Người phỏng vấn:Thưa Đỗ Duy Minh tiên sinh, ngài đã nhiều lần nhấn mạnh “sự hiểu biết đồng tình” (đồng tình liễu giải) đối với các nhà tiên triết cổ đại, do đó đã tiến hành giải thích truyền thống trên một quy mô lớn. Tuy nhiên tôi cảm thấy một trong những căn bệnh tệ hại của văn hóa Trung Quốc chính là do ý nguyện giải thích truyền thống quá mạnh mẽ, bất luận thời gian nào, không gian nào, bất luận phải đối diện với bất kỳ loại thách đố nào, cũng tìm một cách truy cầu đáp án về truyền thống, tìm mọi cách hấp thu sức mạnh từ truyền thống. Theo phong cách như vậy, hơn hai ngàn năm giới trí thức chỉ còn biết đứng trước một số kinh điển chắp tay sùng bái, đánh mất cả sức mạnh sáng tạo, đánh mất luôn cả khả năng thích ứng, cuối cùng tạo ra một thứ “tự mình chích thuốc vào bản thân“ (tự thể trúng độc), khiến cho toàn thể xã hội bị sa lầy, đình trệ giữa một thứ bệnh thái thâm trọng. Ngài giải thích ra sao về vấn đề này?
Đỗ Duy Minh: Tôi cho rằng sự kiện này có liên quan đến vấn đề ý thức lịch sử của người Trung Quốc, tức là nhân quả và cải cách. Từ đời Hạ đến đời Thương, từ Thương đến Chu, người đời sau đến với người đời trước luôn luôn có mối quan hệ nhân quả và cải cách, điều này có mối quan hệ rất mật thiết với tính kế thừa trong văn hóa Trung Quốc.
Trước tiên ta cần phải phân biệt hai loại hình sáng tạo. Lọai hình sáng tạo thứ nhất mang tính đột phá. Tính chất này biểu hiện tương đối rõ ràng trong lĩnh vực khoa học. Khoa học phát triển, đôi khi có những đột phá các lý luận đi trước, có khi làm sụp đổ các quyền uy đi trước, sau đó một loại mô hình mới xuất hiện. Loại gãy đổ địa tầng ở bên trong nội bộ như vậy hết sức tự nhiên, mang ý nghĩa tiến bộ, nhảy vọt. Nhưng không hiếm người quan sát cho rằng sự đứt gãy địa tầng không hẳn nghiêm trọng như chúng ta tưởng.
Còn có một loại hình sáng tạo thứ hai, chẳng hạn sáng tạo văn học, cho dù tác phẩm văn học có sáng tạo gì hết sức mới mẻ đi nữa, việc vận dụng ngôn ngữ cũng phải phù hợp với qui tắc hoặc văn pháp có sẵn, những qui tắc này không thể bị vi phạm. Anh chỉ có thể sử dụng ngôn ngữ không phù hợp với văn pháp sáng tạo ra những điều mới mẻ trong một phạm vi giới hạn tự giác. Điều này cũng giống như cuộc vận động cổ văn thời Bắc Tống, trong thời kỳ này đã xuất hiện một số văn hào như Âu Dương Tu, Tô Thức hay Hoàng Đình Kiên, tất cả đều sử dụng cổ văn thuần thục, thực sự đã đạt đến trình độ “bổ phong tróc ảnh“ (bắt gió đuổi ảnh) mà văn học bạch thoại hiện đại vẫn chưa sao với tới được. Do đó, sử dụng một cách cực kỳ thuần thục và linh hoạt ngôn ngữ mọi người vẫn thường vận dụng cũng là một hình thái sáng tạo ra cái mới. Loại hình sáng tạo này không giống như loại hình sáng tạo trong khoa học. Nó có tính kế thừa nhất định.
