cách nhận thức và đánh
giá lại, và tìm ra cái cách yêu nước mà thời đại đang đòi hỏi.[4]
Mỗi khi cần đặt Phan Bội Châu bên cạnh Phan Châu Trinh thì bao giờ cảm
tình của
chúng ta cũng nghiêng về Sào Nam, và nhiều người lại còn có cái nhìn gọi
là “mang nhiều thông cảm” với sự ngây thơ của Tây Hồ (!).
Ở đây có một lý
do sâu
xa. Nửa thế kỷ qua, tư tưởng của Phan Bội Châu là một trong số không
nhiều những
tư tưởng chi phối sự vận động của xã hội Việt Nam. Nay là lúc những mơ
ước cháy
bỏng của Sào Nam đã được thực hiện. Nghĩ lại về ông, người ta cho rằng
ông chỉ
thất bại vì không biết tổ chức quần chúng. Chứ đúng ra Việt Nam giành
được độc
lập một phần là nhờ kiên trì tư tưởng của ông. Từ đó khái quát lên, cách
hiểu về
lòng yêu nước của Phan trở thành một di sản chỉ cho phép nói tới với
niềm tự hào
và lời hứa nhất nhất tuân theo. Bảo rằng nhiều nhân vật nổi tiếng trong
lịch sử
có thể rất yêu nước nhưng vẫn “không biết cái đạo thương nước” thì nhiều
người
sẽ giãy nẩy lên,và sẵn sàng hạ một câu xanh rờn “về yêu nước thì không
ai phải
dạy cho người Việt”. Vâng, về căn bản, đó là những ý nghĩ thường trực
trong ta! Có thể có một lúc nào đó, một số chúng ta cũng bắt đầu mang
máng cảm thấy rằng
yêu nước theo kiểu ấy ngày nay là không đủ nữa. Nhưng chết nỗi nó là cả
một kỷ
niệm đẹp, là tuổi trẻ oai hùng của cộng đồng và người ta không muốn tự
làm phiền
mình, không muốn nghĩ lại mọi sự. Ngay cái chỗ mà Phan Bội Châu về sau
phản
tỉnh, tự cho là mình sai, và người sau nên rút kinh nghiệm để tránh
(Vĩnh Sính
đã dẫn ở tr. 302), thì chúng ta vẫn cứ ngần ngại, không dám vạch rõ sự
thật. Bởi
Phan thời đang hoạt động giống chúng ta quá! Sự dừng lại của Phan lúc ấy
góp
phần củng cố sự trì trệ của chúng ta hôm nay.[5]
Như thế đấy,
tuy không
nói ra một cách rành mạch, nhưng đằng sau các dòng chữ, có cảm tưởng là
cái thực
trạng của nhận thức và tâm lý sau chiến tranh được Vĩnh Sính hiểu khá kỹ
càng. Ở
chỗ nhiều nhà nghiên cứu chỉ biết ca ngợi một chiều và lảng tránh đi vào
thực
chất, thì ông đi tiếp. Bằng cách đó, Vĩnh Sính cho thấy sự có mặt của
ông là cần
cho mọi người. Từ thực tế Nhật Bản, ông giới thiệu với chúng ta một tinh
thần
yêu nước theo nghĩa hiện đại, nó là thứ tình cảm được soi rọi dưới ánh
sáng của
lý tính, tức là được đặt trong mối quan hệ với một quan niệm mới mẻ về
độc lập
quốc gia. Thứ nữa, đây không phải là thứ lý tính với nghĩa tư biện hoặc
ra vẻ
uyên bác mà là thứ lý tính thâu tóm được bản chất để trở thành tinh hoa
của đời
sống. Cần chú ý rằng khi nói về Fukuzawa, Vĩnh Sính ghi nhận đây là con
người “vừa yêu nước nồng nhiệt vừa có những nhận thức thực dụng sắc
bén” (tr. 149 ),
thực dụng với nghĩa “ không câu nệ bởi những lý tưởng chính trị hay ý
thức hệ xa
vời để lỡ mất thời cơ” (tr. 151). Lời đề nghị của tác giả Việt Nam và Nhật
Bản giao lưu văn hoá đã quá rõ, vấn đề chỉ còn ở chỗ chúng ta có nghe ra hay
không thôi.
Về
một khía cạnh tâm lý dân tộc đang là rào cản cho quá trình hòa nhập của Việt Nam
với thế giới
Ngoài trường hợp Fukuzawa nói trên, một người Nhật
khác được giới thiệu trong tập sách tương đối kỹ là Shiba Ryôtarô (1923-1996).
Theo cách nói của Vĩnh Sính, ông là một trong những tác giả đại diện cho nước
Nhật và một trong những người viết sử có ảnh hưởng nhất ở Nhật. Ông có viết
riêng một cuốn sách ở đó quá trình lịch sử Việt Nam được phân tích khá sắc bén.
Trong một nhận xét ngắn gọn rằng ở Việt Nam, “làng xã vẫn là một đơn vị xã hội
có tầm quan trọng hơn nhà nước (tr. 280), người ta nhận ra một nhân tố gốc, nó
quy định trình độ phát triển của xã hội chúng ta, nó là nguyên nhân cắt nghĩa
nhiều thành công cũng như thất bại của chúng ta hôm nay. Trên đường đi vào tâm
lý dân tộc, nhà nghiên cứu Nhật không quên ghi nhận người Việt có một số căn
bệnh chưa biết bao giờ mới chữa nổi, như cái tình trạng thiếu tinh thần hợp tác
với nhau để làm việc chung; đặc biệt, theo Shiba Ryôtarô, một khuynh hướng của
người Việt là “xem dân tộc mình ưu việt so với người dân tộc khác” (tr.
288 –289), do đó là một sự cản trở đối với việc học hỏi và chung sống với thế
giới.
Vậy là không chỉ
quan niệm yêu nước mà nhiều vấn đề khác của văn hoá Việt Nam cũng được Vĩnh Sính
mang ra so sánh với Nhật (hoặc với Hàn quốc). Việc giao thiệp với các nước
ngoài, đúng hơn cái khả năng của một quốc gia trong việc tiếp nhận và làm giàu
thêm cho mình bằng việc nhận thức tình thế và sẵn lòng chung sống với thế giới
chung quanh – cái khả năng mà ông từng nói
trong bài về Phan Bội Châu – được Vĩnh Sính trở
lại nhiều lần, dưới nhiều hình thức, cả bao quát lẫn cụ thể. Bao quát thì như
trong bài viết về Minh Trị duy tân, ông khái quát là phải tri kỷ tri bỉ
để đưa đất nước tiến lên đài văn minh. Cụ thể thì như ở trang 159, ông đưa ra
một bảng thống kê về lượng sách Anh, Pháp, Hà Lan được dịch ở Nhật tính đến thập
kỷ cuối cùng thế kỷ XIX, qua đó không chỉ cho thấy tình trạng tiếp thu văn hoá
nước ngoài của Nhật, mà cả cái cách họ tiếp nhận nữa. Họ không chỉ dịch sách văn
học, cụ thể là mấy cuốn tiểu thuyết thời danh, để ra vẻ mình cũng cập nhật tình
hình, theo sát thế giới (!). Cái mà họ ưu tiên hơn là sách học thuật, tức các
lĩnh vực của khoa học xã hội. Đối chiếu với tình hình Việt Nam vào thời Tự Đức,
chúng ta đủ nhận ra sự chậm trễ là đến mức nào. Hơn nữa,đó không phải chỉ là kém
cỏi trong số lượng mà là sự tụt hậu trong trong thang bậc của nhận thức, một
điều đến nay vẫn còn tiếp tục diễn biến, và chưa biết bao giờ mới thay đổi được.
Khác với các tiểu luận nói
trên, Thiên kỷ III đang mỉm cười có dáng dấp mấy trang sổ tay, ở đó Vĩnh
Sính chỉ kể lại ít điều ông ghi nhận được từ một hội nghị văn hoá châu Á tổ chức
ở Hàn quốc vào tháng 11-1998. Song sự định hướng của Vĩnh Sính trước sau là nhất
quán. Công thức mà ông đề nghị bao giờ cũng bao gồm hai vế (1) mở cửa ra với
thế giới, và (2) biết mình biết người, chỉ có đủ hai vế đó thì mới bảo đảm cho
tiến bộ. Chẳng hạn, khi bàn về giáo dục, trước hết ông nhắc lại ý kiến của học
giả Trung Quốc Hà Phương Xuyên là vươn lên tầm thời đại, chuẩn bị hành trang cho
cuộc giao lưu văn hoá. Rồi ngay sau đó ông dừng lại khá kỹ ở một thứ chủ nghĩa
quốc gia văn hoá, hay gọi đích danh ra là một thứ “chủ nghĩa sô-vanh văn hoá”
cần phê phán. Nguyên đây là một ý trong bài phát biểu của giáo sư Hàn quốc Park
Seong Rae. Ông này thẳng thắn bàn về Hội chứng độc lập (independence syndrome)
hay nói nôm na là “bệnh độc lập” của người đồng bào mình. Theo Park Seong Rae
“nếu người Hàn quốc càng nhấn mạnh độc lập văn hoá của nước họ đối với các nước
láng giềng (Nhật Bản và Trung Quốc) – chẳng
hạn như cảm xúc nghệ thuật độc đáo của người Hàn quốc
– thì chính bản thân họ lại càng phải chịu thiệt thòi
nhiều hơn” (tr. 336). Liên hệ tới Việt Nam, Vĩnh Sính viết “Hội chứng độc
lập trong con người Việt Nam cũng khiến đa số chúng ta thiếu tinh thần tiếp
thu những điều hay cái lạ của các nền văn hoá khác, đồng thời chỉ thích nói về
những gì hay ho ưu việt trong văn hoá Việt Nam hơn là nói ra những khuyết điểm
của mình để sửa chữa. Hội chứng độc lập cũng khiến ta thiếu tinh thần
khách quan khi buôn bán làm ăn hay giao lưu với nước ngoài, chỉ biết mình nhưng
không biết người” ( tr. 337).
Từ văn hoá thế kỷ XVII
nói riêng tới văn hoá Việt Nam nói chung
Chu Thuấn Thủy (1600-1682) là một trí thức Trung
Quốc sống ở thời nhà Minh bị Mãn Thanh xâm chiếm. Trong quá trình vận động phản
Thanh phục Minh, có mấy lần Chu đã lưu lạc sang Việt Nam. Chính quyền đương thời
tức các chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã có lúc tính chuyện dung nạp ông, nhưng việc
không thành, về sau Chu sang ở hẳn Nhật, trở thành một trí thức có công giúp đỡ
cho việc đưa nước này vào một giai đoạn hưng thịnh. Trước tác của Chu Thuấn Thuỷ
có nhiều, và chắc là phần chủ yếu là về nước Nhật. Tuy nhiên Chu cũng đã kịp ghi
chép những ngày làm việc với người Việt, qua tập sách mỏng An Nam cung dịch
kỷ sự (Ký sự về việc phục dịch ở An Nam 1657).
Tại sao Vĩnh Sính, với tư cách người dịch và giới
thiệu An Nam cung dịch kỷ sự, đưa nó vào tập chuyên khảo của mình?[6]
Hẳn là nhà nghiên cứu suốt đời sống xa quê của chúng ta tìm thấy ở đây nhiều
điều mà bản thân ông cũng thường suy nghĩ? Cung cấp bức tranh xã hội Việt Nam
thế kỷ XVII dưới con mắt Chu Thuấn Thủy, Vĩnh Sính dường như muốn tìm cho những
nhận xét của mình về văn hoá Việt (mà ở trên chúng tôi đã ghi nhận) một cơ sở
lịch sử chắc chắn, do đó vấn đề đặt ra có thêm sức ám ảnh.
Thực vậy, dưới con mắt Chu, xã hội Việt Nam hiện
ra với những nhược điểm cố hữu và rất khó sửa chữa. Đó là một xã hội ít tiếp xúc
với các xã hội bên ngoài. Ngay với thế giới Trung Hoa tưởng là quá quen thì
chúng ta cũng không hiểu gì. Vừa gặp Chu, các nha lại địa phương đã giở trò hống
hách, bắt người ta lạy, hỏi người ta bằng cấp gì, và nếu bảo rằng không có bằng
cấp thì lập tức coi thường. Đúng là cái bệnh quá quê mùa và hay chấp nhặt mà
ngày nay chúng ta còn bảo lưu khá đầy đủ! Đến như những câu chuyện mà các bậc
gọi là thức giả bấy giờ quây vào hỏi Chu Thuấn Thuỷ thì phần lớn cũng là chuyện
tầm thường. Sự non kém trong đời sống tinh thần của xã hội bộc lộ ở nhiều mức
độ. Thứ nhất là lối học chỉ hớt lấy những cái lạ mà thiếu cơ sở học thuật, một
sự ngây thơ trong tư duy khiến đương sự phải cười thầm “ Người quý quốc đọc
những truyện như Tam quốc diễn nghĩa hoặc Phong thần mà cả tin là
thật, cứ đến đây hỏi tôi hết chuyện này sang chuyện khác mãi không thôi. (Trong
khi ấy thì lại bỏ qua không nghiên cứu những sách kinh điển như Ngũ Kinh, Tam
sử.) Tựa như bỏ vàng ngọc mà chọn gạch đá, nhổ lúa xanh mà trồng cỏ tranh,
không hiểu cái gì phải lấy, cái gì phải bỏ” (tr. 393). Thứ hai là mê muội vì
những trò mà nói theo thuật ngữ hiện đại là văn hoá tâm linh. “ Nhưng tại sao
chư quân tử từ trên xuống dưới lại cứ đến đòi xem tướng số. Hỏi thật không nhằm
chỗ, đến cuối cùng không biết là đã làm nhục Du (Tức CTT. Người coi tướng, người
xem sao đông biết bao nhiêu mà đếm cho hết. Trong tứ dân (tức sĩ nông công
thương – VS chú) và chín học phái (tức
cửu lưu: Nho gia, đạo gia, âm dương gia vv… –
VS chú ), họ là hạng người thấp hèn nhất. So họ với nhà nho có đức
nghĩa, khác xa một trời một vực, như đen với trắng, như nước với lửa, hoàn toàn
tương phản” (tr. 392).
Dù đã kín đáo và lo phòng thân, cuối cùng người
khách lạ cũng phải ghi trên mặt giấy cái nhận xét chung mà chúng ta ngày nay đọc
lại có thể rất khó chịu, song phải nhận là không thể nói khác: “Tuy là nước nhỏ,
nhưng khí kiêu ngạo, học vấn nông cạn, kiến thức có giới hạn, tuy có thể tuyển
chọn được người tài năng trong nước Dạ Lang của mình, nhưng không tránh được vẻ
ếch ngồi đáy giếng” (tr. 401). Theo ghi chú của Vĩnh Sính, “nước Dạ Lang” nói ở
đây là một ẩn dụ, bắt đầu từ câu chuyện có thật về một nước nhỏ thời Hán, trong
giao thiệp với thiên hạ mắc bệnh hoang tưởng, từng tranh luận với các sứ giả
quanh chủ đề “nước Dạ Lang so với Trung Quốc bên nào lớn bên nào nhỏ”. Dạ
Lang tự đại đã thành một thành ngữ có ghi cả trong các từ điển phổ thông như
Tân Hoa, Tứ giác, chuyên để chỉ những cộng đồng quen sống biệt lập nên
không có ý thức đúng đắn về vị trí của mình trên thế giới.
Đoạn kết :
một đề nghị
Trong quan niệm của Phan Bội Châu, yếu tố đầu tiên
của một nước Việt Nam mới là không có bóng cường quyền của nước ngoài. Trong khi
đó, như nhiều tài liệu đã có nhắc và Vĩnh Sính cũng có ghi lại (tr. 300), trong
một cuộc bút đàm, Lương Khải Siêu đã khuyên Phan “Quý quốc chớ lo không có ngày
độc lập, mả chỉ nên lo quốc dân không có đủ tư cách độc lập. Thực lực của quý
quốc là dân trí dân khí và nhân tài”.
Những nhận xét này không chỉ mới mẻ mà còn thiết
thực và chắc chắn là rất cần thiết cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam hiện
nay. Nó cũng là một trong những ý tưởng chính toát ra từ công trình nghiên cứu
của Vĩnh Sính khi giới thiệu một số nhân tố trong giao lưu văn hoá Nhật Việt.
Vốn đã có cách đánh giá riêng về tình hình trong nước, nên khi đi vào các hiện
tượng văn hoá xứ người để làm việc so sánh, nhà nghiên cứu này luôn luôn tìm
được những đồng minh sắc sảo và đáng tin cậy.
Nhân đây nhắc lại một xu thế chi phối cách nghiên
cứu văn hoá ở ta. Nhìn chung các tác giả ít đi vào tìm hiểu mối quan hệ văn hoá
Việt Nam với văn hoá nước ngoài. Ta không coi đây là một con đường để tự nhận
thức. Cực chẳng đã, khi cần nói về những ảnh hưởng của văn hoá nước ngoài tới
văn hoá Việt Nam, chúng ta thường chỉ nói cho phải phép, để rồi sau đó không
quên nhấn mạnh là người Việt rất thông minh, rất cởi mở, và nhất là rất bản lĩnh
trong quan hệ với thiên hạ. Xét về mặt này, cuốn sách của Vĩnh Sính rẽ hẳn sang
một lối riêng. Tác giả đã làm được cái việc mà nhiều người chỉ mang máng cảm
thấy là cần thiết, nhưng không đủ sức đi đến cùng. (Ở tr. 342, khi nhắc tới việc
Quán Chi Đào Trinh Nhất đã có bài giới thiệu Chu Thuấn Thủy trên báo Trung
Bắc chủ nhật 21-9-1941, Vĩnh Sính lưu ý rằng đó là một tiếng chuông thức
tỉnh độc giả về thái độ thủ cựu và bài ngoại của sĩ phu nước ta. Vĩnh Sính chỉ
dừng lại ở thái độ sĩ phu nói riêng, nhưng tôi tưởng cần xem đây là một đặc điểm
của xã hội Việt Nam nói chung.)
Một đặc điểm nữa thường thấy trong các công trình
nghiên cứu giao lưu văn hoá là chúng ta chỉ thích nói tới những nền văn hoá lớn
và có quan hệ với ta quá sâu sắc như văn hoá Trung Hoa và văn hoá Pháp. Còn với
các nền văn hoá khác kể cả văn hoá các nước Đông Nam Á mà ta gần gũi về mặt địa
lý, hoặc văn hoá Hàn quốc, văn hoá Nhật mà ta có nhiều điểm chung, thì mọi việc
càng chểnh mảng, tài liệu quá ư nghèo nàn, làm cho lấy lệ, xưa đã vậy mà nay
cũng vậy.Về phần Vĩnh Sính, ông có cái may mắn là giữa hai nền văn hoá Việt Nhật
có nhiều mối giao lưu thật, và chỉ viết riêng về những sự kiện đó cũng đã rất
hấp dẫn. Song ông không dừng lại ở các sự kiện bên ngoài mà để công tìm trong
hoàn cảnh lịch sử của hai bên những hoàn cảnh tương tự, rồi phân tích cách giải
quyết của mỗi bên, từ đó lý giải các đặc điểm dân tộc đã hình thành trong lịch
sử. Trước mắt người đọc, hiệu ứng qua người hiểu mình được chứng nghiệm.
Hướng đi mà Vĩnh Sính đã mở ra, theo tôi cần được
tiếp tục. Chẳng hạn, tôi ước ao lúc này có ai đó hiểu biết về lịch sử và văn hoá
Thái Lan, thử tìm những mối tương đồng và dị biệt giữa văn hoá Việt Nam với văn
hoá Thái Lan. Tôi tin là khi làm việc này, một nhà nghiên cứu nghiêm túc có lòng
lo lắng cho tình trạng văn hoá đương thời và muốn góp phần vào qúa trình tự nhận
thức của dân tộc – một tác giả như thế có thể có nhiều phát hiện bổ ích, tương
tự như trường hợp Vĩnh Sính. Nghiên cứu theo lối so sánh là lĩnh vực mà các nhà
nghiên cứu khoa học xã hội người Việt đang sống ở nước ngoài có thể có nhiều
đóng góp. Mỗi người thêm một phần công sức thì rồi quá trình tự nhận thức của xã
hội Việt Nam mới được đẩy tới và tạo ra một bước ngoặt cần thiết.
[1]
Việt Nam và Nhật Bản giao lưu văn hoá
của Vĩnh Sính giáo sư đại học Alberta, Canada, Nhà xuất bản Văn nghệ TP
HCM và Trung tâm Nghiên cứu quốc học xuất bản, 2001 Những số trang ghi
dưới đây đều dựa theo bản in trên.
[2] Xem thêm bài viết Phan Trọng Báu Tân
Việt Nam hình ảnh một nước Việt Nam mới của phong trào Đông Du,
in trong Phong trào Đông Du và Phan Bội Châu, NXB Nghệ An và TT
Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, 2005
[3] Đây là chữ Phan Châu Trinh đã dùng khi
nói về Phan Bội Châu. Nguyên văn viết bằng chữ Hán, đọc theo âm Hán Việt
là “ hữu ái quốc chi tâm nhi bất tri sở dĩ ái quốc chi đạo ”. Dẫn theo
bài viết của Vĩnh Sính Thử tìm hiểu ý nghĩa tác phẩm Pháp Việt
liên hợp của Phan Chu Trinh, in trong Từ đông sang tây,
NXB Đà Nẵng, 2005, tr. 142.
[4]
Lấy một ví dụ sách Khuyến học của Fukuzawa đã hai lần được dịch
ra tiếng Việt và in ra ở hai NXB khác nhau, một dưới cái tên Nhật Bản
cách tân giáo dục thời Minh Trị ở nhà Chính trị quốc gia
1995, và một giữ nguyên tên Khuyến học ở nhà Trẻ, 2004.
Lưu ý là chính câu nói trên “Quốc dân không có chí khí độc lập, không có
tinh thần tự do, thì lòng yêu nước cũng hàm hồ nông cạn, vô trách nhiệm
” được đưa ra bìa 1 của bản in ở nhà Trẻ. Những tư tưởng của
Fukuzawa đã bắt đầu được người Việt hôm nay hiểu đúng chăng, và chúng ta
bắt đầu nghĩ khác đi về lòng yêu nước ? Song không hẳn vậy, theo sự ghi
nhận được của chúng tôi thì cuốn sách gần như không được một tờ báo lớn
nào nhắc nhở tới.
[5] Một ví dụ nữa. Theo Vĩnh Sính, “ Phan
không đánh giá những khó khăn trong việc tiếp thu văn hoá và kỹ thuật
nước ngoài đúng mức nên đâm ra quá lạc quan ” khi nói về tương lai (tr
142). Đọc lại một nhận định Phan viết trong Tân Việt Nam, và được
Vĩnh Sính dẫn lại “ Việc học tập tinh thông nghề nghiệp ở các nước Anh
Nhật Đức Mỹ nhanh cũng đến hai năm, noi theo đó chớ nên lấy khó ; việc
học tập thành thạo các ngành binh công nông thương có nhanh cũng đến năm
năm, ta chớ lấy làm lâu !” (cũng trang trên), chúng ta như bắt gặp chính
sự ngây thơ và ảo tưởng ngự trị trong đầu óc nhiều người đương thời,
ngay sau những ngày thống nhất đất nước 1975.
[6] Trước đó ông đã cho in thành một bản
riêng, Hội khoa học lịch sử Việt Nam và Tạp chi Xưa và nay xuất
bản, 1999.
© Thời Đại Mới
0 nhận xét:
Đăng nhận xét