Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014
Câu Chuyện Ly Kỳ về Một Thánh Tích 2000 Năm Lịch Sử: TẤM VẢI LIỆM XÁC CHÚA
19:39
Hoàng Phong Nhã
No comments
Hai thuyết quan trọng bậc nhất làm
rường cột cho Kitô Giáo là thuyết Tạo Dựng
và Cứu Rỗi.
Theo thuyết Tạo Dựng, Thượng
đế sinh ra vũ trụ và con người khoảng
6-10 ngàn năm trước đây. Thuyết này đã bị
khoa học bác bỏ qua thuyết "Big Bang", và các khám
phá của môn khảo cổ học cho biết con
người có mặt trên quả địa cầu từ
khoảng trên 150 ngàn năm, mà độc giả sẽ
thấy trong bài của Nguyễn Hồng Ngọc.
Về thuyết Cứu Rỗi nói rằng
Chúa Jesus (Giê-su) được Chúa Cha phái xuống trần
gian chịu chết trên cây thập tự để
chuộc tội cho nhân loại, sau đó Ngài sống
trở lại và bay về trời với Chúa Cha. Nhưng
qua tấm vải liệm mà các nhà khoa học quốc
tế giảo nghiệm ngày 8-10-1978 cho thấy: "Chúa
Jesus bị đóng đinh trên cây thập tự nhưng
không chết, chứ không phải đã chết và sống
trở lại rồi bay về trời qua bài sưu
tầm dưới đây của Charlie Nguyễn: (Lời
giới thiệu trong cuốn "Kitô Giáo Từ Thực
Chất Đến Huyền Thoại").
Cuối tháng 5.96 vừa qua, đài phát thanh
VOVN Houston có loan một tin ngắn: Tấm vải liệm
xác Chúa Jesus là một thánh tích rất nổi tiếng qua
nhiều thế kỷ đã bị Tòa Thánh La Mã xác nhận
là một vật giả mạo. Thực ra đây không
phải là một tin mới mẻ vì cách đây 8 năm, vào
tháng 10.1988, Tòa Thánh đã tổ chức một cuộc
họp báo tại London chính thức công bố thánh tích
tấm vải liệm xác Chúa đã bị "ngụy
tạo" trong khoảng thời gian từ 1250 đến
1390.
Sự công bố trên của Tòa Thánh La Mã
đã gây ngạc nhiên cho nhiều giới khoa học,
học giả và ký giả từng quan tâm đến thánh
tích này vì sự công bố của La Mã hoàn toàn trái
ngược với kết quả cuộc giảo
nghiệm của Ủy Ban Khoa Học Quốc Tế
được tổ chức tại Turin (Ý) vào tháng 10.1978.
Kết quả cuộc nghiên cứu năm 1978 đã xác
nhận tấm vải liệm xác Chúa Jesus là thật.
Do đó, nhiều học giả và ký giả
đã tự động mở cuộc điều tra
để tìm hiểu ngọn nguồn sự việc, trong
số đó có hai học giả Đức là Holger Kersten và
Elma R. Gruber. Sau nhiều năm nghiên cứu lịch sử
và tiếp xúc với các nhà khoa học đã từng tham
dự các cuộc giảo nghiệm năm 78 và 88 nói trên,
họ đã tường trình kết quả của
cuộc điều tra riêng của họ trong một
cuốn sách được viết bằng tiếng
Đức. Cuốn sách này do chính các tác giả chuyển
ngữ sang tiếng Anh với tựa đề The Jesus
Conspiracy, 337 trang, Element Co, xuất bản tại Hoa Kỳ
năm 1994.
Để độc giả Việt Ngữ
hiểu rõ hơn về thánh tích rất nổi tiếng
tại các nước Âu Mỹ trong nhiều thế kỷ
qua, chúng tôi xin tóm lược phần nói về TẤM
VẢI LIỆM trong cuốn sách nói trên một cách ngắn
gọn.
I. XUẤT XỨ TẤM VẢI LIỆM
Dưới đề mục Bí Mật Núi
Sọ (The Secrets of Golgotha) Elma R. Gruber đã kể chuyện
xuất xứ của tấm vải liệm như sau:
Năm 29 sau Công Nguyên, Jesus 33 tuổi, người xứ
thuộc địa Galilee đã bị quan Toàn Quyền La Mã
Pilatus tuyên án tử hình về một tội chính trị:
"Âm mưu gây bạo loạn chống chính quyền".
Một toán lính La Mã đã dẫn Jesus lên núi Sọ Golgotha
ở Jerusalem xử tử
bằng cách đóng đinh vào thập giá. Lúc đó là
buổi chiều thứ sáu. Ngày hôm sau là ngày Lễ
Vượt Qua (Passover) nhằm ngày thứ bảy (Sabbath).
Theo tục lệ Do Thái thì mọi tử tội đều
phải được chôn cất trước ngày Sabbath vì
Thánh Kinh đã dạy: "Mặt trời không chiếu trên
xác tử tội vào ngày Sabbath". Hai người bạn
thân của Jesus là Joseph Arimathea và Nicodemus là những
người rất giàu có và quyền thế. Cả hai
đều là thành viên của hội đồng tối cao
Do Thái (Sanhedrin) là một chính quyền bản xứ do La Mã
lập ra để trông coi mọi việc về tôn giáo và
luật lệ Do Thái, hai người này cũng đều
quen biết Pilatus (Pilate). Joseph và Nicodemus
biết trước từ lâu việc chính quyền La Mã
đã quyết định xử tử Jesus. Tuy họ không
thể cứu Jesus thoát khỏi án tử hình nhưng họ
đã cố gắng tìm mọi cách can thiệp với Pilatus
(Pi-la-tớt) cho phép họ tháo xác Jesus xuống càng sớm
càng tốt để kịp thời cứu sống. Joseph
đã mua sẵn một khu vườn nằm sát bên núi
Sọ, xây sẵn một ngôi mộ lớn có nhiều phòng,
chung quanh có cây cối che khuất. Nicodemus
(Ni-cô-đe-mớt) mua một số lượng thuốc
men rất lớn mà theo kinh Phúc Âm của John (19:30) kể rằng: Nicodemus đến
với Chúa vào ban đêm mang theo dầu myrrh và aloe (lô
hội) nặng 100 stones" (tương đương
100 pounds). Đó là chất thuốc có tác dụng gây mê,
tẩy uế và chữa trị vết thương. Trong
lúc còn bị treo trên thập giá, Jesus kêu khát nước.
Một sĩ quan La Mã đã dùng một miếng bọt
biển (sponge) thấm dấm rồi lấy cây giáo
đưa miếng bọt biển đó lên miệng cho
Jesus uống. Viên sĩ quan đó là thuộc hạ của Pilatus,
cấp bậc như Đại Úy, chỉ huy toán hành hình
Jesus nhưng lại là một tín đồ bí mật
của Ngài. Phúc Âm của Mark [Thánh Kinh Tân Ước có tên là
Mác.] ghi rõ (15 39-27:54): "Viên sĩ quan này là người
đã từng ngợi khen Chúa là con của Đức Chúa
Trời." Sau khi uống dấm xong, Chúa nói: "Công
việc đã hoàn tất", rồi Ngài cúi xuống trút
linh hồn (bất tỉnh).
Tại sao Jesus chết giả ngay sau khi
uống dấm? Và có phải là dấm thật không? Có
thể đó là rượu nho pha myrrh và aloe là hai chất
Nicodemus mang lên núi Sọ rất nhiều. Sau này các nhà khoa
học đã phân chất khám phá ra trong aloe (lô hội) có chất
phenol là chất có tác dụng gây ra tình trạng hôn mê (coma).
Dầu myrrh lấy từ cây Commiphora được ông
tổ y khoa Hippocrate ca ngợi là một thần
dược tẩy uế, ngăn ngừa bệnh dịch
và chữa trị vết thương. Cũng không loại
trừ giả thuyết cho rằng trong nước
"dấm" đó có pha thêm thuốc phiện vì vào
thời Jesus ở Palestine,
việc xử dụng thuốc phiện rất phổ
biến. Do đó, uống "dấm" xong, Jesus ngất
xỉu. Chỉ sau đó vài giờ, vì đã được
phép của Pilatus, Jesus được
Joseph và Nicodemus tháo xuống khỏi thập giá và đưa
ngay vào nhà mộ kín đáo trong vườn riêng của
Joseph. Tại nhà mộ này, Joseph và Nicodemus đã trải
sẵn một tấm vải trắng trên ghế dài
bằng đá. Vì tấm vải rất dài (4m36, rộng
1m10) nên chỉ cần một nửa tấm vải cũng
đủ phủ lên mặt ghế đá. Nicodemus rắc
các thứ dầu và thuốc đó trước khi
đặt thân xác Jesus nằm lên trên. Do toàn thân của Jesus
lúc đó đẫm máu nên tấm vải trắng in rõ các
vết roi rướm máu ở lưng, mông, đùi và chân.
Cũng nhờ các vết máu này, người ta đã đo
được chiều cao của Jesus là 1m82 và ước
lượng thân xác Ngài nặng khoảng 79Kg. Với
tuổi 33, Ngài là một thanh niên khá cao lớn lực lưỡng!
Phân nửa tấm vải còn lại
được trùm qua đầu, qua mặt, ngực,
bụng xuống tới hai bàn chân. Lúc đó hai tay của
Jesus được đặt vắt chéo nhau trên bụng.
Phân nửa tấm vải này in rõ các vết tròn nhỏ do
gai nhọn đâm vào trán. Một số lỗ gai đâm
từ lâu trước đó nên máu đã khô đen. Bấy
giờ, người ta tháo đinh gai ra khỏi đầu
Jesus nên máu tươi bật chảy ra làm ướt
cả mặt. Jesus được thoa hỗn hợp
dầu myrrh và aloe khắp thân thể. Những chất
dầu này hòa lẫn với máu đã in khuôn mặt của
ngài lên tấm vải phủ phía trên thân xác, hai cánh tay
vắt chéo với lỗ đinh trên hai bàn tay, hai ống
chân với hai lỗ đinh trên hai bàn chân. Buổi tối
hôm đó là đêm thứ Sáu rạng ngày thứ Bảy cũng
là ngày lễ Vượt Qua. Đó là ngày đại lễ
của Do Thái kỷ niệm ngày thánh Moses (Môi-se),
tương truyền Môi-se hóa phép cho nước Hồng
Hải rẽ ra và thánh đã dẫn toàn dân Do Thái thoát ách nô
lệ Ai Cập để đến miền đất
hứa Palestine (Pa-lét-tin). Vào thời kỳ đó,
người Do Thái dùng Âm lịch và ngày lễ Vượt
Qua trùng vào dịp trăng tròn rất sáng ban đêm. Mọi
người dân Jerusalem
(Rê-ru-sa-lem), thủ phủ của nước Do Thái,
đều lo sửa soạn ăn mừng ngày lễ
lớn nhất của họ, không có ai để ý
đến người tử tội đã bị xử
tử hồi chiều qua. Người tử tội Jesus
lúc này đã tỉnh dậy vì chất "dấm" gây mê
đã hết tác dụng. Đêm đó, dưới ánh
trăng rằm, Joseph, Nicodemus và các "thiên thần mặc
áo trắng" đã đưa Jesus từ nhà mồ
của Joseph đến một nơi bí mật an toàn
hơn để tiếp tục chữa trị các vết
thương cho Ngài. Về sau, do sự khám phá từ hơn
trên một trăm cuốn sách cổ tại Qumran gần
Biển Chết (Dead Sea), người ta mới biết các
"thiên thần mặc áo trắng" đó là các tu sĩ
kiêm y sĩ thuộc giáo phái Essene, một giáo phái xuất
phát từ đạo Do Thái nhưng đã được
biến cải thành "Kitô Giáo trước Jesus".
Trước đó ba năm, một tu sĩ nổi
tiếng của giáo phái này là Gioan Baotixita đã làm phép
rửa tội cho Jesus trên sông Jordan (Róc-đan), chỉ cách
Qumran có 5km. Các tu sĩ thuộc giáo phái này luôn luôn mặc áo
dài trắng, thường hay chữa bệnh miễn phí cho
dân nghèo trên khắp nước Do Thái thời ấy. Sau khi đưa
Jesus đến một nơi an toàn hơn, họ đã
để lại ở ngôi mộ tấm vải liệm
xác Chúa Jesus. Sáng hôm Chủ Nhật (Do Thái gọi là ngày
đầu tuần), một nữ tín đồ thân
thiết của Jesus là Mary Magdelene đến thăm mộ
Chúa. Phúc Âm (Kinh Thánh) của John (20: 1-18) kể chi tiết
như sau: Magdelene đến thăm mộ Chúa trong buổi
sáng ngày đầu tuần. Lúc ấy trời hãy còn tối.
Bà thấy hòn đá chắn cửa hang đã dời đi nơi
khác. Bà vô cùng hoảng hốt bèn đi tìm Peter và John, than khóc
với hai người rằng: "Không biết ai đã
mang xác Chúa ra khỏi mộ rồi!" (Peter là Thánh Phêrô,
John là Thánh Gioan tông đồ và cũng là một trong
bốn vị thánh viết sách Phúc Âm). Phúc Âm của John (20:
4-7) kể tiếp: "Peter và John cùng chạy đến
hang mộ Chúa nhưng John chạy nhanh hơn nên tới
trước. John nhìn vào hang thì thấy tấm vải
liệm cuộn lại cùng chiếc khăn che mặt
của Chúa."
Xin lưu ý là tác giả Phúc Âm đã dùng
động từ thì hiện tại (present tense) để
kể chuyện này, muốn chứng tỏ sự việc
trên do tác giả chứng kiến.
II. TỘT ĐỈNH VINH QUANG CỦA THÁNH
TÍCH SUỐT CHIỀU DÀI LỊCH SỬ BỊ KẾT THÚC BẰNG MỘT DIỄN BIẾN BẤT
NGỜ.
Trong phần lớn cuốn sách The Jesus
Conspiracy, học giả Holger Kersten đã tường
thuật cuộc hành trình từ Đông sang Tây của thánh
tích và một biến cố bất ngờ năm 1978 đã
đưa thánh tích này từ tột đỉnh vinh quang
xuống đáy vực của sự ô nhục.
Theo Phúc Âm của John thì Peter là người
đầu tiên nhặt tấm vải liệm xác của
Jesus lên. Đối với người Do Thái, không ai dám
nhặt vải liệm xác người chết đem
về nhà vì họ cho đó là thứ dơ bẩn. Nhưng
đối với các tín đồ tin Chúa và với các môn
đệ thì tấm vải liệm xác Chúa là một thánh
tích vô cùng quý giá cần phải được bảo
tồn. Theo một tài liệu của Thánh Nino (chết
năm 335) thì tấm vải liệm xác Jesus có một
thời gian lọt vào tay vợ của Pilatus.
Bà này rất có cảm tình với Jesus và chính bà đã khuyên
chồng đừng giết ông ta. Do đó, Pilatus
đã rửa tay tuyên bố không liên can đến vụ án
và giao Jesus cho người Do Thái muốn làm gì thì làm. Sau
đó tấm vải này được các cộng
đồng tín đồ Kitô Giáo ở Palestine
kế tiếp nhau lưu giữ và truyền lại từ
đời này qua đời khác. Tới năm 670, giám
mục người Pháp Arcurf de Périgeux đến Palestine
hành hương. Ông đi theo một đám đông
người đến một thánh đường tại
đây để viếng tấm vải liệm xác Chúa. Ông
trở về Pháp thuật lại chuyện này và kể chính
ông ta đã hôn lên tấm vải liệm đó.
Năm 944, tấm vải liệm
được đưa về lưu giữ tại
một nhà thờ ở Constantinople. Tháng
8.1203, nó được đưa về nhà thờ ở
Blachernal ở Hy Lạp. Nhà thờ này mở cửa vào các
ngày thứ sáu hàng tuần cho dân chúng đến chiêm bái và
cầu nguyện.
Năm 1418, tấm vải liệm
được đưa về pháo đài Monfort (Pháp)
thuộc quyền sở hữu của dòng họ Charny.
Năm 1452, Margaret Charny đem triển lãm thánh tích này
tại lâu đài Germolles. Cuối cùng, bà hoàng này quyết
định đem tấm vải thánh tích tặng cho
Quận Công Savoy. Quận
công vô cùng cảm kích đã tặng lại bà hoàng Margaret tòa
lâu đài Varambon ở Geneve và tất cả tiền lợi
tức bất động sản của quận công ở
Lyon. Từ đó, tấm vải liệm
thánh tích được lưu giữ và tôn thờ tại
một thánh đường riêng của dòng họ này
tại Chambery.
Năm 1506, Giáo Hoàng Julius II ra đạo
luật công nhận tấm vải liệm là một thánh
tích của Chúa Jesus và Ngài quyết định chọn ngày 4
tháng 5 hàng năm là ngày lễ chính thức của giáo
hội tôn kính thánh tích này. (The Feast Day of The Holy Shrout). Từ
đó, các vua chúa, các nhà quí tộc, các giám mục, tu sĩ và
các tín đồ giàu có từ khắp nơi trên thế
giới lũ lượt kéo đến Chambery hành
hương để được cầu nguyện
"trước mặt Chúa" (tấm vải liệm).
Ngày 17.9.1578, Quận Công Emmanuel Philibert de Savoy dời
thủ đô về Turin
(thuộc nước Ý ngày nay). Thánh tích tấm vải
liệm của Chúa được đặt trong lồng
kiếng khung vàng dựng ở phía trên bàn thờ tại nhà
thờ Turin. Từ đó
người ta gọi thánh tích này là "khăn liệm
Turin"
(The Turin Shrout).
Vào tháng 5.1931, nhân dịp đám cưới
của Hoàng Tử Umberto, sau này trở thành Vua nước
Ý, tấm vải liệm được đưa ra
triển lãm trong 22 ngày để cho dân chúng khắp nơi
đến chiêm bái. Trong cuộc Thế Chiến Thứ Hai,
thánh tích được di chuyển đến tu viện
Vergine ở Avellino
để được cất giữ an toàn.
Tuy giáo phận
Turin
có nhiệm vụ bảo quản thánh tích vải liệm
của Chúa đã hơn 400 năm nhưng quyền sở
hữu vẫn thuộc dòng họ Savoy
(Xa-voi). [Ngày 2 tháng 3 năm 1983, Giáo Hoàng John Paul II đích thân
đến Lisbone (Bồ Đào Nha) gặp Cựu Hoàng Umberto
đang tĩnh dưỡng tại đây để xin ông
này chuyển nhượng quyền sở hữu tấm
vải liệm. Cựu Hoàng lúc đó đã rất yếu,
bằng lòng tặng cho Tòa Thánh. Hai tuần sau, ông qua
đời. Từ nay, Vatican hoàn toàn làm
chủ nên dễ "uyển chuyển" lúc bị
thế giới đem ra mổ xẻ Tấm Vải
Liệm lần khác]
Năm 1978, thành phố
Turin
tưng bừng làm lễ kỷ niệm 400 năm thành
phố này có vinh dự được lưu giữ
một thánh tích thiêng liêng và duy nhất của giáo hội
Kitô. Thánh tích được đưa ra triển lãm trong
sáu tuần lễ, từ ngày 28.8.78 đến 8.10.78. Các
phương tiện truyền thông thế giới loan báo
rộng rãi tin tức này. Chỉ trong sáu tuần lễ có
tới trên 3 triệu tín đồ từ khắp nơi kéo
về Turin hành
hương. Mọi người xếp hàng để
lần lượt được đi ngang qua chiêm bái Nhan
Thánh Chúa in trên tấm vải liệm. Dư luận thế
giới lúc đó bắt đầu bàn tán không biết thánh
tích khăn liệm của Chúa có thật hay không. Nhiều
nước Âu Mỹ lập các hội khoa học để
điều tra vụ này. Tòa Thánh Vatican
cũng hoan nghênh Ủy Ban Quốc Tế gồm các nhà khoa
học ưu tú trên thế giới đến Turin
giảo nghiệm vào ngày cuối cùng của cuộc
triển lãm tức là ngày 8.10.1978. Riêng Hoa Kỳ gửi
đến Turin một phái
đoàn 25 nhà khoa học với hàng tấn dụng cụ
máy móc trong đó có một số máy dùng vào việc giảo
nghiệm thánh tích này. Phái đoàn của Tòa Thánh có ba nhà bác
học: nhà vật lý học Luigi Gonella, chuyên gia về kính
hiển vi Giovani Riggi và giáo sư bệnh lý học Peerluigi
Baina Bollone. Những nước Anh, Pháp, Đức cũng
gửi một số nhà khoa học của họ
đến tham dự cuộc giảo nghiệm vô cùng quan
trọng này.
Trước hết, tấm vải liệm
được đem đến tòa nhà Palazzo Reale cạnh
nhà thờ Turin và được đặt trên một cái
bàn rất lớn, chung quanh được bao vây bằng
những tấm kiếng chắn an toàn. Các nhà khoa học
chia tấm vải thành 60 khu vực nghiên cứu. Họ
lần lượt khám nghiệm, chụp hình, phân chất
từng inch (phân) vuông của tấm vải liệm.
Những tiến bộ khoa học về các môn học
mới như tử thi học, phạm tội học
đã giúp ích rất nhiều cho cuộc thử nghiệm
này. Sau hai tuần lễ làm việc miệt mài với tinh
thần vô tư, các nhà khoa học đã đi đến
kết luận như sau:
Tấm vải liệm làm bằng sợi bông
Ai Cập, được dệt tại Syria
là một xứ thuộc địa La Mã vào thời Jesus,
ở phía bắc Palestine.
Tuổi thọ của tấm vải khoảng 2000 năm.
Vào thời kỳ này, dân Âu Châu chưa biết cây bông là gì và
phải đợi đến thế kỷ 14, dân Âu Châu
mới học được kỹ thuật dệt
vải hình xương cá trích (herring bone pattern). Các vết
máu in trên vải đúng là máu người. Hình mặt
người in trên tấm vải là do phản ứng hóa
học và sự oxýt hóa của chất nhờn da mặt
(skin oil), mồ hôi, dầu aloe và dầu myrrh dính trên mặt
và thân thể thấm vào sợi vải nhiều ngày mà thành.
Cuộc thử nghiệm cũng cho biết đã có một
người bị thương nặng đang ở trong
tình trạng hôn mê (coma) nhưng vẫn còn sống nằm
trên tấm vải. Chiều cao của người đó là
1m82 và nặng khoảng 79kg. Có người thắc mắc:
"tại sao tấm vải liệm này có thể tồn
tại lâu như vậy?". Các nhà khoa học xác nhận
vải bông có thể tồn tại rất lâu không hư.
Hiện nay tại Cairo (Ai
Cập) còn lưu trữ nhiều mẫu vải bông có
tuổi thọ từ 3000 đến 5000 năm! Các nhà khoa học
đã phân biệt được những vết máu khô
trước đó và những vết máu tươi chảy
ra khi "người đó" được đặt
nằm trên tấm vải. Các vết máu tươi có vành
huyết tương viền chung quanh. Nhưng nếu
một người đã chết cứng thì không chảy
thứ máu tươi này. Hơn nữa, các vết máu
của lưng, mông, đùi, chân đều nằm trên
một mặt phẳng. Đó là tư thế nằm dài
của một người còn sống. Người
chết trên thập giá, hai chân gập lại ở
đầu gối (ảnh tượng Jesus mà chúng ta
thấy thờ ngày nay), không thể có tư thế nằm
thẳng như vậy và có máu chảy được.
Cuộc xét nghiệm năm 1978 đã đi tới kết
quả như trên, phần lớn do công lao của các nhà
khoa học Mỹ. Khám phá này phù hợp với kết
quả cuộc điều tra kéo dài trên 200 năm qua
(khởi đầu từ phong trào Enlightenment thế kỷ
18 ở Âu Châu) của các học giả nghiên cứu
lịch sử. Sự thật lịch sử là: Jesus đã
thoát chết sau khi bị đóng đinh trên thập giá
tại núi Sọ (Golgotha) vì tội "âm mưu gây bạo
loạn chống chính quyền", không có chuyện Chúa
chịu chết để chuộc tội cho nhân loại
và cũng chẳng có chuyện sống lại (phục sinh)
rồi trở về thiên đàng với Chúa Cha nào cả.
Hai tín điều này là căn bản cốt yếu của
đạo Kitô. Tấm vải liệm xác Chúa Jesus đã được
coi là một thánh tích thiêng liêng duy nhất của Thiên Chúa
Giáo bỗng một sớm một chiều biến thành ‘Con
ngựa thành Troy" có nguy cơ phá hoại giáo hội
từ căn bản giáo lý. Nhiều ký giả của các
hãng thông tấn nổi tiếng Âu Mỹ e sợ Tòa Thánh có
thể tiêu hủy thánh tích này. Đã mấy lần Reuter và
UPI loan tin có mật báo cho biết Vatican có
âm mưu thủ tiêu thánh tích. Mỗi lần như thế, Vatican
lại phải lên tiếng cải chính là thánh tích vẫn
còn ở Turin. Thực ra vì
thánh tích này đã quá nổi tiếng và nhiều triệu
người trên thế giới đã từng hành
hương chiêm ngưỡng nó nên Tòa Thánh cũng khó có
thể tiêu hủy nó được.
III. DƯỚI TIÊU ĐỀ VỤ LỪA
BỊP CỦA THẾ KỶ (FRAUD OF THE CENTURY)
HOLGER KERSTEN VIẾT TIẾP: Cuối cùng Tòa
thánh cũng tìm ra được một giải pháp
để vô hiệu hóa kết quả giảo nghiệm
của Ủy Ban Khoa Học Quốc Tế năm 1978 (nhằm
bào chữa cho thuyết Cứu Rỗi và Phục Sinh).
Trong năm 1988, Tòa Thánh triệu tập
một ủy ban khoa học hạn chế gồm toàn
những người do Tòa Thánh chọn lựa. Ủy ban
này dùng phương pháp Radiocarbon để định
tuổi tấm vải liệm. Kết cuộc, ủy ban
"gà nhà" nói rằng tấm vải liệm đã
được ngụy tạo vào thời trung cổ,
khoảng từ 1260 đến 1390. Tòa Thánh tổ chức
cuộc họp báo tại London
trong tháng 10.88 để công bố kết quả trên.
Mấy tháng sau, vào ngày 28.4.1989, ký giả Ý
Orazio Petrosillo tháp tùng Giáo Hoàng John Paul II trong chuyến công du Madagascar.
Trên máy bay, ký giả có dịp phỏng vấn Giáo Hoàng
về tấm vải liệm. Giáo Hoàng trả lời
"Tấm vải đó hiển nhiên là một thánh
tích" (The Cloth was definitely a relic). Về câu hỏi thánh tích
đó có xác thực không, Ngài trả lời: "Nếu
đã là một thánh tích thì nó phải có tính cách xác
thực". Việc ký giả Petrosillo phỏng vấn Giáo
Hoàng trên máy bay được thuật lại trên báo
của Tòa Thánh là tờ Observatore Romano ngày 3.5.89. Nhưng các
ý kiến nói trên của Giáo Hoàng thì lại bị tờ báo
đục bỏ. Chẳng qua vì kết quả giảo
nghiệm của Uy Ban Khoa Học Quốc Tế năm 1978
tại Turin đã phát giác một sự thật lịch
sử là "Chúa Jesus đã thoát khỏi nạn chết trên
núi Sọ" nên buộc lòng Tòa Thánh phải phủ
nhận tính cách xác thực này để thuyết Cứu
Rỗi và Phục Sinh được tồn tại. Tuy
nhiên, khi phủ nhận tính cách xác thực của tấm
vải liệm, Tòa Thánh đã mặc nhiên phủ nhận
"tính cách không thể sai lầm" của ngôi vị
Giáo Hoàng, người thay mặt Chúa. Trong lúc Giáo Hoàng Julius
II năm 1506 đã ra đạo luật công nhận thánh
tích này là thật, nay Tòa Thánh nói ngược lại tức
đã công khai xác nhận Giáo Hoàng Julius II sai lầm!. Nói khác
đi, Tòa Thánh đã tự phủ nhận "sự không
thể sai lầm" về các vấn đề tín lý
của chính mình. Tín điều "Đức Mẹ
Đồng Công" (Co-Redemptrix) và tín điều "Giáo
hoàng không sai lầm" (dogma) sẽ đưa CGLM
đến chỗ chết: Tận thế! Đây cũng là
một điều rất đáng buồn cho Tòa Thánh
nhưng dầu sao cũng ít nguy hiểm hơn là sự công
nhận tính cách xác thực của thánh tích này (mà phái đoàn
khoa học đã thử nghiệm năm 1978).
Sau tháng 10.88, lễ Kính Thánh Tích hàng năm vào
ngày 4 tháng 5 đương nhiên bị bải bỏ. Thành
phố Turin vĩnh
viễn mất đi một nguồn lợi kếch sù thu
được của khách thập phương đến
hành hương chiêm bái thánh tích hàng năm. Kể từ ngày
4.5.1990, nhà thờ Turin
được lệnh đóng cửa vô hạn
định. Những thế kỷ vinh quang của tấm
vải liệm lịch sử đã chính thức cáo chung.
Điều Tòa Thánh mong muốn là thánh tích và những câu
chuyện liên quan đến nó sẽ chìm vào sự quên lãng của
nhân loại. [*]
Charlie Nguyễn
7/1996
(đã sửa lại lần chót 09/24/01)
[*] Tuy vậy, vì cần móc túi những con
chiên khờ khạo, nên ngày 22.8.2000, Tòa Thánh Vatican
đem tấm vải liệm khác ra triển lãm. Theo tờ
nhật báo uy tín lớn LA Times, tấm vải liệm
nầy mới chỉ có 13 thế kỷ tuổi mà Jesus thì
đã chết cách đây 20 thế kỷ. Xin xem thêm cuốn
Vatican Thú Tội và Xin Lỗi, GĐ 2000.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét