Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014

GIÁO HỘI GIAN ÁC

Trên đời này chẳng có tôn giáo nào cao hơn Lẽ Thật vì Lẽ Thật là chân lý hằng cửu. Cũng chẳng có tình nào cao đẹp hơn tình người với người, chứ không phải chỉ yêu Thiên Chúa, chà đạp con người như các tu sĩ của Vatican. Cả cái hệ thống tu sĩ của Vatcian là một tổ chức đại của những kẻ đạo đức giả. Chúng dựng lên thần linh quái đản là Thiên Chúa Ba Ngôi rồi nhân danh Thần Linh để khủng bố loài người và giết hại trên 200.000.000 sinh mạng vô tội trong 16 thế kỷ qua. Họ là cha đẻ ra các tai họa khủng khiếp cho loài người qua các chế độ nô lệ, chủ nghĩa diệt chủng Do Thái, chủ nghĩa phát Xít, chủ nghĩa Quốc Xã, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa kỳ thị phụ nữ, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị chủng tộc và thậm chí cả chủ nghĩa Cộng Sản.
Năm 1917, Vatican đã viện trợ cho đảng Bolshervik của Lenin 660 triệu đô la (trị giá bằng nhiều tỷ đô la ngày nay) để Cộng Sản lật Nga Hoàng và diệt Chính Thống Giáo cho Vatican. Người Tây Phương có quá nhiều kinh nghiệm về Vatican nên đã gọi nó bằng một danh từ rất tượng hình và nhiều ý nghĩa, đó là Con Bạch Tuộc của Đức Chúa Trời (Octopus Dei). Sở dĩ mọi tổ chức tội ác còn tồn tại trên thế giới ngày nay là vì cái đầu của con bạch tuộc là Vatican vẫn còn tồn tại. Chỉ khi nào cái đầu của con bạch tuộc chết đi thì các cái vòi của nó là các thứ chủ nghĩa tội ác mới thật sự bị tiêu diệt.
Tất cả các cuộc chiến đấu của nhân loại ngày nay chỉ qui vào một cuộc chiến đấu duy nhất, đó là cuộc chiến đấu của những người thiện lành chống lại những thế lực tội ác do Vatican ngấm ngầm lãnh đạo. Con bạch tuộc khổng lồ Công Giáo La Mã cũng là đầu não của mọi hình thức khủng bố: Tòa án dị giáo với các dàn hỏa thiêu sống con người, bắt cóc ban đêm và đủ kiểu tra tấn hết sức dã man không kể xiết. Muốn hiểu tòa án dị giáo của Vatican kinh khủng như thế nào xin hãy đọc The Inquisition, Hammer of Heresy của Edward Burman, 254 trang. Dorset Press NY. 1992. Ngay trang đầu của cuốn sách, tác giả viết: "Tòa án dị giáo đồng nghĩa với khủng bố, bắt người ban đêm và đủ thứ tra tấn". Nó cũng được mô tả trong The Pit and The Pendulum của Edgar Poe, trong kịch Opera của Don Alhambra, trong những chuyện kinh dị của Gilber, Sullivan, Verdi và cả trong thơ của Tennyson..." The (Inquisition is synonymous with terror, noctural arrest and torture...)
Qua 16 thế kỷ gieo rắc khủng bố cho loài người, tội ác chồng chất của Công Giáo La Mã đã cao ngất như núi. Đã đến lúc cái giáo hội của tội ác này phải đền tội và phải chết. Mới đây, nữ tu sĩ Angelica là người đứng đầu hệ thống truyền hình Công Gíao Mỹ "Eternal World Television Network" có 55 triệu khán giả tại 38 quốc gia có hệ thống tiếp vận của nó, đã tuyên bố trong một talk-show rằng: Thế giới Công Giáo không thể tránh khỏi đại thảm họa. Ngày tận thế của nó chỉ trong tầm tay. (Its end times are at hand). Mọi người Công Giáo đều tin rằng thế giới này sẽ có ngày tận thế, nhưng họ đã lầm. Thế giới này vẫn muôn đời tồn tại, chỉ có cái giáo hội khốn nạn của họ phải đến ngày tận số mà thôi!
Hòn đá tảng Phêrô đang biến thành bùn và cả tòa lâu đài Vatican đang lún xuống bùn dưới sức nặng của tội ác cao như núi đang đè lên đầu nó. Cái chết vô cùng nhục nhã của nó đang đến và phải đến trong những năm của thế kỷ 21. Cả thế giới còn lại sẽ thở phào nhẹ nhõm vì đã vứt đi được cái ung nhọt cương mủ trên cơ thể nhân loại ròng rã trong hơn 16 thế kỷ qua (tính từ ngày Constantine đẻ ra nó vào đầu thế kỷ thứ tư). Cả loài người thiện lành sẽ từ đây ung dung bước đi chững chạc vào một trật tự thế giới mới trong ánh bình mình đẹp vô cùng của thiên niên kỷ thứ ba. Khi "con bạch tuộc của Chúa Trời" không còn nữa, tất cả loài người sẽ dành lại vườn địa đàng của mình là trái đất này để kiến tạo cuộc sống thanh bình hạnh phúc cho các thế hệ con cháu đến muôn đời. Hallelujah! Hallelujah!
Thượng đế [Chữ Thượng Đế nói đây không cùng nghĩa với tín đồ Kitô giáo gọi.]
chứ không phải Jehovah (con bò El) đã đang và mãi mãi tiếp tục kiến tạo vũ trụ hoàn toàn trong thinh lặng. Ngài đã mặc nhiên trao trái đất này cho toàn thể loài người chúng ta với lòng yêu thương vô hạn của Ngài. Thượng đế yêu thương loài người nên chẳng bao giờ Ngài muốn làm khổ con người. Chỉ có quỉ mới muốn làm khổ con người nên đã xúi bậy con cái của nó là Công Giáo gieo rắc đủ thứ tai họa cho loài người mà thôi. Chẳng có tôn giáo nào do Thượng Đế tạo ra mà tất cả đều là sản phẩm của con người. Tôn giáo chỉ có thể là chính đáng khi nó thật sự phục vụ con người. Mọi thứ tôn giáo nhân danh Thượng Đế chà đạp con người đều là tà đạo của sa tăng rồi phải bị tiêu diệt. Thánh linh của Thượng Đế cũng như Phật tính đều có sẵn trong tâm linh của mọi người chúng ta, đúng như lời Phật dạy: "Phật tại tâm". Các thứ Phật hay Chúa trong các chùa và nhà thờ đều là đồ giả [Vì thế nên một hôm trời lạnh, một vị thiền sư bảo đệ tử đem cái tượng Phật bằng gổ chẻ làm củi.] do các tu sĩ của các tôn giáo tạo ra để lừa bịp con người. Đỉnh cao của mọi thứ đạo đức thật sự là lòng yêu thương Sự Thật. Tình yêu thương dàn trải giữa mọi người với nhau là nguồn hạnh phúc vĩnh cửu trên cõi đời này. Đó là thiên đàng duy nhất có thật chứ chẳng có một thiên đàng nào khác. Loài người làm khổ nhau do lòng tham lam ích kỷ là địa ngục duy nhất có thật chứ cũng chẳng có một địa ngục nào khác ở ngoài thế gian này.
Các tổ chức giáo hội là nguyên nhân gây ra thảm họa cho loài người chúng ta. Giáo hội tạo ra những ốc đảo tôn giáo chia rẽ con người. Các ốc đảo tôn giáo đó tranh chấp nhau để dành tín đồ nhằm tụ bè kết đảng không ngoài mục đích củng cố quyền lực cho các tu sĩ lưu manh của nhiều tôn giáo chứ cũng chẳng riêng gì của Công Giáo La Mã.
Cả ba tôn giáo Phật Khổng Lão đều đã du nhập vào nước ta gần 2000 năm qua mà dân tộc Việt nam không hề coi ba tôn giáo đó là ngoại lai. Cả ba tôn giáo, với các chủ trương đối nghịch nhau, đã hòa làm một trong lòng dân tộc mà ta thường gọi là "TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN". Sở dĩ cả ba tôn giáo Phật Khổng Lão đã hòa đồng một cách tốt đẹp như vậy là nhờ ở yếu tố của ba tôn giáo đều không có giáo hội. Sau 1.11.1963, các tăng sĩ Phật Giáo bắt chước Công Giáo thành lập "Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất". Như Vậy, Phật Giáo hình như đã chủ trương đi vào con đường thế tục như Vatican từ đây? [Ban biên tập xin phép tác giả bỏ một trang vì thấy thiếu sử liệu.]
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam luôn luôn phục vụ quyền lợi ngoại bang và đàn áp tôn giáo là một động lực thúc đẩy nhiều người Phật Giáo tham gia Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất để chống lại Công Giáo. Đối với nhiều người Phật Tử thì Công Giáo nguy hiểm hơn gấp trăm lần các tổ chức Cộng Sản, Công Giáo là yếu tố khiến cho chiến tranh Việt Nam kéo dài và càng ngày càng thêm thảm khốc.
Giáo Hoàng Gioan XXIII ủng hộ việc lật đổ và tiêu diệt chế độ Ngô Đình Diệm vì cho rằng chế độ Diệm đã đe dọa phá hoại chính sách hiệp thông của Vatican. Giáo Hoàng Gioan XXII đã chính thức gửi văn thư mắng nhiết Ngô Đình Diệm năm 63 về tội đàn áp Phật Giáo. Báo chí Hoa Kỳ xác nhận: "Giáo Hoàng Gioan XXIII bí mật hợp tác với Cộng Sản để chuẩn bị cho một nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ Mác-xít của Hồ Chí Minh". (Pope John XXIII secretly cooperated with the Communists in preparing a future united Marxist Việt Nam under Ho Chi Minh).
Ngày 30.1.1967, báo chí thế giới loan tin về cuộc tiếp tân của Giáo Hoàng Paul VI tại Vatican long trọng chào đón thủ tướng Liên Xô Podgorny để củng cố sự hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước Chư hầu của Cộng Sản tại Đông Âu (The new policy of Paul VI of full cooperation with Soviet Russia and the Communist satellites of Eastern Europe). Báo chí thế giới cũng xác nhận Paul VI là cha đẻ ra liên minh Vatican-Moscow. Liên minh này đã phá tan chiến lược chống cộng của Hoa Kỳ ở cả hai lục địa Âu châu và Á Châu. Liên minh Công Giáo với Cộng Sản đã trở nên một yếu tố quan trọng cho cuộc thất trận của Hoa Kỳ tại Việt Nam. (Paul VI fathered the Vatican-Moscow Alliance which undermined the Anti-Russian strategy of the US in Europe and Asia. This alliance became an important factor in the final defeat of the US is Viet Nam).
Paul VI dư biết Vũ Ngọc Nhạ là gián điệp Cộng Sản qua hai đời tổng thống Công Giáo đã góp phần quan trọng trong việc làm sụp đổ VNCH ngày 30.4.1975 nhưng y vẫn ban thưởng cho tên gián điệp Cộng Sản này huy chương cao quí của Tòa Thánh là "Huy Chương Hòa Bình" có in hình của giáo hoàng . Vì thế, Việt Nam Cộng Hòa rất cay đắng không bao giờ quên mối hận này đối với hai giáo hoàng Gioan XXIII và Paul VI.
Giáo Hoàng Jean Paul II hiện nay đang lên tiếng kêu gọi nhân dân toàn thế giới tha tội cho các tội các của Công Giáo La Mã trong 16 thế kỷ qua nhưng chưa đả động gì tới các tội ác của Công Giáo đối với dân Việt Nam.
Trong chiến tranh, các cha cố đã bòn rút viện trợ Mỹ che chở cho kẻ buôn lậu, đào binh, trốn quân dịch. Nhiều giáo xứ Công Giáo là những khu an toàn lý tưởng của Việt Cộng và các tội phạm đủ loại.
Công Giáo Bùi Chu Phát Diệm do Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi lãnh đạo chỉ tôn thờ thực dân Pháp, trước cũng như sau 1954. Trước 1954, họ chống Cộng điên cuồng, lợi dụng vũ khí của Pháp đi cướp phá các làng Phật Giáo, chiếm chùa làm nhà thờ, giết hại dân lành để cưỡng bức người ngoại đạo phải "trở lại đạo Công Giáo". Chúng chống Cộng sản do lệnh của Giáo Hoàng Pius XII, một tên đồ tể của Đức Quốc Xã tại Rome.
Sau 1954, họ trở cờ hòa hợp với Cộng Sản, các khu đông giáo dân như Hố Nai, Gia Kiệm là các trung tâm khai thác gỗ bất hợp pháp. Họ phá rừng lấy gỗ kiếm tiền lo làm giàu và đóng thuế nuôi Việt Cộng. Hoàng Quỳnh, Lê Hữu Từ liên kết với bọn Mafia Bảy Viễn chống VNCH để làm lợi cho thực dân Pháp và Vatican của John XXIII và Paul VI. Ngày 12.11.1974, tập đoàn Hoàng Quỳnh Vũ Ngọc Nhạ và các nghị sĩ Công Giáo trong liên minh Nguyễn Gia Hiến đã đến xã trung lập Củ Chi gặp gở các đại diện của MTGPMN và Cộng Sản Bắc Việt để lập chính phủ ba thành phần thân Cộng Sản (Sách Ông Cố Vấn tập 3, trang 32-33).
Tất cả các Việt gian trong thành phần thứ ba gồm các cường hào ác bá của Bảo Hoàng trong chính quyền và quân lực VNCH, cũng như các tu sĩ làm chính trị đã là các thủ phạm chính yếu dẫn đến sự sụp đổ của VNCH ngày 30.4.75.
Tất cả chúng đều bỏ chạy sau 30.4.75 và hiện đang chiếm lãnh các tổ chức cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Họ liên tục chống phá tại hải ngoại dưới các hình thức chống Cọng giả vờ như đòi Nhân quyền Dân chủ cho Việt Nam... chúng đang lớn tiếng hô hào Tự do Tôn Giáo, thực chất là để biến tôn giáo thành nơi trú ẩn an toàn cho bọn Việt gian đủ loại ngõ hầu sau này chúng sẽ xuất phát từ các giáo hội trở ra chống phá chính quyền mới của Việt Nam.
Một số ít tu sĩ Phật Giáo cũng đi vào con đường hủ hóa với lối sống xa hoa và hưởng thụ chẳng khác gì các tu sĩ Công Giáo.
Với tổ chức giáo hội, Phật Giáo Việt nam có lẽ đang đi vào vết bánh xe đỗ của Công Giáo La Mã.
Tự do tín ngưỡng (Freedom of beliefs) là một hình thức của tự do tư tưởng không có nghĩa là tự do thành lập giáo hội. Mọi người đều có thể có tín ngưỡng (niềm tin) của riêng mình nhưng không nhất thiết phải có giáo hội. Tín ngưỡng là niềm tin trong lòng, còn giáo hội là một tổ chức có hệ thống tu sĩ chỉ huy và với những đoàn thể được đoàn ngũ hóa để theo đuổi những mục tiêu nặng về thế tục hơn là tâm linh tôn giáo. Giáo hội là định chế chính trị lũng đoạn quốc gia và chia rẽ dân tộc. Muốn bảo toàn sự thống nhất quốc gia và hạnh phúc dân tộc, việc cần thiết là phải xóa bỏ mọi tổ chức giáo hội, không phân biệt là của tôn giáo nào.
Sở dĩ Công Giáo La Mã đã biến thành một tổ chức tội ác lớn nhất lịch sử loài người chính vì nó đã tiêu diệt các chi phái Kitô để thành lập một giáo hội duy nhất do đế quốc lãnh đạo. Trước thế kỷ thứ 4, Kitô Giáo đã có nhiều chi phái chủ trương không thành lập giáo hội, không xây nhà thờ mà chỉ có phòng hội, không thờ ảnh tượng và không có giáo lý cứng nhắc.
Giáo phái Macionism gọi Jehovah của đạo Do Thái là quỉ. Họ tin rằng Thiên Chúa thật phải là Thiên Chúa của Tình Thương (Real God: God of Love).
Giáo phái Gnosticism thịnh hành tại Ai Cập và Tiểu Á, phân biệt Tinh Thần là Thiện, Vật Chất là Ác. Thiên Chúa là Tinh Thần cao thượng còn Vật Chất (matter) là Satan, biểu tượng của lòng tham vật dục thấp hèn. Họ cho rằng con rắn cám dỗ Adong Evà không phải là Satan mà là vị thần của sự khôn ngoan và tinh thần cao thượng. Con rắn đó thật tâm muốn giúp tổ tiên loài người ăn trái cây hiểu biết (The Tree of Knowledge) để trở nên khôn ngoan sáng suốt ngõ hầu thoát khỏi sự thống trị độc đoán của Jehovah. Con rắn không phải là quỉ mà là một đại ân nhân của loài người. Chỉ vì lòng sợ hãi hèn yếu mà Adong Evà đã không dám ăn trái cây hiểu biết nên đã không thoát ra được kiếp sống đau khổ triền miên do sự áp chế của ác thần Jehovah. Jesus là thần Logos, hiện thân của sự khôn ngoan, dạy loài người thoát khỏi trầm luân của thế giới vật chất. Jehovah không khôn ngoan bằng Logos. Danh từ Hy Lạp Gnostic có nghĩa là sự hiểu biết (knowledge), muốn ám chỉ Jesus là sự hiểu biết đích thực.
Giáo phái thứ ba là giáo phái thịnh hành tại Pháp do Irenaeus, giám mục tại Lyon, chủ trương. Năm 185, Irenaeus viết sách Against the Heretics" để chống lại hai giáo phái Macionism và Gnostic. Iranaeus chủ trương công nhận Jehovah của đạo Do Thái là Chúa Cha. Jesus là con duy nhất của Jehovah. Ý niệm về Đức Chúa Thánh Thần rất mơ hồ. Irenaeus xác quyết Chúa Jesus thực hiện cuộc cứu thế bằng cái chết đau khổ và 3 ngày sau sống lại hiển vinh. Cuốn sách Against the Heretics đã dọn đường cho sự hình thành bản tóm lược giáo lý gọi là "Đức Tin của các tông đồ" The Creed of Apostles) được Công Đồng Nicaea do Constantine triệu tập thông qua. Đó là sự xuất hiện của bài kinh đầu tiên của Đạo Công Giáo La Mã gọi là Kinh Tin Kính. Công Giáo La Mã là tôn giáo được cấu tạo bởi quyền lực của Constantine, dựa trên giáo lý của giám mục Pháp Irenaeus và được hoàn chỉnh bởi Augustine (như có trình bày ở đoạn trước).
Tất cả mọi giáo phái Kitô khác đi ngược lại với giáo lý của Irenaeus và Augustine đều bị Constantine và đế quốc La Mã tiêu diệt bằng bạo lực khủng bố. Có thể nói Công Giáo La Mã là tôn giáo của Chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Cuộc chiến đấu của nhân loại ngày nay là cuộc chiến đấu của những người thiện lành chống lại các thế lực tội ác đã gieo rắc đau khổ cho con người từ xưa đến nay. Thế giới chỉ có thể xây dựng được một trật tự mới khi nào các thế lực tội ác, dẫn đầu là Công Giáo La Mã, phải bị tiêu tan hoàn toàn và triệt để. Lương tâm và lương tri của nhân loại nhất quyết không thể cho phép nó tồn tại lâu hơn để kéo dài thêm nữa những chuổi ngày bi thảm của nhân loại.
Mọi người Việt Nam chúng ta phải góp công sức cùng toàn thể những người thiện lành trên thế giới mau chóng đẩy con quỉ Công Giáo La Mã xuống đáy địa ngục để chấm dứt hoàn toàn cái lịch sử tội ác gần 2000 năm của nó. Cần từ bỏ ác thần Jehovah và đám con cái của ác quỉ để dành lại vườn địa đàng của chúng ta là trái đất này. Chỉ có ác quỉ chứ không phải Thiên Chúa mới xua đuổi con người ra khỏi vườn địa đàng mà thôi.
Vatican trước đây đã đạt tới đỉnh cao danh vọng do cấu kết chặt chẽ với các chủ nghĩa quân chủ phong kiến, chủ nghĩa thực dân đế quốc, chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa Đức Quốc Xã. Nó cấu kết với các bố già Mafia Ý và bọn khủng bố quốc tế... Tất cả các thế lực tội ác đồng lõa với Vatican đã gần như đang bị dồn vào thế cô lập. Ngày tận thế của nó không bao xa. Xưa kia Jesus thường hăm dọa mọi người là ngày tận thế đã đến gần trong tầm tay (Doomsday is at hand). Nhưng 2000 năm qua vẫn không có tận thế và sẽ chẳng bao giờ có. Cái mà Jesus không biết tới là cái giáo hội Công Giáo La Mã đang bên bờ "tận thế". Cái câu nói của Jesus "Doomsday is at hand" chỉ đúng cho tình trạng hiện nay của Công Giáo La Mã mà thôi. Lịch sử tội ác của Công Giáo La Mã chống loài người là một hồ sơ dầy cộm đã đến lúc phải kết thúc. Các giáo hoàng tự xưng là đại diện của Chúa Cứu Thế (Vicars of Christ) chính là một danh hiệu làm nhục Chúa Cứu Thế hơn bất cứ cái gì khác.
- Đại diện Chúa Kitô như Giáo Hoàng Innocent (but not innocent) chỉ trong một buổi chiều giết 12.000 giáo dân tại Rome vì những người này đã dám chống lại y. Giáo hoàng này vượt xa hơn bất cứ một bạo chúa nào trên thế gian về tội giết người. Y là kẻ đã phát minh ra tòa án dị giáo (the Inquisition) gieo kinh hoàng tại Âu Châu liên tiếp trong 3 thế kỷ (13-16) và tiếp tục gây tội ác cho đến giữa thế kỷ 19 mới chấm dứt. Nỗi ám ảnh của dân Âu Mỹ về tòa án dị giáo được phản ảnh trong sử sách và trong cả những chuyện ghê rợn của Allan Edgar Poe. Sullivan, Verdi, Tennyson. Muốn tìm hiểu về tội ác của Giáo Hoàng Innocent này xin hãy đọc The Inquisition Hammer of Heresy, 253 trang của Edward Burman Dorset Press NY. 1992. Tội ác của Innocent kéo dài hơn 6 thế kỷ,10 triệu sinh mạng hầu hết bị thiêu sống trên dàn hỏa. Tòa án dị giáo là hiện tượng có tầm quan trọng căn bản trong lịch sử Âu Châu. Đó là một định chế xuất hiện từ thế kỷ 13 nhưng ảnh hưởng của nó còn kéo dài đến ngày nay. (Phenonmenon of fundamental importance in the history of Western Europe. As an institution, it came into being in the thirteenth century. Its effect are still felt today).
Tuy nhiên, đề cập đến tên vô địch dâm tặc phải kể đến đấng đại diện Chúa Kitô là Rodrigo Borgia tức "Đức Thánh Cha" Alexander VI (The Bad Popes, by E.R. Chamberlin. Dorset Press NY. 1969 pages 159-205).
- Giáo Hoàng Alexander VI cai trị Hội Thánh 11 năm (1492-1503). Lên ngôi giáo hoàng không do ai bầu mà do cậu ruột là Giáo Hoàng Calistus III truyền ngôi cho. Trước khi lên ngôi giáo hoàng thì y đã có vợ và 4 con đã lớn và thêm một đứa con hoang ngoài hôn thú. Việc đầu tiên là giáo hoàng phong chức cho đứa con trai tên Ceasare 18 tuổi và đứa con hoang chức vụ hồng y giáo chủ. Năm 1497, Alexander VI định đưa con thứ tên Juan lên ngôi giáo hoàng thì bỗng nhiên Juan bị giết bằng nhiều nhát dao và bị ném xác xuống sông Tiber. Người ta vớt xác Juan đem về cho giáo hoàng coi. Giáo hoàng xúc động quá đến phát điên. Y cho rằng giới quí tộc ở Rome đã hãm hại con trai yêu quí của y. Do đó, y bèn khởi động một cuộc khủng bố đẫm máu chống giới quí tộc La Mã.
Tuy là một bạo chúa, nhưng Alexander lại là một kẻ yêu chuộng nghệ thuật. Y đã để lại một kho tàng nghệ thuật là Đền Thánh Phêrô với các bức họa và tượng điêu khắc của hai vô địch kỳ tài là Michael Angelo và Leonardo Vinci. Chỉ vì muốn tạo cảm hứng cho Leonardo Vinci có thể mô tả sự đau khổ một cách linh động, y có sáng kiến đem các nạn nhân của tòa án dị giáo ra tra tấn trước mặt nhà nghệ sĩ tài danh này. Alexander VI có cô con gái rất xinh đẹp tên là Lucrezia. Mặc dù Lucrezia đã được gã chồng nhưng hai anh của nàng đều yêu nàng nên đã sát hại chồng nàng. Lucrezia trở về sống tại Tòa Thánh với cha ruột và hai anh mình. Lucrezia làm tình với cả cha và hai anh mình. Chỉ vì quá ghen, Ceasar đã giết em là Juan chứ chẳng phải là ai khác trong giới quí tộc La Mã. Mấy cha con của Giáo Hoàng Alexander VI thích ngồi xem những người khác làm tình tập thể. Do đó, Vatican thường xuyên diễn ra các cuộc dạ tiệc hết sức sang trọng tốn kém. Mỗi buổi dạ tiệc thường được triệu tập 50 gái điếm tuyển lựa tại Rome để vũ thoát y ngay tại phòng hội của Tòa Thánh. Các tu sĩ và nhân viên Tòa Thánh sau đó làm tình tập thể tại chỗ. Giáo hoàng cho người đi hứng các tinh dịch của đàn ông làm tình để phát thưởng. Ai có khả năng làm tình nhiều lần và xuất tinh nhiều lần đều được giáo hoàng và con gái phát thưởng! Sau đó, Lucrezia sinh ra một đứa con trai, không biết là con ai. Tuy nhiên, lúc đứa bé được 6 tháng tuổi, Giáo Hoàng Alexander đã công khai cho Lucrezia bế đứa nhỏ 6 tháng ngồi bên cạnh y khi dự các buổi tiếp tân công cộng. Từ đó, dân La Mã truyền tụng nhau một câu thơ "Giáo Hoàng Alexander là cha, là chồng, là cha chồng và là cha của cô dâu xinh đẹp Lucrezia". Alexander không chỉ loạn luân với con gái của y mà còn loạn luân với hai cô em ruột. Một trong những vợ bé của giáo hoàng nầy là Vanozza del Cantanel có con gái riêng tên Rosa. Rosa sinh cho giáo hoàng tới 5 đứa con! (Babylon Mystery Religion, page 89). Với quá nhiều oán thù, ngày 18.8.1503, Alexander VI bị đầu độc chết bằng chất bột trắng (white poison powder).
Kể chuyện tội ác và các tật dâm ô vô đạo của các Giáo Hoàng La Mã thì thật vô tận. Xin quí độc giả tự tìm kiếm lấy tài liệu để đọc thêm. Ở đây tôi chỉ muốn bày tỏ một nỗi đau buồn là đồng bào Công Giáo Việt Nam hoàn toàn bị đám tu sĩ bưng bít nên họ cứ tưởng giáo hoàng là các bậc thánh sống để họ tôn thờ. Gia đình Công Giáo nào cũng thường có hình giáo hoàng được gia chủ đóng khung kiếng và treo ở nơi trang trọng gần như ảnh thờ. Các sách kinh nguyện Việt Nam có rất nhiều bài kinh cầu cho giáo hoàng. Giáo hoàng được giáo dân tôn kính và cầu nguyện cho nhiều lần gấp bội số lần cầu nguyện cho những người thân nhất của mình. Tại Rome, thỉnh thoảng cũng có các đám rước giáo hoàng ngồi trên kiệu do nhiều người khiêng. Năm 1951, chính kẻ viết bài này cũng đi dự một đám rước kiệu tấm hình lớn của đồ tể Pio XII tại Bùi Chu! Thật là một điều mỉa mai đau xót mà tôi khó có thể diễn tả bằng lời...
Cả thế giới ngày nay người ta đã biết nhiều về bộ mặt xấu xa tội lỗi đáng ghê tởm cùng cực của cái gọi là Tòa Thánh và những kẻ được tôn xưng làm "Đại Diện của Chúa Kitô" (Vicars of Christ). Nhưng tôi vô cùng ngao ngán và phải nói rằng tuyệt đại số đồng bào đồng đạo của tôi không biết tí gì về các điều đó. Mặc dầu tôi đã kể chuyện một số giáo hoàng tội lỗi tiêu biểu ở những đoạn trên, nhưng tôi tin rằng những chuyện đó chưa đủ để làm thay đổi cái não trạng đen tối của những người đồng đạo. Đây là lý do khiến tôi phải cố gắng viết thêm nữa về Vatican và giáo hoàng. Những điều tôi kể sau đây cũng chỉ là một số rất ít trong cả một rừng tài liệu hiện có trong các thư viện. Các tài liệu hết sức phong phú lên án Vatican và giáo hội Công Giáo sẽ không có tác dụng gì nếu không có người đem nó ra trình bày bằng Việt Ngữ để giáo dân Việt Nam có phương tiện tìm hiểu. Chính sự thiếu hiểu biết của giáo dân đã làm cho các tu sĩ lộng hành và khuyến khích họ tìm mọi cách ngăn cản giáo dân tìm hiểu sự thật về giáo hội. Chính sách ngu dân luôn luôn là một phương tiện hữu hiệu nhất của kẻ thống trị xử dụng để bảo vệ thế quyền cũng như thần quyền của họ. Giáo dân có mê tín mới đem tiền đến nhà thờ xin lễ hoặc dâng cúng, các cha cố mới có nhiều tiền để xây nhà thờ to đẹp hầu phô trương uy thế của mình. Giáo dân càng ngu dốt bao nhiêu, càng khúm núm ngoan ngoãn cha cố bấy nhiêu. Giáo dân khúm núm quị lụy với cha cố bao nhiêu, càng làm cho họ lên mặt bấy nhiêu. Nếu để cho cha cố tiếp tục lộng hành lũng đoạn cả khối giáo dân, chúng có thể sẽ tạo thêm nhiều Ngô Đình Diệm cai trị đất nước. Với cương vị là tổng thống đứng đầu một quốc gia, nhưng Ngô Đình Diệm vẫn lấy tư cách giáo dân trung thành của Vatican để cúi đầu khom lưng hôn nhẫn, hôn tay các hồng y đại diện Tòa Thánh. Cử chỉ đó của Ngô Đình Diệm đã nói lên tinh thần nô lệ của Công Giáo Việt Nam và đã làm nhục quốc thể không ít.
Sự ngu đốt là nguyên nhân đầu cùng của mọi hành vi sai trái. Tất cả những hành vi sai trái nói trên của tập thể giáo dân đều xuất phát từ sự tối tăm không biết gì về thánh kinh, giáo hội và tu sĩ: Thánh kinh là sản phẩm bịa đặt tạo ra một giáo hội gian dối. Giáo hội gian dối tạo ra một hệ thống tu sĩ gian manh. Sự ngu dốt là nền tảng của tất cả những thứ đó.
Hệ thống tu sĩ Công Giáo thế giới là hệ thống tu sĩ thiếu lương thiện, đứng đầu là giáo hoàng. Chức vị giáo hoàng chẳng phải do Chúa trao cho mà thường do cướp đoạt bằng đủ mọi thủ đoạn: hối lộ, mua chuộc, vận động chính trị và rất nhiều trường hợp là do mưu sát lẫn nhau. Chỉ trong vòng 12 năm (891-903), có 10 giáo hoàng liên tục giết lẫn nhau để đoạt ngôi giáo hoàng. Chức vị giáo hoàng là mục tiêu quyền lực mà kẻ lãnh đạo cao cấp trong giáo hội luôn luôn nhắm tới để tranh đoạt. Chẳng cần nói đâu xa, đương kim giáo hoàng Jean Paul II lên ngôi giáo hoàng năm 1978 là do y đã can dự vào việc mưu sát giáo hoàng tiền nhiệm là Jean Paul I bằng chất độc vào đêm 5.9.1978. Việc sản xuất chất độc giết người là nghề của Jean Paul II. Trong thời đệ nhị thế chiến, Jean Paul II lúc đó là thanh niên Ba Lan mang tên Karol Wojtila, giữ chức vụ Saleman cho công ty Đức Farben Chemical chuyên sản xuất độc khí thủy ngân (Cyanicgas) cung cấp cho Đức Quốc Xã dùng chế tạo hơi ngạt giết 6 triệu Do Thái trong các trại tập trung. Việc xử dụng chất độc được gọi là "Lentulo", một thứ bột trắng chết người (the lethal white powder), là một truyền thống lâu đời của triều đình Vatican. Có lẽ khởi đầu từ thế kỷ II. Sử sách giáo hội La Mã ghi nhận con gái giáo hoàng Alexander VI là Lucrezia là một chuyên viên xử dụng chất độc giết hại nhiều người. Chính giáo hoàng Alexander VI cũng chết vì bị đầu độc năm 1503. Sách "The Pope Encyclopedia" liệt kê danh sách nhiều giáo hoàng bị mưu sát bằng chất độc bột trắng: Giáo hoàng duy nhất tại Vatican có gốc Đức quốc là Utrech bị mưu sát bằng thuốc độc năm 1073. Từ đó, người Ý dành độc quyền làm giáo hoàng cho đến ngày Jean Paul II lên ngôi năm 1978 không phải là người gốc Ý. Các giáo hoàng sau đây đều đã bị người kế nhiệm đầu độc để cướp ngôi: Pio VIII (1830), Leo XIII (1903). Pio X (1914) và Pio XI (1939).
Sách Babylone Mystery Religion liệt kê các vụ giáo hoàng kế nhiệm trả thù giáo hoàng tiền nhiệm. Điển hình là vụ Giáo Hoàng Stephen VI (896-897) trả thù giáo hoàng tiền nhiệm là Formosus (891-896). Sau khi giáo hoàng Formosus chết được 8 tháng, giáo hoàng Stephen VI vẫn ra lệnh quật mồ lấy bộ xương của giáo hoàng này đặt lên ghế giáo hoàng. Stephen VI đứng phía trước bộ xương tra hỏi và chửi rủa. Stephen VI kết án bộ xương của Formosus rồi truyền vứt bộ xương ra đường phố, cuối cùng được vứt xuống sông Tiber. Stephen VI kết tội Formosus rối đạo và sai lầm.
Giáo Hoàng Honorius I, sau khi chết cũng bị Tòa Thánh họp hội nghị đem hồ sơ ra xét xử năm 680. Giáo hoàng Honorius bị kết án là sai lầm và rối đạo! Vậy mà giáo dân Việt Nam vẫn đọc kinh "Đức Chúa Trời đã đặt Đức Giáo Hoàng lên quyền rất trọng, là cai trị các giáo hữu đời này, cho nên khi Đức Giáo Hoàng truyền sự nào chung cho các giáo hữu, cùng phán dạy phải tin cùng điều nọ chẳng nên tin thì Đức Chúa Trời hằng soi sáng cùng gìn giữ Đức Giáo Hoàng cho nên chẳng có lẽ nào sai lầm được." (Toàn Niên Kinh Nguyện Bùi Chu, trang 326).
CÁCH LÀM TIỀN CỦA VATICAN
Tiếp sau quyền lực là Tiền. Tiền là mối quan tâm hàng đầu của Vatican vì dành quyền là để chiếm độc quyền làm tiền. Các bộ óc siêu đẳng về tài chánh được xử dụng tìm mọi cách để làm giàu: ban các chức thánh, bán ơn đại xá Tòa Thánh, ơn tha tội (indulgence) cho người chết trong lễ cầu hồn, tổ chức hành hương, tổ chức năm thánh (jubilee) bán thánh tích v.v...
Trong năm thánh 1300 (the jubilee year of 1300) tiền bán ơn tha tội cho người chết gồm cả tiền mặt và vàng bạc nữ trang nhiều đến nỗi Tòa Thánh phải cho các tu sĩ dùng cào để cào thành đống tại Đền Thánh Phêrô. Thế kỷ 13 được coi là thế kỷ sáng chói của Tòa Thánh về phương diện tài chánh. Tòa Thánh sản xuất nhiều thánh tích giả để đem bán đấu giá. Thậm chí có cả chiếc răng sữa và miếng da qui đầu của Chúa Jesus! Có cả tã lót và bình sữa Đức Mẹ dùng nuôi Chúa lúc nhỏ. Tổng số đinh và gỗ thu lượm tại Jerusalem được gán cho là gỗ của thập giá và đinh đóng vào tay chân Chúa nhiều đến nỗi có thể dùng đóng chiến hạm! Chúa chỉ bị đâm cạnh sườn bằng một cây giáo, vậy mà Tòa Thánh chính thức bán đấu giá tới 3 cái! Các sử gia đã phải gọi Giáo Hội Công Giáo là giáo hội đói tiền (A money-hungry church). Giáo hội đã biến Núi Sọ của Chúa thành NÚI VÀNG: Church turn Golgotha (mountain of Skulls) into Golconda (mountain of gold). Nguyên nhân thúc đẩy các thập tự quân đi đánh các nước Hồi Giáo là lòng ham muốn chiếm đoạt tài sản của họ. Sử gia Lloyld Graham viết trong The Deceptions and Myths of the Bible, trang 472: "Núi vàng biến thành chiến trường của thập tự quân. Động cơ chính yếu là lòng thèm muốn của dân Âu Châu đối với sự giàu có huy hoàng của người Ả Rập" (Golcond was turned into battleground of the Crusades. The real motivation was hungry Europe’s envy of the wealth and splendor of Araby). Sử gia Lloyld kết luận: "Sử gia sau tôi sẽ viết một cuốn sử khác tựa đề là: Sự suy đồi và sụp đổ của giáo hội Công Giáo". (Another historian will write another book and he will call it: The Decline and Fall of the Roman Church).
Từ ngày Constantine lập ra đạo Công Giáo, giáo hội đã mau chóng trở thành giàu có ngoài sức tưởng tượng. Thời Trung cổ, giáo hội là sở hữu chủ các thành phố tại Âu châu. Tất cả các quốc gia Công Giáo đều buộc dân chúng phải nộp thuế cho Tòa Thánh. Năm 1170, Giáo Hoàng Alexander II ra đạo luật buộc mọi khế ước, di chúc phải được tu sĩ thị thực và thu lệ phí mới có giá trị.
Việc bán ơn đại xá (tha tội cho linh hồn người chết) là một nguồn thu nhập khổng lồ của Vatican. Dân Ái Nhĩ Lan có câu tục ngữ: "Tiền nhiều lễ lớn, tiền ít lễ nhỏ, không tiền không lễ" (High money high mass, low money low mass, no money no mass). Đến thế kỷ 19, dư luận Âu Châu cho rằng có rất nhiều linh hồn đã bị lãng quên (forgotten souls in Purgatory) cần phải được Tòa Thánh cầu nguyện tập thể cho họ. Do đó, Tòa Thánh lập ra Lễ Các Thánh vào ngày 2 tháng 11 hằng năm để cầu cho các vong hồn không có thân nhân nộp tiền xin lễ ở các nhà thờ! Lễ Các Thánh bắt đầu có từ 1856.
Để các đồng đạo Việt Nam của tôi có một cái nhìn khái quát về guồng máy đầu não điều khiển giáo hội, về các biến cố lịch sử cận đại của thế giới có liên hệ đến Tòa Thánh và nhất là các giáo hoàng có liên hệ đến chiến tranh Việt Nam như Pio XII, Gioan XXIII, Paul VI, Jean Paul II, tôi xin tóm lược tác phẩm Vicars of Christ – The Dark Side of The Papacy [Tác phẩm này có dành một chương viết về các giáo hoàng dâm loạn đăng trong cuốn "Tại sao không theo đạo Chúa" tập 1.]
của cựu Linh Mục dòng Tên Peter de Rosa do Crown Book Editions xuất bản năm 1988. Đây là một tác phẩm best-seller (bán chạy nhất) trong nhiều năm của một tác giả được báo chí gọi là siêu điệp viên quốc tế về thâm cung bí sử của Vatican.
TÁC PHẨM KIỆT XUẤT "KẺ ĐẠI DIỆN CHÚA"
Mở đầu cho tác phẩm kiệt xuất này, tác giả viết bài The Great Cover-up để thay lời tựa. Tôi đã mô phỏng ý của tác giả để viết bài Cái khố của Jesus trên thập giá đăng trên Đông Dương Thời Báo, xuất bản tại Houston Texas ngày 30.7.1998. Tác giả dùng chứng cớ lịch sử chứng minh cái khố của Jesus trên thập giá là hoàn toàn giả mạo vì mọi kẻ bị đóng đinh đều bị lột trần truồng. Cái khố đó nhỏ xíu nhưng là biểu tượng cho sự bịp bợm dối trá của đạo Kitô. Vatican là tổng hành dinh của tội ác chống nhân loại và đồng thời cũng là cái xưởng chế tạo đồ giả lớn nhất thế giới. Sau đây là những nét chính yếu của nội dung tác phẩm:
Tác phẩm Vicars of Christ chú trọng tới việc vạch trần tội ác diệt chủng Do Thái của Giáo Hội Công Giáo trong suốt 16 thế kỷ qua. Nguyên nhân dẫn đến tội ác diệt chủng này và hành vi tội ác của các kẻ tự xưng là "Đại Diện của Chúa Kitô" đã diễn ra như thế nào.
Chúng ta đã biết, vào đầu thế kỷ 4, đa số dân chúng trong Đế Quốc La Mã đều theo đạo Kitô với nhiều giáo phái khác nhau. Tuy các giáo phái có khác nhau về giáo lý nhưng đều đồng nhất ở điểm cùng tôn thờ Jesus là Chúa Cứu Thế (Messiah/Christ Savior, Redeemer). Constantine có sáng kiến thống nhất các giáo phái này thành một đạo Kitô thống nhất được gọi là "Công Giáo" để làm lợi khí xâm lược toàn cầu, vì Công Giáo có nghĩa là "toàn cầu". Sau khi thống nhất Kitô Giáo hoàn toàn vài năm 340, Constantine ra lệnh hủy diệt hết mọi dấu vết của các giáo phái Kitô khác, bao gồm các cuốn kinh thánh Tân Ước không phù hợp với đạo Công Giáo, xóa bỏ mọi dấu vết thật của Chúa Jesus tại Jerusalem, thiêu hủy mọi sách triết học khoa học của Hy Lạp. Muốn thống nhất đạo Kitô, đế quốc La Mã không thể làm điều gì khác hơn là phải tôn Jesus lên làm Thiên Chúa Toàn Năng. Nhưng vì không thể tôn thờ một người do chính mình đã giết hại nên Đế quốc La Mã tìm mọi cách đổ tội giết Jesus cho Do Thái là nước thuộc địa đã dám chống lại mẫu quốc. Một công hai việc, một mặt vừa đạt mục tiêu thống nhất đạo Kitô, mặt khác vừa trả thù Do Thái một cách ghê gớm chưa từng thấy. Đó là nguyên nhân đã đưa đến chủ trương diệt chủng Do Thái của Đế Quốc La Mã mà kẻ thừa kế là Vatican.
Về mặt giáo lý, La Mã bịa chuyện Pilate rửa tay để phủi trách nhiệm kết tội tử hình Jesus. Các kinh sách cầu nguyện luôn luôn nói là dân Do Thái đòi phải giết Chúa. La Mã đã thành công trong việc biến máu cứu chuộc của Chúa Jesus thành máu hận thù dân tộc Do Thái đến muôn đời. Chúa Jesus dạy mọi người phải thương yêu và tha thứ cho nhau, nhưng La Mã dạy giáo dân không thể tha thứ cho dân tộc Do Thái về tội đã giết Chúa. Sự thật lịch sử là dân Do Thái dưới sự thống trị của La Mã không có quyền xử tử bất cứ ai. Xưa kia, lúc Do Thái còn độc lập tự trị, luật pháp của họ chỉ dự liệu phương cách xử tử tội nhân bằng cách ném đá chứ không hề xử tử tội nhân bằng thập tự giá bao giờ. Mọi việc xét xử tội nhân dưới thời lệ thuộc hoàn toàn do Đế Quốc La Mã quyết định. Phương cách xử tử tội nhân bằng thập tự giá là phương cách đặc biệt của La Mã và Hy Lạp dùng để khủng bố trấn áp nô lệ và dân thuộc địa. Họ không áp dụng lối xử tử nhục nhã và rất đau đớn này đối với công dân của họ. La Mã đã thành công nhồi sọ giáo dân phân biệt hai thứ máu Do Thái. Máu cứu chuộc của Chúa là máu của Abraham, David, Solomon và các thánh. Máu của dân Do Thái là máu tội lỗi của Herod, Caipha, Judas Escariot.
Tội của tổ tiên Do Thái là tội trực tiếp giết Chúa, tội của dân tộc Do Thái từ đó đến nay là tội phủ nhận chúa Jesus là Thiên Chúa Toàn Năng, đấng tạo thành vạn vật và tạo thành cả tổ tiên đã sinh ra mình!
Về mặt tuyên truyền, đế quốc La Mã phao tin vu cáo người Do Thái hay bỏ thuốc độc để giết hại người Kitô Giáo và hay bắt cóc con nít cắt tiết để uống máu. Do đó, từ giữa thế kỷ 4 trở đi, bất cứ nơi nào có người Kitô Giáo là ở đó có sự hận thù Do Thái cùng cực.
Hình ảnh 14 "đàng thánh giá" trong các nhà thờ đều mô tả quân lính La Mã đánh đập và giết Chúa, nhưng mọi giáo dân đều không nghĩ đó là lính La Mã mà chỉ gọi là "quân dữ" hoặc "quân Giu-dêu". Họ căm thù Do Thái và quên khuấy một điều là cả Chúa, Đức Mẹ, các thánh tổ tông, các thánh tông đồ tất cả đều là Do Thái!
Suốt thế kỷ 12 và 13, tại khắp Âu Châu, người Do Thái bị cấm không được tiếp xúc với người Kitô Giáo. Họ bị tước đoạt hết nhà cửa và tài sản. Ban đêm, tất cả mọi người Do Thái không phân biệt già trẻ, đàn ông, đàn bà, con nít, đều bị lùa vào các khu tập trung có cổng khóa chặt, tiếng Ý gọi là GHETTOS – Đây là một phát minh độc đáo của giáo hội Công Giáo La Mã. Các sử gia đã phải than rằng: Ghettos là một chế độ apartheid tàn bạo chưa từng thấy.
Mỗi lần La Mã tổ chức các cuộc thập tự chinh đến các nước xa xôi, việc đầu tiên của thập tự quân là đi lùng bắt những người Do Thái cư trú tại địa phương đó đem đi chém giết tập thể.
Tại các quốc gia có vua chúa Công Giáo cai trị, mọi người Do Thái đều bị cấm xuất đầu lộ diện vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Bất cứ người Do Thái nào bị bắt gặp trên đường phố đều bị xử tử tại chỗ!
Vào thế kỷ 16, giáo dân tôn sùng giáo hoàng và tin rằng giáo hoàng không bao giờ sai lầm. Giáo hoàng ra lệnh gì, giáo dân thi hành triệt để. Do vậy, tai họa đến với người Do Thái càng trầm trọng hơn.
Năm 1581, Giáo Hoàng Gregory XIII ban tông huấn: "Tội ác của Do Thái trong việc chối Chúa và đóng đinh Chúa Jesus chỉ càng ngày càng ăn sâu vào các thế hệ kế tiếp, do đó Do Thái phải bị nô lệ muôn đời". (The guilt of Jews in rejecting and crucifying Jesus only grows deeper with successive generation, entailing perpetual slavery). (page 191).
Cuối thế kỷ 18 tại Rome, 2030 người Do Thái bị buộc phải "trở lại" đạo Công Giáo. Khi họ đi nhà thờ nếu lỡ ngủ gật, có thể bị các người cai quản nhà thờ đập chết hay đánh trọng thương. Nhiều người Do Thái muốn tránh cho con cái của họ sau này khỏi bị hành hạ, đã đem con đến nhà thờ cho cha cố rửa tội. Sau đó họ chẳng bao giờ được gặp lại con của họ nữa. Nhà thờ đem chúng đi biệt tích vì sợ sau này chúng lớn lên sẽ trở lại đạo Do Thái!
Cuộc Cách Mạng Pháp 1789 đã mở đầu cho phong trào bài trừ mê tín tại Âu Châu. Các nhà đại tư tưởng có khuynh hướng nhân đạo và cấp tiến như Voltaire , J.J. Rousseau Montesquieu, Diderot và ở Anh có Thomas Paine, đã cố gắng soi rọi ánh sáng để xóa tan bóng tối đã bao phủ Âu Châu nhiều thế kỷ. Nhưng ánh sáng đó chẳng bao giờ soi tới Vatican! Các giáo hoàng là các bạo Chúa vô địch về tính thủ cựu. Tất cả các giáo hoàng vẫn tiếp tục giữ nguyên thành kiến căm thù Do Thái và vẫn tiếp tục duy trì chế độ Ghettos tại Ý, trong khi hầu hết các nước Âu Châu đã bãi bỏ chế độ này đối với người Do Thái.
Sau khi thuốc chủng ngừa các bệnh được Pasteur phát minh, mọi người trên thế giới đều được quyền hưởng lợi ích của sự chích ngừa, Giáo Hoàng Leo XII lại ra lệnh cấm chích ngừa cho người Do Thái. Sự hành hạ người Do Thái tại Ý càng trở nên tàn bạo khiến cho vua Áo Franz Joseph và vua Pháp Napoleon III phải gửi văn thư cảnh cáo giáo hoàng: "Ngài đang trở nên thù địch với công tâm của toàn thế giới" (You are antagonizing the world opinion). Nhà quí tộc Anh đích thân đến Vatican khuyên Giáo Hoàng Pius IX phải bớt cứng rắn với Do Thái. Sau khi thấy các lãnh đạo thế giới đã khuyên bảo Tòa Thánh phải thay đổi chính sách đối với Do Thái mà không có hiệu quả, vua Ý không thể kiên nhẫn được, đã dùng hỏa lực quân sự chiếm Vatican ngày 2.10.1870. Vua Ý đã dùng thế quyền tước bỏ thần quyền của giáo hoàng, hủy bỏ các sắc luật đối xử bất công với Do Thái của Tòa Thánh từ xưa đến nay. Nhà vua ban hành đạo luật của hoàng gia Ý (Royal decree) công bố người Do Thái được hưởng toàn quyền tự do bình đẳng như các người công dân Ý khác. Chính sách ngược đãi Do Thái tại Ý trong 15 thế kỷ của Vatican bị hoàn toàn chấm dứt. Thành lũy Ghettos cuối cùng ở Âu Châu đã bị bỏ bằng sức mạnh quân sự của thế quyền nước Ý!
Mọi người trên thế giới tưởng rằng người Do Thái đã thoát nạn diệt chủng, nhưng giáo hội Công Giáo vẫn chưa chịu thua. Tội ác của họ tiếp tục dưới hình thức khác.
Năm 1926, Giáo Hoàng Pius XI (1922-1939) ra lệnh cho Đảng Công Giáo (The Catholic Party) giải tán để nhập vào đảng của Mussolini. Năm 1929, đảng của Mussolini ký hiệp ước với Vatican tại Lateran chia xẻ quyền hành tại Ý, tiêu diệt các phong trào tiến bộ và tiếp tục chính sách chống Do Thái.
Trong khi đó, Hồng Y Pacelli là nhà ngoại giao của Vatican tại Đức đã ra sức vận động Đảng Công Giáo Đức và các lãnh tụ chính trị Công Giáo Đức ủng hộ cho Hitler để đưa y lên cầm quyền. Hồng Y Pacelli về sau trở thành Giáo Hoàng Pius XII [Ông giáo hoàng này đã vận động chính phủ Mỹ dội từ 1-6 quả bom nguyên tử xuống Bắc Việt năm 1954 để giải vây cho quân đội Pháp nhằm kèo dài sự đô hộ của thực dân trên đất nước Việt Nam.] khét tiếng chống Cộng và ủng hộ Pháp.
Từ giữa thập niên 1930, trước cửa nhà của những người Do Thái thường bị những kẻ bí mật vẽ dấu hiệu ngôi sao David (sao 6 cạnh) bằng sơn. Trên cây thánh giá ở nhà thờ, chữ JNRJ được thay thế bằng chữ Đức, có nghĩa là "Jews are not welcome here". Năm 1936, giáo hội Công Giáo Đức cử giám mục Osmabruch đến gặp Hitler. Hai người đàm đạo với nhau trong hơn một giờ. Hitler đã xác quyết với Giám Mục Osmabruch là có cùng một quan điểm với giáo hội trong mục tiêu diệt Do Thái. Hitler nói: "Chẳng phải là giáo hội đã coi bọn Do Thái là ký sinh trùng và nhốt chúng vào Ghettos đó sao? Tôi chỉ đang làm những gì giáo hội đã làm trong 15 thế kỷ qua, và làm cho hữu hiệu hơn... với tư cách là một người Công Giáo, tôi ngưỡng mộ và muốn chấn hưng đức tin Kitô" (Had not the church looked on the Jews as parasites and shut them in ghettos? I am only doing what the church has done for fifteen hundred years more effectively... Being a catholic, I admired and wanted to promote Christianity).
Đức Quốc Xã và Giáo Hội Công Giáo giống nhau ở mục tiêu là diệt chủng Do Thái. Chỉ khác nhau ở chỗ Đức Quốc Xã ngược đãi Do Thái vì kỳ thị chủng tộc còn giáo hội Công Giáo thù ghét Do Thái vì Do Thái không chịu công nhận Jesus là Kitô như ý của Đế Quốc La Mã mong muốn. Điều kỳ quặc là Công Giáo bắt chước Do Thái tôn thờ Đức Chúa Trời (tức Jehovah) nhưng lại kết tội Do Thái thờ lầm Chúa Jesus vốn là tín đồ đạo Do Thái, chính Vatican đã buộc Jesus phải bỏ Do Thái Giáo để "trở lại" đạo Công Giáo La Mã!
Xét kỹ ra thì cái tội của Do Thái là chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất (The Unity God) chứ không thờ Thiên Chúa của Công Giáo La Mã là Thiên Chúa Ba Ngôi (The Trinity God). Công Giáo Hy Lạp (tức Chính Thống Giáo) cũng thờ Thiên Chúa Ba Ngôi như Công Giáo La Mã, chỉ khác ở chỗ Chính Thống Giáo cho rằng: Chúa Cha lớn nhất, Chúa Thánh Thần thứ nhì và Jesus thứ ba. Vatican chủ trương ba ngôi Thiên Chúa bằng nhau (như ba ông đầu râu trong bếp ở nhà quê ta). Khác nhau chỉ có mấy điểm nhỏ nhặt mà hai giáo phái Kitô này đã giết nhau trong 10 thế kỷ qua, huống hồ dân Do Thái khác với Vatican như mặt trời mặt trăng!
Pio XII lên ngôi 1939, là thời điểm khởi sự Đệ nhị Thế chiến. Tên thật là Pacelli, sinh tại Ý năm 1876, sống tại Đức 25 năm, nói tiếng Đức như tiếng mẹ đẻ và thông thạo lịch sử phong tục văn hóa Đức còn hơn người Đức. Năm 1929, lên chức Bộ trưởng ngoại giao của Vatican. Được bầu giáo hòang lúc 63 tuổi. Pio XII thừa biết Đức Quốc Xã tung đòn khốc liệt tiêu diệt Do Thái, nhưng vốn có dòng máu lạnh bẩm sinh của Mafia và có khuôn mặt diều hâu, y luôn luôn câm miệng hến như chẳng có gì xảy ra.
Ngày 4.6.1940, Vatican đưa Mussolini lên cầm quyền tại Ý. Chưa đầy một năm sau, 3/4 dân Do Thái tại Ý về chầu Chúa Jehovah hết, trong số đó không thiếu gì người Do Thái có đức tin Công Giáo thờ cả ba ngôi Thiên Chúa mà cũng không thoát chết!
Ba Lan là xứ Công Giáo toàn tòng, là đạo quân thứ 5 của Đức Quốc Xã, chỉ trong mấy tháng năm 1942 đã giết 700.000 người Do Thái. Riêng tháng 7 đến tháng 9 năm 1942, 5000 trẻ em Do Thái được đưa từ Ba Lan và Pháp qua Drancy (Đức) để làm vật thí nghiệm y khoa, trong số đó có 1000 em dưới 6 tuổi. George Wellers, tác giả cuốn sách Drancy viết: "Từng đoàn chiên kinh hoàng (ám chỉ các em nhỏ Do Thái) bị giết mà cái môi của Rome vẫn cứ ngậm chặt và nó đã được hàn lại vĩnh viễn" (A frightened flocks of lambs were slaughtered... Rome’s lips were firmed closed and it turned out permanently sealed).
Một bác sĩ Đức Quốc Xã làm việc tại Drancy sau Đệ nhị Thế chiến đã thú nhận tại nhà giam: "hỏa ngục của Hitler đã tiêu thụ một triệu trẻ em. (Hitler’s hell consumed one million children!).
Giữa lúc chiến tranh khốc liệt vào tháng 1.1943, nước Pháp bị Đức chiếm đóng và Đức vẫn tiếp tục giết người Do Thái, giáo hội Pháp cử Hồng Y Laval sang Rome trao cho Giáo Hoàng Pio XII ngân khoản rất lớn của chính phủ Pétain tặng Tòa Thánh. Hai người đàm luận rất vui vẻ và không hề nói gì tới số phận của người Do Thái.
Tháng 12.1943, Phát-xít Ý ra lệnh tước bỏ quyền công dân Ý của mọi người Do Thái. Kết quả mọi người Do Thái thoát chết trước đây đều bị tàn sát. Thảm cảnh của họ được mô tả trong tác phẩm Death in Rome của Robert Katz.
Tác giả viết: "Có một người có thể cứu sống mọi người Do Thái tại Rome, nhưng người đó đã không muốn cứu. Người đó là Pio XII". Tướng Đức cầm đầu cơ quan SS tại Rome còn biết thương Do Thái đã nhờ một linh mục Đức là Pancrazzio mật báo cho Pio XII biết sẽ có tắm máu Do Thái tại Rome. Vậy mà "Đức Thánh Cha" Pio XII vẫn lờ đi. Chẳng những thế, Pio XII còn ra lệnh cho đài phát thanh Vatican không được loan tin gì về Do Thái. Cả thế giới ít ai biết: Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Hitler không biết sợ một ai, ngoại trừ giáo hoàng! Lý do: Công Giáo Đức khá ngoan đạo và chiếm đa số trong quân đội, trong cảnh sát đặc biệt SS và các đoàn thể tại Đức. Chỉ một câu nói của giáo hoàng cũng có thể làm tinh thần của quân đội, cảnh sát và quần chúng Đức suy yếu. Pio XII rất thông minh và dư biết điều đó. Pio XII là "Hitler trong tâm" hoàn toàn giữ im lặng để khích lệ "Hitler trong hành động" mặc sức tung hoành tiêu diệt Do Thái.
Khoảng năm 1960, giáo hội Công Giáo muốn vận động phong thánh cho Pio XII. Kẹt một điều là nếu phong cho Pio XII làm á thánh thì phải phong cho Hitler làm hiển thánh! Giáo dân Đức cuồng tín đã có người khấn vái Pio XII: "Lạy đức Pio XII là đấng đã yêu nước Đức hết mình, xin hãy cầu cho chúng con!".
Dân Do Thái vẫn tự hào là dân Chúa chọn (The Chosen People) nhưng lại không biết thánh ý của Chúa chọn để làm gì. Nay nhiều người đã hiểu thánh ý của Chúa là thế! Ngày 5.6.1944, quân đồng minh tiến vào Rome. Số người Do Thái "đã được Chúa chọn" nhưng chưa diệt kịp còn sót lại rất ít. Tất cả đều được quân đồng minh giải thoát.
Sau đệ nhị thế chiến, các người Do Thái truy tầm bọn Đức Quốc Xã để trừng trị. Họ rất thù ghét Pio XII nhưng vì giáo hòang là thủ lãnh của một tôn giáo lớn có ảnh hưởng chính trị toàn cầu nên Pio XII đã được giới chính trị quốc tế tha mạng.
Dư luận thế giới nguyền rủa Pio XII vang lên từ mọi phía. New York Times gọi Pio XII là "biểu tượng của sự vô trách nhiệm luân lý". Vì thế, Viện Bảo Tàng lịch sử Bronx ở New York có cả một gian hàng triển lãm tội ác của Pio XII với bảng hiệu "Tên Đồ Tể Quốc Xã tại Rome" [Trong lúc đó, giáo hội Công Giáo Việt Nam trước 1975 lấy tên ông giáo hoàng nầy đặt tên cho một chủng viện ở Đà Lạt gọi là Giáo Hoàng Chủng Viện PIO XII.]
(The Nazi Butcher at Rome). Linh Mục dòng Tên Fontana phát biểu: "Kẻ làm đại diện của Chúa mà thản nhiên nhìn tội ác diễn ra trước mặt là một tội ác ghê gớm". Văn hào Pháp Fanncois Mauriac tuyên bố: "Đấng kế vị Thánh Phêrô không hề lên tiếng về sự hành hạ đối với các anh em của Chúa Jesus, cũng không hề có một biện pháp nhỏ nhoi nào xứng hợp với trách nhiệm của một vị lãnh đạo tinh thần lớn nhất hoàn cầu. Dù cho biện minh bằng cách nào chăng nữa thì sự im lặng đó hiển nhiên đã là một tội ác".
Mười lăm năm sau khi các trại tập trung Do Thái ở Auschwitz, Burgen, Dachau, Ravensbrunch bị đóng cửa do sự thắng trận của đồng minh, năm 1960, giáo hoàng kế nhiệm Pio XII là John XXIII đã đến những địa điểm tội ác đó để làm lễ và cầu nguyện" "Lạy Chúa, dấu ấn của Cain đã đóng trên trán của chúng con. Qua bao nhiêu thế kỷ, máu người anh em Abel của chúng con do chúng con làm đổ ra cùng với nước mắt vì chúng con đã quên mất tình yêu của Chúa. Lạy Chúa, xin tha tội chúng con vì chúng con đã nguyền rủa sai lầm. Xin Chúa tha tội chúng con đã đóng đinh Chúa lần thứ hai trên thân xác của những người anh em Do Thái. VÌ CHÚNG CON CHẲNG BIẾT VIỆC CHÚNG CON LÀM" (The mark of Cain is stamped on our foreheads. Across the centuries, our brother Abel has lain in blood which we drew and shed tears we caused by forgetting thy love. Forgive us, Lord for the curse we falsely attributed to their name as Jews. Forgive us for crucifying Thee a second time in their flesh. FOR WE NOT KNEW WHAT WE DID).
Giáo hoàng Gioan XXIII đã thú nhận toàn bộ giáo hội Công Giáo trong những thế kỷ qua đã sai lầm và hành động trong sự ngu dốt vì "không biết việc mình làm". (We knew not what we did). Vậy mà giáo dân Công Giáo vẫn cứ tin "giáo hoàng không thể sai lầm!".
Trong một buổi chiếu phim tại Vatican, khi chiếu đến cảnh quân đồng minh đến giải thoát những người Do Thái còn sống sót tại trại tù Belsen, John XXIII xúc động thấy những thân xác gầy trơ xương, mắt họ sâu hoắm như sọ người chết, John XXIII bật khóc rồi kêu rú lên: "Lạy Chúa, đây mới là mầu nhiệm Thánh Thể của Chúa Kitô" (Oh my Lord, this is The Mystical Body of Christ). Cái làm cho John XXIII xúc động là tất cả các tù nhân sống sót đều trần truồng, và đó mới là hình ảnh thật của Jesus trên thập giá!
Trong đệ nhị thế chiến, dư luận thế giới có ác cảm với giáo hội Công Giáo do các hành động của Pio XII. Giáo hội muốn coi cái chết của Pio XII năm 1958 như một dấu chấm của một thời đại sai lầm. John XXIII muốn gỡ lại danh dự cho giáo hội bằng một chính sách đối ngoại mới được gọi là hiệp thông (ecumenism). Từ đầu thập niên 1960, John XXIII theo đuổi chính sách sống chung hòa bình với Cộng Sản và đối thoại thân hữu với các giáo phái Kitô và các tôn giáo khác. John XXIII chủ xướng công đồng Vatican cải cách giáo hội.
Để sống còn trong thời đại mới, Vatican chấp nhận cho các giáo dân tuân theo các tập tục cổ truyền của các dân tộc, lấy vợ lấy chồng ngoại đạo và làm lễ bằng ngôn ngữ địa phương thay vì xử dụng tiếng La Tinh.
Trong 5 năm cai trị giáo hội (1958-1963), John XXIII canh cải nhiều mặt của giáo hội chỉ nhằm cứu vãn danh dự cho giáo hội bề ngoài mà thôi. Kỳ dư, mọi sai lầm căn bản của giáo hội vẫn còn y nguyên. John XXIII cũng có lòng thương xót dân tộc Do Thái nhưng quyền lực và tham vọng của Vatican vẫn luôn luôn là ưu tiên tối thượng. Các hành vi đóng kịch của y chỉ làm cho lương tâm nhân loại bớt giận. Thực chất, theo tác giả Peter de Rosa, John XXIII chỉ là "một luật sư của quỉ" (The Devil’s Advocate).
Sau cái chết của John XXIII, Paul VI kế nhiệm lại dẫn giáo hội Công Giáo trở lại thời trung cổ. Năm 1965, trong ngày Chủ Nhật lễ tưởng niệm Chúa bị đóng đinh (Passion Sunday), Paul VI giảng tại Đền Thánh Phêrô với luận điệu cũ rích: "Do Thái đã được Kinh Thánh báo trước về Chúa Jesus là đấng Kitô cả ngàn năm. Vậy mà khi Chúa đến, họ chẳng những không nhận Ngài là đấng Kitô mà còn sỉ nhục Chúa và cuối cùng họ đã đóng đinh Chúa trên thập giá!".
Lời thuyết giảng của Paul VI năm 1965 không khác gì với lời thuyết giảng của Gregory XIII năm 1581: "Tội ác chối Chúa (không phải là Kitô) và đóng đinh Chúa của Do Thái càng ngày càng ăn sâu vào các thế hệ kế tiếp, do đó họ phải bị nô lệ vĩnh viễn!" (The guilt of Jews in rejecting and crucifying Jesus only grows deeper with successive generations, entailing perpetual slavery. Page 191-201 Vicars of Christ).
Giáo hội Công Giáo vẫn tiếp tục đi theo con đường mòn cố hữu của lịch sử tội lỗi của mình.
Năm 1978, Hồng y Ba Lan Karol Wojtyla lên làm giáo hòang lấy hiệu là Jean Paul II. Bề ngoài Giáo Hoàng Jean Paul II tỏ ra là một người xông xáo hoạt bát đầy uy quyền, trong thực tế ông ta cũng như các giáo hoàng khác đều chỉ là những "người tù trong cung điện". Văn phòng của Jean Paul II ở lầu 3 của tòa lâu đài Phêrô. Một toán lính Thụy Sĩ mặc y phục cổ xưa sặc sở như cầu vồng, chỉ làm nhiệm vụ nghi lễ chứ không có tính cách quân sự. Cơ quan quân sự bảo vệ giáo hoàng thật sự là Ufficio Central di Vigilanza mặc đồng phục xanh, võ trang những vũ khí cá nhân cực kỳ hiện đại và luôn luôn sẵn sàng nhả đạn bắn chết bất cứ ai khả nghi đến gần giáo hoàng mà không được phép. Toán võ trang có vô tuyến liên lạc thường xuyên với tổng hành dinh cảnh sát Ý và lực lượng bí mật mang ngụy danh Digos. Giáo hoàng là đầu não của cả một hệ thống giáo sĩ đông đảo gồm 4000 hồng y và giám mục. Đội ngũ managers là các linh mục lên tới tổng số 400.000!
Jean Paul II là một trong số rất hiếm hoi các giáo hoàng không phải gốc Ý:
Adrian VI (1522-1523) người Phần lan (Flemish)
Alexander VI (1492-1503) người Pháp
Sylvester II (999-1003) người Tây Ban nha.
Trong thời gian nước Pháp hùng mạnh đã áp lực đưa Tòa Thánh dời Vatican về Avignon. Các vua Pháp đã phong chức cho 7 đời giáo hoàng cai trị hội thánh. Các giáo hoàng này đã không được chọn do sự soi sáng của "Đức Chúa Thánh Thần" mà hoàn toàn do Đức Vua Pháp, nhưng cũng vẫn cai trị giáo hội như thường".
Năm 1978, Karol Wojtyla lên làm giáo hoàng do sự sắp đặt quốc tế để thay thế giáo hoàng Jean Paul I bị đầu độc chết bí mật sau 33 ngày cai trị ngắn ngủi. Đế Quốc La Mã xưa kia gọi dân Ba Lan là dân nô lệ (Slaves), nên bây giờ giáo hoàng tự nhận là dân gốc Slavonic. Chắc Wojtyla đã không thể ngờ được một tên nô lệ lại đứng đầu cả một giáo hội to lớn của La Mã!
Jean Paul II là một giáo hoàng trẻ nhất trong lịch sử cận đại của Vatican. Từ thuở nhỏ, Jean Paul II đã từng sinh sống bằng nghề làm lao công trong xưởng máy, thích leo núi và đã từng là diễn viên tài tử đóng kịch mấy năm, đôi khi cũng mơ mộng làm thơ tình. Jean Paul II là giáo hoàng duy nhất mặc sì-líp tại hồ bơi của Tòa Thánh.
Năm 1981, Jean Paul II rất lấy làm lo lắng cho tương lai của giáo hội vì bưu điện ùn ùn gửi tới Tòa Thánh 8000 lá đơn của linh mục đòi lấy vợ. Ngoài ra còn có 3000 linh mục khác không thèm hỏi ý kiến của "Đức Thánh Cha" đã tự ý cởi áo dòng chạy theo người yêu. Buồn nhất là có tới 20.000 linh mục thuộc diện tiến bộ đã bỏ đạo luôn và không bao giờ trở lại. Tại các nước Âu Mỹ, hàng ngũ linh mục già nua không có người thay thế. Món hàng cứu chuộc của Chúa hiện đang thiếu người rao bán rất trầm trọng. [Hiện nay, dân Anamites Công Giáo tị nạn cố điền bớt chỗ trống.] Lời Chúa phán xưa kia chưa bao giờ thê thảm như bây giờ: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít". Trong khi đó, giáo phái Tin Lành càng ngày càng hung hãn cạnh tranh nghề nghiệp. Họ chiếm lãnh thị trường trên TV để độc quyền chương trình "Salvation on sale!" (Sự cứu rỗi đang bán hạ giá). Tháng 8.1987, tờ Time mở cuộc thăm dò (poll) đã phát giác ra một sự thật: 97% giáo dân Mỹ không còn để ý đến giáo hoàng nữa! Giáo dân Mỹ có trình độ học thức cao nên đã sớm tỉnh ngộ. Hơn ai hết, người Công Giáo Mỹ biết giáo hoàng ngày nay chẳng còn quyền lực gì trên thực tế. Những kẻ nắm quyền điều khiển giáo hoàng và giáo hội là những kẻ dấu mặt (faceless men). Họ là những chuyên viên tráo bài tráo bút ở trong và ngoài Tòa Thánh (paper-shuffers, pen shuffers in dark offices in and around the Vatican). Đám người dấu mặt đó mới thực sự nhào nặn ra quan điểm của giáo hoàng về mọi vấn đề của giáo hội và thế giới sao cho phù hợp với quan điểm của họ. Họ chỉ cho phép giáo hoàng được biết các tin tức sau khi đã chọn lựa kỹ càng. Mọi tin tức đi ngược lại chính kiến của họ đều được dấu nhẹm. Họ đích thực là các ông chủ và là các cai ngục của giáo hoàng. Tín điều "giáo hoàng không thể sai lầm" thực chất là sự không sai lầm của nhóm thơ lại trong Tòa Thánh (Curial Officals). Giáo Hoàng chỉ là kẻ thừa hành và là cái máy ký tên trên những văn kiện đã được soạn sẵn.
Peter de Rosa kết luận: "Giáo hoàng có cả một lô những kẻ canh chừng y không rời con mắt. Giáo hoàng không bao giờ được nói những gì mà các vị tiền nhiệm đã nói về các vấn đề tương tự hoặc có liên quan đến vấn đề đó. Mọi giáo hòang đều là các tài xế lái xe theo kính chiếu hậu. Giáo hoàng chỉ là tù nhân của quá khứ, cái quá khứ chết tiệt đã rất lâu đời rồi mà người ta vẫn thường gọi là truyền thống. Từ cái quá khứ chết tiệt đó, giáo hoàng vạch đường cho giáo hội đi vào tương lai". (The pope himself has a host of watchers who keep an eye on him. The pontiff can never speak of what his predecessors have said on the same or a related topic. All pontiffs drive by the rear-view mirror. He is the prisoner of the past, a long dead past often called tradition, dictates the road into the future).
Tôi xin kết thúc phần lược dịch tác phẩm Vicars of Christ tại đây. Tôi tự hỏi không biết các đồng bào đồng đạo của tôi theo dõi bài viết này tới đây có thể đạt được một nhận thức mới về Vatican và các giáo hoàng hay không. Nếu chưa đủ để có một nhận thức mới về họ thì tôi xin quí vị hãy suy nghĩ thêm về điều này: Sau khi Đế Quốc La Mã lập đạo Công Giáo, Tòa Thánh hoàn toàn lệ thuộc vào các hoàng đế La Mã. Các giáo hoàng sau khi được bầu lên đều phải được hoàng đế La Mã phê chuẩn. Từ thế kỷ 5 đến thế kỷ 11, có nhiều giáo hoàng làm trái ý nhà vua đều bị nhà vua cách chức hoặc giết chết:
Giáo Hoàng St. Silverius bị bắt cóc mất tích năm 537.
Giáo Hoàng St. Martini I bị Hoàng Đế La Mã cách chức năm 655.
Giáo Hoàng Leo V bị treo cổ năm 903.
Giáo Hoàng John X bị xiết cổ năm 928.
Giáo Hoàng Gregory bị cách chức năm 1046 vì bị sưu tra ra có tổ tiên xa xưa là Do Thái.
Ngoài ra còn rất nhiều giáo hoàng bị đầu độc hoặc bị giết do những cuộc đảo chánh trong nội bộ tòa thánh để cướp quyền hoặc để thanh toán vì tư thù. (Xin đọc Bách Khoa Tự Điển về Giáo Hoàng – The Pope Encyclopedia by Matthew Bunson, Crown Trade Paperbacks. NY. 1995) có đầy đủ nhiều bảng liệt kê các giáo hoàng bị ám sát, các giáo hoàng giả, các giáo hoàng được phong thánh v.v...
Các giáo hoàng đều chỉ có cái vỏ về ngoài thánh thiện để lừa bịp giáo dân và thế giới. Hầu hết họ đều vô thần và chẳng bao giờ tin tưởng vào sự gìn giữ của Chúa như câu kinh Bổn đã dạy "Chúa hằng gìn giữ Đức Giáo Hoàng nên chẳng có lẽ nào sai lầm được". Cụ thể nhất là Jean Paul II, nếu ông ta tin vào ơn Chúa che chở thì ông ta đã chẳng cần đến sự che chở của chiếc xe bọc kiến chắn đạn. Cả thế giới đều đã thấy hình ảnh của chiếc xe độc đáo đó, được gọi là "the pope mobile", mang nhãn hiệu Mercedes-Benz 230, kiểu Station Wagon, tốc độ 80 MPH, mang bảng số đặc biệt của Vatican SCV, chữ tắt của Stato Citta del Vaticano. Người Pháp chế diễu đọc SCV thành "Sile Christ Voyait 224;" (Ước gì chúa Kitô thấy cái xe quái đảng đó!).
Sự thật thì chẳng có Chúa nào che chở gìn giữ giáo hoàng, cũng chẳng có cái xe chắn đạn nào che chở gìn giữ giáo hoàng tốt cho bằng sự ngu dốt [Linh Mục Trần Tam Tỉnh thường dùng cụm từ "ốc đảo ngu dốt" để chỉ tình trạng các giáo dân. (Thập giá và lưỡi gươm).]
của đông đảo giáo dân. Sự ngu đốt đần độn của tập thể giáo dân là thành đồng lũy thép bảo vệ chẳng những giáo hoàng mà là cả cái Tòa Thánh Công Giáo La Mã, thực chất là sào huyệt lâu đời nhất của bọn khủng bố quốc tế. Chỉ khi nào đông đảo giáo dân nhận ra chân tướng thật sự của bọn khủng bố quốc tế cáo già này thì cái sào huyệt của nó là Vatican mới bị hủy diệt. Nhờ vào cái lòng mê muội cuồng tín của tín đồ mà giáo hoàng đã trở thành một nhân vật "độc đáo" nhất thế giới.
Đầu năm 2000, Tạp Chí Life cho ra đời một cuốn sách khổ lớn với đầy đủ hình ảnh từ nhỏ tới lớn của Jean Paul II (giáo hoàng hiện tại) mang tựa đề Pope John Paul II, a tribute. Cuốn sách này liệt kê thành tích của Jean Paul II từ năm nhận chức giáo hòang 1978 đến 31.12.1999 như sau:
- Giáo hoàng du lịch tổng cộng 670.878 dặm Anh (hơn 1 triệu 80 ngàn km).
- Hành hương nước ngoài 84 lần, trong nước Ý 134 địa điểm.
- Viết hoặc nhờ người khác viết 600 diễn văn, 877 bài thuyết giảng trước số thính giả tổng cộng là 14 triệu.
- Tiếp tân tại Vatican 15.000 thượng khách.
- Phong chức cho 2650 giám mục và tổng giám mục, chiếm trên phân nửa số giám mục hiện có trên thế giới.
- Đặc biệt nhất là một mình Jean Paul II đã sản xuất ra 280 ông thánh mới cho giáo hội Công Giáo.
Muốn được làm thánh [Mấy giáo dân Việt Nam bị giết vì tội bán nước cũng được phong thánh vì lý do chính trị, thánh là miếng mồi để xúi giáo dân nỗi loạn. ] Công Giáo phải hội đủ ba điều kiện: phải là người đã chết và phải được giáo hoàng tấn phong. Vinh dự của các thánh là được giáo dân tôn kính và cầu nguyện như thần linh. Cả ba điều này đều trái với Thánh Kinh vì theo Thánh Kinh, giáo dân không được cầu ai ngoài cầu Chúa. Thánh Kinh ngăn cấm việc liên lạc với người chết (All attempts to commune with the dead are condemned-Isaiah 8:19). Các thánh chỉ được Chúa là đấng duy nhất công nhận mà thôi và không cần một người nào ở thế gian công nhận. Danh từ "thánh thiện" được tự điển định nghĩa là "có tính vị tha trọn vẹn" (Saint: completely unselfish) chẳng có liên quan gì đến tôn giáo. Sống ngoài tôn giáo, con người vẫn có thể trở nên thánh thiện. Đứng đầu giáo hội vẫn có thể là một đứa mất dạy như thường.
Công Giáo có rất nhiều thánh bổn mạng cho từng nhóm người, chẳng hạn như: thánh Nicholas quan thầy những kẻ nghiện rượu, Thánh Gerard quan thầy các bà mang bầu, Thánh Anthony quan thầy các kẻ bị mất trộm. Thánh Hilary quan thầy các kẻ bị rắn cắn. Hiện nay người ta đang vận động Tòa Thánh tôn vinh Saint Clare làm quan thầy cho các nhà sản xuất máy TV!
Nói chung, các thánh Công Giáo đều là các người thiên cổ. Chỉ có một loại "thánh" sống ngoại lệ gọi là "Đức Thánh Cha", tức giáo hoàng mà thôi.
Vị thánh sống Công Giáo đứng đầu giáo hội trong các năm 1492-1503 là Đức Thánh Cha Borgia Alexander VI chiếm kỷ lục quốc tế về các môn dâm tặc và loạn luân. Y hoàn toàn bỏ ngoài tai mọi lời đàm tiếu. Linh Mục Jérome Savonarole xúi dân Florence nổi loạn chống giáo hoàng năm 1497 đã bị giáo hoàng đem quân đến dẹp tan. Linh Mục Jérome và 3 đồ đệ bị bắt trói vào cọc thiêu sống ngày 23.5.1498. Con trai của "Đức Thánh Cha Borgia" là ông hoàng Caesar được Machiavel coi là người mẫu lý tưởng cho tác phẩm Le Prince (Quân Vương). Machiavel gọi ông hoàng Cesar là "một thú dữ lớn hoàn hảo", "một quái vật duyên dáng". Đó là một mẫu người phạm tội ác đến mức mọi người phải... ngưỡng mộ! Caesar và Giáo Hoàng Alexander VI đã là nguồn cảm hứng khiến cho Machiavel phải bỏ ra 15 năm tự giam mình trong căn phòng cô đơn để đọc sách nghiên cứu viết ra tác phẩm Il Principe, tiếng Ý có nghĩa là "Quân Vương". Machiavel quan niệm giáo hội Công Giáo là một vương quốc. Kẻ đứng đầu giáo hội hay đứng đầu quốc gia đều là quân vương.
Cả giáo hoàng lẫn hoàng tử Caesar đều là những kẻ vô thần, bất cần sự cứu rỗi đời đời. Quan tâm hàng đầu là làm sao chiếm giữ vương quốc trên thế gian để được hưởng mọi loại thú vui: thú vui xác thịt phải được thỏa mãn tối đa dù với bất cứ một người đàn bà nào mà cha con ông ta muốn, bất kể là ai. Thú vui thẩm mỹ với các tượng điêu khắc, tranh nghệ thuật xây cất cung điện nguy nga và các đền thờ đại như đền Thánh Phêrô chẳng hạn, cốt để lưu danh muôn thuở. Không loại trừ cả thú vui trí thức: tìm một triết lý sống, một nghệ thuật thống trị và bành trướng quyền lực. Alexander có sáng kiến xâm lược vùng đất mới tại Châu Mỹ để vét vàng và tài nguyên làm giàu...
Cả hai cha con Giáo Hoàng Alexander VI đã đưa tội ác lên cao tới mức nghệ thuật khiến thiên hạ phải khâm phục vì người ta thấy dường như có cả một sự thẩm mỹ trong tội ác.
Nghiên cứu trường hợp của hai cha con giáo Hoàng Alexander VI, Machiavel tự hỏi: Bản chất vương quốc là gì? Làm thế nào để chiếm nó? Làm thế nào để giữ nó? Và tại sao người ta đã mất nó?
Machiavel đọc các sách cổ kim có thể có được để nghiền ngẫm tìm ra các câu trả lời cho những vấn đề trên. Theo ông, vương quốc là sản phẩm của sức mạnh. (Nền văn minh Kitô Giáo là nền văn minh dựa trên chủ thuyết sức mạnh). Dùng mọi biện pháp của sức mạnh để chiếm đoạt cho được vương quốc. Mọi sự giả vờ, lường gạt, tàn bạo, nhất là chiến tranh là những đối tượng mà quân vương phải luôn luôn để tâm suy nghĩ. Đó là nghề nghiệp của quân vương. Am tường mọi nghệ thuật về chiến tranh là phương cách tốt nhất để tiếm chiếm quyền hành. Người ta chỉ có thể thủ đắc vương quốc (đế quốc lãnh thổ hoặc đế quốc tinh thần như Vatican cũng vậy) là do sự quyết tâm, tài năng, sự kiên trì và sự bạo tợn dám làm. Quân vương phải là người biết xử dụng vũ khí của mình và vũ khí của kẻ khác, phải có âm mưu để thủ đắc vương quốc với sự đồng ý hoặc cả với sự không đồng ý của nhân dân. Machiavel phủ nhận số phận. Ông cho rằng "số phận" chỉ có ở nơi nào người ta không dự liệu các biện pháp để chống lại nó mà thôi. Với tài năng, người ta có thể chiến thắng để xóa bỏ số phận. Machiavel quan niệm "nhân dân" là một tập thể luôn luôn thay đổi lập trường vì rất dễ bị thuyết phục và không có ai duy trì được lâu dài sự tin tưởng của nhân dân đối với quân vương, vì vậy phải dùng bạo lực với nhân dân. Các quân vương đều đã duy trì được luật pháp của mình bằng vũ khí, không có phương tiện bạo lực thì không ép buộc được ai. Dùng sức mạnh , để duy trì niềm tin của quần chúng và nhờ sức mạnh, quân vương sẽ dành được lợi thế để có quyền hành, được hạnh phúc và được kính trọng lâu dài, dù cho quân vương là một kẻ vô đạo đức.
Qua tác phẩm Quân Vương (The Prince), Machiavel đã hết lời ca tụng Caesar Borgia. Trong thực tế, Caesar Borgia đã bị mất ngôi một cách buồn thảm. Cha của Caesar Borgia là Giáo Hoàng Alexander VI bị đầu độc chết, mọi người lảng tránh để xác của ông sình thối nhiều ngày mới được đem chôn. Hai cha con Giáo Hoàng Alexander trở thành biểu tượng của sự vô luân, sự tàn bạo và sự gian xảo cùng cực chưa từng thấy.
Tuy nhiên, giới quí tộc bảo hoàng rút ra từ đó một bài học: "Hãy tạo ra một quân vương từ uy thế của một người trong hoàng tộc để rồi núp sau lưng quân vương mà thỏa mãn mọi cao vọng". Trong trường hợp vương quốc của giáo hội thì giới quí tộc bảo hoàng này chính là tập đoàn tu sĩ..
Giáo Hoàng Alexander VI chết năm 1503 nên đã không có cơ hội đọc tác phẩm "The Prince" của Machiavel ca ngợi: Alenxander VI đã nới rộng lãnh thổ nhờ sức mạnh. Người ta phải hy vọng rằng ông có thể làm cho lãnh thổ này lớn hơn nhiều và đáng kính hơn nhiều". Cuối chương XI của tác phẩm). Nghiên cứu về hoàng tộc nước pháp, Machiavel viết: "Quân vương được vây quanh bởi những nhà quí tộc. Giới quí tộc nắm quyền không phải do đặc ân của quân vương mà do sự lâu đời của dòng dõi mình". Machiavel chỉ cho các người muốn làm chính trị phải biết "Không có cái gì lúc nào cũng tốt và không có cái gì lúc nào cũng xấu mà tốt hay xấu là tùy lúc". Quân vương có thể là vô thần nhưng cần phải tỏ ra sùng đạo. Quân vương có thể là nham hiểm ác độc nhưng phải tỏ ra rộng lượng, thương người, giữ lời hứa, cứng rắn, can đảm, vui vẻ, liêm khiết... Nói tóm lại, quân vương phải cùng một lúc vừa là một con cáo, vừa là một con sư tử. Làm cáo để biết mọi cạm bẫy giăng ra hại mình và làm sư tử để mọi con cáo khác phải biết sợ mình. Quân vương cần phải biết làm cho mọi người phải sợ mình hơn là thương mình. Muốn duy trì quốc gia, phải đi ngược lại với đức bác ái và chống lại tôn giáo khi không còn lợi dụng được nó. Khi có thể được thì đi theo con đường thiện. Khi cần, phải biết dấn thân vào con đường ác.
Tác phẩm The Prince của Machiavel chỉ là một cuốn sách mỏng nhưng là kết quả của 15 năm làm việc miệt mài khổ công của tác giả. Ngày 22.6.1527, Machiavel qua đời, thọ 58 tuổi. Khi ông chết, chẳng một ai biết tới tác phẩm của ông. Bốn năm sau khi ông chết, Giáo Hoàng Clement VII (1531) cho xuất bản "Quân Vương". Từ đó, sách này được in ra và được dịch ra nhiều thứ tiếng. Cả thế giới bình luận ồn ào, có kẻ ca ngợi là tuyệt tác phẩm chính trị, kẻ khác lại kết tội "Quân Vương" là cuốn sách dơ dáy tội lỗi được viết bởi ác quỉ. Có lẽ J. J. Rousseau là người đưa ra nhận xét đúng nhất: "Quân Vương là con dao hai lưỡi, một mặt nó giúp cho quân vương chiếm quyền hành nhưng mặt khác nó giúp cho quần chúng thấy được các thủ đoạn của quân vương!"
Từ đầu thế kỷ 17, tại Âu châu, cuốn sách "Quân Vương" trở thành một quái vật huyền thoại. Hầu như mọi vua chúa và cận thần đều say mê đọc và nghiền ngẫm cuốn sách mỏng này. Không ai có thể ngờ ảnh hưởng của nó đã làm thay đổi cả lịch sử loài người với nhiều chuyện buồn hơn là vui.
Năm 1614, Richelieu là hồng y giáo chủ kiêm thủ tướng nước Pháp ra lệnh cho tu sĩ Machon viết sách ca ngợi Machiavel. Năm 1787, chính phủ Ý cải mộ của Machiavel đem về an táng tại nghĩa trang quốc gia để nắm xương của ông được nằm bên cạnh các vĩ nhân Dante, Galilee, Michel Ange, Rossini và trên mộ của Machiavel được khắc dòng chữ "Không có lời ca ngợi nào xứng đáng với tên ông".
Quả vậy, tên của ông đã tạo ra một lô danh từ trong các tự điển của mọi nước Âu Mỹ: Machiavelism, Machiavelic, Machiavelian... có nghĩa là chính sách xảo quyệt, xảo trá, nham hiểm, ác độc. Có một điều không ai phủ nhận, tác phẩm "Quân Vương" đã là sách gối đầu giường của các bạo chúa từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20. Từ Richelieu đến Napoléon đều dùng sách của Machiavel để hoạch định chiến lược. Thậm chí khi Napoléon bị thất trận tại Waterloo, người ta đã phát giác ra trên xe của Napoléon có dán nhiều mảnh giấy chép lại nhiều đoạn trong sách Quân Vương.
Năm 1924, Mussolini dựa vào sách Quân Vương để phát minh ra Chủ nghĩa Phát Xít. Moussolini tuyên bố: "tôi xác nhận rằng lý thuyết của Machiavel ngày nay còn sống mạnh hơn 4 thế kỷ qua". Hitler cũng là đệ tử của Machiavel. Sau thế chiến thứ hai, người ta mới nhận rõ hơn khuôn mặt ghê tởm của chủ nghĩa Machiavel qua tham vọng nô lệ hóa thế giới của Hitler. Qua cuốn sách của Arthur Koesler, người ta mới biết cả Stalin cũng luôn luôn giữ ở đầu giường một cuốn Quân Vương.
Tóm lại, Machiavel đã đào tạo ra một loạt các bạo chúa nham hiểm ác độc trong 4 thế kỷ qua mà khuôn mẫu của nó là cha con Giáo Hoàng Alexander VI thuộc thế kỷ 16. Đó là một quan niệm về đạo đức chính trị dựa trên căn bản của nền văn hóa du mục phi nhân bản phát xuất từ Babylon. Nền văn hóa du mục Babylon thấm qua đạo Do Thái của Abraham, Moses, xâm nhập vào Kitô Giáo và phát triển cao độ nơi đạo Công Giáo mà trung tâm quyền lực của giáo hội này nằm tại Vatican. Từ cái đầu của con bạch tuộc tại Vatican, các chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa Phát xít Đức Quốc Xã, quân chủ chuyên chế, thậm chí chủ nghĩa Cộng Sản của Lenin hay Stalin chỉ là những cái vòi của con bạch tuộc Vatican. Rồi từ cái vòi Cộng Sản Nga Phát sinh ra những cái ống hút nhỏ như Mao Trạch Đông, Pol Pot.... Tất cả các bạo chúa này thực chất là những đệ tử hạng bét của Vatican mà họ không biết.
Chủ nghĩa Cộng Sản ghê như vậy cũng chỉ tồn tại được hơn 70 năm. Vậy mà giáo hội của Constantine đã tồn tại và tác oai tác quái ròng rã trên 16 thế kỷ, mà tới nay, đa số nhân loại còn chưa nhận ra được chân tướng của nó, đủ thấy Vatican siêu đẳng cỡ nào? Vatican thực sự là đỉnh cao trí tuệ loài người về phương diện triết học và văn hóa phi nhân bản. Nền văn hóa phi nhân bản xuất phát từ Babylon đã được ghi nhận là hết sức độc hại trong sách kinh Tân Ước viết: "Huyền thoại Babylon vĩ đại là mẹ của các con điếm và mọi chuyện ghê gớm của trái đất này" (MYSTERY BABYLON THE GREAT, THE MOTHER OF HARLOTS AND ABOMINATIONS OF THE EARTH - Rev. 17: 1-16).
6. LỜI KẾT
Cả thế giới ngày nay đã đau khổ quá nhiều do hậu quả của nền văn hóa phi nhân bản. Lương tâm và lương tri nhân loại cần phải đi tìm một nền văn hóa nhân bản phục vụ hạnh phúc con người. Thật ra, từ trước Công Nguyên, Hy Lạp đã có một nền văn minh khoa học rất cao và một triết học nhân bản rất tốt đẹp nhưng đã bị đế quốc La Mã thiêu hủy hết các sách của Hy Lạp làm cho cả Âu Châu phải chìm đắm trong thời đại đen tối (The Dark Age) nhiều thế kỷ. Sự mê tín hoành hành khắp lục địa Âu Châu, Các cuộc chiến tranh xảy ra liên miên giữa các lãnh chúa trong thời Trung cổ làm cho các thành phố phần lớn bị đổ nát, các đường sá mọc đầy cỏ dại. Các ngành thương mại bị tê liệt. Toàn dân Châu Âu phải qui tụ lại với nhau để tự bảo vệ trong các làng mạc hẻo lánh hay các tỉnh nhỏ ở thôn quê. Họ sống bằng nghề nông với thu nhập nhỏ khiến đời sống vô cùng chật vật. Đời sống càng thêm khốn khổ do luôn luôn phải đối đầu chiến tranh, bệnh tật và nạn đói.
Từ thế kỷ 8, Âu Châu được chia thành nhiều nước nhỏ, mỗi nước chia thành nhiều thái ấp (fiefs) hoặc chư hầu (vassals). Hệ thống xã hội này được gọi là phong kiến (Feudalism) kéo dài từ thế kỷ 8 đến 13. Dân chúng trở thành các nông nô làm việc cơ cực ở đồng ruộng để nộp hoa lợi cho lãnh chúa. Trong khi đó các lãnh chúa thường xuyên gây chiến tranh với nhau để duy trì quyền lực và quyền lợi riêng. Suốt trong các thế kỷ này của thời Đại Đen Tối, giáo hội Công Giáo La Mã là "lực lượng tinh thần" tối cao vượt trên mọi lãnh chúa. Toàn thể dân chúng cực khổ hướng về giáo hội để tìm đường giải thoát đau khổ bằng cách cầu nguyện Chúa và vâng lời Tòa Thánh. Dân chúng không còn ai lưu tâm gì đến các vấn đề thế giới bên ngoài hoặc để ý tìm hiểu vũ trụ. Vả lại, vào thời đó dân chúng không có thể kiếm ra sách để đọc vì các cổ thư đều được chép bằng tay công phu và rất hiếm. Tuyệt đại đa số dân chúng đều mù chữ, chỉ có giới quí tộc và tu sĩ biết đọc biết viết mà thôi. Mọi ngành văn học và nghệ thuật đều hướng vào việc ca ngợi Chúa và các "thánh" của giáo hội. Các sách đều được giấu trong các tu viện, dấu nhẹm mọi kiến thức khoa học, đàn áp mọi sáng kiến hoặc khám phá vũ trụ đi ngược lại Thánh Kinh. Toàn dân Âu Châu thời đó đều được giáo dục bằng những kiến thức lệch lạc. Mọi người đều tin trái đất phẳng và mặt trời xoay quanh trái đất. Ai sinh ra đời cũng mắc tội tổ tông, cần phải có ơn cứu chuộc của Chúa Kitô và cần có tu sĩ coi sóc phần linh hồn. Mọi vật trong vũ trụ được cấu tạo bằng 4 yếu tố: đất, nước, không khí và lửa! Các học giả trí thức chỉ thích bàn về thần học và đoán mò về thánh ý của Đức Chúa Trời.
Đầu thế kỷ 14, bắt đầu có phong trào xét duyệt lại các giá trị của văn minh Kitô giáo. Học giả và trí thức Tây phương cố gắng moi tìm lại trong quá khứ cổ xưa của Hy Lạp cái kho tàng nghệ thuật, khoa học và triết học đã bị thất lạc. Thời kỳ này kéo dài từ thế kỷ 14 đến 17, được gọi là Thời Kỳ Phục Hưng (The Renaissance) có nghĩa là Sự Tái Sinh của nền văn hóa cổ. Người đầu tiên khai sáng Phong Trào Phục Hưng ở Âu Châu là học giả Ý tên Petrarch (1304-1374). Ông rất thông thạo tiếng Hy Lạp và đã nhờ bạn bè đi khắp nơi mua về cho ông các cổ thư Hy Lạp còn sót lại. Cuối cùng ông lập được một thư viện và kêu gọi mọi học giả đến nghiên cứu. Ông quan niệm: Sách là kho tàng ghi tiếng nói của các bậc khôn ngoan, các bài kinh nghiệm của lịch sử, các tư tưởng về luân lý, tôn giáo, luật pháp và toàn bộ nền văn minh của con người. Sách là ký ức của quá khứ. Không có sách, không có chỗ đứng để đi lên, không có gương sáng để theo và gương xấu để tránh.... Dần dần, Petrarch và các bạn học giả của ông khám phá ra rằng: Hầu hết các bản dịch của các tu sĩ đều sai lầm và bịa đặt. Họ càng nghiên cứu càng thán phục nền văn minh cổ Hy Lạp. Do đó, tư tưởng của các trí thức Âu Châu bắt đầu thay đổi. Thay vì cúi đầu vào Thánh Kinh, họ ngẩng đầu lên quan sát vũ trụ và thế giới. Họ bắt đầu đưa ra các giả thuyết, sau đó trắc nghiệm để dần dần đi tới kết luận. Sự thay đổi não trạng của trí thức Âu Châu đã sản xuất ra nhiều triết nhân có khuynh hướng nhân bản. Họ coi ý kiến của mọi cá nhân là quan trọng và họ đòi hỏi mọi người phải có quyền tự do phát biểu tư tưởng. Họ vạch ra cho mọi người thấy rằng sự tranh luận tự do giữa mọi người sẽ thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Cái thói quen ngoan ngoãn tuyệt đối vâng lời các giáo sĩ và giáo hội mà không thắc mắc gì cả là đầu mối của sự mê muội và dìm xã hội trong bóng tối tâm linh.
Họ chủ trương luật pháp là sản phẩm của con người nên con người có quyền thay đổi. Chẳng có luật nào là luật của Chúa mà con người không có quyền thay đổi cả. Lập luận này nhắm vào việc đả phá giáo hội Công Giáo vốn có truyền thống cho rằng mọi giáo điều là luật của Chúa có giá trị bất di bất dịch. Chống lại giáo điều và giáo luật không thể bị lên án là chống lại Thiên Chúa vì đó chỉ là cái cớ giả tạo để giáo hội đưa các kẻ chống đối lên dàn hỏa mà thôi. (The Renaissance, by Tim Wood Pinguin Book. 1993).
Các học giả Tây phương tiếp tục đào sâu khám phá kho tàng kiến thức của cổ Hy Lạp đều đã nhận ra các tội ác lớn lao của đế quốc La Mã chỉ vì muốn dấu tung tích ngụy tạo của đạo Công Giáo mà ra tay hủy diệt mọi kho sách cổ Hy Lạp khiến cho nền văn minh nhân loại bị chậm lại trên 10 thế kỷ. Đặc tính của La Mã là nhiều tham vọng và tàn bạo. Đặc tính của người Hy Lạp là yêu sự học hỏi (the Hellenic love of learning).
Từ thế kỷ 6 trước Công Nguyên, Pythagore đã dạy cho biết trái đất tròn và quay chung quanh mặt trời. Vào thế kỷ thứ 3 trước Công Nguyên, Aristarchus đã vẽ hệ thống thái dương hệ với mặt trời ở trung tâm (heliocentric theory) như Copernicus của thế kỷ 19! Cũng trong thế kỷ 3 trước Công Nguyên, Erathosthenes đã ước tính gần đúng chu vi trái đất. Trong thế kỷ thứ 5 sau Công Nguyên, Democritus và Leucippus đưa ra thuyết nguyên tử của vật chất (the atomic theory of matter) và tiến hóa của sự sống (the evolutionary theory of life) tương tự như Einstein và Darwin!
Sử gia Lloyd M. Graham viết: "Thế giới Kitô Giáo từ chối khoa học và triết học Hy Lạp, tất cả kho học vấn cổ này bị đốt ở nơi công cộng. Điều đó còn tệ hại hơn cả tội ác. Đó là tội của các tổ phụ của đạo Kitô di hại đến ngày nay. Vì cái tội ác này mà ánh sáng của Hy Lạp đã phải tắt đi từ Arisarchus đến Copernicus, từ Aristotle đến Bacon, từ Dimocritus đến Darwin..." (The Christian world renounced Greek Science and philosophy for this all ancient learning was burned in the marketplace. It is worse than a crime. Thus are the sins of the Christian Fathers visited to the present time. But for this crime the light of Greek might have burned on from Aristarchus to Copernicus, from Aristotle to Bacon and from Democritus to Darwin – Deceptions and Myths of the Bible, page 450).
Tội ác của Đế Quốc La Mã, tổ phụ đích thực của đạo Công Giáo, là hủy diệt nền văn hóa nhân bản Hy Lạp để phát triển văn hóa du mục phi nhân bản của Babylon – Do Thái, tràn ra khắp Âu Châu và thế giới. Văn hóa du mục phi nhân bản của "Babylon – Do Thái" chú trọng đến việc phụng sự thần linh và sẵn sàng hy sinh con người (như Abraham giết con trai duy nhất của mình là Issaac) để tế thần. Đạo thờ thần Bal của Babylon tế thần bằng người sống rồi chia nhau ăn thịt. Cũng tương tự như Công Giáo lên rước lễ ăn bánh thánh (thịt Chúa) hay rượu (máu Chúa). Các tôn giáo xuất phát từ huyền thoại Babylon như Do Thái Giáo, Kitô Giáo (gồm cả Công Giáo, Tin Lành, Chính Thống) và Hồi Giáo đều lấy Cựu Ước Do Thái làm căn bản và đều có đặc tính hiếu thắng và hiếu sát. Gọi chung các đạo này là đạo Thiên Chúa hay Độc Thần Giáo (Monotheism) và có lẽ chính xác nhất là nên gọi chung là Đạo Uống Máu Ăn Thịt Người.
Ngày nay, người Tây Phương đã nhận ra điều đó và họ đã tăng cường công tác giáo dục đồng bào họ bằng cách viết ra rất nhiều sách báo để soi sáng tâm linh. Nhờ vậy chúng ta hiện sẵn có rất nhiều tài liệu học hỏi để soi sáng tâm linh của mình và tôi ước mong những gì tôi đã viết sẽ mang lại đôi điều ích lợi cho đồng bào đồng đạo của tôi, trong đó có những người thân yêu nhất của tôi là vợ con, anh em, chị em tôi. Tôi không mong điều gì khác hơn là mọi người Công Giáo hãy bắt đầu sự nghi ngờ để rồi từ đó rà xét lại niềm tin của mình. Hãy biết nghi ngờ về sự thánh thiện của Tòa Thánh Vatican và giáo hoàng. Vì thật sự tất cả chỉ là giả tạo. Bên trong tòa thánh và bản thân giáo hoàng đầy dẫy những chuyện thối tha bẩn thỉu còn ghê tởm hơn các triều đình thế gian. Những màn giáo hoàng ban phép lành tại Tòa Thánh cho các đám đông ở Vatican chỉ là những màn giả tạo để quay phim chụp ảnh. Các ký giả chuyên săn tin Vatican gọi đó là các màn "Shows tailor-made for video". Các hồng y da đen chẳng có chức vụ gì thật ở Vatican ngoài cái nhiệm vụ chính yếu là đi qua đi lại ở công trường Thánh Phêrô cho thiên hạ chụp ảnh quay phim để chứng tỏ giáo hội không kỳ thị chủng tộc. Sự thật, Vatican là cái gốc xua đẩy bọn thực dân da trắng Âu Châu đi bắt dân da đen ở Phi Châu về làm nô lệ trong những thế kỷ qua. Cựu Linh Mục dòng Tên Peter de Rosa, tác giả Vicars of Christ, đã phải thốt lên "Vatican là cái xưởng sản xuất đồ giả lớn nhất thế giới". (Vatican is the largest document - forgery - factory of the world).
Tổ tiên của chúng ta đã dạy: chỉ có cái thật mới phát sinh ra sự tốt lành, sự thật và sự lành sinh ra cái đẹp: chân, thiện, mỹ.
Vatican là trung tâm của sự gian trá không thể nào có được sự thiện lành. Sự gian trá chỉ có thể sinh ra tội ác xấu xa. Trên đời này chỉ có sự "gian ác" đối nghịch với sự "ngay lành" mà thôi. Cuối cùng sự thiện lành sẽ chiến thắng sự gian ác, dù cho kẻ gian ác khôn ngoan và quỉ quyệt đêᮍ đâu!
Từ cổ chí kim, các bậc minh triết của nhân loại đã băn khoăn rất nhiều về sự thật. Họ đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm để chúng ta học hỏi. Tất cả đều chỉ cho chúng ta thấy rằng: muốn có cuộc sống hòa bình hạnh phúc tốt đẹp, chúng ta phải bắt đầu bằng lòng yêu sự thật, bởi lẽ phải có CHÂN trước hết rồi mới có thể có THIỆN và MỸ. Nhà tư tưởng nổi tiếng vào thế kỷ 17 gốc Do Thái là Spinoza (1632-1677) được coi là một trong những triết gia vĩ đại nhất của Tây Phương và được xếp ngang hàng với Lão Tử của triết học Đông phương, đã viết: "Không có gì có giá trị hơn tình bạn với những người chân thành yêu sự thật vì không có gì ngoài sự thật có khả năng đoàn kết được mọi ý kiến dị biệt và mọi tính tình khác nhau". (I value nothing more than friendship with people who sincerely love the truth... since nothing but truth can unite different opinions and temperaments – The Enlightened Mind – Harper-Collins Pub. 1991, page 142).
Dù cho chúng ta hiện đang ở trong một nhóm thiểu số giữa một tập thể đông đảo đang hùa theo một tà thuyết hay một tà đạo, chúng ta hãy can đảm chiến đấu cho "cái lý của sự thật". Cổ nhân thường nói "Vạn sự nhất lý". Dù chúng ta chỉ là một nhóm rất nhỏ nhưng một khi đã nắm được cái lý do, chúng ta sẽ trở nên những người có sức mạnh vô địch. Cái lý của sự thật sẽ giúp chúng ta vượt thắng mọi trở ngại khó khăn để đạt tới thắng lợi vẻ vang cuối cùng. Trong lịch sử nhân loại, nhiều thế lực gian ác đã có một thời hùng mạnh, nhưng cuối cùng "không có thế lực nào có thể mạnh hơn sự thật". (There is nothing powerful than truth – Daniel Webster 1930). Dù cho sự thật có bị các thế lực gian ác đè bẹp tới sát mặt đất chăng nữa, cuối cùng sự thật sẽ lại vươn lên (Truth crushed to earth shall raise again – William Cullen Bryant 1839). Nhiều triết gia yêu sự thật còn hơn cả ái tình tiền tài danh vọng (Rather than love, than money, than fame, give me truth (Henry Thoreau, 1817-1862). Tất cả chỉ vì một nguyên do: Sự thật là quyền năng và sẽ chiến thắng tất cả (Truth is mighty and will prevail – Đại văn hào Mark Twain).
Tuy nhiên, trong khi chiến đấu cho sự thật, chúng ta cũng phải trả giá cho lòng yêu sự thật. Người chiến đấu cho sự thật luôn luôn bị những kẻ gian ác rắp tâm hãm hại và đe dọa sự an toàn thân mạng. Nhưng các chiến sĩ chiến đấu cho sự thật hãy bền gan vì những người chân thật luôn luôn là những người có lòng nhân ái lớn lao. Đó chính là đức từ bi mà Đức Phật đã dạy. Một khi đã có đức BI tất sẽ có TRÍ và DŨNG. Những người thiện lành yêu mến sự thật sẽ được "Thượng Đế" [Không nên hiểu chữ Thượng Đế như người Kitô giáo.] soi sáng và ban sức mạnh tinh thần hết sức dồi dào để chiến thắng mọi loại quỉ vương.
Vào thế kỷ 18, văn hào chống Công Giáo số một tại Pháp là Voltaire đã nói lên kinh nghiệm của mình: "Hãy nói lên sự thật rồi chạy trốn để có an toàn" (Tell the truth and run). Voltaire đã trở nên người lãnh đạo hàng đầu của Phong Trào Soi Sáng tại Âu Châu vào thế kỷ 18 (The enlightenment). Tư tưởng của ông là một trong những nguyên nhân dẫn đến hai cuộc cách mạng lớn giải phóng con người là cuộc cách mạng Hoa Kỳ năm 1776 và Cách Mạng Pháp 1789. Cựu Tổng Thống Mỹ Truman cũng cho chúng ta một kinh nghiệm là những thế lực tội ác có thể sẽ kết án chúng ta đã đẩy họ vào hỏa ngục. Nhưng thật ra, "chúng ta chẳng có ý đẩy ai xuống địa ngục cả, chúng ta chỉ muốn nói lên sự thật mà thôi". (I never give them hell, I just tell the truth and they think it is hell!)
Đến đây, xin quí độc giả cho phép tôi được mở dấu ngoặc để nói lên một kinh nghiệm bản thân. Tôi vốn được giáo dục trong nền văn hóa Công Giáo từ nhỏ đến lớn nhưng cuối cùng tôi đã phải giã từ cái tôn giáo lâu đời của gia tộc mình.
Cuộc hành trình đi đến chỗ bỏ đạo này khởi đầu từ sự nghi ngờ về cái giá trị chân thực của các tín lý và giáo điều của đạo Công Giáo. Tôi cố gắng vận dụng lý trí và đồng thời tìm đến các tài liệu khách quan có giá trị cao để soi rọi vào niềm tin cố hữu của mình. Tôi như một con bệnh tâm trí dần dần được phục hồi để tìm đường về với sự thật. Động cơ thúc đẩy tôi mạnh mẽ nhất là lòng thiết tha yêu mến sự thật và sẵn sàng chết cho sự thật. Sở dĩ tôi cố gắng viết ra những điều này không nhằm mục tiêu nào khác hơn là giúp những người cùng cảnh ngộ có một tài liệu để tự suy nghiệm về niềm tin của mình. Tôi thành khẩn mong những người đó không phải phí thì giờ và công sức đi tìm các tài liệu này.
Mới đây, tôi đọc được lời Phật dạy rất hợp với hoàn cảnh của tôi đã khiến tôi vui sướng vô cùng. Phật dạy rằng: "Sự nghi ngờ là chính đáng. Đừng để cho các sách thánh dẫn dắt bởi uy quyền của các vị thầy của các tôn giáo. Khi nhận ra điều gì xấu xa và không xứng hợp với mình thì hãy dứt bỏ nó. Và khi nhận ra điều gì là tốt và xứng hợp thì hãy làm điều đó. Hãy là ngọn đèn tự soi sáng mình. Hãy duy trì sự thật trong mình và chỉ vì sự thật mà thôi". (It is proper to doubt. Do not be led by Holy Scriptures... But when you realize that something is unwholesome and bad for you, give it up. And when you realize that something is wholesome and good for you do it... Be a lamp to yourself. Be your own confidence. Hold to the truth within yourself, as to the only truth – The Buddha – The enlightenment Mind by Stephen Mitchell, Harper Perennial 1991, page 10-11).
Tôi rất yêu những lời sau đây của vị Phật Sống Tây Tạng, Đức Đạt Lai Lạt Ma: "Một người có đức tin tôn giáo hay không cũng không quan trọng cho lắm. Điều quan trọng hơn nữa chính là họ phải là người thiện lành... Không có một tôn giáo nào thỏa mãn được toàn thể nhân loại. Chúng ta có thể kết luận rằng: Loài người có thể sống khá tốt đẹp mà không cần phải cần đến tín ngưỡng. Điều đó có vẻ như một xác nhận bất thường khi sự xác nhận đó đến từ một nhân vật tôn giáo... Là một con người, tôi có trách nhiệm lớn lao hơn nữa đối với toàn thể "gia đình nhân loại" – mà thật sự chúng ta đều có. Và bởi vì đa số không thực hành tôn giáo cho nên tôi cố gắng tìm ra một con đường phục vụ toàn nhân loại mà không cần kêu cầu đến tín ngưỡng". (Đạo Lý Cho Thiên Niên Kỷ Mới – Linh Thụy chuyển ngữ. Văn Nghệ xuất bản 1999, trang 33-35).
Mọi người thân yêu nhất của tôi đều đang có niềm tin Công Giáo. Tôi không có một lý do nào để căm thù cái đạo gốc của mình. Tuy nhiên, tôi không thể nào chấp nhận được cái thói cao ngạo láo xược của đại đa số tu sĩ Công Giáo luôn luôn cho rằng chỉ có Công Giáo là duy nhất thánh thiện, duy nhất đúng đắn. Họ gọi mọi tôn giáo khác là các đạo thờ quỉ. Sự thật chẳng có tôn giáo nào thờ quỉ cả vì theo giáo lý Công Giáo Quỉ là kẻ bị Chúa phạt đày xuống hỏa ngục. Như vậy, quỉ là kẻ thất bại và bị tước đoạt mọi quyền năng. Liệu có ai ngu xuẩn để tôn thờ một kẻ không còn quyền năng gì mà còn đang bị giam trong lửa hỏa ngục? Các tu sĩ Công Giáo thường có thói quen gọi các đạo khác là "bụt thần ma quỉ" chẳng qua chỉ muốn dùng danh từ này để nhục mạ các tôn giáo khác, nhất là để nhục mạ đạo Phật.
Nếu các tôn giáo khác có ai gọi Công Giáo là đạo thờ quỉ, chắc chắn Công Giáo sẽ gây thánh chiến thật thảm khốc chống lại tôn giáo đó. Vậy mà trong các sách kinh Công Giáo vẫn còn chình ình rất nhiều những câu kinh nhục mạ các tôn giáo khác. Thật là một sự tự cao tự đại một cách trơ trẻn và không sáng suốt.
Sự tự cao tự đại đó ai cũng có thể nhận thấy rõ ràng khiến cho các tu sĩ Công Giáo không thể chối cãi. Nhưng cái tội ác của giáo hội Công Giáo ở chỗ đã nhân danh cái quyền tự phong là "độc quyền chân lý" để tàn sát các đạo khác bằng các cuộc "thánh chiến" [Chiến tranh là chết người, là đau khổ thì không thể gọi là thánh được.] đẫm máu và bằng các tòa án tôn giáo đưa hàng triệu người lên dàn hỏa để thiêu sống trong nhiều thế kỷ qua là một tội ác không thể không nguyền rủa.
Sau 40 năm chuyên nghiên cứu về Kitô Giáo, giáo sư cựu linh mục Công Giáo gốc Ái Nhĩ Lan John Dominic Crossan, đã từng được giải thưởng của Hàn Lâm Viện Hoa Kỳ, tác giả tác phẩm best sellers "The Historical Jesus" và "Who is Jesus" đã viết về giáo hội Công Giáo như sau: "Con đường độc đạo chỉ có ta là duy nhất tuyệt đối đúng có nghĩa là tất cả nọi người khác đều phải chết". (One way I alone can be absolutely right is for all others to be dead – "Who is Jesus" Harper – Collines 1996, page 30). Công Giáo La Mã có quyền gì mà dám nhân danh thần linh để hủy diệt mọi người không chấp nhận các tín điều bậy bạ vô luân của Công Giáo. Chỉ có Công Giáo là một thứ đạo khốn nạn và phi nhân nhất trong lịch sử loài người mới có cái thái độ đáng nguyền rủa đó mà thôi. Vậy tại sao loài người lại không có quyền tự vệ chính đáng để bỏ cái đạo khốn nạn đó? Công Giáo là đám cỏ dại trên cánh đồng Việt Nam, tại sao chúng ta không bỏ cái đám cỏ dại này để cứu cánh đồng Việt Nam?
Chúng ta cần phải học hỏi các bài học lịch sử đầy đau thương của các quốc gia Âu Mỹ đã từng là những nạn nhân của hiểm họa Công Giáo La Mã.
1. Kinh nghiệm của các nước Hy lạp, Nga và Đông Âu.
Năm 1054, các giáo hội Công Giáo tại Hy Lạp, Nga và Đông Âu đã là những nước đầu tiên nhận thức được âm mưu xâm lược toàn cầu dưới chiêu bài tôn giáo của Đế Quốc La Mã. Do đó, họ đã đồng loạt tuyên bố tách rời khỏi Vatican. Sử gia John B. Noss đã ghi nhận sự kiện này không phải do xung đột về giáo lý mà là để chống lại ý đồ bành trướng lãnh thổ của Đế Quốc La Mã. Tác giả viết: "CATHOLIC in the West (Vatican) has required the meaning of UNIVERSAL in the sense of the geographic extention of the church throughout the world" – (MAN’S RELIGION, p. 457). Xin tạm dịch: "Trong thế giới phương Tây (của Vatican) danh từ CÔNG GIÁO với nguyên nghĩa là TOÀN CẦU, trong ý nghĩa thật của nó là bành trướng lãnh thổ của giáo hội ra khắp thế giới".
Từ đó đến cuối thế kỷ 20, Công Giáo La Mã đã gây ra nhiều cuộc thánh chiến chống lại các quốc gia nói trên, gọi chung là giáo hội Đông Phương hoặc giáo hội Chính Thống. Thảm khốc nhất là các cuộc nội chiến tại Nam Tư giữa xứ Croatia theo Công Giáo và xứ Serbia Chính Thống Giáo.
Giữa thời đại văn minh của thế kỷ 20, thế giới đã phải xúc động trước các tin về những vụ giết người tập thể vì lý do tôn giáo tại các xứ Croatia, Serbia và Bosnia tại Nam Tư. Tất cả đều cùng là một giống dân Slave nhưng đã chia thành những quốc gia riêng biệt thù hận lẫn nhau hằng chục thế kỷ chỉ vì sự cuồng tín tôn giáo!
Từ những kinh nghiệm đau thương đó nên vào tháng 8 năm 1997, quốc hội Nga (hậu Cộng Sản) đã biểu quyết đạo luật công bố quyền tự do truyền đạo và hành đạo cho mọi tôn giáo. Chỉ có một biệt lệ duy nhất là tuyệt đối cấm Công Giáo La Mã và Tin Lành không được hoạt động tại Nga (như đã nói ở phần trước).
2. Kinh nghiệm Anh Quốc:
Tiếp theo các nước Đông Âu là Anh Quốc tách rời khỏi Vatican năm 1535. Từ đầu thập niên 1530, vua Anh đã vận động quốc hội Anh chuẩn y việc tách rời này. Công cuôvận động của vua Anh bị thủ tướng Anh thời đó là Thomas More cực lực phản đối. Thomas More xin từ chức thủ tướng Anh Quốc năm 1532. Y vận động chống lại vua Anh và ủng hộ việc thiết lập các tòa án dị giáo để đưa các người chống Công Giáo lên dàn hỏa. Ngày 1.2.1935, nghị viên Anh thông qua đạo luật "The Act of Supremacy" xác nhận vua Anh có quyền tối thượng đối với chủ quyền quốc gia và là giáo chủ của giáo hội Công Giáo Anh quốc. (The King is the supreme head of the church of England). Năm 1559, Quốc Hội Anh biểu quyết đạo luật Tổ chức thống nhất cho toàn hệ thống Công Giáo nước Anh (Act of uniformity) và duyệt xét lại toàn bộ các sách kinh nguyện (prayers) và cho phép giáo dân chỉ được đọc các kinh đã được in trong sách kinh chính thức được gọi là "The Book of Common Prayers". Năm 1535, Thomas More bị đưa ra công trường Westminster chém đầu về tội phản nghịch. Trước khi lên đoạn đầu đài, Thomas More tuyên bố: "Công Giáo La Mã là giáo hội toàn cầu. Tôi chết trong và vì niềm tin Công Giáo". (I die in and for the faith of the Holy Catholic Church).
Năm 1935, kỷ niệm 400 năm Thomas More chết vì đạo, Vatican đã phong tên phản quốc này lên bậc hiển thánh. (xin đọc Man’s Religion và A World only lit by fire).
3. Kinh nghiệm các nước toàn tòng Công Giáo tại Mỹ Châu La Tinh.
Ở phần trên của bài viết này, tôi đã có dịp kể chuyện về cuộc sống dâm ô cuồng loạn có một không hai của giáo hoàng gốc Tây Ban Nha là Alexander VI. Ông ta nổi tiếng vì đã loạn luân với mẹ ông, với con gái, với cô em ruột và với con riêng của vợ. Nhưng ông ta cũng nổi tiếng vì đã phát động cuộc xâm lược đại qui mô của thực dân Tây Ban Nha và tu sĩ Công Giáo vào lục địa Châu Mỹ. Giáo Hoàng Alexander VI và người con trai là ông hoàng Borgia Caesar cũng nổi tiếng vì đã là nguồn cảm hứng cho Machiavel viết nên tác phẩm lừng danh Quân Vương tôi đã có dịp trình bày ở những đoạn trên nhằm mục đích chứng minh rằng: Vatican là trung tâm phát sinh ra một xu hướng méo mó về đạo đức chính trị phi nhân bản đã phá hoại hòa bình thế giới và hạnh phúc nhân loại trong những thế kỷ qua và còn tiếp tục.
Trong mục tiêu bành trướng lãnh thổ và cướp đoạt vàng bạc của cải làm giàu cho tòa thánh, giáo hoàng Alexander VI giao độc quyền khai thác vùng đất do Columbus khám phá (tức Châu Mỹ) cho hoàng gia Tây Ban Nha năm 1503. [Ngày 4.5.1493, Giáo Hoàng Alexander IV ký sắc chỉ Inter Catera, sắc chỉ nầy về sau được dùng làm căn bản cho việc triển khai quyền sở hữu về Tân Thế Giới (new World).]
Năm 1519, hoàng gia Tây Ban Nha xử dụng một tên du thủ du thực 35 tuổi, chuyên đi tìm vàng là Hernan Cortez làm tướng chỉ huy một hạm đội gồm 11 chiến thuyền, 10 đại bác và 600 binh sĩ, cùng với một đoàn tu sĩ dòng Phan xi cô do giám mục Diego de Landa lãnh đạo lên đường chinh phục Châu Mỹ. Tháng 3.1519, đoàn quân này đổ bộ ở vùng vịnh Tabasco. Tháng 5.1519, chúng chiếm thành phố Cholula và phá hủy 400 kim tự tháp tại đây. Năm 1521, chúng chiếm Tenchtitlan và hoàn tất cuộc xâm lược Mexico (Mễ Tây Cơ).
Trước khi tiến chiếm thành phố lớn nhất của Mexico thời đó là thành phố Montezanur, chúng đột nhập vào các nhà tù phóng thích tù nhân và dụ họ hợp tác dẫn đường trong thành phố nhưng sau khi thành công, bọn chúng đã giết hết đám tù nhân đã giúp chúng. Giám mục lãnh đạo tinh thần của đoàn quân xâm lược là Giám Mục Diego de Landa chủ trương đốt sạch để xóa bỏ mọi vết tích của nền văn minh cổ đại của người Da Đỏ.
Trong các đền thờ được xây cất tương tự như Kim Tự Tháp của các dân tộc Aztec, Toltecs, Maya thường có nhiều tượng và đồ vật trang sức bằng vàng. Bọn thực dân đem nấu chảy thành vàng khối chở về Tây Ban Nha. Các thứ còn lại chúng đều phá hủy hoặc đốt cháy thành than. Trong số các Kim Tự Tháp có một cái gọi là đền thờ Tepanapa cao tới 60 mét, mỗi cạnh rộng 300 mét, lớn gấp đôi kim tự Tháp Cheop của Ai Cập, hiện trên đỉnh của nó là nhà thờ "Đức Mẹ Đồng Trinh".
Năm 1843, nhà khảo cổ Mỹ John Lloyld Stephen viết sách kể chuyện ông đã tìm được dấu vết của 44 thành phố thuộc văn minh Maya bị thực dân Tây Ban Nha phá hủy. Ông đã tìm được một kho sách cổ của dân tộc Maya gồm hàng ngàn bản gỗ có ghi chữ tượng hình (pictograph) nhưng đều đã bị cháy thành than. Nhiều tấm bia đá có khắc hình và chữ bị đập vỡ vứt xuống đáy hồ. Hiện nay các nhà khảo cổ chỉ tìm lại được rất ít tượng đồng và tượng đá của văn minh Maya. Người Maya đã đạt được trình độ cao trong việc sản xuất đồ gốm và nhiều loại nữ trang rất đẹp. Theo các nhà khảo cổ ước tính thì nền văn minh Maya đã có từ thế kỷ 12 trước Tây lịch.
Tội ác của đoàn quân xâm lược dưới sự lãnh đạo của Giám Mục Diego và Hernan Cortez còn được ghi lại trong những cuốn sách thuộc loại hồi ký của các cha dòng đi theo đoàn quân xâm lược, trong đó có một số hình ảnh vẽ cảnh chặt tay chặt chân tù binh da đỏ rất dã man. Nhiều thổ dân trên các đảo thuộc quần đảo Antilles đã bị bọn thực dân tiêu diệt sạch không còn một ai sống sót. Theo một số báo cáo của những đoàn quân xâm lược gửi về triều đình Tây Ban Nha thì vào giữa thế kỷ 16, dân số Mexico khoảng 15 triệu người. Nhưng đến đầu thế kỷ 17, chỉ còn có 2 triệu người mà thôi. [Dân số Mễ Tây Cơ hiện nay là 100.349.766] Phần lớn thổ dân đã chết vì bị nhiễm các loại vi trùng lạ do thực dân Tây Ban Nha đem từ lục địa Âu Châu qua.
Sau khi chiếm được Mexico, thực dân Tây Ban Nha và tu sĩ nhà thờ lập nên các đồn điền và các khu khai thác mỏ và biến thổ dân thành nô lệ. Từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, thực dân đến Phi Châu bắt cóc người da đen đem đến Mỹ Châu khoảng 60 triệu người để tăng cường nhân lực nô lệ cho các đồn điền và hầm mỏ. Ngay từ những năm đầu của cuộc xâm lược vào Mexico, riêng một mình Hernan Cortez đã chiếm 250 héc ta đồn điền và làm chủ 200.000 nô lệ da đỏ!
Cuối thế kỷ 18, do ảnh hưởng của các cuộc cách mạng tại Hoa Kỳ và Pháp, nhất là do ảnh hưởng tư tưởng của các nhà tư tưởng thuộc phong trào Soi Sáng Âu Châu (Enlightement) được dịch sang tiếng Tây Ban Nha, một số linh mục cấp tiến đã cầm đầu các cuộc cách mạng chống lại chính quyền thuộc địa và nhà thờ Công Giáo. Phần lớn các cuộc cách mạng này đều bị tắm trong biển máu! Phải đợi đến thế kỷ 19, nhiều nước tại Châu Mỹ mới đạt được thắng lợi lớn lao về chính trị kinh tế và xã hội trên toàn lục địa Châu Mỹ La Tinh. Sự kiện lớn lao này được mô tả khá chi tiết trong tác phẩm The Emergence of Latin America in the Nineteenth Century" (2nd edition, by David Bushenell and Neil Macaulay. Oxford University Press xuất bản năm 1994).
Đáng chú ý nhất là Hiến Pháp Mexico năm 1857. Hiến pháp này được nhiều nước Châu Mỹ La Tinh noi theo. Bản hiến pháp này của Mexico đã đưa ra nhiều biện pháp táo bạo và cương quyết đối với các tu sĩ và nhà thờ Công Giáo khiến ta cũng phải ngạc nhiên sững sờ.
- Hiến pháp tước bỏ mọi đặc quyền đặc lợi của các tu sĩ đã được chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha công nhận trong các thế kỷ trước . Các đặc quyền đặc lợi như: tu sĩ được miễn đi lính, tu sĩ được xét xử tại các tòa án riêng và theo luật riêng. Các tu sĩ tự xưng là người của Chúa (agents of God), nên đòi phải được xử theo luật của Chúa chứ không thể bị xét xử theo luật của người phàm (law of man). Tu sĩ bị tước đoạt độc quyền làm khai sinh hôn thú, chứng từ khai tử... Tất cả các việc này đều được thế tục hóa, tức là được chuyển cho các viên chức nhà nước thực hiện.
- Điều quan trọng là nhà thờ phải được tách rời hoàn toàn ra khỏi chính quyền (the separation of Church and State). Các tu viện bị đặt ra ngoài vòng pháp luật (outlawed monasteries). Các viện nữ tu bị hoàn toàn dẹp bỏ với hình phạt tử hình được áp dụng cho bất cứ nữ tu nào bị bắt gặp còn ở lại trong tu viện (the suppression of all nunneries upon the death of the present occupants), Các nam tu sĩ bị cấm không được mặc áo dòng khi xuất hiện ở các nơi công cộng (forbidding the wearing of clerical clothing in public). Toàn bộ tài sản của giáo hội bị tịch thu, [Nhưng tại Viêt Nam, các tài sản của giáo hội Công Giáo nhờ thế lực của thực dân mà vẫn còn, chưa ai đụng đến]. trong số đó có một số nhà thờ được bán cho những người Tin Lành ngoại quốc (The general confiscation of church property).
Hầu hết các nước Châu Mỹ La Tinh theo đuổi chính sách công khai chống các tu sĩ Công Giáo (Anticlericalism) nhất là ở Venezuela, Colombia và West Granada.
Với rất nhiều kinh nghiệm chống tà đạo Công Giáo trên khắp thế giới, ước mong cần phải nghiên cứu và học hỏi để có thể đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm tiêu hủy, hoặc ít ra là giảm thiểu, các ảnh hưởng tai hại của Công Giáo La Mã trên đất nước ta. Không có gì có thể ngăn cản chúng ta ban hành một đạo luật tương tự như nước Nga là cấm chỉ mọi hoạt động của Công Giáo La Mã và Tin Lành trong khi vẫn cho phép các tôn giáo khác được tự do hoạt động.
Bài học Anh Quốc thế kỷ 16 đã chỉ cho chúng ta thấy là muốn bảo tồn chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc thì, giáo hội Công Giáo bản xứ phải dứt khoát đoạn tuyệt với Vatican, vì Vatican luôn luôn tìm cách xâm phạm chủ quyền quốc gia của các nước trên thế giới qua giáo hội Công Giáo bản địa mà ban tham mưu của nó là các hội đồng giám mục tại mỗi nước. Quốc hội Anh thế kỷ 16 đã khẳng định mọi cuốn sách kinh nguyện (prayer books) phải được quốc hội thông qua để loại bỏ mọi câu kinh đi ngược lại quyền lợi chung của quốc gia dân tộc. [Trong cuốn Vatican Thú Tội và Xin Lỗi, Giao Điểm 2001, ông Bùi Kha đề nghị giáo hội Công Giáo Việt Nam nên chỉnh đốn lại toàn bộ Thánh Kinh trước lúc mở các chủng viện và giảng dạy cho tín đồ vì Thánh Kinh có hơn 80% là ngụy tạo, và vô số lời dạy trong đó đã đối nghịch với phong tục tập quán, đạo đức và luật pháp Việt Nam.]
Các nước Châu Mỹ La Tinh, như chúng ta đều biết, là những quốc gia toàn tòng Công Giáo từ nhiều thế kỷ qua. Vậy mà hầu hết các nước này đều noi gương Mexico đặt tu viện nam nữ Công Giáo ra ngoài vòng pháp luật theo tinh thần Hiến Pháp Mexico năm 1857. Toàn thể tài sản của giáo hội Công Giáo bị tịch thu. Các tu sĩ Công Giáo bị tước đoạt quyền dạy học và quyền ứng cử bầu cử. Các nhà trường Công Giáo hoàn toàn bị đóng cửa. Các tu sĩ dòng Tên ngoại quốc bị trục xuất. Các tu sĩ nhà thờ bị cấm ngặt không được thu tiền của giáo dân dưới bất cứ hình thức nào. Các nhà thờ được đặt dưới sự kiểm soát thường xuyên của chính phủ.
Sở dĩ các dân tộc Châu Mỹ La tinh có những biện pháp quyết liệt để trói tay giáo hội Công Giáo vì họ không thể quên được tội ác diệt chủng và diệt nền văn hóa cổ xưa của tổ tiên họ là người Da Đỏ. Thiết tưởng những biện pháp nêu trên vẫn là quá nhẹ so với các tội ác tày trời của giáo hội Công Giáo đã phạm trong quá khứ đối với toàn thể các dân tộc Châu Mỹ La Tinh.
Năm 1917, Mexico có bản hiến pháp mới nhưng lập trường của họ đối với giáo hội Công Giáo vẫn giữ nguyên tinh thần của bản hiến pháp 1857.
Năm 1979 và trong thập niên 1990, Giáo Hoàng Jean Paul II đã nhiều lần đến thăm Mexico để làm hòa nhưng đã hoàn toàn thất bại. Mối quan hệ ngoại giao giữa MexicoVatican đến nay vẫn chưa được nối lại sau trên một thế kỷ hoàn toàn gián đoạn. Trong các nước Châu Mỹ La Tinh toàn tòng Công Giáo mà còn có những bản hiến pháp đặt các tu viện Công Giáo ra ngoài vòng pháp luật như vậy, không lẽ tại Việt Nam, Công Giáo chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ nhoi chúng ta lại không thể có được một đạo luật cho toàn bộ hệ thống tu sĩ Công Giáo [Các giáo phái Tin Lành còn nguy hiểm hơn. Họ muốn biến các sắc dân thiểu số thành những khu vực tự trị.]
ra ngoài vòng pháp luật được hay sao? Tuy số tín đồ Công Giáo chỉ chiếm khoảng 8% dân số Việt Nam nhưng hệ thống tu sĩ Công Giáo là một tổ chức chặt chẽ nắm đa số các trường học tư thục từ cấp tiểu học đến đại học, chi phối đa số ghế quốc hội của thời đệ nhị Cộng Hòa, chi phối các giới chức trong chính quyền và quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở cấp lãnh đạo cao nhất. Hiện nay số giáo dân Việt Nam tại hải ngoại phần đông rất giàu có sẽ là nguồn tài trợ đắc lực cho mọi mưu toan lũng đoạn quốc gia của giới tu sĩ Công Giáo Việt Nam
Đứng trước các hiểm họa đó, thiết tưởng một đạo luật đặt hệ thống tu sĩ Công Giáo Việt Nam ra ngoài vòng pháp luật là điều hết sức cần thiết để kịp thời đối phó với các xáo trộn chính trị có thể xảy ra khi đất nước ta bước vào giai đoạn phú cường.
Biện pháp này càng tỏ ra cần thiết hơn nữa vì có triệu chứng cho thấy các tôn giáo khác như một nhóm người của Phật Giáo, Hòa Hảo, Cao Đài cũng bắt chước Công Giáo củng cố hệ thống tu sĩ riêng của mình để lũng đoạn chính trị trong cái gọi là "Liên Tôn". Các ủy ban liên tôn sẽ là những sào huyệt để cho kẻ lưu manh chính trị núp đằng sau tha hồ phá rối an ninh quốc gia và vô hiệu hóa hoàn toàn mọi cố gắng của bất cứ chính phủ nào trong công cuộc kiến thiết quốc gia để mưu cầu hạnh phúc cho toàn dân tộc.
Các bài học chống giáo hội Satan của các nước Âu Mỹ giúp các quốc gia khác một số kinh nghiệm về phương diện luật pháp và hành chánh.
Người Nhật trong thế kỷ 17 thấy biện pháp này không đủ hiệu năng nên họ đã treo cổ hoặc đóng đinh trên thập giá toàn bộ hệ thống tu sĩ Công Giáo bản địa và thừa sai ngoại quốc cùng một lúc với việc tiêu diệt trọn 37.000 giáo dân tại Nagasaki năm 1638. [Nên tránh bài học đau thương như Nhật Bản lúc bấy giờ.]
Chính nhờ biện pháp quyết liệt này, nước Nhật đã bảo toàn chủ quyền độc lập, bảo toàn danh dự quốc gia và văn hóa dân tộc. Đó chính là yếu tố đã đưa nước Nhật lên địa vị siêu cường ngày nay.
Xin xem tiếp phần Hai: Sách Kinh Công giáo và tác hại của nó -

Charlie Nguyễn

0 nhận xét:

Đăng nhận xét