Truyền thống Trung Quốc, nếu nói theo ngôn ngữ phương Tây, thông qua việc giải thích mà sáng tạo ra triết học, tức là sáng tạo theo quan điểm của thuyên thích học. Anh nhất định phải hấp thu dưỡng chất từ kinh điển truyền thống rồi mới có thể biểu hiện được quan điểm đặc sắc của riêng anh. Những quan điểm đặc sắc này cũng có thể giúp cho anh hoặc người khác đối với vấn đề vi ngôn đại nghĩa trong kinh điển tiến hành một sự xiển dương và phát huy tiến bộ được một bước. Đây là một loại hình tiến bộ tuần hoàn mà vòng tròn mỗi lúc mỗi được khoáng trương rộng rãi thêm ra. Truyền thống Trung Quốc là một truyền thống có ý thức lịch sử rất mạnh mẽ. Tôi không thể nào tiếp thu được quan điểm của một số người đối với văn hóa Trung Quốc cho rằng đây là nền văn hóa có định hướng sùng bái quá khứ không chịu nhìn về tương lai. Tôi cho rằng văn hóa Trung Quốc là nền văn hóa “suy tần xuất tân“ (khai triển cái cũ, làm xuất hiện cái mới), từ trước đến nay vẫn có một sức sống vô cùng mãnh liệt. Nếu không văn hóa Trung Quốc không thể là nền văn hóa vừa trọng cổ vừa trọng kim được. Trên thế giới có nhiều nền văn hóa vô cổ hữu kim hay vô kim hữu cổ, nhưng nền văn hóa hữu cổ hữu kim thì tương đối hiếm. Nền văn hóa truyền thống có sức sống mãnh liệt giống như văn hóa Trung Hoa là một hiện tượng lịch sử độc nhất vô nhị. Truyền thống văn hóa Trung Quốc có tính kế thừa, đã biểu hiện được sức mạnh hưng thịnh của nó trong một thời gian dài. Nếu nói theo ngôn ngữ Kinh Dịch, đây là thành quả của việc “tự cường bất tức “ (tự mình tiến bộ nỗ lực không ngơi nghỉ), không thể giản đơn cho rằng văn hoá Trung Quốc là một hiện tượng “tự thể trúng độc“.
Có nhiều người cho rằng sức sống trong văn hóa Trung Quốc, đặc biệt là sức mạnh sáng tạo trong lĩnh vực triết học, đã đạt đến đỉnh cao trong thời kỳ Tiên Tần, sau đó dần dần suy thoái, cho dù ngay trong thời kỳ tương đối sung mãn cũng không thể so sánh với thời Tiên Tần. Quan điểm này tôi không thể tán thành. Tôi cho rằng văn hóa Trung Quốc có nguồn gốc thâm viễn, dòng chảy mạnh mẽ đi rất xa (nguyên viễn lưu trường, ba lan tráng khoát), có khí phách kiêm dung rất lớn, mỗi thời đại đều có cống hiến đặc biệt mang sắc thái tinh tế hiển minh. Khi bàn đến lịch sử tư tưởng Trung Quốc, chắc chắn cần phải quan tâm đến những giai đoạn quan trọng, mỗi giai đoạn đều có nội dung nghiên cứu phi thường, cần phải xuất phát từ nhiều giác độ khác nhau để lý giải các nội dung này.
Ngoài ra vẫn còn một vấn đề nữa. Trước đây chúng ta vẫn xem văn hóa Trung Quốc là khởi nguyên từ một nguồn gốc duy nhất (nhất căn nhi phát), khởi thủy từ lưu vực sông Vị thuộc hạ lưu sông Hoàng Hà, dần dần phát triển rộng ra. Tôi cho rằng hiện nay rất ít người tiếp thu được quan điểm này. Văn hóa Trung Quốc thực ra bắt nguồn từ nhiều nguồn gốc khác nhau, có văn hóa Trung Nguyên, văn hóa Tây Bắc, văn hóa Ngô Việt ở Trường Giang, văn hóa Quảng Đông và Vân Nam. Văn hóa Trung Nguyên có bình diện phát triển tương đối rộng rãi, bao gồm văn hóa Tề, Lỗ, văn hóa Yên, Triệu, có nhiều hình thức và chủng loại khác nhau, giữa các nền văn hóa này có sự tác động qua lại (hỗ tương kích đãng) hòa hợp với nhau, dần dần phát triển thành một nền văn hóa tương đối thống nhất. Có thể nói văn hóa Trung Quốc mỗi thời đại đều có sức sống riêng biệt, đều có sự phát triển đặc thù, đều có sự sáng tạo riêng biệt. Từ trước thời Thương, Chu, cho đến Bách gia thời Tiên Tần, phái Kinh học và Sử học đời Lưỡng Hán, Huyền học đời Ngụy Tấn, Phật giáo Tùy Đường, Lý học đời Tống Nguyên, Khảo chứng học đời Thanh cho đến các học thuyết phát sinh sau thời nha phiến chiến tranh nhằm thích ứng với phương tây, cho đến thời hiện đại, mỗi một thời kỳ đều có vấn đề đặc biệt rất đáng được nghiên cứu thảo luận. Chúng ta không thể sử dụng mô thức hiểu biết về thời Tiên Tần để giải thích thời Lưỡng Hán, cũng không thể dùng mô thức thời Lưỡng Hán để hiểu thời Ngụy Tấn, không thể dùng mô thức hiểu biết thời Ngụy Tấn để hiểu thời Tùy Đường. Bất kể từ phương diện văn hóa chính trị hay phương diện cấu trúc văn hóa đều không thể hiểu Trung Quốc, một quốc gia có nội dung văn hóa học thuật vô cùng phong phú, một cách đơn giản, thiển cận như vậy được.
B. SỰ HÌNH THÀNH Ý THỨC DUY NGÃ ĐỘC TÔN TRONG VĂN HÓA TRUNG QUỐC
Người phỏng vấn: Khi mọi người bàn đến tính bảo thủ cố hữu trong bản thân văn hóa Trung Quốc, thông thường vẫn nên lên vấn đề “duy ngã độc tôn“ (chỉ có ta là đáng tôn trọng). Như vậy cũng có thể nói, từ cổ chí kim, văn hóa Trung Quốc đều có ý thức duy ngã độc tôn, một loại khuynh hướng mục hạ vô nhân (mục không nhất thiết), khuynh hướng này không những đả kích các luồng văn hóa đến từ nước ngoài, mà còn làm gia tăng thêm nọa tính của văn hóa Trung Quốc nữa. Ngài nghĩ sao về vấn đề này?
Đỗ Duy Minh: Vấn đề này Phí Chí Thanh cũng đã bàn đến rồi. Có quan điểm như sau: do Trung Quốc là một nước lớn có cái gọi là “lễ nghi thiên triều“, có ý thức duy ngã độc tôn, xem những ngoại nhân đều là những dân tộc phải đến triều cống, vì họ có những điều cần phải cầu xin chúng ta, còn chúng ta thì chẳng cần cầu xin gì ở họ. Một khi họ đã đến Trung Quốc thì chúng ta phải dùng một loạt những chế độ lễ nghi để cải biến họ thành những phần tử có nhiệm vụ kính bái thiên triều. Từ đời Đường trở đi tình hình đều như thế cả, cho đến đời Minh thì phát triển thành một loại ngông cuồng tự đại tương đối rõ ràng, loại ngông cuồng tự đại này khiến cho Trung Quốc khó lòng đối phó với sự thách đố của văn hóa Tây phương một cách thực tế, một cách rốt ráo được. Cái gọi là “ Nam Man, Đông Di, Tây Nhung, Bắc Địch “tất cả đều không đáng nhắc đến, chỉ có Trung quốc mới là hạt nhân của văn minh. Điều này biểu hiện ra một loại văn hóa hết sức cường liệt, thậm chí một loại chủ nghĩa xô-vanh chủng tộc.
Tôi cho rằng đối với những trạng huống nêu trên, tất yếu cần phải tiến hành phân biệt ở những tầng lớp sâu hơn. Không thể phủ nhận rằng Trung Quốc quả thật có một loại tư tưởng văn hóa xem mình là trung tâm, nhưng đàng sau bối cảnh rộng lớn này thì tình hình cụ thể rất phức tạp. Đời Đường, văn hóa Trung Quốc phát triển đến đỉnh cao, nhưng đời Đường không có chủ nghĩa xem văn hóa Hoa Hạ làm trung tâm, mà lại có tinh thần bao dung, tổng hợp rất lớn. Sau đời Đường, Hán tộc tại Trung Quốc không những rơi vào cảnh quốc gia bại nhược mà phải còn chịu sự uy hiếp đặc biệt lớn của các dân tộc thảo nguyên (như Mông Cổ), dân tộc Sâm Lâm (như Kim), do đó quan điểm văn hóa trung tâm của Trung Quốc và kinh nghiệm về sinh tử tồn vong mà nó phải gánh chịu có tương quan mật thiết. Đặc biệt trong thời gian gần một ngàn năm lịch sử, quan niệm duy ngã độc tôn rất khó có sức thuyết phục. Đời Tống đối với Liêu, Kim, Nguyên nhiều lần đã phải cam chịu xưng “thần”. Chu Hi, một nhà tư tưởng có ý thức văn hóa Hoa Hạ rất mạnh mẽ, nhưng vẫn có những cảm giác lo lắng, sợ hãi sâu sắc, ông lo sợ rằng động lực của trung tâm thế giới không còn phạm vi Trung Quốc nữa, không những thế Trung Quốc đã bị ngoại nhân xâm lược và phải đối diện với cái họa vong quốc. Đến đời Nguyên, tròn tám mươi năm, hoàn toàn chịu sự can thiệp quấy nhiễu của văn hóa dị tộc, thành phần trí thức bị biến thành một thứ “xú lão cửu” (lão già hủ lậu hôi thối). Cho đến đời Minh, tình hình phòng vệ biên cương luôn luôn phức tạp, căng thẳng, một mặt phải lo Mông Cổ, vì Mông Cổ có khả năng hứng khởi trở lại, một mặt khác phải lo đối phó Mãn Châu. Tình cảnh biến hóa thịnh suy khôn lường, ngay cả hoàng đế cũng bị bắt giữ, trong tình huống như thế, muốn có ý thức ngông cuồng tự đại cũng không phải là việc dễ dàng. Cảm giác về mối nguy cơ rất mạnh mẽ thể hiện trong tác phẩm của Vương Phu Chi và khẩu hiệu do Cố Viêm Võ đề xuất: ”thiên hạ hưng vong, thất phu hữu trách“ (chuyện quốc gia còn hay mất, ngay kẻ thất phu cũng có phần trách nhiệm) tất cả cho thấy không phải đây là ý thức duy ngã độc tôn, tự ngã trung tâm, mà nên nói rằng đó là ý thức lo âu về sự tồn vong của dân tộc.
Cái gọi là ý thức duy ngã độc tôn, chủ yếu hình thành vào đời nhà Thanh, Mãn Thanh là một vương triều do kẻ xâm lăng vào Trung Quốc kiến lập nên. Với mục đích hoàn thành việc khống chế các vấn đề nội bộ, chính phủ nhà Thanh thái dụng sách lược văn hóa hoàn toàn giống với sách lược của Nho gia, Tôn Khổng độc Kinh (tôn sùng Khổng Tử, nghiên cứu kinh điển Nho gia), đó là những điều chính quyền nhà Minh không làm được thì nhà Thanh đã làm được. Có thể nói vương triều nhà Thanh đã hoàn toàn giải trừ được vũ trang của các phần tử Trung Quốc, khả năng phán đoán của giới trí thức đối với một số vấn đề lớn cũng bị chính trị làm cho rối loạn. Đồng thời, giới trí thức, đặc biệt là giới trí thức Hán tộc, khi không còn khả năng tề gia trị quốc họ có cảm giác mình bị phân ly với thời đại, không còn thuộc về thời đại này nữa. Cho nên cái gọi là bệnh ngông cuồng tự đại của thiên triều vẫn chưa phát triển đầy đủ sau đời Tống, và ý thức duy ngã độc tôn của đời Thanh cũng là do thời gian cả trăm năm không tiếp xúc với ngoại bang, đối với văn hoá Tây phương hoàn toàn chẳng hiểu biết gì về hoàn cảnh khó khăn do chính bản thân tạo ra.
Người phỏng vấn: Nhưng mà chúng ta e rằng rất khó mà dùng hoàn cảnh suy bại của quốc gia để phủ nhận sự tồn tại của ý thức duy ngã độc tôn, vào thời Hán Vũ Đế, Đổng Trọng Thư yêu cầu “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật“, điều này đúng là một khẩu hiệu bài trừ các loại tư tưởng khác biệt với mình về phương diện học thuật hay phương diện văn hóa. Sau khi cái gọi Nho thuật của Đổng Trọng Thư trở thành văn hóa chính thống của Trung Quốc, tinh thần bãi truất và độc tôn e rằng đã trở thành tính cách đặc thù của văn hóa Trung Quốc. Ngay cả khi đất nước lâm vào cảnh suy vi, cũng rất dễ dàng kích phát những tình cảm “độc tôn“ tiến lên một bước, vì những người yếu đuối với vấn đề tự tôn đôi khi cũng có mặc cảm, không những thế mặc cảm này đôi khi còn trở nên quá thái nữa. E rằng đây là hiện tượng “mặc cảm tự ti biến thành mặc cảm tự tôn“ (cảm tình đích hồi lưu) chăng?
Hơn nữa, Ngụy, Tấn, Tùy, Đường đều không phải là các triều đại tôn sùng Nho học, mãi cho đến đời Nguyên, Tứ Thư, Ngũ Kinh mới trở thành tiêu chuẩn cho chế độ khoa cử. Tôi không phủ nhận ảnh hưởng rất lớn của Nho gia trong văn hóa chính trị Trung Quốc, đóng vai trò như một nguyên tắc chuẩn mực trong việc trị nước, nhưng phân tích rốt ráo vẫn còn có sự thẩm thấu trong đó nhiều nhân tố thuộc tư tưởng Pháp gia. Tôi chỉ muốn cảnh giác với quan điểm của nhiều người: Nho giáo sở dĩ có thể thâm nhập đến mọi phương diện trong đời sống xã hội, mọi tầng lớp nhân dân, hoàn toàn không phải là nguyên nhân chính trị, mà còn do rất nhiều nhân tố khác. Chúng ta có thể nhớ lại, Nho gia trong đời Hán mặc dù có địa vị rất cao, nhưng đối với lý thuyết Hoàng Lão đang thịnh hành trong xã hội cũng không thể tùy tiện phê phán. Ngụy Tấn có thể nói là thời kỳ mà Nho gia dần dần nắm được địa vị, đương thời trong thị tông tộc, giải cứu gia pháp, làm cho Nho học, đặc biệt là Kinh học và Lễ học phát triển trong cấu trúc kiến lập xã hội. Nhưng rất khó giải thích điều này từ góc độ chính trị hóa. Do việc Trung Quốc bị ngoại tộc xâm nhập, một số lớn gia tộc chạy về phương nam, và do ý muốn duy trì địa vị gia tộc, tất yếu cần phải có một số qui phạm, lý tưởng. Đến thời nhà Đường, Kinh học và Lễ học của Nho gia càng được phát triển rộng rãi (đại hào kỳ đạo). Nhưng không còn nghi ngờ gì nữa, từ thời Ngụy Tấn cho đến đời Đường, tư tưởng chủ đạo vẫn là Phật giáo và Huyền học, nếu xét trên bình diện hệ tư tưởng, mãi cho đến đời Tống, Nho gia mới được trùng tân phục khởi, các học thuyết thân, tâm, tính, mệnh mới được mọi người đề xuất, đối với Phật giáo trở thành đối ứng mang tính sáng tạo mạnh mẽ. Do đó, khi xem xét vấn đề Nho giáo, không thể nào chỉ căn cứ vào góc độ “độc tôn Nho thuật“ hay “nhất chi độc tú“ (chỉ có một cành xinh đẹp) để giải thích, mà xem xét những đường kinh mạch của Nho giáo thẩm thấu trong khắp mọi tầng lớp xã hội. Từ đời Hán đến nay, bất kể là triều đại nào, nếu muốn tiến hành kiến lập các cấu trúc chính trị đều cần đến vai trò của Nho gia. Điều này đóng vai trò hữu quan trong văn hóa chính trị cùng với Nho gia, phản ánh một cách mạnh mẽ rõ ràng ý thức lịch sử và tinh thần cảm thụ văn hóa đặc biệt của người Trung Quốc. Không biết điều này có làm tăng trưởng ý thức duy ngã độc tôn hay bệnh ngông cuồng tự đại của người Trung Quốc hay không? Tôi cho rằng trong vấn đề này có nhiều hoàn cảnh cụ thể mà chúng ta hoàn toàn chưa nắm rõ. Đời Thanh quả thực chúng ta đã biết như thế, nhưng nhất định phải có những nguyên nhân và duyên cớ sâu xa bắt nguồn từ các thời đại đi trước.
Theo dịch giả Dương Ngọc Dũng (Tập san Khoa học Xã hội và Nhân văn)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét