Triết học, như là tư duy phản tỉnh cao độ, đã và sẽ đóng góp gì vào tiến trình hiện đại hoá văn hoá?
Hiện đại hoá và sự hình thành thời hiện
đại khởi đầu ở phương Tây, rồi dần dần lan toả khắp thế giới. Là một bộ
phận cơ bản của tiến trình ấy, triết học Tây phương nghiễm nhiên có vai
trò đặc biệt cần khảo sát. Nhìn thật khái quát, không thể không thấy
rằng triết học, trong lịch sử của nó, đã tham gia vừa tích cực, vừa tiêu
cực vào công cuộc hiện đại hoá văn hoá.
Khoa học và khai minh
Hình ảnh Plato, người cha đỡ đầu cho mọi thứ “triết học – hệ thống” về sau, trong tranh Raphael.
|
Với sự ra đời của triết
học cổ đại Hy Lạp, tính chất phản tỉnh của văn hoá lập tức có được một
chất lượng mới, đó là vượt qua những hình thức phản tỉnh tiền – hiện đại
dựa vào tư duy thần thoại. Với khoảng cách thời gian tương đối ngắn,
triết học đã đạt được hai thành tựu quan trọng, hay nói khác đi, đã đồng
thời trình diện cả hai khuôn mặt. Một bên là tư duy tư biện về giới tự
nhiên (tức là hình thức đầu tiên của “khoa học”), và bên kia là sự phê
phán văn hoá của những nhà biện sĩ (hay hình thức đầu tiên của sự “khai
minh”). Cả hai đều bắt nguồn từ sự phản tỉnh nói trên. Khi giới tự nhiên
(tức không phải văn hoá) được giải phóng khỏi bối cảnh cuộc sống còn
tràn ngập tính thần thoại, nó sẽ trở thành một đối tượng khách quan, mà
con người có thể tìm hiểu, khảo sát bằng lý thuyết thuần tuý.
Trong khi đó, văn hoá (tức
không phải tự nhiên), một khi cũng đã bị lột bỏ lớp áo thần thoại, sẽ
nhanh chóng trở thành lĩnh vực mênh mông cho hoạt động tự do của con
người. Thế là, trong cả hai lĩnh vực (tự nhiên và văn hoá), quyền lực
của thần thoại đã bị bẻ gãy. Điều này cũng có nghĩa: ngay từ đầu, triết
học đã xuất hiện trên vũ đài một cách phi – tập trung hoá. Theo đó,
triết học phân thành hai loại “diễn ngôn” khác nhau cơ bản: diễn ngôn
khoa học – tư biện (lý thuyết) và diễn ngôn phê phán văn hoá gồm đạo
đức, chính trị, xã hội (thực hành). Trong mỗi loại diễn ngôn, có rất
nhiều ý kiến, quan niệm khác nhau, đa nguyên và đa thanh. Nó khác hẳn
với tư duy thần thoại: tuy thần thoại có rất nhiều… thần, nhưng đều tập
trung thống nhất trong một “thần hệ” Hy Lạp duy nhất!
Plato xuất hiện như một
phản động lực! Với hùng tâm tráng chí của một bậc đại triết gia, Plato
tìm cách vãn hồi trật tự. Ông muốn tái hợp nhất hai loại diễn ngôn nói
trên thành một toàn khối. Trước hết, tư duy lý thuyết, tư biện về tự
nhiên của các triết gia trước Socrates đã bị các biện sĩ đả kích và chế
nhạo. Plato tìm cách khôi phục lại, nhưng đổi mới và nâng cấp: thay vì
tư biện về giới tự nhiên trần trụi, khả giác theo kiểu cổ nhân, ông đề
ra một thế giới siêu – tự nhiên làm nền tảng bất biến và vĩnh hằng, gọi
là thế giới của những “ý niệm” hay “linh tượng”, mà so với nó, thế giới
khả giác chỉ là bản sao mờ nhạt và vô thường. Plato không tư biện suông,
mà chủ yếu nhắm đến mục đích thực hành và phê phán văn hoá.
Thật thế, những câu hỏi về
nhân sinh (thế nào là cuộc sống tốt đẹp, thiện hảo?) được thầy của ông
là Socrates cố tình bỏ lửng và để mở trong hình thức các nan đề, nay cần
có đáp án chung quyết. Plato là người ưu thời mẫn thế. Ông không thể
yên tâm khi cái chân và cái thiện bị phó mặc cho sự mạnh được yếu thua
và tư kiến tuỳ tiện và đa tạp của con người. Cần đặt cho chúng một cơ sở
thật vững chắc làm trung tâm, tuy vượt ra khỏi tầm với của con người,
nhưng con người có thể “chiêm ngưỡng” được, nếu biết tu dưỡng và rèn
luyện trí tuệ theo sự chỉ đạo của triết học ông!
Nhưng, cao đồ của Plato là
Aristoteles lại cho ta một hình ảnh khác. Aristoteles, với những luận
cứ nổi tiếng và đến nay vẫn còn tính thời sự, bảo vệ tính đa dạng và phi
– tập trung hoá nội tại của triết học, nhất là về sự tự trị và khác
biệt giữa triết học lý thuyết và triết học thực hành (xin đừng quên
rằng, mãi cho đến thế kỷ 18, triết học có nghĩa rất rộng, hầu như bao
trùm hầu hết mọi lĩnh vực tri thức của con người).
Có thể nói, vào thời kỳ
cao điểm của triết học cổ đại, triết học Plato là sự phản kháng đầu tiên
chống lại xu hướng phi – tập trung hoá của văn hoá, và bản thân Plato
là người cha đỡ đầu cho mọi thứ “triết học – hệ thống” về sau.
Aristoteles, tuy cũng có óc hệ thống cao độ, nhưng “thoáng” hơn, và đối
với nhân sinh, có cái nhìn thanh thản, nhẹ nhàng, cận nhân tình hơn vị
tôn sư của mình.
Một hằng số?
Phi – tập trung hoá theo
hướng hiện đại và xu hướng ngược lại là tập trung hoá, nhất thể hoá là
cuộc đấu tranh giằng co tưởng như một hằng số trong suốt lịch sử triết
học Tây phương. Lướt thật nhanh, ta thử kiểm chứng nhận xét ấy.
Khi bản thân cũng được phi tập – trung hoá, triết học
tất yếu tự đánh mất vị trí và vai trò trung tâm của mình giữa lòng các
ngành khoa học.
|
Sau Aristoteles, vào hậu
kỳ thời cổ đại, là cả một giai đoạn rất đa dạng, phong phú của nhiều
viễn tượng triết học khác nhau, nào là phái hoài nghi, phái khắc kỷ
v.v., trước khi xu hướng nhất thể hoá lại thắng thế với tham vọng hợp
nhất và xây dựng một “khoa học Kitô giáo” bao trùm và thống lĩnh tất cả,
suốt thời trung cổ.
Tiếp sau đó vào thịnh kỳ
trung cổ, bắt đầu tiến trình phân biệt giữa triết học và thần học, từng
bước dẫn đến sự tự trị của triết học như là điều kiện căn bản cho sự
khai sinh rực rỡ của nền triết học và khoa học cận đại Âu châu, với công
đầu thuộc về R. Descartes bất hủ. Chính trong hình thái tự trị ấy, bản
thân triết học sẽ trở thành động lực thúc đẩy và mang lại thắng lợi
quyết định cho cao trào hiện đại hoá văn hoá mà về sau được mang danh
hiệu lẫy lừng là phong trào khai minh.
Phượng hoàng và đống tro tàn
Do bản tính và bản lĩnh
phản tỉnh của mình, triết học không chỉ đồng hành mà còn xung phong làm
bà đỡ cho tiến trình hiện đại hoá văn hoá không thể đảo ngược. Nhưng,
thật là oái oăm, khi bản thân cũng được phi tập – trung hoá, triết học
tất yếu tự đánh mất vị trí và vai trò trung tâm của mình giữa lòng các
ngành khoa học. Triết học đã phải trả một giá rất đắt. Immanuel Kant so
sánh triết học đương thời với một bà mệnh phụ đang than thở vì bị bỏ
rơi, như nhân vật Hercuba của thi hào La Mã Ovid: “Mới vừa là nhân vật
trung tâm đầy quyền uy với đông đảo con cái chung quanh, nay ta lại bơ
vơ, bất lực, bị lưu đày ra khỏi quê hương!”
Triết học hiện đại có hy vọng trỗi dậy
như con phượng hoàng trên đống tro tàn hay không, điều ấy, như ta sẽ
thấy, lại tiếp tục tuỳ thuộc vào chính bản tính và bản lĩnh phản tỉnh
toàn diện của chính mình.
BÙI VĂN NAM SƠM (SÀI GÒN TIẾP THỊ)
Posted in: Triết Học
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét