Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014
GIÁO HỘI GIAN ÁC
19:38
Hoàng Phong Nhã
No comments
Trên đời này chẳng có tôn
giáo nào cao hơn Lẽ Thật vì Lẽ Thật là chân lý
hằng cửu. Cũng chẳng có tình
nào cao đẹp hơn tình người với
người, chứ không phải chỉ yêu Thiên Chúa, chà
đạp con người như các tu sĩ của Vatican.
Cả cái hệ thống tu sĩ của Vatcian là một
tổ chức vĩ đại của
những kẻ đạo đức giả. Chúng dựng
lên thần linh quái đản là Thiên Chúa Ba Ngôi rồi nhân
danh Thần Linh để khủng bố loài người
và giết hại trên 200.000.000 sinh mạng vô tội trong 16
thế kỷ qua. Họ là cha đẻ ra các tai họa
khủng khiếp cho loài người qua các chế
độ nô lệ, chủ nghĩa diệt chủng Do Thái,
chủ nghĩa phát Xít, chủ nghĩa Quốc Xã, chủ
nghĩa thực dân, chủ nghĩa kỳ thị phụ
nữ, kỳ thị tôn giáo, kỳ thị chủng tộc
và thậm chí cả chủ nghĩa Cộng Sản.
Năm 1917, Vatican đã viện trợ cho
đảng Bolshervik của Lenin 660 triệu đô la
(trị giá bằng nhiều tỷ đô la ngày nay)
để Cộng Sản lật Nga Hoàng và diệt Chính
Thống Giáo cho Vatican. Người Tây
Phương có quá nhiều kinh nghiệm về Vatican nên đã gọi
nó bằng một danh từ rất tượng hình và
nhiều ý nghĩa, đó là Con Bạch Tuộc của
Đức Chúa Trời (Octopus Dei). Sở
dĩ mọi tổ chức tội ác còn tồn tại trên
thế giới ngày nay là vì cái đầu của con bạch
tuộc là Vatican vẫn còn tồn tại. Chỉ khi nào cái
đầu của con bạch tuộc chết đi thì các
cái vòi của nó là các thứ chủ nghĩa tội ác
mới thật sự bị tiêu diệt.
Tất cả các cuộc chiến đấu
của nhân loại ngày nay chỉ qui vào một cuộc
chiến đấu duy nhất, đó là cuộc chiến
đấu của những người thiện lành
chống lại những thế lực tội ác do Vatican
ngấm ngầm lãnh đạo. Con bạch tuộc
khổng lồ Công Giáo La Mã cũng là đầu não của
mọi hình thức khủng bố: Tòa án
dị giáo với các dàn hỏa thiêu sống con
người, bắt cóc ban đêm và đủ kiểu tra
tấn hết sức dã man không kể xiết. Muốn
hiểu tòa án dị giáo của Vatican kinh khủng như
thế nào xin hãy đọc The Inquisition, Hammer of Heresy
của Edward Burman, 254 trang. Dorset Press NY. 1992. Ngay trang đầu của cuốn sách,
tác giả viết: "Tòa án dị giáo
đồng nghĩa với khủng bố, bắt
người ban đêm và đủ thứ tra tấn".
Nó cũng được mô tả trong The Pit and The Pendulum
của Edgar Poe, trong kịch Opera của Don Alhambra, trong
những chuyện kinh dị của Gilber, Sullivan, Verdi và
cả trong thơ của Tennyson..." The (Inquisition is
synonymous with terror, noctural arrest and torture...)
Qua 16 thế kỷ gieo rắc
khủng bố cho loài người, tội ác chồng
chất của Công Giáo La Mã đã cao ngất như núi.
Đã đến lúc cái giáo hội của
tội ác này phải đền tội và phải chết.
Mới đây, nữ tu sĩ Angelica là người
đứng đầu hệ thống truyền hình Công Gíao
Mỹ "Eternal World Television Network" có 55 triệu khán
giả tại 38 quốc gia có hệ thống tiếp
vận của nó, đã tuyên bố trong một talk-show
rằng: Thế giới Công Giáo không thể tránh khỏi
đại thảm họa. Ngày tận thế của nó
chỉ trong tầm tay. (Its end times are at
hand). Mọi người Công Giáo đều tin rằng
thế giới này sẽ có ngày tận thế, nhưng
họ đã lầm. Thế giới này vẫn muôn
đời tồn tại, chỉ có cái giáo hội khốn
nạn của họ phải đến ngày tận số
mà thôi!
Hòn đá tảng Phêrô đang
biến thành bùn và cả tòa lâu đài Vatican đang lún
xuống bùn dưới sức nặng của tội ác cao
như núi đang đè lên đầu nó. Cái
chết vô cùng nhục nhã của nó đang đến và
phải đến trong những năm của thế
kỷ 21. Cả thế giới còn
lại sẽ thở phào nhẹ nhõm vì đã vứt đi
được cái ung nhọt cương mủ trên cơ
thể nhân loại ròng rã trong hơn 16 thế kỷ qua
(tính từ ngày Constantine đẻ ra nó vào đầu thế kỷ
thứ tư). Cả loài người thiện lành
sẽ từ đây ung dung bước đi chững
chạc vào một trật tự thế giới mới
trong ánh bình mình đẹp vô cùng của thiên niên kỷ
thứ ba. Khi "con bạch tuộc của Chúa
Trời" không còn nữa, tất cả loài người
sẽ dành lại vườn địa đàng của mình
là trái đất này để kiến tạo cuộc
sống thanh bình hạnh phúc cho các thế hệ con cháu
đến muôn đời. Hallelujah! Hallelujah!
Thượng đế [Chữ
Thượng Đế nói đây không cùng nghĩa với
tín đồ Kitô giáo gọi.]
chứ không phải Jehovah
(con bò El) đã đang và mãi mãi tiếp tục kiến
tạo vũ trụ hoàn toàn trong thinh lặng. Ngài đã mặc nhiên trao trái đất này cho toàn
thể loài người chúng ta với lòng yêu thương vô
hạn của Ngài. Thượng đế yêu
thương loài người nên chẳng bao giờ Ngài
muốn làm khổ con người. Chỉ có quỉ mới
muốn làm khổ con người nên đã xúi bậy con cái
của nó là Công Giáo gieo rắc đủ thứ tai họa cho loài người mà thôi. Chẳng
có tôn giáo nào do Thượng Đế tạo ra mà tất
cả đều là sản phẩm của con người.
Tôn giáo chỉ có thể là chính đáng khi nó thật sự
phục vụ con người. Mọi thứ tôn giáo nhân
danh Thượng Đế chà đạp con người
đều là tà đạo của sa
tăng rồi phải bị tiêu diệt. Thánh linh của
Thượng Đế cũng như Phật tính
đều có sẵn trong tâm linh của mọi người
chúng ta, đúng như lời Phật dạy: "Phật
tại tâm". Các thứ Phật hay Chúa trong các chùa và nhà
thờ đều là đồ giả [Vì thế nên một
hôm trời lạnh, một vị thiền sư bảo
đệ tử đem cái tượng Phật bằng
gổ chẻ làm củi.] do các tu sĩ của các tôn giáo
tạo ra để lừa bịp con người. Đỉnh cao của mọi thứ đạo
đức thật sự là lòng yêu thương Sự
Thật. Tình yêu thương dàn trải giữa mọi
người với nhau là nguồn hạnh phúc vĩnh
cửu trên cõi đời này. Đó là
thiên đàng duy nhất có thật chứ chẳng có một
thiên đàng nào khác. Loài người làm khổ nhau do
lòng tham lam ích kỷ là địa ngục duy nhất có
thật chứ cũng chẳng có một địa
ngục nào khác ở ngoài thế gian này.
Các tổ chức giáo hội là
nguyên nhân gây ra thảm họa cho loài người chúng ta.
Giáo hội tạo ra những ốc đảo tôn giáo chia
rẽ con người. Các ốc đảo tôn giáo đó
tranh chấp nhau để dành tín đồ nhằm tụ
bè kết đảng không ngoài mục đích củng
cố quyền lực cho các tu sĩ lưu manh của
nhiều tôn giáo chứ cũng chẳng riêng gì của Công
Giáo La Mã.
Cả ba tôn giáo Phật
Khổng Lão đều đã du nhập vào nước ta
gần 2000 năm qua mà dân tộc Việt nam không hề coi
ba tôn giáo đó là ngoại lai. Cả ba
tôn giáo, với các chủ trương đối nghịch
nhau, đã hòa làm một trong lòng dân tộc mà ta
thường gọi là "TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN".
Sở dĩ cả ba tôn giáo Phật Khổng
Lão đã hòa đồng một cách tốt đẹp
như vậy là nhờ ở yếu tố của ba tôn
giáo đều không có giáo hội. Sau
1.11.1963, các tăng sĩ Phật Giáo bắt chước
Công Giáo thành lập "Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam
Thống Nhất". Như Vậy, Phật Giáo hình
như đã chủ trương đi vào con
đường thế tục như Vatican
từ đây? [Ban biên tập xin phép tác giả bỏ
một trang vì thấy thiếu sử liệu.]
Giáo Hội Công Giáo Việt Nam luôn luôn phục
vụ quyền lợi ngoại bang và đàn áp tôn giáo là
một động lực thúc đẩy nhiều
người Phật Giáo tham gia Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam Thống Nhất để chống lại Công
Giáo. Đối với nhiều người Phật Tử
thì Công Giáo nguy hiểm hơn gấp trăm lần các
tổ chức Cộng Sản, Công Giáo là yếu tố
khiến cho chiến tranh Việt Nam kéo dài và càng ngày càng thêm
thảm khốc.
Giáo Hoàng Gioan XXIII ủng hộ
việc lật đổ và tiêu diệt chế độ
Ngô Đình Diệm vì cho rằng chế độ Diệm
đã đe dọa phá hoại chính sách hiệp thông của Vatican.
Giáo Hoàng Gioan XXII đã chính thức gửi văn thư mắng nhiết Ngô Đình Diệm
năm 63 về tội đàn áp Phật Giáo. Báo chí Hoa
Kỳ xác nhận: "Giáo Hoàng Gioan XXIII bí mật hợp
tác với Cộng Sản để chuẩn bị cho
một nước Việt Nam
thống nhất dưới chế độ Mác-xít
của Hồ Chí Minh". (Pope John XXIII secretly cooperated with
the Communists in preparing a future united Marxist Việt Nam
under Ho Chi Minh).
Ngày 30.1.1967, báo chí thế giới loan tin
về cuộc tiếp tân của Giáo Hoàng Paul VI tại
Vatican long trọng chào đón thủ tướng Liên Xô
Podgorny để củng cố sự hợp tác toàn
diện với Liên Xô và các nước Chư hầu
của Cộng Sản tại Đông Âu (The new policy of Paul VI
of full cooperation with Soviet Russia and the Communist satellites of Eastern
Europe). Báo chí thế giới cũng xác
nhận Paul VI là cha đẻ ra liên minh Vatican-Moscow.
Liên minh này đã phá tan chiến lược chống
cộng của Hoa Kỳ ở cả hai lục địa
Âu châu và Á Châu. Liên minh Công Giáo với Cộng
Sản đã trở nên một yếu tố quan trọng
cho cuộc thất trận của Hoa Kỳ tại
Việt Nam. (Paul VI fathered the Vatican-Moscow Alliance which
undermined the Anti-Russian strategy of the US
in Europe and Asia. This alliance
became an important factor in the final defeat of the US
is Viet Nam).
Paul VI dư biết Vũ Ngọc Nhạ là
gián điệp Cộng Sản qua hai đời tổng
thống Công Giáo đã góp phần quan trọng trong việc
làm sụp đổ VNCH ngày 30.4.1975 nhưng y vẫn ban
thưởng cho tên gián điệp Cộng Sản này huy
chương cao quí của Tòa Thánh là "Huy Chương Hòa
Bình" có in hình của giáo hoàng . Vì thế, Việt Nam Cộng Hòa rất cay
đắng không bao giờ quên mối hận này đối
với hai giáo hoàng Gioan XXIII và Paul VI.
Giáo Hoàng Jean Paul II hiện nay đang lên
tiếng kêu gọi nhân dân toàn thế giới tha tội cho
các tội các của Công Giáo La Mã trong 16 thế kỷ qua
nhưng chưa đả động gì tới các tội
ác của Công Giáo đối với dân Việt Nam.
Trong chiến tranh, các cha cố
đã bòn rút viện trợ Mỹ che chở cho kẻ buôn
lậu, đào binh, trốn quân dịch. Nhiều giáo
xứ Công Giáo là những khu an toàn lý
tưởng của Việt Cộng và các tội phạm
đủ loại.
Công Giáo Bùi Chu Phát Diệm do
Lê Hữu Từ, Phạm Ngọc Chi lãnh đạo chỉ
tôn thờ thực dân Pháp, trước cũng như sau
1954. Trước 1954, họ chống Cộng điên
cuồng, lợi dụng vũ khí của Pháp đi
cướp phá các làng Phật Giáo, chiếm chùa làm nhà
thờ, giết hại dân lành để cưỡng
bức người ngoại đạo phải
"trở lại đạo Công Giáo". Chúng chống
Cộng sản do lệnh của Giáo Hoàng Pius XII, một tên
đồ tể của Đức Quốc Xã tại
Rome.
Sau 1954, họ trở cờ hòa hợp
với Cộng Sản, các khu đông giáo dân như Hố
Nai, Gia Kiệm là các trung tâm khai thác gỗ bất hợp
pháp. Họ phá rừng lấy gỗ kiếm tiền lo làm
giàu và đóng thuế nuôi Việt Cộng. Hoàng Quỳnh, Lê
Hữu Từ liên kết với bọn Mafia Bảy
Viễn chống VNCH để làm lợi cho thực dân Pháp
và Vatican của John XXIII và Paul VI. Ngày 12.11.1974, tập
đoàn Hoàng Quỳnh Vũ Ngọc Nhạ và các nghị
sĩ Công Giáo trong liên minh Nguyễn Gia Hiến đã
đến xã trung lập Củ Chi gặp gở các
đại diện của MTGPMN và Cộng Sản Bắc
Việt để lập chính phủ ba thành phần thân
Cộng Sản (Sách Ông Cố Vấn tập 3, trang 32-33).
Tất cả các Việt gian trong thành
phần thứ ba gồm các cường hào ác bá của
Bảo Hoàng trong chính quyền và quân lực VNCH, cũng
như các tu sĩ làm chính trị đã là các thủ phạm
chính yếu dẫn đến sự sụp đổ
của VNCH ngày 30.4.75.
Tất cả chúng đều
bỏ chạy sau 30.4.75 và hiện đang chiếm lãnh các
tổ chức cộng đồng người Việt
tại hải ngoại. Họ liên tục chống phá
tại hải ngoại dưới các hình thức chống
Cọng giả vờ như đòi Nhân quyền Dân chủ
cho Việt Nam... chúng đang lớn tiếng hô hào Tự do
Tôn Giáo, thực chất là để biến tôn giáo thành
nơi trú ẩn an toàn cho bọn Việt gian đủ
loại ngõ hầu sau này chúng sẽ xuất phát từ các
giáo hội trở ra chống phá chính quyền mới
của Việt Nam.
Một số ít tu sĩ
Phật Giáo cũng đi vào con đường hủ hóa
với lối sống xa hoa và hưởng thụ chẳng
khác gì các tu sĩ Công Giáo.
Với tổ chức giáo hội, Phật
Giáo Việt nam có lẽ đang đi vào vết bánh xe đỗ của Công Giáo La Mã.
Tự do tín ngưỡng (Freedom of beliefs) là
một hình thức của tự do tư tưởng không
có nghĩa là tự do thành lập giáo hội. Mọi
người đều có thể có tín ngưỡng
(niềm tin) của riêng mình nhưng không nhất thiết
phải có giáo hội. Tín ngưỡng là niềm tin
trong lòng, còn giáo hội là một tổ chức có hệ
thống tu sĩ chỉ huy và với những đoàn
thể được đoàn ngũ hóa
để theo đuổi những mục tiêu nặng
về thế tục hơn là tâm linh tôn giáo. Giáo
hội là định chế chính trị lũng
đoạn quốc gia và chia rẽ dân tộc. Muốn bảo toàn sự thống nhất
quốc gia và hạnh phúc dân tộc, việc cần
thiết là phải xóa bỏ mọi tổ chức giáo
hội, không phân biệt là của tôn giáo nào.
Sở dĩ Công Giáo La Mã đã biến thành
một tổ chức tội ác lớn nhất lịch
sử loài người chính vì nó đã tiêu diệt các chi phái
Kitô để thành lập một giáo hội duy nhất do
đế quốc lãnh đạo. Trước thế
kỷ thứ 4, Kitô Giáo đã có nhiều chi phái chủ
trương không thành lập giáo hội, không xây nhà thờ
mà chỉ có phòng hội, không thờ ảnh tượng và
không có giáo lý cứng nhắc.
Giáo phái Macionism gọi Jehovah
của đạo Do Thái là quỉ. Họ tin rằng
Thiên Chúa thật phải là Thiên Chúa của Tình Thương
(Real God: God of Love).
Giáo phái Gnosticism thịnh hành
tại Ai Cập và Tiểu Á, phân biệt Tinh Thần là
Thiện, Vật Chất là Ác. Thiên Chúa là
Tinh Thần cao thượng còn Vật Chất (matter) là Satan,
biểu tượng của lòng tham vật dục thấp
hèn. Họ cho rằng con rắn cám dỗ Adong Evà không
phải là Satan mà là vị thần của sự khôn ngoan và
tinh thần cao thượng. Con rắn đó thật tâm
muốn giúp tổ tiên loài người ăn
trái cây hiểu biết (The Tree of Knowledge) để trở
nên khôn ngoan sáng suốt ngõ hầu thoát khỏi sự
thống trị độc đoán của Jehovah. Con rắn
không phải là quỉ mà là một đại ân
nhân của loài người. Chỉ vì lòng sợ hãi hèn
yếu mà Adong Evà đã không dám ăn trái cây hiểu biết
nên đã không thoát ra được kiếp sống đau
khổ triền miên do sự áp chế của ác thần
Jehovah. Jesus là thần Logos, hiện thân của
sự khôn ngoan, dạy loài người thoát khỏi
trầm luân của thế giới vật chất. Jehovah không khôn ngoan bằng Logos. Danh từ Hy Lạp Gnostic có nghĩa là sự
hiểu biết (knowledge), muốn ám chỉ Jesus là sự
hiểu biết đích thực.
Giáo phái thứ ba là giáo phái thịnh hành
tại Pháp do Irenaeus, giám mục tại Lyon,
chủ trương. Năm 185, Irenaeus viết
sách Against the Heretics" để chống lại hai giáo
phái Macionism và Gnostic. Iranaeus chủ
trương công nhận Jehovah của đạo Do Thái là
Chúa Cha. Jesus là con duy nhất của Jehovah. Ý niệm về Đức Chúa Thánh Thần
rất mơ hồ. Irenaeus xác quyết
Chúa Jesus thực hiện cuộc cứu thế bằng cái
chết đau khổ và 3 ngày sau sống lại hiển
vinh. Cuốn sách Against the Heretics đã dọn
đường cho sự hình thành bản tóm lược
giáo lý gọi là "Đức Tin của các tông
đồ" The Creed of Apostles) được Công Đồng
Nicaea do Constantine
triệu tập thông qua. Đó là sự
xuất hiện của bài kinh đầu tiên của
Đạo Công Giáo La Mã gọi là Kinh Tin Kính. Công Giáo La Mã là tôn giáo được cấu
tạo bởi quyền lực của Constantine,
dựa trên giáo lý của giám mục Pháp Irenaeus và
được hoàn chỉnh bởi Augustine (như có trình
bày ở đoạn trước).
Tất cả mọi giáo phái
Kitô khác đi ngược lại với giáo lý của
Irenaeus và Augustine đều bị Constantine và
đế quốc La Mã tiêu diệt bằng bạo lực
khủng bố. Có thể nói Công Giáo La Mã
là tôn giáo của Chủ nghĩa khủng bố quốc
tế. Cuộc chiến đấu của nhân
loại ngày nay là cuộc chiến đấu của
những người thiện lành chống lại các
thế lực tội ác đã gieo rắc đau khổ cho
con người từ xưa đến nay. Thế giới
chỉ có thể xây dựng được một trật
tự mới khi nào các thế lực tội ác, dẫn
đầu là Công Giáo La Mã, phải bị tiêu tan hoàn toàn và
triệt để. Lương tâm và
lương tri của nhân loại nhất quyết không
thể cho phép nó tồn tại lâu hơn để kéo dài
thêm nữa những chuổi ngày bi thảm của nhân
loại.
Mọi người Việt Nam chúng ta
phải góp công sức cùng toàn thể những người
thiện lành trên thế giới mau chóng đẩy con
quỉ Công Giáo La Mã xuống đáy địa ngục
để chấm dứt hoàn toàn cái lịch sử tội
ác gần 2000 năm của nó. Cần từ bỏ ác
thần Jehovah và đám con cái của ác quỉ để dành
lại vườn địa đàng của chúng ta là trái
đất này. Chỉ có ác quỉ chứ không phải Thiên
Chúa mới xua đuổi con người ra khỏi
vườn địa đàng mà thôi.
Vatican trước đây
đã đạt tới đỉnh cao danh vọng do
cấu kết chặt chẽ với các chủ nghĩa
quân chủ phong kiến, chủ nghĩa thực dân đế
quốc, chủ nghĩa phát-xít và chủ nghĩa
Đức Quốc Xã. Nó cấu kết với các bố già
Mafia Ý và bọn khủng bố quốc tế... Tất cả các thế lực tội ác
đồng lõa với Vatican đã gần như đang bị dồn vào
thế cô lập. Ngày tận thế
của nó không bao xa. Xưa kia Jesus
thường hăm dọa mọi người là ngày
tận thế đã đến gần trong tầm tay
(Doomsday is at hand). Nhưng 2000 năm qua vẫn
không có tận thế và sẽ chẳng bao giờ có. Cái mà Jesus không biết tới là cái giáo hội Công
Giáo La Mã đang bên bờ "tận thế". Cái câu nói của Jesus "Doomsday is at hand"
chỉ đúng cho tình trạng hiện nay của Công Giáo La
Mã mà thôi. Lịch sử tội ác của
Công Giáo La Mã chống loài người là một hồ sơ
dầy cộm đã đến lúc phải kết thúc.
Các giáo hoàng tự xưng là đại diện của Chúa
Cứu Thế (Vicars of Christ) chính là một danh hiệu làm
nhục Chúa Cứu Thế hơn bất cứ cái gì khác.
- Đại diện Chúa Kitô như Giáo Hoàng
Innocent (but not innocent) chỉ trong một buổi chiều
giết 12.000 giáo dân tại Rome vì những người này
đã dám chống lại y. Giáo hoàng này vượt xa hơn
bất cứ một bạo chúa nào trên thế gian về
tội giết người. Y là kẻ đã phát minh ra tòa
án dị giáo (the Inquisition) gieo kinh hoàng tại Âu Châu liên
tiếp trong 3 thế kỷ (13-16) và tiếp tục gây
tội ác cho đến giữa thế kỷ 19 mới
chấm dứt. Nỗi ám ảnh của dân Âu Mỹ về
tòa án dị giáo được phản
ảnh trong sử sách và trong cả những chuyện ghê
rợn của Allan Edgar Poe. Sullivan, Verdi, Tennyson. Muốn tìm
hiểu về tội ác của Giáo Hoàng Innocent này xin hãy
đọc The Inquisition Hammer of Heresy, 253 trang của Edward
Burman Dorset Press NY. 1992. Tội ác của Innocent kéo dài hơn
6 thế kỷ,10 triệu sinh mạng hầu hết
bị thiêu sống trên dàn hỏa. Tòa án
dị giáo là hiện tượng có tầm quan trọng
căn bản trong lịch sử Âu Châu. Đó
là một định chế xuất hiện từ thế
kỷ 13 nhưng ảnh hưởng của nó còn kéo dài
đến ngày nay. (Phenonmenon of fundamental
importance in the history of Western Europe. As an institution, it came into being in the thirteenth
century. Its effect are still felt today).
Tuy nhiên, đề cập
đến tên vô địch dâm tặc phải kể
đến đấng đại diện Chúa Kitô là Rodrigo
Borgia tức "Đức Thánh Cha" Alexander VI (The Bad
Popes, by E.R. Chamberlin. Dorset Press NY. 1969 pages 159-205).
- Giáo Hoàng Alexander VI cai
trị Hội Thánh 11 năm (1492-1503). Lên ngôi giáo hoàng không do
ai bầu mà do cậu ruột là Giáo Hoàng Calistus III truyền
ngôi cho. Trước khi lên ngôi giáo hoàng thì y
đã có vợ và 4 con đã lớn và thêm một đứa
con hoang ngoài hôn thú. Việc đầu tiên là giáo hoàng
phong chức cho đứa con trai tên Ceasare 18 tuổi và
đứa con hoang chức vụ hồng y giáo chủ. Năm 1497, Alexander VI định đưa con
thứ tên Juan lên ngôi giáo hoàng thì bỗng nhiên Juan bị
giết bằng nhiều nhát dao và bị ném xác xuống sông
Tiber.
Người ta vớt xác Juan đem về cho
giáo hoàng coi. Giáo hoàng xúc động quá
đến phát điên. Y cho rằng giới quí tộc
ở Rome đã hãm hại
con trai yêu quí của y. Do đó, y bèn khởi động
một cuộc khủng bố đẫm máu chống
giới quí tộc La Mã.
Tuy là một bạo chúa,
nhưng Alexander lại là một kẻ yêu chuộng
nghệ thuật. Y đã để
lại một kho tàng nghệ thuật là Đền Thánh
Phêrô với các bức họa và tượng điêu
khắc của hai vô địch kỳ tài là Michael Angelo và
Leonardo Vinci. Chỉ vì muốn tạo cảm hứng
cho Leonardo Vinci có thể mô tả sự đau khổ
một cách linh động, y có sáng kiến đem các
nạn nhân của tòa án dị giáo ra tra
tấn trước mặt nhà nghệ sĩ tài danh này.
Alexander VI có cô con gái rất xinh đẹp tên là Lucrezia.
Mặc dù Lucrezia đã được gã chồng nhưng
hai anh của nàng đều yêu nàng nên đã sát hại
chồng nàng. Lucrezia trở về sống
tại Tòa Thánh với cha ruột và hai anh mình. Lucrezia làm tình với cả cha và hai anh mình. Chỉ vì quá ghen, Ceasar đã giết em là Juan
chứ chẳng phải là ai khác trong giới quí tộc La
Mã. Mấy cha con của Giáo Hoàng Alexander VI thích ngồi
xem những người khác làm tình tập thể. Do đó,
Vatican thường xuyên diễn ra các
cuộc dạ tiệc hết sức sang trọng tốn
kém. Mỗi buổi dạ tiệc
thường được triệu tập 50 gái
điếm tuyển lựa tại Rome
để vũ thoát y ngay tại phòng hội của Tòa
Thánh. Các tu sĩ và nhân viên Tòa Thánh sau
đó làm tình tập thể tại chỗ. Giáo hoàng cho người đi hứng các tinh
dịch của đàn ông làm tình để phát
thưởng. Ai có khả năng làm tình nhiều
lần và xuất tinh nhiều lần đều
được giáo hoàng và con gái phát thưởng! Sau đó, Lucrezia sinh ra một đứa con trai,
không biết là con ai. Tuy nhiên, lúc đứa bé
được 6 tháng tuổi, Giáo Hoàng Alexander đã công khai
cho Lucrezia bế đứa nhỏ 6 tháng ngồi bên
cạnh y khi dự các buổi tiếp tân công cộng. Từ đó, dân La Mã truyền tụng nhau một
câu thơ "Giáo Hoàng Alexander là cha, là chồng, là cha
chồng và là cha của cô dâu xinh đẹp Lucrezia".
Alexander không chỉ loạn luân với con gái của y mà còn
loạn luân với hai cô em ruột. Một trong những
vợ bé của giáo hoàng nầy là Vanozza del
Cantanel có con gái riêng tên Rosa. Rosa
sinh cho giáo hoàng tới 5 đứa con! (Babylon Mystery Religion,
page 89). Với quá nhiều oán thù, ngày 18.8.1503,
Alexander VI bị đầu độc chết bằng
chất bột trắng (white poison powder).
Kể chuyện tội ác và các
tật dâm ô vô đạo của các Giáo Hoàng La Mã thì thật
vô tận. Xin quí độc giả
tự tìm kiếm lấy tài liệu để đọc
thêm. Ở đây tôi chỉ muốn bày tỏ một
nỗi đau buồn là đồng bào Công Giáo Việt Nam
hoàn toàn bị đám tu sĩ bưng bít nên họ cứ
tưởng giáo hoàng là các bậc thánh sống để
họ tôn thờ. Gia đình Công Giáo nào cũng
thường có hình giáo hoàng được gia chủ
đóng khung kiếng và treo ở nơi trang trọng
gần như ảnh thờ. Các sách kinh
nguyện Việt Nam có
rất nhiều bài kinh cầu cho giáo hoàng. Giáo hoàng được giáo dân tôn kính và cầu
nguyện cho nhiều lần gấp bội số lần
cầu nguyện cho những người thân nhất
của mình. Tại Rome, thỉnh thoảng cũng có
các đám rước giáo hoàng ngồi trên kiệu do
nhiều người khiêng. Năm 1951, chính kẻ viết
bài này cũng đi dự một đám rước
kiệu tấm hình lớn của đồ tể Pio XII
tại Bùi Chu! Thật là một điều mỉa mai
đau xót mà tôi khó có thể diễn tả bằng
lời...
Cả thế giới ngày nay
người ta đã biết nhiều về bộ mặt
xấu xa tội lỗi đáng ghê tởm cùng cực
của cái gọi là Tòa Thánh và những kẻ
được tôn xưng làm "Đại Diện
của Chúa Kitô" (Vicars of Christ). Nhưng
tôi vô cùng ngao ngán và phải nói rằng tuyệt đại
số đồng bào đồng đạo của tôi không
biết tí gì về các điều đó. Mặc
dầu tôi đã kể chuyện một số giáo hoàng
tội lỗi tiêu biểu ở những đoạn trên,
nhưng tôi tin rằng những chuyện đó chưa
đủ để làm thay đổi cái não trạng
đen tối của những người đồng
đạo. Đây là lý do khiến tôi phải cố
gắng viết thêm nữa về Vatican và
giáo hoàng. Những điều tôi kể sau đây cũng
chỉ là một số rất ít trong cả một
rừng tài liệu hiện có trong các thư
viện. Các tài liệu hết sức phong phú lên án Vatican và
giáo hội Công Giáo sẽ không có tác dụng gì nếu không có
người đem nó ra trình bày bằng Việt Ngữ
để giáo dân Việt Nam có phương tiện tìm
hiểu. Chính sự thiếu hiểu biết
của giáo dân đã làm cho các tu sĩ lộng hành và
khuyến khích họ tìm mọi cách ngăn cản giáo dân tìm
hiểu sự thật về giáo hội. Chính sách ngu dân luôn luôn là một phương tiện
hữu hiệu nhất của kẻ thống trị
xử dụng để bảo vệ thế quyền
cũng như thần quyền của họ. Giáo dân có mê tín mới đem tiền đến nhà
thờ xin lễ hoặc dâng cúng, các cha cố mới có
nhiều tiền để xây nhà thờ to đẹp
hầu phô trương uy thế của mình. Giáo dân
càng ngu dốt bao nhiêu, càng khúm núm ngoan
ngoãn cha cố bấy nhiêu. Giáo dân khúm núm
quị lụy với cha cố bao nhiêu, càng làm cho họ lên
mặt bấy nhiêu. Nếu để cho cha cố
tiếp tục lộng hành lũng đoạn cả
khối giáo dân, chúng có thể sẽ tạo thêm nhiều Ngô
Đình Diệm cai trị đất
nước. Với cương vị là tổng thống
đứng đầu một quốc gia, nhưng Ngô
Đình Diệm vẫn lấy tư cách giáo dân trung thành
của Vatican để cúi đầu khom lưng hôn
nhẫn, hôn tay các hồng y đại diện Tòa Thánh. Cử chỉ đó của Ngô Đình Diệm
đã nói lên tinh thần nô lệ của Công Giáo Việt Nam và
đã làm nhục quốc thể không ít.
Sự ngu đốt là
nguyên nhân đầu cùng của mọi hành vi sai trái. Tất
cả những hành vi sai trái nói trên
của tập thể giáo dân đều xuất phát từ
sự tối tăm không biết gì về thánh kinh, giáo
hội và tu sĩ: Thánh kinh là sản phẩm bịa đặt
tạo ra một giáo hội gian dối. Giáo
hội gian dối tạo ra một hệ thống tu sĩ
gian manh. Sự ngu dốt là nền
tảng của tất cả những thứ đó.
Hệ thống tu sĩ Công Giáo
thế giới là hệ thống tu sĩ thiếu
lương thiện, đứng đầu là giáo hoàng.
Chức vị giáo hoàng chẳng phải do Chúa trao cho mà
thường do cướp đoạt bằng đủ
mọi thủ đoạn: hối lộ, mua chuộc,
vận động chính trị và rất nhiều
trường hợp là do mưu sát lẫn nhau. Chỉ trong vòng 12 năm (891-903), có 10 giáo hoàng liên
tục giết lẫn nhau để đoạt ngôi giáo
hoàng. Chức vị giáo hoàng là mục
tiêu quyền lực mà kẻ lãnh đạo cao cấp trong
giáo hội luôn luôn nhắm tới để tranh
đoạt. Chẳng cần nói đâu xa,
đương kim giáo hoàng Jean Paul II lên ngôi giáo hoàng năm
1978 là do y đã can dự vào việc mưu sát giáo hoàng
tiền nhiệm là Jean Paul I bằng chất độc vào
đêm 5.9.1978. Việc sản xuất chất
độc giết người là nghề của Jean Paul
II. Trong thời đệ nhị thế chiến, Jean
Paul II lúc đó là thanh niên Ba Lan mang tên Karol Wojtila, giữ
chức vụ Saleman cho công ty Đức Farben Chemical chuyên
sản xuất độc khí thủy ngân (Cyanicgas) cung
cấp cho Đức Quốc Xã dùng chế tạo hơi
ngạt giết 6 triệu Do Thái trong các trại tập
trung. Việc xử dụng chất
độc được gọi là "Lentulo", một
thứ bột trắng chết người (the lethal white
powder), là một truyền thống lâu đời của
triều đình Vatican. Có lẽ khởi đầu
từ thế kỷ II. Sử sách giáo hội La Mã ghi
nhận con gái giáo hoàng Alexander VI là Lucrezia là một chuyên viên
xử dụng chất độc giết hại nhiều
người. Chính giáo hoàng Alexander VI cũng
chết vì bị đầu độc năm 1503. Sách
"The Pope Encyclopedia" liệt kê danh sách nhiều giáo
hoàng bị mưu sát bằng chất độc bột
trắng: Giáo hoàng duy nhất tại Vatican
có gốc Đức quốc là Utrech bị mưu sát
bằng thuốc độc năm 1073. Từ đó,
người Ý dành độc quyền làm giáo hoàng cho
đến ngày Jean Paul II lên ngôi năm 1978 không phải là người
gốc Ý. Các giáo hoàng sau đây đều đã bị
người kế nhiệm đầu độc
để cướp ngôi: Pio VIII (1830), Leo XIII (1903). Pio X
(1914) và Pio XI (1939).
Sách Babylone Mystery Religion liệt
kê các vụ giáo hoàng kế nhiệm trả thù giáo hoàng
tiền nhiệm. Điển hình là
vụ Giáo Hoàng Stephen VI (896-897) trả thù giáo hoàng tiền
nhiệm là Formosus (891-896). Sau khi giáo hoàng
Formosus chết được 8 tháng, giáo hoàng Stephen VI
vẫn ra lệnh quật mồ lấy bộ xương
của giáo hoàng này đặt lên ghế giáo hoàng. Stephen VI đứng phía trước bộ
xương tra hỏi và chửi rủa. Stephen VI
kết án bộ xương của
Formosus rồi truyền vứt bộ xương ra
đường phố, cuối cùng được vứt
xuống sông Tiber. Stephen VI
kết tội Formosus rối đạo và sai lầm.
Giáo Hoàng Honorius I, sau khi chết
cũng bị Tòa Thánh họp hội nghị đem hồ
sơ ra xét xử năm 680. Giáo hoàng Honorius bị
kết án là sai lầm và rối
đạo! Vậy mà giáo dân Việt Nam vẫn đọc
kinh "Đức Chúa Trời đã đặt Đức
Giáo Hoàng lên quyền rất trọng, là cai trị các giáo
hữu đời này, cho nên khi Đức Giáo Hoàng truyền
sự nào chung cho các giáo hữu, cùng phán dạy phải tin
cùng điều nọ chẳng nên tin thì Đức Chúa
Trời hằng soi sáng cùng gìn giữ Đức Giáo Hoàng cho
nên chẳng có lẽ nào sai lầm được." (Toàn
Niên Kinh Nguyện Bùi Chu, trang 326).
CÁCH LÀM TIỀN CỦA VATICAN
Tiếp sau quyền lực là
Tiền. Tiền là mối quan tâm hàng
đầu của Vatican vì dành quyền là để chiếm độc
quyền làm tiền. Các bộ óc siêu đẳng
về tài chánh được xử dụng tìm mọi cách
để làm giàu: ban các chức thánh, bán ơn đại xá
Tòa Thánh, ơn tha tội (indulgence) cho người chết
trong lễ cầu hồn, tổ chức hành hương,
tổ chức năm thánh (jubilee) bán thánh tích v.v...
Trong năm thánh 1300 (the jubilee
year of 1300) tiền bán ơn tha tội cho người
chết gồm cả tiền mặt và vàng bạc nữ
trang nhiều đến nỗi Tòa Thánh phải cho các tu
sĩ dùng cào để cào thành đống tại
Đền Thánh Phêrô. Thế kỷ 13 được
coi là thế kỷ sáng chói của Tòa Thánh về
phương diện tài chánh. Tòa Thánh sản
xuất nhiều thánh tích giả để đem bán
đấu giá. Thậm chí có cả chiếc răng
sữa và miếng da qui đầu của Chúa Jesus! Có cả tã lót và bình sữa Đức Mẹ dùng
nuôi Chúa lúc nhỏ. Tổng số đinh và gỗ thu lượm tại Jerusalem
được gán cho là gỗ của thập giá và đinh
đóng vào tay chân Chúa nhiều đến nỗi có thể
dùng đóng chiến hạm! Chúa chỉ bị đâm
cạnh sườn bằng một cây giáo, vậy mà Tòa
Thánh chính thức bán đấu giá tới 3 cái! Các sử gia đã phải gọi Giáo Hội Công
Giáo là giáo hội đói tiền (A money-hungry church). Giáo
hội đã biến Núi Sọ của Chúa thành NÚI VÀNG: Church
turn Golgotha (mountain
of Skulls) into Golconda
(mountain of gold). Nguyên nhân thúc đẩy các
thập tự quân đi đánh các nước Hồi Giáo
là lòng ham muốn chiếm đoạt tài sản của
họ. Sử gia Lloyld Graham viết trong The Deceptions and
Myths of the Bible, trang 472: "Núi vàng biến thành chiến
trường của thập tự quân. Động cơ
chính yếu là lòng thèm muốn của dân Âu Châu đối
với sự giàu có huy hoàng của người Ả
Rập" (Golcond was turned into battleground of the Crusades. The real
motivation was hungry Europe’s envy of the wealth and
splendor of Araby). Sử gia Lloyld kết luận: "Sử
gia sau tôi sẽ viết một cuốn sử khác tựa
đề là: Sự suy đồi và sụp đổ
của giáo hội Công Giáo". (Another historian will write another
book and he will call it: The Decline and Fall of the
Roman Church).
Từ ngày
Constantine
lập ra đạo Công Giáo, giáo hội đã mau chóng
trở thành giàu có ngoài sức tưởng tượng.
Thời Trung cổ, giáo hội là sở
hữu chủ các thành phố tại Âu châu. Tất cả các quốc gia Công Giáo đều
buộc dân chúng phải nộp thuế cho Tòa Thánh.
Năm 1170, Giáo Hoàng Alexander II ra đạo luật buộc
mọi khế ước, di chúc phải được tu
sĩ thị thực và thu lệ phí
mới có giá trị.
Việc bán ơn đại xá (tha tội cho
linh hồn người chết) là một nguồn thu nhập khổng lồ của Vatican.
Dân Ái Nhĩ Lan có câu tục ngữ: "Tiền nhiều
lễ lớn, tiền ít lễ nhỏ, không tiền không
lễ" (High money high mass, low money low mass, no money no mass). Đến thế kỷ 19, dư luận Âu Châu
cho rằng có rất nhiều linh hồn đã bị lãng
quên (forgotten souls in Purgatory) cần phải được
Tòa Thánh cầu nguyện tập thể cho họ. Do
đó, Tòa Thánh lập ra Lễ Các Thánh vào ngày 2 tháng 11
hằng năm để cầu cho các vong hồn không có
thân nhân nộp tiền xin lễ ở các nhà thờ! Lễ Các Thánh bắt đầu có từ 1856.
Để các đồng đạo Việt
Nam của tôi có một cái nhìn khái quát về guồng máy
đầu não điều khiển giáo hội, về các
biến cố lịch sử cận đại của
thế giới có liên hệ đến Tòa Thánh và nhất là
các giáo hoàng có liên hệ đến chiến tranh Việt Nam
như Pio XII, Gioan XXIII, Paul VI, Jean Paul II, tôi xin tóm
lược tác phẩm Vicars of Christ – The Dark Side of The Papacy
[Tác phẩm này có dành một chương viết về các
giáo hoàng dâm loạn đăng trong cuốn "Tại sao
không theo đạo Chúa" tập 1.]
của cựu Linh Mục
dòng Tên Peter de Rosa do Crown Book Editions xuất bản năm
1988. Đây là một tác phẩm best-seller (bán
chạy nhất) trong nhiều năm của một tác giả
được báo chí gọi là siêu điệp viên quốc
tế về thâm cung bí sử của Vatican.
TÁC PHẨM KIỆT XUẤT "KẺ
ĐẠI DIỆN CHÚA"
Mở đầu cho tác phẩm
kiệt xuất này, tác giả viết bài The Great Cover-up
để thay lời tựa. Tôi đã mô
phỏng ý của tác giả để viết bài Cái
khố của Jesus trên thập giá đăng trên Đông
Dương Thời Báo, xuất bản tại
Houston Texas ngày
30.7.1998. Tác giả dùng chứng cớ
lịch sử chứng minh cái khố của Jesus trên
thập giá là hoàn toàn giả mạo vì mọi kẻ bị
đóng đinh đều bị lột trần truồng.
Cái khố đó nhỏ xíu nhưng là biểu
tượng cho sự bịp bợm dối trá của
đạo Kitô. Vatican là tổng hành dinh của tội ác chống nhân
loại và đồng thời cũng là cái xưởng
chế tạo đồ giả lớn nhất thế
giới. Sau đây là những nét chính yếu của
nội dung tác phẩm:
Tác phẩm Vicars of Christ chú
trọng tới việc vạch trần tội ác diệt
chủng Do Thái của Giáo Hội Công Giáo trong suốt 16
thế kỷ qua. Nguyên nhân dẫn đến tội
ác diệt chủng này và hành vi tội ác của các kẻ
tự xưng là "Đại Diện của Chúa Kitô"
đã diễn ra như thế nào.
Chúng ta đã biết, vào đầu thế
kỷ 4, đa số dân chúng trong Đế Quốc La Mã
đều theo đạo Kitô với
nhiều giáo phái khác nhau. Tuy các giáo phái có khác
nhau về giáo lý nhưng đều đồng nhất
ở điểm cùng tôn thờ Jesus là Chúa Cứu Thế
(Messiah/Christ Savior, Redeemer). Constantine
có sáng kiến thống nhất các giáo phái này thành một
đạo Kitô thống nhất được gọi là
"Công Giáo" để làm lợi khí xâm lược toàn
cầu, vì Công Giáo có nghĩa là "toàn cầu". Sau khi
thống nhất Kitô Giáo hoàn toàn vài năm 340, Constantine ra
lệnh hủy diệt hết mọi dấu vết
của các giáo phái Kitô khác, bao gồm các cuốn kinh thánh Tân
Ước không phù hợp với đạo Công Giáo, xóa
bỏ mọi dấu vết thật của Chúa Jesus
tại Jerusalem, thiêu hủy mọi sách triết học khoa
học của Hy Lạp. Muốn thống nhất
đạo Kitô, đế quốc La Mã không thể làm
điều gì khác hơn là phải tôn Jesus lên làm Thiên Chúa
Toàn Năng. Nhưng vì không thể tôn thờ một
người do chính mình đã giết hại nên Đế
quốc La Mã tìm mọi cách đổ tội giết Jesus
cho Do Thái là nước thuộc địa đã dám
chống lại mẫu quốc. Một công
hai việc, một mặt vừa đạt mục tiêu
thống nhất đạo Kitô, mặt khác vừa trả
thù Do Thái một cách ghê gớm chưa từng thấy.
Đó là nguyên nhân đã đưa đến chủ
trương diệt chủng Do Thái của Đế
Quốc La Mã mà kẻ thừa kế là Vatican.
Về mặt giáo lý, La Mã bịa chuyện
Pilate rửa tay để phủi trách
nhiệm kết tội tử hình Jesus. Các kinh
sách cầu nguyện luôn luôn nói là dân Do Thái đòi phải
giết Chúa. La Mã đã thành công trong việc biến
máu cứu chuộc của Chúa Jesus thành máu hận thù dân
tộc Do Thái đến muôn đời. Chúa
Jesus dạy mọi người phải thương yêu và
tha thứ cho nhau, nhưng La Mã dạy giáo dân không thể tha
thứ cho dân tộc Do Thái về tội đã giết Chúa.
Sự thật lịch sử là dân Do Thái dưới sự
thống trị của La Mã không có quyền xử tử
bất cứ ai. Xưa kia, lúc Do Thái còn
độc lập tự trị, luật pháp của họ
chỉ dự liệu phương cách xử tử tội
nhân bằng cách ném đá chứ không hề xử tử
tội nhân bằng thập tự giá bao giờ. Mọi
việc xét xử tội nhân dưới thời lệ
thuộc hoàn toàn do Đế Quốc La Mã quyết
định. Phương cách xử tử
tội nhân bằng thập tự giá là phương cách
đặc biệt của La Mã và Hy Lạp dùng để
khủng bố trấn áp nô lệ và dân thuộc
địa. Họ không áp dụng lối
xử tử nhục nhã và rất đau đớn này
đối với công dân của họ. La Mã đã
thành công nhồi sọ giáo dân phân biệt hai thứ máu Do
Thái. Máu cứu chuộc của Chúa là máu
của Abraham, David, Solomon và các thánh. Máu
của dân Do Thái là máu tội lỗi của Herod, Caipha, Judas
Escariot.
Tội của tổ tiên Do Thái là tội
trực tiếp giết Chúa, tội của dân tộc Do
Thái từ đó đến nay là tội phủ nhận chúa
Jesus là Thiên Chúa Toàn Năng, đấng tạo thành vạn
vật và tạo thành cả tổ tiên đã sinh ra mình!
Về mặt tuyên truyền, đế
quốc La Mã phao tin vu cáo người Do Thái hay bỏ
thuốc độc để giết hại người
Kitô Giáo và hay bắt cóc con nít cắt tiết để
uống máu. Do đó, từ giữa thế kỷ 4 trở
đi, bất cứ nơi nào có người Kitô Giáo là
ở đó có sự hận thù Do Thái cùng cực.
Hình ảnh 14 "đàng thánh giá" trong các
nhà thờ đều mô tả quân lính La Mã đánh
đập và giết Chúa, nhưng mọi giáo dân đều
không nghĩ đó là lính La Mã mà chỉ gọi là "quân dữ"
hoặc "quân Giu-dêu". Họ căm thù Do Thái và quên
khuấy một điều là cả Chúa, Đức
Mẹ, các thánh tổ tông, các thánh tông đồ tất
cả đều là Do Thái!
Suốt thế kỷ 12 và 13, tại khắp
Âu Châu, người Do Thái bị cấm không được
tiếp xúc với người Kitô Giáo. Họ
bị tước đoạt hết nhà cửa và tài
sản. Ban đêm, tất cả mọi người
Do Thái không phân biệt già trẻ, đàn ông, đàn bà, con
nít, đều bị lùa vào các khu tập trung có cổng khóa
chặt, tiếng Ý gọi là GHETTOS – Đây là một phát
minh độc đáo của giáo hội Công Giáo La Mã. Các
sử gia đã phải than rằng: Ghettos là một chế
độ apartheid tàn bạo chưa từng thấy.
Mỗi lần La Mã tổ
chức các cuộc thập tự chinh đến các
nước xa xôi, việc đầu tiên của thập
tự quân là đi lùng bắt những người Do Thái
cư trú tại địa phương đó đem đi
chém giết tập thể.
Tại các quốc gia có vua chúa Công Giáo cai trị, mọi người Do Thái
đều bị cấm xuất đầu lộ diện
vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Bất cứ người Do
Thái nào bị bắt gặp trên đường phố
đều bị xử tử tại chỗ!
Vào thế kỷ 16, giáo dân tôn sùng giáo hoàng và
tin rằng giáo hoàng không bao giờ sai lầm. Giáo
hoàng ra lệnh gì, giáo dân thi hành triệt để. Do
vậy, tai họa đến với
người Do Thái càng trầm trọng hơn.
Năm 1581, Giáo Hoàng Gregory XIII ban tông huấn:
"Tội ác của Do Thái trong việc chối Chúa và
đóng đinh Chúa Jesus chỉ càng ngày càng ăn sâu vào các
thế hệ kế tiếp, do đó Do Thái phải bị
nô lệ muôn đời". (The guilt of Jews in rejecting and
crucifying Jesus only grows deeper with successive generation, entailing
perpetual slavery). (page 191).
Cuối thế kỷ 18 tại Rome, 2030
người Do Thái bị buộc phải "trở
lại" đạo Công Giáo. Khi họ đi nhà thờ
nếu lỡ ngủ gật, có thể bị các
người cai quản nhà thờ
đập chết hay đánh trọng thương. Nhiều người Do Thái muốn tránh cho con cái
của họ sau này khỏi bị hành hạ, đã đem
con đến nhà thờ cho cha cố rửa tội.
Sau đó họ chẳng bao giờ được gặp
lại con của họ nữa. Nhà thờ đem chúng
đi biệt tích vì sợ sau này chúng lớn lên sẽ
trở lại đạo Do Thái!
Cuộc Cách Mạng Pháp 1789
đã mở đầu cho phong trào bài trừ mê tín tại
Âu Châu. Các nhà đại tư tưởng có khuynh
hướng nhân đạo và cấp tiến như Voltaire , J.J. Rousseau Montesquieu, Diderot và ở Anh
có Thomas Paine, đã cố gắng soi rọi ánh sáng
để xóa tan bóng tối đã bao phủ Âu Châu nhiều
thế kỷ. Nhưng ánh sáng đó chẳng bao giờ soi
tới Vatican!
Các giáo hoàng là các bạo Chúa vô địch
về tính thủ cựu. Tất cả các giáo hoàng
vẫn tiếp tục giữ nguyên thành kiến căm thù
Do Thái và vẫn tiếp tục duy trì chế độ
Ghettos tại Ý, trong khi hầu hết các nước Âu Châu
đã bãi bỏ chế độ này đối với
người Do Thái.
Sau khi thuốc chủng ngừa các bệnh
được Pasteur phát minh, mọi người trên
thế giới đều được quyền
hưởng lợi ích của sự chích ngừa, Giáo Hoàng
Leo XII lại ra lệnh cấm chích ngừa cho người
Do Thái. Sự hành hạ người Do Thái tại Ý càng
trở nên tàn bạo khiến cho vua Áo Franz Joseph và vua Pháp
Napoleon III phải gửi văn thư
cảnh cáo giáo hoàng: "Ngài đang trở nên thù
địch với công tâm của toàn thế giới"
(You are antagonizing the world opinion). Nhà quí tộc
Anh đích thân đến Vatican khuyên Giáo Hoàng Pius IX phải bớt cứng
rắn với Do Thái. Sau khi thấy các lãnh đạo
thế giới đã khuyên bảo Tòa Thánh phải thay
đổi chính sách đối với Do Thái mà không có
hiệu quả, vua Ý không thể kiên nhẫn được,
đã dùng hỏa lực quân sự chiếm Vatican ngày
2.10.1870. Vua Ý đã dùng thế quyền
tước bỏ thần quyền của giáo hoàng, hủy
bỏ các sắc luật đối xử bất công
với Do Thái của Tòa Thánh từ xưa đến nay.
Nhà vua ban hành đạo luật của hoàng gia Ý (Royal decree)
công bố người Do Thái được hưởng
toàn quyền tự do bình đẳng như các người
công dân Ý khác. Chính sách ngược đãi Do Thái
tại Ý trong 15 thế kỷ của Vatican bị hoàn toàn
chấm dứt. Thành lũy Ghettos cuối cùng ở Âu
Châu đã bị bỏ bằng sức mạnh quân sự
của thế quyền nước Ý!
Mọi người trên thế
giới tưởng rằng người Do Thái đã thoát
nạn diệt chủng, nhưng giáo hội Công Giáo vẫn
chưa chịu thua. Tội ác của
họ tiếp tục dưới hình thức khác.
Năm 1926, Giáo Hoàng Pius XI
(1922-1939) ra lệnh cho Đảng Công Giáo (The Catholic Party)
giải tán để nhập vào đảng của
Mussolini. Năm 1929, đảng của
Mussolini ký hiệp ước với Vatican tại Lateran
chia xẻ quyền hành tại Ý, tiêu diệt các phong trào
tiến bộ và tiếp tục chính sách chống Do Thái.
Trong khi đó, Hồng Y Pacelli là nhà ngoại
giao của Vatican tại Đức đã ra sức vận
động Đảng Công Giáo Đức và các lãnh tụ
chính trị Công Giáo Đức ủng hộ cho Hitler
để đưa y lên cầm quyền. Hồng Y Pacelli
về sau trở thành Giáo Hoàng Pius XII [Ông giáo hoàng này đã
vận động chính phủ Mỹ dội từ 1-6
quả bom nguyên tử xuống Bắc Việt năm 1954
để giải vây cho quân đội Pháp nhằm kèo dài
sự đô hộ của thực dân trên đất
nước Việt Nam.] khét tiếng chống Cộng và
ủng hộ Pháp.
Từ giữa thập niên 1930,
trước cửa nhà của những người Do Thái
thường bị những kẻ bí mật vẽ dấu
hiệu ngôi sao David (sao 6 cạnh) bằng sơn. Trên cây thánh giá ở nhà thờ, chữ JNRJ
được thay thế bằng chữ Đức, có
nghĩa là "Jews are not welcome here". Năm
1936, giáo hội Công Giáo Đức cử giám mục Osmabruch
đến gặp Hitler. Hai người
đàm đạo với nhau trong hơn một giờ.
Hitler đã xác quyết với Giám Mục
Osmabruch là có cùng một quan điểm với giáo hội
trong mục tiêu diệt Do Thái. Hitler nói: "Chẳng
phải là giáo hội đã coi bọn Do Thái là ký sinh trùng và
nhốt chúng vào Ghettos đó sao? Tôi chỉ đang làm
những gì giáo hội đã làm trong 15 thế kỷ qua, và
làm cho hữu hiệu hơn... với tư cách là một
người Công Giáo, tôi ngưỡng mộ và muốn
chấn hưng đức tin Kitô" (Had not the church looked
on the Jews as parasites and shut them in ghettos? I am only doing what the
church has done for fifteen hundred years more effectively... Being a catholic,
I admired and wanted to promote Christianity).
Đức Quốc Xã và Giáo
Hội Công Giáo giống nhau ở mục tiêu là diệt
chủng Do Thái. Chỉ khác nhau ở chỗ
Đức Quốc Xã ngược đãi Do
Thái vì kỳ thị chủng tộc còn giáo hội Công Giáo
thù ghét Do Thái vì Do Thái không chịu công nhận Jesus là Kitô
như ý của Đế Quốc La Mã mong muốn.
Điều kỳ quặc là Công Giáo bắt chước Do
Thái tôn thờ Đức Chúa Trời (tức Jehovah) nhưng
lại kết tội Do Thái thờ lầm Chúa Jesus vốn
là tín đồ đạo Do Thái, chính Vatican đã buộc
Jesus phải bỏ Do Thái Giáo để "trở
lại" đạo Công Giáo La Mã!
Xét kỹ ra thì cái tội của Do Thái là
chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất (The Unity God)
chứ không thờ Thiên Chúa của Công Giáo La Mã là Thiên Chúa Ba
Ngôi (The Trinity God). Công Giáo Hy Lạp (tức Chính Thống
Giáo) cũng thờ Thiên Chúa Ba Ngôi như Công Giáo La Mã,
chỉ khác ở chỗ Chính Thống Giáo cho rằng: Chúa
Cha lớn nhất, Chúa Thánh Thần thứ nhì và Jesus
thứ ba. Vatican chủ trương ba ngôi Thiên Chúa bằng nhau
(như ba ông đầu râu trong bếp ở nhà quê ta).
Khác nhau chỉ có mấy điểm nhỏ nhặt mà hai
giáo phái Kitô này đã giết nhau trong 10 thế kỷ qua,
huống hồ dân Do Thái khác với Vatican như mặt
trời mặt trăng!
Pio XII lên ngôi 1939, là thời
điểm khởi sự Đệ nhị Thế
chiến. Tên thật là Pacelli, sinh tại Ý năm 1876,
sống tại Đức 25 năm, nói tiếng Đức
như tiếng mẹ đẻ và thông thạo lịch
sử phong tục văn hóa Đức còn hơn
người Đức. Năm 1929, lên chức Bộ
trưởng ngoại giao của Vatican. Được
bầu giáo hòang lúc 63 tuổi. Pio XII thừa biết
Đức Quốc Xã tung đòn khốc liệt tiêu
diệt Do Thái, nhưng vốn có dòng máu lạnh bẩm sinh
của Mafia và có khuôn mặt diều hâu, y luôn luôn câm
miệng hến như chẳng có gì xảy ra.
Ngày 4.6.1940, Vatican đưa Mussolini lên cầm
quyền tại Ý. Chưa đầy một năm sau, 3/4
dân Do Thái tại Ý về chầu Chúa Jehovah hết, trong
số đó không thiếu gì người Do Thái có
đức tin Công Giáo thờ cả ba ngôi Thiên Chúa mà cũng
không thoát chết!
Ba Lan là xứ Công Giáo toàn tòng, là đạo
quân thứ 5 của Đức Quốc Xã, chỉ trong
mấy tháng năm 1942 đã giết 700.000 người Do
Thái. Riêng tháng 7 đến tháng 9 năm 1942, 5000 trẻ em Do
Thái được đưa từ Ba Lan và Pháp qua Drancy
(Đức) để làm vật thí nghiệm y khoa, trong
số đó có 1000 em dưới 6 tuổi. George Wellers, tác
giả cuốn sách Drancy
viết: "Từng đoàn chiên kinh hoàng (ám chỉ các em
nhỏ Do Thái) bị giết mà cái môi của Rome
vẫn cứ ngậm chặt và nó đã được hàn
lại vĩnh viễn" (A frightened flocks of lambs were
slaughtered... Rome’s lips were
firmed closed and it turned out permanently sealed).
Một bác sĩ Đức Quốc Xã làm
việc tại Drancy sau
Đệ nhị Thế chiến đã thú nhận tại
nhà giam: "hỏa ngục của Hitler đã tiêu thụ
một triệu trẻ em. (Hitler’s hell consumed one million
children!).
Giữa lúc chiến tranh khốc liệt vào
tháng 1.1943, nước Pháp bị Đức chiếm
đóng và Đức vẫn tiếp tục giết
người Do Thái, giáo hội Pháp cử Hồng Y Laval sang
Rome trao cho Giáo Hoàng Pio XII ngân khoản rất lớn của
chính phủ Pétain tặng Tòa Thánh. Hai
người đàm luận rất vui vẻ và không hề
nói gì tới số phận của người Do Thái.
Tháng 12.1943, Phát-xít Ý ra lệnh
tước bỏ quyền công dân Ý của mọi
người Do Thái. Kết quả mọi người
Do Thái thoát chết trước đây đều bị tàn
sát. Thảm cảnh của họ
được mô tả trong tác phẩm Death in Rome của
Robert Katz.
Tác giả viết: "Có một
người có thể cứu sống mọi người
Do Thái tại Rome, nhưng
người đó đã không muốn cứu. Người
đó là Pio XII". Tướng
Đức cầm đầu cơ quan SS tại
Rome còn
biết thương Do Thái đã nhờ một linh mục
Đức là Pancrazzio mật báo cho Pio XII biết sẽ có
tắm máu Do Thái tại Rome. Vậy mà "Đức Thánh
Cha" Pio XII vẫn lờ đi. Chẳng
những thế, Pio XII còn ra lệnh cho đài phát thanh Vatican không
được loan tin gì về Do Thái. Cả thế
giới ít ai biết: Trong Đệ Nhị Thế
Chiến, Hitler không biết sợ một ai, ngoại
trừ giáo hoàng! Lý do: Công Giáo Đức khá ngoan đạo
và chiếm đa số trong quân đội, trong cảnh sát
đặc biệt SS và các đoàn thể tại
Đức. Chỉ một câu nói của giáo hoàng cũng có
thể làm tinh thần của quân đội, cảnh sát và
quần chúng Đức suy yếu. Pio XII
rất thông minh và dư biết điều đó. Pio
XII là "Hitler trong tâm" hoàn toàn giữ im lặng
để khích lệ "Hitler trong hành động"
mặc sức tung hoành tiêu diệt Do
Thái.
Khoảng năm 1960, giáo hội
Công Giáo muốn vận động phong thánh cho Pio XII.
Kẹt một điều là nếu phong cho Pio XII làm á thánh
thì phải phong cho Hitler làm hiển thánh! Giáo dân Đức
cuồng tín đã có người khấn vái Pio XII:
"Lạy đức Pio XII là đấng đã yêu
nước Đức hết mình, xin hãy cầu cho chúng con!".
Dân Do Thái vẫn tự hào là dân
Chúa chọn (The Chosen People) nhưng lại không biết thánh
ý của Chúa chọn để làm gì. Nay nhiều
người đã hiểu thánh ý của Chúa là thế! Ngày 5.6.1944, quân đồng minh tiến vào
Rome.
Số người Do Thái "đã được Chúa
chọn" nhưng chưa diệt kịp còn sót lại
rất ít. Tất cả đều
được quân đồng minh giải thoát.
Sau đệ nhị thế
chiến, các người Do Thái truy tầm bọn
Đức Quốc Xã để trừng trị. Họ rất thù ghét Pio XII nhưng vì giáo hòang là
thủ lãnh của một tôn giáo lớn có ảnh
hưởng chính trị toàn cầu nên Pio XII đã
được giới chính trị quốc tế tha mạng.
Dư luận thế giới
nguyền rủa Pio XII vang lên từ mọi phía. New York Times gọi Pio XII là "biểu
tượng của sự vô trách nhiệm luân lý".
Vì thế, Viện Bảo Tàng lịch sử Bronx ở New
York có cả một gian hàng triển lãm tội ác của Pio
XII với bảng hiệu "Tên Đồ Tể Quốc
Xã tại Rome" [Trong lúc đó, giáo hội Công Giáo Việt
Nam trước 1975 lấy tên ông giáo hoàng nầy đặt
tên cho một chủng viện ở Đà Lạt gọi là
Giáo Hoàng Chủng Viện PIO XII.]
(The Nazi Butcher at
Rome).
Linh Mục dòng Tên Fontana phát biểu: "Kẻ làm
đại diện của Chúa mà thản nhiên nhìn tội ác
diễn ra trước mặt là một tội ác ghê
gớm". Văn hào Pháp Fanncois Mauriac tuyên bố:
"Đấng kế vị Thánh Phêrô không hề lên
tiếng về sự hành hạ đối với các anh em
của Chúa Jesus, cũng không hề có một biện pháp nhỏ
nhoi nào xứng hợp với trách nhiệm của một
vị lãnh đạo tinh thần lớn nhất hoàn
cầu. Dù cho biện minh bằng cách nào
chăng nữa thì sự im lặng đó hiển nhiên
đã là một tội ác".
Mười lăm năm sau khi các trại
tập trung Do Thái ở Auschwitz, Burgen, Dachau, Ravensbrunch
bị đóng cửa do sự thắng trận của
đồng minh, năm 1960, giáo hoàng kế nhiệm Pio XII là
John XXIII đã đến những địa điểm
tội ác đó để làm lễ và cầu nguyện"
"Lạy Chúa, dấu ấn của Cain đã đóng trên
trán của chúng con. Qua bao nhiêu thế kỷ, máu
người anh em Abel của chúng con do chúng con làm đổ
ra cùng với nước mắt vì chúng con đã quên mất
tình yêu của Chúa. Lạy Chúa, xin tha tội chúng con vì chúng
con đã nguyền rủa sai lầm. Xin Chúa tha tội chúng
con đã đóng đinh Chúa lần thứ hai trên thân xác
của những người anh em Do Thái. VÌ CHÚNG CON CHẲNG
BIẾT VIỆC CHÚNG CON LÀM" (The mark of Cain is stamped on our
foreheads. Across the centuries, our brother Abel has lain in blood which we
drew and shed tears we caused by forgetting thy love. Forgive us, Lord for the
curse we falsely attributed to their name as Jews. Forgive us for crucifying
Thee a second time in their flesh. FOR WE NOT KNEW WHAT WE
DID).
Giáo hoàng Gioan XXIII đã thú nhận toàn bộ
giáo hội Công Giáo trong những thế kỷ qua đã sai
lầm và hành động trong sự ngu
dốt vì "không biết việc mình làm". (We knew not
what we did). Vậy mà giáo dân Công Giáo vẫn cứ tin "giáo
hoàng không thể sai lầm!".
Trong một buổi chiếu phim tại
Vatican, khi chiếu đến cảnh quân đồng minh
đến giải thoát những người Do Thái còn
sống sót tại trại tù Belsen, John XXIII xúc động
thấy những thân xác gầy trơ xương, mắt
họ sâu hoắm như sọ người chết, John
XXIII bật khóc rồi kêu rú lên: "Lạy Chúa, đây
mới là mầu nhiệm Thánh Thể của Chúa Kitô"
(Oh my Lord, this is The Mystical Body of Christ). Cái làm cho John XXIII xúc
động là tất cả các tù nhân sống sót đều
trần truồng, và đó mới là hình ảnh thật
của Jesus trên thập giá!
Trong đệ nhị thế chiến, dư
luận thế giới có ác cảm với giáo hội Công
Giáo do các hành động của Pio XII. Giáo
hội muốn coi cái chết của Pio XII năm 1958
như một dấu chấm của một thời
đại sai lầm. John XXIII muốn
gỡ lại danh dự cho giáo hội bằng một chính
sách đối ngoại mới được gọi là
hiệp thông (ecumenism). Từ đầu thập niên
1960, John XXIII theo đuổi chính sách
sống chung hòa bình với Cộng Sản và đối
thoại thân hữu với các giáo phái Kitô và các tôn giáo khác. John XXIII chủ xướng công đồng Vatican cải cách giáo
hội.
Để sống còn trong thời đại
mới, Vatican chấp nhận cho các giáo
dân tuân theo các tập tục cổ
truyền của các dân tộc, lấy vợ lấy
chồng ngoại đạo và làm lễ bằng ngôn
ngữ địa phương thay vì xử dụng tiếng
La Tinh.
Trong 5 năm cai trị giáo
hội (1958-1963), John XXIII canh cải nhiều mặt
của giáo hội chỉ nhằm cứu vãn danh dự cho
giáo hội bề ngoài mà thôi. Kỳ dư, mọi sai
lầm căn bản của giáo hội vẫn còn y nguyên. John XXIII cũng có lòng thương xót dân tộc Do
Thái nhưng quyền lực và tham vọng của Vatican vẫn luôn luôn
là ưu tiên tối thượng. Các hành vi
đóng kịch của y chỉ làm cho lương tâm nhân
loại bớt giận. Thực chất, theo
tác giả Peter de Rosa, John XXIII chỉ là "một luật
sư của quỉ" (The Devil’s Advocate).
Sau cái chết của John XXIII,
Paul VI kế nhiệm lại dẫn giáo hội Công Giáo
trở lại thời trung cổ. Năm 1965, trong ngày
Chủ Nhật lễ tưởng niệm Chúa bị
đóng đinh (Passion Sunday), Paul VI giảng tại
Đền Thánh Phêrô với luận điệu cũ rích:
"Do Thái đã được Kinh Thánh báo trước về
Chúa Jesus là đấng Kitô cả ngàn năm. Vậy mà khi
Chúa đến, họ chẳng những không nhận Ngài là
đấng Kitô mà còn sỉ nhục Chúa và cuối cùng
họ đã đóng đinh Chúa trên thập giá!".
Lời thuyết giảng của Paul VI
năm 1965 không khác gì với lời thuyết giảng
của Gregory XIII năm 1581: "Tội ác chối Chúa (không
phải là Kitô) và đóng đinh Chúa của Do Thái càng ngày
càng ăn sâu vào các thế hệ kế tiếp, do đó
họ phải bị nô lệ vĩnh viễn!" (The guilt
of Jews in rejecting and crucifying Jesus only grows deeper with successive
generations, entailing perpetual slavery. Page 191-201 Vicars of Christ).
Giáo hội Công Giáo vẫn tiếp tục
đi theo con đường mòn cố
hữu của lịch sử tội lỗi của mình.
Năm 1978, Hồng y Ba Lan
Karol Wojtyla lên làm giáo hòang lấy hiệu là Jean Paul II. Bề ngoài Giáo Hoàng Jean Paul II tỏ ra là một
người xông xáo hoạt bát đầy uy quyền, trong
thực tế ông ta cũng như các giáo hoàng khác
đều chỉ là những "người tù trong cung
điện". Văn phòng của Jean
Paul II ở lầu 3 của tòa lâu đài Phêrô. Một toán lính Thụy Sĩ mặc y phục
cổ xưa sặc sở như cầu vồng, chỉ
làm nhiệm vụ nghi lễ chứ không có tính cách quân
sự. Cơ quan quân sự bảo vệ giáo hoàng
thật sự là Ufficio Central di Vigilanza mặc đồng
phục xanh, võ trang những vũ khí cá nhân cực kỳ
hiện đại và luôn luôn sẵn sàng nhả đạn
bắn chết bất cứ ai khả nghi đến
gần giáo hoàng mà không được phép. Toán võ trang có vô
tuyến liên lạc thường xuyên với tổng hành dinh
cảnh sát Ý và lực lượng bí mật mang ngụy
danh Digos. Giáo hoàng là đầu não của
cả một hệ thống giáo sĩ đông đảo gồm
4000 hồng y và giám mục. Đội ngũ
managers là các linh mục lên tới tổng số 400.000!
Jean Paul II là một trong số rất
hiếm hoi các giáo hoàng không phải gốc Ý:
Adrian VI (1522-1523) người Phần lan (Flemish)
Alexander VI (1492-1503) người Pháp
Sylvester II (999-1003) người
Tây Ban nha.
Trong thời gian nước Pháp hùng mạnh
đã áp lực đưa Tòa Thánh dời Vatican
về Avignon. Các vua Pháp
đã phong chức cho 7 đời giáo hoàng cai
trị hội thánh. Các giáo hoàng này đã không
được chọn do sự soi sáng của
"Đức Chúa Thánh Thần" mà hoàn toàn do Đức
Vua Pháp, nhưng cũng vẫn cai trị giáo hội như
thường".
Năm 1978, Karol Wojtyla lên làm giáo hoàng do sự
sắp đặt quốc tế để thay thế giáo
hoàng Jean Paul I bị đầu độc chết bí
mật sau 33 ngày cai trị ngắn
ngủi. Đế Quốc La Mã xưa kia
gọi dân Ba Lan là dân nô lệ (Slaves), nên bây giờ giáo hoàng
tự nhận là dân gốc Slavonic. Chắc Wojtyla đã không
thể ngờ được một tên nô lệ lại
đứng đầu cả một giáo hội to lớn
của La Mã!
Jean Paul II là một giáo hoàng
trẻ nhất trong lịch sử cận đại của
Vatican. Từ thuở nhỏ, Jean Paul II đã
từng sinh sống bằng nghề làm lao
công trong xưởng máy, thích leo núi và đã từng là
diễn viên tài tử đóng kịch mấy năm, đôi
khi cũng mơ mộng làm thơ tình. Jean Paul
II là giáo hoàng duy nhất mặc sì-líp tại hồ bơi
của Tòa Thánh.
Năm 1981, Jean Paul II rất lấy làm lo
lắng cho tương lai của giáo hội vì bưu
điện ùn ùn gửi tới Tòa Thánh 8000 lá đơn
của linh mục đòi lấy vợ. Ngoài ra còn có 3000 linh
mục khác không thèm hỏi ý kiến của "Đức
Thánh Cha" đã tự ý cởi áo dòng chạy theo người yêu. Buồn
nhất là có tới 20.000 linh mục thuộc diện
tiến bộ đã bỏ đạo luôn và không bao giờ
trở lại. Tại các nước Âu Mỹ, hàng ngũ linh mục già nua không có người
thay thế. Món hàng cứu chuộc của Chúa
hiện đang thiếu người rao bán rất trầm
trọng. [Hiện nay, dân Anamites Công Giáo
tị nạn cố điền bớt chỗ trống.]
Lời Chúa phán xưa kia chưa bao
giờ thê thảm như bây giờ: "Lúa chín đầy
đồng mà thợ gặt thì ít". Trong khi đó, giáo
phái Tin Lành càng ngày càng hung hãn cạnh tranh nghề nghiệp.
Họ chiếm lãnh thị trường trên TV
để độc quyền chương trình "Salvation
on sale!" (Sự cứu rỗi đang
bán hạ giá). Tháng 8.1987, tờ Time mở cuộc
thăm dò (poll) đã phát giác ra một sự thật: 97%
giáo dân Mỹ không còn để ý đến giáo hoàng
nữa! Giáo dân Mỹ có trình độ học
thức cao nên đã sớm tỉnh ngộ. Hơn ai hết, người Công Giáo Mỹ
biết giáo hoàng ngày nay chẳng còn quyền lực gì trên
thực tế. Những kẻ nắm
quyền điều khiển giáo hoàng và giáo hội là
những kẻ dấu mặt (faceless men). Họ là những chuyên viên tráo bài tráo bút ở trong
và ngoài Tòa Thánh (paper-shuffers, pen shuffers in dark offices in and around
the Vatican). Đám người dấu
mặt đó mới thực sự nhào nặn ra quan
điểm của giáo hoàng về mọi vấn đề
của giáo hội và thế giới sao cho phù hợp
với quan điểm của họ. Họ
chỉ cho phép giáo hoàng được biết các tin tức
sau khi đã chọn lựa kỹ càng. Mọi tin
tức đi ngược lại chính kiến của
họ đều được dấu nhẹm. Họ
đích thực là các ông chủ và là các cai
ngục của giáo hoàng. Tín điều
"giáo hoàng không thể sai lầm" thực chất là
sự không sai lầm của nhóm thơ lại trong Tòa Thánh
(Curial Officals). Giáo Hoàng chỉ là kẻ
thừa hành và là cái máy ký tên trên những văn kiện
đã được soạn sẵn.
Peter de Rosa kết luận: "Giáo hoàng có
cả một lô những kẻ canh chừng y không rời
con mắt. Giáo hoàng không bao giờ
được nói những gì mà các vị tiền nhiệm
đã nói về các vấn đề tương tự
hoặc có liên quan đến vấn đề đó.
Mọi giáo hòang đều là các tài xế lái xe
theo kính chiếu hậu. Giáo hoàng chỉ là tù
nhân của quá khứ, cái quá khứ chết tiệt đã
rất lâu đời rồi mà người ta vẫn
thường gọi là truyền thống. Từ cái quá khứ chết tiệt đó, giáo
hoàng vạch đường cho giáo hội đi vào
tương lai". (The pope himself has a host of watchers who
keep an eye on him. The pontiff can never speak of what his predecessors have
said on the same or a related topic. All pontiffs drive by the rear-view
mirror. He is the prisoner of the past, a long dead past often called
tradition, dictates the road into the future).
Tôi xin kết thúc phần
lược dịch tác phẩm Vicars of Christ tại đây.
Tôi tự hỏi không biết các đồng bào đồng
đạo của tôi theo dõi bài viết
này tới đây có thể đạt được
một nhận thức mới về Vatican
và các giáo hoàng hay không. Nếu chưa đủ để có
một nhận thức mới về họ thì tôi xin quí
vị hãy suy nghĩ thêm về điều này: Sau khi
Đế Quốc La Mã lập đạo Công Giáo, Tòa Thánh
hoàn toàn lệ thuộc vào các hoàng đế La Mã. Các giáo hoàng sau khi được bầu lên
đều phải được hoàng đế La Mã phê
chuẩn. Từ thế kỷ 5 đến thế
kỷ 11, có nhiều giáo hoàng làm trái ý nhà vua đều
bị nhà vua cách chức hoặc giết chết:
Giáo Hoàng St. Silverius bị
bắt cóc mất tích năm 537.
Giáo Hoàng St. Martini I bị Hoàng
Đế La Mã cách chức năm 655.
Giáo Hoàng Leo V bị treo cổ
năm 903.
Giáo Hoàng John X bị xiết
cổ năm 928.
Giáo Hoàng Gregory bị cách
chức năm 1046 vì bị sưu tra ra có tổ tiên xa
xưa là Do Thái.
Ngoài ra còn rất nhiều giáo hoàng bị
đầu độc hoặc bị giết do những
cuộc đảo chánh trong nội bộ tòa thánh
để cướp quyền hoặc để thanh toán
vì tư thù. (Xin đọc Bách Khoa Tự
Điển về Giáo Hoàng – The Pope Encyclopedia by Matthew Bunson,
Crown Trade Paperbacks. NY. 1995) có đầy đủ
nhiều bảng liệt kê các giáo hoàng bị ám sát, các giáo
hoàng giả, các giáo hoàng được phong thánh v.v...
Các giáo hoàng đều chỉ có
cái vỏ về ngoài thánh thiện để lừa bịp
giáo dân và thế giới. Hầu hết
họ đều vô thần và chẳng bao giờ tin
tưởng vào sự gìn giữ của Chúa như câu kinh
Bổn đã dạy "Chúa hằng gìn giữ Đức
Giáo Hoàng nên chẳng có lẽ nào sai lầm
được". Cụ thể nhất là Jean Paul
II, nếu ông ta tin vào ơn Chúa che chở thì ông ta đã
chẳng cần đến sự che chở của
chiếc xe bọc kiến chắn
đạn. Cả thế giới đều đã thấy
hình ảnh của chiếc xe độc đáo đó,
được gọi là "the pope mobile", mang nhãn
hiệu Mercedes-Benz 230, kiểu Station Wagon, tốc độ
80 MPH, mang bảng số đặc biệt của Vatican
SCV, chữ tắt của Stato Citta del Vaticano. Người
Pháp chế diễu đọc SCV thành "Sile Christ Voyait 禣224;" (Ước gì chúa Kitô thấy cái
xe quái đảng đó!).
Sự thật thì chẳng có Chúa nào che
chở gìn giữ giáo hoàng, cũng chẳng có cái xe chắn đạn nào che chở gìn giữ
giáo hoàng tốt cho bằng sự ngu dốt [Linh Mục
Trần Tam Tỉnh thường dùng cụm từ
"ốc đảo ngu dốt" để chỉ tình
trạng các giáo dân. (Thập giá và lưỡi
gươm).]
của đông đảo
giáo dân. Sự ngu đốt đần
độn của tập thể giáo dân là thành đồng
lũy thép bảo vệ chẳng những giáo hoàng mà là
cả cái Tòa Thánh Công Giáo La Mã, thực chất là sào
huyệt lâu đời nhất của bọn khủng
bố quốc tế. Chỉ khi nào đông
đảo giáo dân nhận ra chân tướng thật sự
của bọn khủng bố quốc tế cáo già này thì
cái sào huyệt của nó là Vatican mới bị hủy diệt. Nhờ
vào cái lòng mê muội cuồng tín của tín đồ mà giáo
hoàng đã trở thành một nhân vật "độc
đáo" nhất thế giới.
Đầu năm 2000, Tạp
Chí Life cho ra đời một cuốn sách khổ lớn
với đầy đủ hình ảnh từ nhỏ
tới lớn của Jean Paul II (giáo hoàng hiện tại)
mang tựa đề Pope John Paul II, a tribute. Cuốn
sách này liệt kê thành tích của Jean Paul II từ năm
nhận chức giáo hòang 1978 đến 31.12.1999 như sau:
- Giáo hoàng du lịch tổng cộng 670.878
dặm Anh (hơn 1 triệu 80 ngàn km).
- Hành hương nước ngoài 84 lần,
trong nước Ý 134 địa điểm.
- Viết hoặc nhờ người khác
viết 600 diễn văn, 877 bài thuyết giảng
trước số thính giả tổng cộng là 14
triệu.
- Tiếp tân tại Vatican
15.000 thượng khách.
- Phong chức cho 2650 giám mục và tổng
giám mục, chiếm trên phân nửa số giám mục
hiện có trên thế giới.
- Đặc biệt nhất là
một mình Jean Paul II đã sản xuất ra 280 ông thánh
mới cho giáo hội Công Giáo.
Muốn được làm thánh [Mấy giáo
dân Việt Nam bị giết vì tội bán nước
cũng được phong thánh vì lý do chính trị, thánh là
miếng mồi để xúi giáo dân nỗi loạn. ] Công
Giáo phải hội đủ ba điều kiện:
phải là người đã chết và phải
được giáo hoàng tấn phong. Vinh
dự của các thánh là được giáo dân tôn kính và
cầu nguyện như thần linh. Cả ba
điều này đều trái với Thánh Kinh vì theo Thánh Kinh, giáo dân không được
cầu ai ngoài cầu Chúa. Thánh Kinh ngăn cấm việc
liên lạc với người chết (All attempts to commune
with the dead are condemned-Isaiah 8:19).
Các thánh chỉ được Chúa là
đấng duy nhất công nhận mà thôi và không cần
một người nào ở thế gian công nhận.
Danh từ "thánh thiện" được tự
điển định nghĩa là "có tính vị tha
trọn vẹn" (Saint: completely unselfish) chẳng có liên
quan gì đến tôn giáo. Sống ngoài tôn giáo,
con người vẫn có thể trở nên thánh thiện.
Đứng đầu giáo hội vẫn có
thể là một đứa mất dạy như
thường.
Công Giáo có rất nhiều thánh bổn
mạng cho từng nhóm người, chẳng hạn
như: thánh Nicholas quan thầy những kẻ nghiện
rượu, Thánh Gerard quan thầy các bà mang bầu, Thánh
Anthony quan thầy các kẻ bị mất trộm. Thánh Hilary quan thầy các kẻ bị rắn
cắn. Hiện nay người ta đang vận
động Tòa Thánh tôn vinh Saint Clare làm quan thầy cho các nhà
sản xuất máy TV!
Nói chung, các thánh Công Giáo
đều là các người thiên cổ. Chỉ có một
loại "thánh" sống ngoại lệ gọi là
"Đức Thánh Cha", tức giáo hoàng mà thôi.
Vị thánh sống Công Giáo
đứng đầu giáo hội trong các năm 1492-1503 là
Đức Thánh Cha Borgia Alexander VI chiếm kỷ lục
quốc tế về các môn dâm tặc và loạn luân. Y
hoàn toàn bỏ ngoài tai mọi lời
đàm tiếu. Linh Mục Jérome Savonarole xúi dân Florence
nổi loạn chống giáo hoàng năm 1497 đã bị giáo
hoàng đem quân đến dẹp tan. Linh
Mục Jérome và 3 đồ đệ bị bắt trói vào
cọc thiêu sống ngày 23.5.1498. Con trai của
"Đức Thánh Cha Borgia" là ông hoàng Caesar
được Machiavel coi là người mẫu lý
tưởng cho tác phẩm Le Prince (Quân Vương). Machiavel gọi ông hoàng Cesar là "một thú dữ
lớn hoàn hảo", "một quái vật duyên
dáng". Đó là một mẫu người phạm
tội ác đến mức mọi người phải...
ngưỡng mộ! Caesar và Giáo Hoàng Alexander VI đã là
nguồn cảm hứng khiến cho Machiavel phải bỏ
ra 15 năm tự giam mình trong căn phòng cô đơn
để đọc sách nghiên cứu viết ra tác phẩm
Il Principe, tiếng Ý có nghĩa là "Quân Vương". Machiavel quan niệm giáo hội Công Giáo là một
vương quốc. Kẻ đứng đầu giáo
hội hay đứng đầu quốc gia đều là
quân vương.
Cả giáo hoàng lẫn hoàng
tử Caesar đều là những kẻ vô thần, bất
cần sự cứu rỗi đời đời.
Quan tâm hàng đầu là làm sao chiếm giữ vương
quốc trên thế gian để được
hưởng mọi loại thú vui: thú vui xác thịt
phải được thỏa mãn tối đa dù với
bất cứ một người đàn bà nào mà cha con ông ta
muốn, bất kể là ai. Thú vui thẩm mỹ với các
tượng điêu khắc, tranh nghệ thuật xây cất
cung điện nguy nga và các đền thờ vĩ đại như đền Thánh Phêrô
chẳng hạn, cốt để lưu danh muôn thuở.
Không loại trừ cả thú vui trí thức: tìm một
triết lý sống, một nghệ thuật thống
trị và bành trướng quyền lực. Alexander có sáng
kiến xâm lược vùng đất mới tại Châu
Mỹ để vơ vét vàng và tài nguyên
làm giàu...
Cả hai cha con Giáo Hoàng Alexander VI đã
đưa tội ác lên cao tới mức nghệ thuật
khiến thiên hạ phải khâm phục vì người ta
thấy dường như có cả một sự thẩm
mỹ trong tội ác.
Nghiên cứu trường hợp của hai
cha con giáo Hoàng Alexander VI, Machiavel tự hỏi: Bản
chất vương quốc là gì? Làm thế
nào để chiếm nó? Làm thế nào
để giữ nó? Và tại sao
người ta đã mất nó?
Machiavel đọc các sách cổ kim có thể có được để
nghiền ngẫm tìm ra các câu trả lời cho những
vấn đề trên. Theo ông, vương
quốc là sản phẩm của sức mạnh. (Nền văn minh Kitô Giáo là nền văn minh
dựa trên chủ thuyết sức mạnh). Dùng mọi biện pháp của sức mạnh để
chiếm đoạt cho được vương
quốc. Mọi sự giả vờ,
lường gạt, tàn bạo, nhất là chiến tranh là
những đối tượng mà quân vương phải
luôn luôn để tâm suy nghĩ. Đó là
nghề nghiệp của quân vương. Am tường mọi nghệ thuật về
chiến tranh là phương cách tốt nhất để
tiếm chiếm quyền hành. Người ta chỉ
có thể thủ đắc vương quốc (đế
quốc lãnh thổ hoặc đế quốc tinh thần
như Vatican cũng vậy) là do sự quyết tâm, tài
năng, sự kiên trì và sự bạo tợn dám làm. Quân vương phải là người biết
xử dụng vũ khí của mình và vũ khí của
kẻ khác, phải có âm mưu để thủ đắc
vương quốc với sự đồng ý hoặc
cả với sự không đồng ý của nhân dân. Machiavel phủ nhận số phận. Ông cho rằng "số phận" chỉ có
ở nơi nào người ta không dự liệu các
biện pháp để chống lại nó mà thôi. Với tài năng, người ta có thể
chiến thắng để xóa bỏ số phận.
Machiavel quan niệm "nhân dân" là một tập thể
luôn luôn thay đổi lập trường vì rất dễ
bị thuyết phục và không có ai duy trì được
lâu dài sự tin tưởng của nhân dân đối
với quân vương, vì vậy phải dùng bạo
lực với nhân dân. Các quân vương
đều đã duy trì được luật pháp của
mình bằng vũ khí, không có phương tiện bạo
lực thì không ép buộc được ai. Dùng
sức mạnh , để duy trì niềm tin của
quần chúng và nhờ sức mạnh, quân vương
sẽ dành được lợi thế để có
quyền hành, được hạnh phúc và được
kính trọng lâu dài, dù cho quân vương là một kẻ vô
đạo đức.
Qua tác phẩm Quân Vương
(The Prince), Machiavel đã hết lời ca tụng Caesar
Borgia. Trong thực tế, Caesar Borgia
đã bị mất ngôi một cách buồn thảm. Cha của Caesar Borgia là Giáo Hoàng Alexander VI bị
đầu độc chết, mọi người lảng
tránh để xác của ông sình thối nhiều ngày
mới được đem chôn. Hai cha con Giáo Hoàng
Alexander trở thành biểu tượng của sự vô
luân, sự tàn bạo và sự gian xảo cùng cực chưa
từng thấy.
Tuy nhiên, giới quí tộc bảo hoàng rút ra
từ đó một bài học: "Hãy tạo ra một quân
vương từ uy thế của một người
trong hoàng tộc để rồi núp sau lưng quân
vương mà thỏa mãn mọi cao vọng". Trong
trường hợp vương quốc của giáo hội
thì giới quí tộc bảo hoàng này chính là tập đoàn
tu sĩ..
Giáo Hoàng Alexander VI chết năm 1503 nên đã
không có cơ hội đọc tác phẩm "The Prince"
của Machiavel ca ngợi: Alenxander VI đã nới rộng
lãnh thổ nhờ sức mạnh. Người
ta phải hy vọng rằng ông có thể làm cho lãnh thổ
này lớn hơn nhiều và đáng kính hơn
nhiều". Cuối chương XI
của tác phẩm). Nghiên cứu về hoàng tộc
nước pháp, Machiavel viết: "Quân vương
được vây quanh bởi những nhà quí tộc.
Giới quí tộc nắm quyền không phải do đặc
ân của quân vương mà do sự lâu
đời của dòng dõi mình". Machiavel
chỉ cho các người muốn làm chính trị phải
biết "Không có cái gì lúc nào cũng tốt và không có cái gì
lúc nào cũng xấu mà tốt hay xấu là tùy lúc".
Quân vương có thể là vô thần nhưng cần
phải tỏ ra sùng đạo. Quân vương có thể
là nham hiểm ác độc nhưng phải tỏ ra
rộng lượng, thương người, giữ
lời hứa, cứng rắn, can đảm, vui vẻ,
liêm khiết... Nói tóm lại, quân vương
phải cùng một lúc vừa là một con cáo, vừa là
một con sư tử. Làm cáo để biết
mọi cạm bẫy giăng ra hại mình và làm sư
tử để mọi con cáo khác phải biết sợ
mình. Quân vương cần phải biết
làm cho mọi người phải sợ mình hơn là
thương mình. Muốn duy trì quốc
gia, phải đi ngược lại với đức bác
ái và chống lại tôn giáo khi không còn lợi dụng
được nó. Khi có thể được thì
đi theo con đường thiện.
Khi cần, phải biết dấn thân vào con
đường ác.
Tác phẩm The Prince của
Machiavel chỉ là một cuốn sách mỏng nhưng là
kết quả của 15 năm làm việc miệt mài
khổ công của tác giả. Ngày 22.6.1527, Machiavel qua
đời, thọ 58 tuổi. Khi ông chết,
chẳng một ai biết tới tác phẩm của ông.
Bốn năm sau khi ông chết, Giáo Hoàng Clement
VII (1531) cho xuất bản "Quân Vương". Từ đó, sách này được in ra và
được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Cả thế giới bình luận ồn ào, có kẻ ca
ngợi là tuyệt tác phẩm chính trị, kẻ khác lại
kết tội "Quân Vương" là cuốn sách dơ
dáy tội lỗi được viết bởi ác quỉ.
Có lẽ J. J. Rousseau là người đưa ra nhận xét
đúng nhất: "Quân Vương là con dao hai
lưỡi, một mặt nó giúp cho quân vương
chiếm quyền hành nhưng mặt khác nó giúp cho quần
chúng thấy được các thủ đoạn của
quân vương!"
Từ đầu thế kỷ
17, tại Âu châu, cuốn sách "Quân Vương"
trở thành một quái vật huyền thoại.
Hầu như mọi vua chúa và cận thần đều
say mê đọc và nghiền ngẫm cuốn sách mỏng
này. Không ai có thể ngờ ảnh
hưởng của nó đã làm thay đổi cả
lịch sử loài người với nhiều chuyện
buồn hơn là vui.
Năm 1614, Richelieu là hồng y
giáo chủ kiêm thủ tướng nước Pháp ra
lệnh cho tu sĩ Machon viết sách ca ngợi Machiavel.
Năm 1787, chính phủ Ý cải mộ của Machiavel
đem về an táng tại nghĩa trang quốc gia
để nắm xương của ông được
nằm bên cạnh các vĩ nhân Dante, Galilee, Michel Ange, Rossini
và trên mộ của Machiavel được khắc dòng
chữ "Không có lời ca ngợi nào xứng đáng
với tên ông".
Quả vậy, tên của ông đã tạo ra
một lô danh từ trong các tự điển của
mọi nước Âu Mỹ: Machiavelism, Machiavelic,
Machiavelian... có nghĩa là chính sách xảo quyệt, xảo
trá, nham hiểm, ác độc. Có một
điều không ai phủ nhận, tác phẩm "Quân
Vương" đã là sách gối đầu
giường của các bạo chúa từ thế kỷ 17
đến thế kỷ 20. Từ Richelieu
đến Napoléon đều dùng sách của Machiavel
để hoạch định chiến lược.
Thậm chí khi Napoléon bị thất trận tại Waterloo,
người ta đã phát giác ra trên xe
của Napoléon có dán nhiều mảnh giấy chép lại
nhiều đoạn trong sách Quân Vương.
Năm 1924, Mussolini dựa vào
sách Quân Vương để phát minh ra Chủ nghĩa Phát
Xít. Moussolini tuyên bố: "tôi xác nhận rằng lý
thuyết của Machiavel ngày nay còn sống mạnh hơn 4
thế kỷ qua". Hitler cũng là
đệ tử của Machiavel. Sau
thế chiến thứ hai, người ta mới nhận
rõ hơn khuôn mặt ghê tởm của chủ nghĩa
Machiavel qua tham vọng nô lệ hóa thế giới của
Hitler. Qua cuốn sách của Arthur Koesler,
người ta mới biết cả Stalin cũng luôn luôn
giữ ở đầu giường một cuốn Quân
Vương.
Tóm lại, Machiavel đã đào tạo ra
một loạt các bạo chúa nham hiểm ác độc trong
4 thế kỷ qua mà khuôn mẫu của nó là cha con Giáo Hoàng
Alexander VI thuộc thế kỷ 16. Đó là một quan
niệm về đạo đức chính trị dựa
trên căn bản của nền văn hóa du mục phi nhân
bản phát xuất từ Babylon.
Nền văn hóa du mục Babylon
thấm qua đạo Do Thái của Abraham, Moses, xâm nhập
vào Kitô Giáo và phát triển cao độ nơi đạo
Công Giáo mà trung tâm quyền lực của giáo hội này
nằm tại Vatican. Từ cái đầu của con bạch
tuộc tại Vatican,
các chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa Phát xít
Đức Quốc Xã, quân chủ chuyên chế, thậm chí
chủ nghĩa Cộng Sản của Lenin hay Stalin chỉ
là những cái vòi của con bạch tuộc Vatican.
Rồi từ cái vòi Cộng Sản Nga Phát sinh ra những
cái ống hút nhỏ như Mao Trạch Đông, Pol Pot.... Tất cả các bạo chúa này thực chất là
những đệ tử hạng bét của Vatican mà họ không
biết.
Chủ nghĩa Cộng Sản
ghê như vậy cũng chỉ tồn tại
được hơn 70 năm. Vậy mà giáo hội
của Constantine đã tồn tại và tác oai tác quái ròng rã
trên 16 thế kỷ, mà tới nay, đa số nhân loại
còn chưa nhận ra được chân tướng
của nó, đủ thấy Vatican siêu đẳng cỡ
nào? Vatican
thực sự là đỉnh cao trí tuệ loài người
về phương diện triết học và văn hóa phi
nhân bản. Nền văn hóa phi nhân bản xuất
phát từ Babylon đã được ghi nhận là hết
sức độc hại trong sách kinh Tân Ước
viết: "Huyền thoại Babylon vĩ đại là
mẹ của các con điếm và mọi chuyện ghê
gớm của trái đất này" (MYSTERY BABYLON THE GREAT,
THE MOTHER OF HARLOTS AND ABOMINATIONS OF THE EARTH - Rev. 17: 1-16).
6. LỜI KẾT
Cả thế giới ngày nay đã đau
khổ quá nhiều do hậu quả của nền văn hóa
phi nhân bản. Lương tâm và lương tri nhân loại
cần phải đi tìm một nền văn hóa nhân
bản phục vụ hạnh phúc con người. Thật
ra, từ trước Công Nguyên, Hy Lạp đã có một
nền văn minh khoa học rất cao và một triết
học nhân bản rất tốt đẹp nhưng đã
bị đế quốc La Mã thiêu hủy hết các sách
của Hy Lạp làm cho cả Âu Châu phải chìm đắm
trong thời đại đen tối (The Dark Age) nhiều
thế kỷ. Sự mê tín hoành hành khắp lục
địa Âu Châu, Các cuộc chiến tranh xảy ra liên miên
giữa các lãnh chúa trong thời Trung cổ làm cho các thành
phố phần lớn bị đổ nát, các
đường sá mọc đầy cỏ dại. Các ngành thương mại bị tê liệt.
Toàn dân Châu Âu phải qui tụ lại với nhau để
tự bảo vệ trong các làng mạc hẻo lánh hay các
tỉnh nhỏ ở thôn quê. Họ sống bằng
nghề nông với thu nhập nhỏ
khiến đời sống vô cùng chật vật.
Đời sống càng thêm khốn khổ do luôn luôn
phải đối đầu chiến tranh, bệnh
tật và nạn đói.
Từ thế kỷ 8, Âu Châu được
chia thành nhiều nước nhỏ, mỗi nước
chia thành nhiều thái ấp (fiefs) hoặc chư
hầu (vassals). Hệ thống xã hội này
được gọi là phong kiến (Feudalism) kéo dài từ
thế kỷ 8 đến 13. Dân chúng
trở thành các nông nô làm việc cơ cực ở
đồng ruộng để nộp hoa lợi cho lãnh
chúa. Trong khi đó các lãnh chúa
thường xuyên gây chiến tranh với nhau để duy
trì quyền lực và quyền lợi riêng. Suốt
trong các thế kỷ này của thời Đại Đen
Tối, giáo hội Công Giáo La Mã là "lực lượng
tinh thần" tối cao vượt trên mọi lãnh chúa. Toàn thể dân chúng cực khổ hướng
về giáo hội để tìm đường giải
thoát đau khổ bằng cách cầu nguyện Chúa và vâng
lời Tòa Thánh. Dân chúng không còn ai lưu
tâm gì đến các vấn đề thế giới bên
ngoài hoặc để ý tìm hiểu vũ trụ.
Vả lại, vào thời đó dân chúng không có thể
kiếm ra sách để đọc vì các cổ thư đều được chép bằng
tay công phu và rất hiếm. Tuyệt
đại đa số dân chúng đều mù chữ, chỉ
có giới quí tộc và tu sĩ biết đọc biết
viết mà thôi. Mọi ngành văn học
và nghệ thuật đều hướng vào việc ca
ngợi Chúa và các "thánh" của giáo hội. Các
sách đều được giấu trong các tu viện,
dấu nhẹm mọi kiến thức khoa học, đàn
áp mọi sáng kiến hoặc khám phá vũ trụ đi
ngược lại Thánh Kinh. Toàn dân Âu Châu
thời đó đều được giáo dục
bằng những kiến thức lệch lạc. Mọi người đều tin trái đất
phẳng và mặt trời xoay quanh trái đất. Ai sinh ra đời cũng mắc tội tổ
tông, cần phải có ơn cứu chuộc của Chúa Kitô
và cần có tu sĩ coi sóc phần linh hồn. Mọi
vật trong vũ trụ được cấu tạo
bằng 4 yếu tố: đất, nước, không khí và
lửa! Các học giả trí thức chỉ
thích bàn về thần học và đoán mò về thánh ý
của Đức Chúa Trời.
Đầu thế kỷ 14,
bắt đầu có phong trào xét duyệt lại các giá
trị của văn minh Kitô giáo. Học
giả và trí thức Tây phương cố gắng moi tìm
lại trong quá khứ cổ xưa của Hy Lạp cái kho
tàng nghệ thuật, khoa học và triết học đã
bị thất lạc. Thời kỳ này
kéo dài từ thế kỷ 14 đến 17, được
gọi là Thời Kỳ Phục Hưng (The Renaissance) có
nghĩa là Sự Tái Sinh của nền văn hóa cổ.
Người đầu tiên khai sáng Phong Trào Phục Hưng
ở Âu Châu là học giả Ý tên Petrarch (1304-1374). Ông
rất thông thạo tiếng Hy Lạp và đã nhờ
bạn bè đi khắp nơi mua về cho ông các cổ thư Hy Lạp còn sót lại. Cuối cùng ông
lập được một thư
viện và kêu gọi mọi học giả đến nghiên
cứu. Ông quan niệm: Sách là kho tàng ghi tiếng nói của
các bậc khôn ngoan, các bài kinh nghiệm của lịch
sử, các tư tưởng về luân lý, tôn giáo, luật
pháp và toàn bộ nền văn minh của con người. Sách là ký ức của quá khứ. Không có sách,
không có chỗ đứng để đi lên, không có
gương sáng để theo và
gương xấu để tránh.... Dần dần, Petrarch
và các bạn học giả của ông khám phá ra rằng:
Hầu hết các bản dịch của các tu sĩ
đều sai lầm và bịa đặt. Họ
càng nghiên cứu càng thán phục nền văn minh cổ Hy
Lạp. Do đó, tư tưởng của các trí
thức Âu Châu bắt đầu thay đổi. Thay vì cúi
đầu vào Thánh Kinh, họ ngẩng đầu lên quan sát
vũ trụ và thế giới. Họ bắt
đầu đưa ra các giả thuyết, sau đó
trắc nghiệm để dần dần đi tới
kết luận. Sự thay đổi não
trạng của trí thức Âu Châu đã sản xuất ra
nhiều triết nhân có khuynh hướng nhân bản.
Họ coi ý kiến của mọi cá nhân là quan trọng và
họ đòi hỏi mọi người phải có
quyền tự do phát biểu tư tưởng. Họ
vạch ra cho mọi người thấy rằng sự
tranh luận tự do giữa mọi người sẽ
thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. Cái thói quen ngoan ngoãn tuyệt đối vâng lời
các giáo sĩ và giáo hội mà không thắc mắc gì cả là
đầu mối của sự mê muội và dìm xã hội
trong bóng tối tâm linh.
Họ chủ trương luật pháp là
sản phẩm của con người nên con người có
quyền thay đổi. Chẳng có luật nào là luật
của Chúa mà con người không có quyền thay đổi
cả. Lập luận này nhắm vào việc
đả phá giáo hội Công Giáo vốn có truyền
thống cho rằng mọi giáo điều là luật
của Chúa có giá trị bất di bất dịch.
Chống lại giáo điều và giáo luật không thể
bị lên án là chống lại Thiên Chúa vì
đó chỉ là cái cớ giả tạo để giáo
hội đưa các kẻ chống đối lên dàn
hỏa mà thôi. (The Renaissance, by Tim Wood Pinguin
Book. 1993).
Các học giả Tây phương tiếp
tục đào sâu khám phá kho tàng kiến thức của
cổ Hy Lạp đều đã nhận ra các tội ác
lớn lao của đế quốc La Mã chỉ vì muốn
dấu tung tích ngụy tạo của đạo Công Giáo mà
ra tay hủy diệt mọi kho sách cổ Hy Lạp
khiến cho nền văn minh nhân loại bị chậm
lại trên 10 thế kỷ. Đặc tính
của La Mã là nhiều tham vọng và tàn bạo. Đặc tính của người Hy Lạp là yêu
sự học hỏi (the Hellenic love of learning).
Từ thế kỷ 6 trước Công Nguyên,
Pythagore đã dạy cho biết trái đất tròn và quay chung quanh mặt trời. Vào thế kỷ
thứ 3 trước Công Nguyên, Aristarchus đã vẽ hệ
thống thái dương hệ với mặt trời
ở trung tâm (heliocentric theory) như Copernicus của thế
kỷ 19! Cũng trong thế kỷ 3 trước Công Nguyên,
Erathosthenes đã ước tính gần đúng chu vi trái đất. Trong thế kỷ
thứ 5 sau Công Nguyên, Democritus và Leucippus đưa ra
thuyết nguyên tử của vật chất (the atomic theory
of matter) và tiến hóa của sự sống (the evolutionary
theory of life) tương tự như Einstein và Darwin!
Sử gia Lloyd M. Graham viết: "Thế
giới Kitô Giáo từ chối khoa học và triết
học Hy Lạp, tất cả kho học vấn cổ này
bị đốt ở nơi công cộng. Điều
đó còn tệ hại hơn cả tội ác. Đó là tội của các tổ phụ của
đạo Kitô di hại đến ngày nay. Vì cái
tội ác này mà ánh sáng của Hy Lạp đã phải
tắt đi từ Arisarchus đến Copernicus, từ Aristotle
đến Bacon, từ Dimocritus đến Darwin..."
(The Christian world renounced Greek Science and philosophy for this all
ancient learning was burned in the marketplace. It is worse than a crime. Thus
are the sins of the Christian Fathers visited to the present time.
But for this crime the light of Greek might have burned on from Aristarchus to
Copernicus, from Aristotle to Bacon and from Democritus to Darwin
– Deceptions and Myths of the Bible, page 450).
Tội ác của Đế Quốc La Mã,
tổ phụ đích thực của đạo Công Giáo, là
hủy diệt nền văn hóa nhân bản Hy Lạp
để phát triển văn hóa du mục phi nhân bản
của Babylon – Do Thái, tràn ra khắp Âu Châu và thế
giới. Văn hóa du mục phi nhân bản của "Babylon
– Do Thái" chú trọng đến việc phụng sự
thần linh và sẵn sàng hy sinh con người (như
Abraham giết con trai duy nhất của mình là Issaac)
để tế thần. Đạo thờ thần Bal của Babylon
tế thần bằng người sống rồi chia nhau
ăn thịt. Cũng tương tự
như Công Giáo lên rước lễ ăn bánh thánh (thịt
Chúa) hay rượu (máu Chúa). Các tôn giáo xuất phát
từ huyền thoại Babylon
như Do Thái Giáo, Kitô Giáo (gồm cả Công Giáo, Tin Lành, Chính
Thống) và Hồi Giáo đều lấy Cựu
Ước Do Thái làm căn bản và đều có
đặc tính hiếu thắng và hiếu sát. Gọi chung
các đạo này là đạo Thiên Chúa hay Độc
Thần Giáo (Monotheism) và có lẽ chính xác nhất là nên
gọi chung là Đạo Uống Máu Ăn Thịt
Người.
Ngày nay, người Tây Phương đã
nhận ra điều đó và họ đã tăng
cường công tác giáo dục đồng bào họ
bằng cách viết ra rất nhiều sách báo để soi
sáng tâm linh. Nhờ vậy chúng ta hiện sẵn có rất
nhiều tài liệu học hỏi để soi sáng tâm linh
của mình và tôi ước mong những gì tôi đã viết
sẽ mang lại đôi điều ích lợi cho
đồng bào đồng đạo của tôi, trong đó
có những người thân yêu nhất của tôi là vợ
con, anh em, chị em tôi. Tôi không mong điều
gì khác hơn là mọi người Công Giáo hãy bắt
đầu sự nghi ngờ để rồi từ đó
rà xét lại niềm tin của mình. Hãy
biết nghi ngờ về sự thánh thiện của Tòa
Thánh Vatican và giáo hoàng. Vì thật sự
tất cả chỉ là giả tạo. Bên
trong tòa thánh và bản thân giáo hoàng đầy dẫy
những chuyện thối tha bẩn thỉu còn ghê tởm
hơn các triều đình thế gian. Những màn giáo
hoàng ban phép lành tại Tòa Thánh cho các đám đông ở Vatican
chỉ là những màn giả tạo để quay phim
chụp ảnh. Các ký giả chuyên săn tin Vatican
gọi đó là các màn "Shows tailor-made for video". Các hồng y da đen chẳng có chức vụ gì
thật ở Vatican ngoài cái nhiệm vụ chính yếu là đi qua
đi lại ở công trường Thánh Phêrô cho thiên hạ
chụp ảnh quay phim để chứng tỏ giáo
hội không kỳ thị chủng tộc. Sự thật, Vatican là cái gốc xua đẩy bọn thực dân da
trắng Âu Châu đi bắt dân da đen ở Phi Châu về
làm nô lệ trong những thế kỷ qua. Cựu Linh Mục dòng Tên Peter de Rosa, tác giả
Vicars of Christ, đã phải thốt lên "Vatican là cái
xưởng sản xuất đồ giả lớn
nhất thế giới". (Vatican
is the largest document - forgery - factory of the world).
Tổ tiên của chúng ta đã dạy:
chỉ có cái thật mới phát sinh ra sự tốt lành,
sự thật và sự lành sinh ra cái đẹp: chân,
thiện, mỹ.
Vatican là trung tâm của sự gian trá không thể nào có
được sự thiện lành. Sự
gian trá chỉ có thể sinh ra tội ác xấu xa. Trên đời này chỉ có sự "gian ác"
đối nghịch với sự "ngay lành" mà thôi.
Cuối cùng sự thiện lành sẽ chiến thắng
sự gian ác, dù cho kẻ gian ác khôn ngoan và quỉ quyệt
đêᮍ đâu!
Từ cổ chí kim, các
bậc minh triết của nhân loại đã băn
khoăn rất nhiều về sự thật. Họ đã để lại cho chúng ta nhiều
kinh nghiệm để chúng ta học hỏi. Tất
cả đều chỉ cho chúng ta thấy rằng:
muốn có cuộc sống hòa bình hạnh phúc tốt
đẹp, chúng ta phải bắt đầu bằng lòng
yêu sự thật, bởi lẽ phải có CHÂN trước
hết rồi mới có thể có THIỆN và MỸ. Nhà
tư tưởng nổi tiếng vào thế kỷ 17
gốc Do Thái là Spinoza (1632-1677) được coi là một
trong những triết gia vĩ đại nhất của
Tây Phương và được xếp ngang hàng với Lão
Tử của triết học Đông phương, đã
viết: "Không có gì có giá trị hơn tình bạn
với những người chân thành yêu sự thật vì
không có gì ngoài sự thật có khả năng đoàn
kết được mọi ý kiến dị biệt và
mọi tính tình khác nhau". (I value nothing more than friendship with
people who sincerely love the truth... since nothing but truth can unite
different opinions and temperaments – The Enlightened Mind – Harper-Collins
Pub. 1991, page 142).
Dù cho chúng ta hiện đang ở trong một
nhóm thiểu số giữa một tập thể đông
đảo đang hùa theo một tà
thuyết hay một tà đạo, chúng ta hãy can đảm
chiến đấu cho "cái lý của sự
thật". Cổ nhân thường nói
"Vạn sự nhất lý". Dù chúng ta chỉ là
một nhóm rất nhỏ nhưng một khi đã nắm
được cái lý do, chúng ta sẽ trở nên những
người có sức mạnh vô địch. Cái
lý của sự thật sẽ giúp chúng ta vượt
thắng mọi trở ngại khó khăn để
đạt tới thắng lợi vẻ vang cuối cùng.
Trong lịch sử nhân loại, nhiều thế lực gian
ác đã có một thời hùng mạnh, nhưng cuối cùng
"không có thế lực nào có thể mạnh hơn
sự thật". (There is nothing powerful than
truth – Daniel Webster 1930). Dù cho sự thật có bị các
thế lực gian ác đè bẹp tới sát mặt
đất chăng nữa, cuối cùng sự thật
sẽ lại vươn lên (Truth crushed to earth shall raise again
– William Cullen Bryant 1839). Nhiều triết gia
yêu sự thật còn hơn cả ái tình tiền tài danh
vọng (Rather than love, than money, than fame, give me truth (Henry
Thoreau, 1817-1862). Tất cả chỉ vì một nguyên
do: Sự thật là quyền năng và sẽ chiến
thắng tất cả (Truth is mighty and will prevail –
Đại văn hào Mark Twain).
Tuy nhiên, trong khi chiến
đấu cho sự thật, chúng ta cũng phải trả
giá cho lòng yêu sự thật. Người chiến
đấu cho sự thật luôn luôn bị những kẻ
gian ác rắp tâm hãm hại và đe dọa sự an toàn thân mạng. Nhưng các chiến sĩ
chiến đấu cho sự thật hãy bền gan vì
những người chân thật luôn luôn là những
người có lòng nhân ái lớn lao. Đó chính là đức từ bi mà Đức
Phật đã dạy. Một khi đã có
đức BI tất sẽ có TRÍ và DŨNG. Những
người thiện lành yêu mến sự thật sẽ
được "Thượng Đế" [Không nên
hiểu chữ Thượng Đế như người
Kitô giáo.] soi sáng và ban sức mạnh tinh thần hết
sức dồi dào để chiến thắng mọi
loại quỉ vương.
Vào thế kỷ 18, văn hào chống Công
Giáo số một tại Pháp là Voltaire đã nói lên kinh
nghiệm của mình: "Hãy nói lên sự thật rồi
chạy trốn để có an toàn"
(Tell the truth and run). Voltaire đã trở nên
người lãnh đạo hàng đầu của Phong Trào
Soi Sáng tại Âu Châu vào thế kỷ 18 (The enlightenment).
Tư tưởng của ông là một trong những nguyên
nhân dẫn đến hai cuộc cách mạng lớn
giải phóng con người là cuộc cách mạng Hoa
Kỳ năm 1776 và Cách Mạng Pháp 1789. Cựu Tổng
Thống Mỹ Truman cũng cho chúng ta một kinh nghiệm
là những thế lực tội ác có thể sẽ kết
án chúng ta đã đẩy họ vào
hỏa ngục. Nhưng thật ra, "chúng
ta chẳng có ý đẩy ai xuống địa ngục
cả, chúng ta chỉ muốn nói lên sự thật mà
thôi". (I never give them hell, I just tell the truth and they
think it is hell!)
Đến đây, xin quí
độc giả cho phép tôi được mở dấu
ngoặc để nói lên một kinh nghiệm bản thân.
Tôi vốn được giáo dục trong
nền văn hóa Công Giáo từ nhỏ đến lớn
nhưng cuối cùng tôi đã phải giã từ cái tôn giáo lâu
đời của gia tộc mình.
Cuộc hành trình đi
đến chỗ bỏ đạo này khởi đầu
từ sự nghi ngờ về cái giá trị chân thực
của các tín lý và giáo điều của đạo Công
Giáo. Tôi cố gắng vận dụng lý
trí và đồng thời tìm đến các tài liệu khách
quan có giá trị cao để soi rọi vào niềm tin
cố hữu của mình. Tôi như một con bệnh
tâm trí dần dần được phục hồi
để tìm đường về với sự thật.
Động cơ thúc đẩy tôi mạnh mẽ nhất
là lòng thiết tha yêu mến sự thật và sẵn sàng
chết cho sự thật. Sở dĩ tôi
cố gắng viết ra những điều này không
nhằm mục tiêu nào khác hơn là giúp những
người cùng cảnh ngộ có một tài liệu
để tự suy nghiệm về niềm tin của mình.
Tôi thành khẩn mong những người
đó không phải phí thì giờ và công sức đi tìm các
tài liệu này.
Mới đây, tôi đọc
được lời Phật dạy rất hợp
với hoàn cảnh của tôi đã khiến tôi vui
sướng vô cùng. Phật dạy rằng:
"Sự nghi ngờ là chính đáng. Đừng
để cho các sách thánh dẫn dắt bởi uy quyền
của các vị thầy của các tôn giáo. Khi nhận ra điều gì xấu xa và không
xứng hợp với mình thì hãy dứt bỏ nó. Và khi nhận ra điều gì là tốt và xứng
hợp thì hãy làm điều đó. Hãy là ngọn
đèn tự soi sáng mình. Hãy duy trì sự
thật trong mình và chỉ vì sự thật mà thôi".
(It is proper to doubt. Do not be led by Holy Scriptures... But when you
realize that something is unwholesome and bad for you, give it up. And when you
realize that something is wholesome and good for you do it... Be a lamp to
yourself. Be your own confidence. Hold to the truth within yourself, as to the
only truth – The Buddha – The enlightenment Mind by Stephen Mitchell, Harper
Perennial 1991, page 10-11).
Tôi rất yêu những lời sau đây
của vị Phật Sống Tây Tạng, Đức
Đạt Lai Lạt Ma: "Một người có
đức tin tôn giáo hay không cũng không quan trọng cho
lắm. Điều quan trọng hơn nữa chính là
họ phải là người thiện lành... Không
có một tôn giáo nào thỏa mãn được toàn thể
nhân loại. Chúng ta có thể kết luận rằng:
Loài người có thể sống khá tốt đẹp mà
không cần phải cần đến tín ngưỡng.
Điều đó có vẻ như một xác nhận bất
thường khi sự xác nhận đó đến từ
một nhân vật tôn giáo... Là một con người, tôi có
trách nhiệm lớn lao hơn nữa đối với
toàn thể "gia đình nhân loại" – mà thật
sự chúng ta đều có. Và bởi vì đa số không
thực hành tôn giáo cho nên tôi cố gắng tìm ra một con
đường phục vụ toàn nhân loại mà không
cần kêu cầu đến tín ngưỡng". (Đạo Lý Cho Thiên Niên Kỷ Mới – Linh
Thụy chuyển ngữ. Văn Nghệ
xuất bản 1999, trang 33-35).
Mọi người thân yêu nhất của tôi
đều đang có niềm tin Công Giáo. Tôi không có một lý
do nào để căm thù cái đạo gốc của mình.
Tuy nhiên, tôi không thể nào chấp nhận được
cái thói cao ngạo láo xược của đại đa
số tu sĩ Công Giáo luôn luôn cho rằng chỉ có Công Giáo
là duy nhất thánh thiện, duy nhất đúng đắn. Họ gọi mọi tôn giáo khác là các đạo
thờ quỉ. Sự thật chẳng có tôn giáo nào
thờ quỉ cả vì theo giáo lý Công Giáo
Quỉ là kẻ bị Chúa phạt đày xuống hỏa
ngục. Như vậy, quỉ là kẻ
thất bại và bị tước đoạt mọi
quyền năng. Liệu có ai ngu
xuẩn để tôn thờ một kẻ không còn quyền
năng gì mà còn đang bị giam trong lửa hỏa ngục?
Các tu sĩ Công Giáo thường có thói quen gọi các
đạo khác là "bụt thần ma quỉ"
chẳng qua chỉ muốn dùng danh từ này để
nhục mạ các tôn giáo khác, nhất là để nhục
mạ đạo Phật.
Nếu các tôn giáo khác có ai
gọi Công Giáo là đạo thờ quỉ, chắc
chắn Công Giáo sẽ gây thánh chiến thật thảm
khốc chống lại tôn giáo đó. Vậy
mà trong các sách kinh Công Giáo vẫn còn chình ình rất nhiều
những câu kinh nhục mạ các tôn giáo khác. Thật
là một sự tự cao tự đại một cách
trơ trẻn và không sáng suốt.
Sự tự cao tự đại đó ai
cũng có thể nhận thấy rõ ràng khiến cho các tu
sĩ Công Giáo không thể chối cãi. Nhưng cái tội ác
của giáo hội Công Giáo ở chỗ đã nhân danh cái
quyền tự phong là "độc quyền chân lý"
để tàn sát các đạo khác bằng các cuộc
"thánh chiến" [Chiến tranh là chết người,
là đau khổ thì không thể gọi là thánh
được.] đẫm máu và bằng các tòa án tôn giáo
đưa hàng triệu người lên dàn hỏa để
thiêu sống trong nhiều thế kỷ qua là một
tội ác không thể không nguyền rủa.
Sau 40 năm chuyên nghiên cứu về Kitô Giáo,
giáo sư cựu linh mục Công Giáo gốc Ái Nhĩ Lan John
Dominic Crossan, đã từng được giải
thưởng của Hàn Lâm Viện Hoa Kỳ, tác giả tác
phẩm best sellers "The Historical Jesus" và "Who is
Jesus" đã viết về giáo hội Công Giáo như sau:
"Con đường độc đạo chỉ có ta
là duy nhất tuyệt đối đúng có nghĩa là
tất cả nọi người khác đều phải
chết". (One way I alone can be absolutely right is
for all others to be dead – "Who is Jesus" Harper – Collines 1996,
page 30). Công Giáo La Mã có quyền gì mà dám
nhân danh thần linh để hủy diệt mọi
người không chấp nhận các tín điều bậy
bạ vô luân của Công Giáo. Chỉ có
Công Giáo là một thứ đạo khốn nạn và phi
nhân nhất trong lịch sử loài người mới có
cái thái độ đáng nguyền rủa đó mà thôi.
Vậy tại sao loài người lại không
có quyền tự vệ chính đáng để bỏ cái
đạo khốn nạn đó? Công Giáo
là đám cỏ dại trên cánh đồng Việt Nam,
tại sao chúng ta không bỏ cái đám cỏ dại này
để cứu cánh đồng Việt Nam?
Chúng ta cần phải học
hỏi các bài học lịch sử đầy đau
thương của các quốc gia Âu Mỹ đã từng là
những nạn nhân của hiểm họa Công Giáo La Mã.
1. Kinh nghiệm của các nước Hy
lạp, Nga và Đông Âu.
Năm 1054, các giáo hội Công Giáo tại Hy
Lạp, Nga và Đông Âu đã là những nước
đầu tiên nhận thức được âm mưu xâm
lược toàn cầu dưới chiêu bài tôn giáo của
Đế Quốc La Mã. Do đó, họ đã đồng
loạt tuyên bố tách rời khỏi Vatican.
Sử gia John B. Noss đã ghi nhận sự kiện này không
phải do xung đột về giáo lý mà là để
chống lại ý đồ bành trướng lãnh thổ
của Đế Quốc La Mã. Tác giả viết:
"CATHOLIC in the West (Vatican)
has required the meaning of UNIVERSAL in the sense of the geographic extention
of the church throughout the world" – (MAN’S RELIGION, p. 457). Xin
tạm dịch: "Trong thế giới phương Tây
(của Vatican)
danh từ CÔNG GIÁO với nguyên nghĩa là TOÀN CẦU, trong ý
nghĩa thật của nó là bành trướng lãnh thổ
của giáo hội ra khắp thế giới".
Từ đó đến cuối thế
kỷ 20, Công Giáo La Mã đã gây ra nhiều cuộc thánh
chiến chống lại các quốc gia nói trên, gọi chung
là giáo hội Đông Phương hoặc giáo hội Chính
Thống. Thảm khốc nhất là các cuộc nội
chiến tại Nam Tư giữa xứ Croatia theo Công Giáo và
xứ Serbia Chính Thống Giáo.
Giữa thời đại văn minh của
thế kỷ 20, thế giới đã phải xúc
động trước các tin về những vụ
giết người tập thể vì lý do tôn giáo tại các
xứ Croatia, Serbia và Bosnia tại Nam Tư. Tất cả
đều cùng là một giống dân Slave nhưng đã chia
thành những quốc gia riêng biệt thù hận lẫn nhau
hằng chục thế kỷ chỉ vì sự cuồng tín
tôn giáo!
Từ những kinh nghiệm đau
thương đó nên vào tháng 8 năm 1997, quốc hội
Nga (hậu Cộng Sản) đã biểu quyết
đạo luật công bố quyền tự do truyền
đạo và hành đạo cho mọi tôn giáo. Chỉ có một biệt lệ duy nhất là
tuyệt đối cấm Công Giáo La Mã và Tin Lành không
được hoạt động tại Nga (như đã
nói ở phần trước).
2. Kinh nghiệm Anh Quốc:
Tiếp theo các nước
Đông Âu là Anh Quốc tách rời khỏi Vatican năm 1535.
Từ đầu thập niên 1530, vua Anh đã
vận động quốc hội Anh chuẩn y việc
tách rời này. Công cuôvận
động của vua Anh bị thủ tướng Anh
thời đó là Thomas More cực lực phản
đối. Thomas More xin từ chức
thủ tướng Anh Quốc năm 1532. Y vận
động chống lại vua Anh và ủng hộ việc
thiết lập các tòa án dị giáo
để đưa các người chống Công Giáo lên dàn
hỏa. Ngày 1.2.1935, nghị viên Anh thông qua
đạo luật "The Act of Supremacy" xác nhận vua
Anh có quyền tối thượng đối với
chủ quyền quốc gia và là giáo chủ của giáo
hội Công Giáo Anh quốc. (The King is the supreme head of the
church of England). Năm 1559, Quốc
Hội Anh biểu quyết đạo luật Tổ
chức thống nhất cho toàn hệ thống Công Giáo
nước Anh (Act of uniformity) và duyệt xét lại toàn bộ
các sách kinh nguyện (prayers) và cho phép giáo dân chỉ
được đọc các kinh đã được in
trong sách kinh chính thức được gọi là "The
Book of Common Prayers". Năm 1535, Thomas More
bị đưa ra công trường Westminster chém
đầu về tội phản nghịch.
Trước khi lên đoạn đầu đài, Thomas More
tuyên bố: "Công Giáo La Mã là giáo hội toàn cầu. Tôi
chết trong và vì niềm tin Công Giáo". (I die in and for the
faith of the Holy Catholic Church).
Năm 1935, kỷ niệm 400
năm Thomas More chết vì đạo, Vatican đã phong tên
phản quốc này lên bậc hiển thánh. (xin đọc Man’s Religion và A World only lit by
fire).
3. Kinh nghiệm các nước toàn tòng Công Giáo
tại Mỹ Châu La Tinh.
Ở phần trên của bài
viết này, tôi đã có dịp kể chuyện về
cuộc sống dâm ô cuồng loạn có một không hai
của giáo hoàng gốc Tây Ban Nha là Alexander VI. Ông ta nổi tiếng vì đã loạn luân với
mẹ ông, với con gái, với cô em ruột và với con
riêng của vợ. Nhưng ông ta cũng nổi
tiếng vì đã phát động cuộc xâm lược
đại qui mô của thực dân Tây Ban Nha và tu sĩ Công
Giáo vào lục địa Châu Mỹ. Giáo Hoàng Alexander VI và
người con trai là ông hoàng Borgia Caesar cũng nổi
tiếng vì đã là nguồn cảm hứng cho Machiavel
viết nên tác phẩm lừng danh Quân Vương tôi đã
có dịp trình bày ở những đoạn trên nhằm
mục đích chứng minh rằng: Vatican là trung tâm phát sinh
ra một xu hướng méo mó về đạo đức
chính trị phi nhân bản đã phá hoại hòa bình thế
giới và hạnh phúc nhân loại trong những thế
kỷ qua và còn tiếp tục.
Trong mục tiêu bành trướng lãnh thổ
và cướp đoạt vàng bạc của cải làm giàu
cho tòa thánh, giáo hoàng Alexander VI giao độc quyền khai
thác vùng đất do Columbus
khám phá (tức Châu Mỹ) cho hoàng gia Tây Ban Nha năm 1503.
[Ngày 4.5.1493, Giáo Hoàng Alexander IV ký sắc chỉ Inter Catera,
sắc chỉ nầy về sau được dùng làm
căn bản cho việc triển khai quyền sở
hữu về Tân Thế Giới (new World).]
Năm 1519, hoàng gia Tây Ban Nha xử dụng
một tên du thủ du thực 35 tuổi, chuyên đi tìm vàng
là Hernan Cortez làm tướng chỉ huy một hạm
đội gồm 11 chiến thuyền, 10 đại bác và
600 binh sĩ, cùng với một đoàn tu sĩ dòng Phan xi cô
do giám mục Diego de Landa lãnh đạo lên đường
chinh phục Châu Mỹ. Tháng 3.1519, đoàn quân này đổ
bộ ở vùng vịnh Tabasco. Tháng 5.1519, chúng chiếm thành
phố Cholula và phá hủy
400 kim tự tháp tại đây. Năm 1521, chúng chiếm Tenchtitlan và hoàn tất
cuộc xâm lược Mexico
(Mễ Tây Cơ).
Trước khi tiến chiếm thành phố
lớn nhất của Mexico thời đó là thành phố
Montezanur, chúng đột nhập vào các nhà tù phóng thích tù nhân
và dụ họ hợp tác dẫn đường trong thành
phố nhưng sau khi thành công, bọn chúng đã giết
hết đám tù nhân đã giúp chúng. Giám mục
lãnh đạo tinh thần của đoàn quân xâm
lược là Giám Mục Diego de Landa chủ trương
đốt sạch để xóa bỏ mọi vết tích
của nền văn minh cổ đại của
người Da Đỏ.
Trong các đền thờ
được xây cất tương tự như Kim
Tự Tháp của các dân tộc Aztec, Toltecs, Maya
thường có nhiều tượng và đồ vật
trang sức bằng vàng. Bọn thực
dân đem nấu chảy thành vàng khối chở về Tây
Ban Nha. Các thứ còn lại chúng
đều phá hủy hoặc đốt cháy thành than.
Trong số các Kim Tự Tháp có một cái gọi là
đền thờ Tepanapa cao tới 60 mét, mỗi cạnh
rộng 300 mét, lớn gấp đôi kim tự Tháp Cheop
của Ai Cập, hiện trên đỉnh của nó là nhà
thờ "Đức Mẹ Đồng Trinh".
Năm 1843, nhà khảo cổ
Mỹ John Lloyld Stephen viết sách kể chuyện ông đã
tìm được dấu vết của 44 thành phố
thuộc văn minh Maya bị thực dân Tây Ban Nha phá
hủy. Ông đã tìm được
một kho sách cổ của dân tộc Maya gồm hàng ngàn
bản gỗ có ghi chữ tượng hình (pictograph)
nhưng đều đã bị cháy thành than. Nhiều
tấm bia đá có khắc hình và chữ
bị đập vỡ vứt xuống đáy hồ. Hiện nay các nhà khảo cổ chỉ tìm lại
được rất ít tượng đồng và
tượng đá của văn minh Maya. Người Maya đã đạt được
trình độ cao trong việc sản xuất đồ
gốm và nhiều loại nữ trang rất đẹp.
Theo các nhà khảo cổ ước tính thì
nền văn minh Maya đã có từ thế kỷ 12
trước Tây lịch.
Tội ác của đoàn quân xâm lược
dưới sự lãnh đạo của Giám Mục Diego và
Hernan Cortez còn được ghi lại trong những
cuốn sách thuộc loại hồi ký của các cha dòng
đi theo đoàn quân xâm lược, trong
đó có một số hình ảnh vẽ cảnh chặt tay
chặt chân tù binh da đỏ rất dã man. Nhiều
thổ dân trên các đảo thuộc quần đảo Antilles đã bị
bọn thực dân tiêu diệt sạch không còn một ai
sống sót. Theo một số báo cáo của những
đoàn quân xâm lược gửi về triều đình Tây
Ban Nha thì vào giữa thế kỷ 16, dân số Mexico
khoảng 15 triệu người. Nhưng
đến đầu thế kỷ 17, chỉ còn có 2
triệu người mà thôi. [Dân số Mễ Tây Cơ
hiện nay là 100.349.766] Phần lớn thổ dân đã
chết vì bị nhiễm các loại vi trùng lạ do
thực dân Tây Ban Nha đem từ lục địa Âu Châu
qua.
Sau khi chiếm được Mexico,
thực dân Tây Ban Nha và tu sĩ nhà thờ lập nên các
đồn điền và các khu khai thác mỏ và biến
thổ dân thành nô lệ. Từ thế
kỷ 16 đến thế kỷ 19, thực dân đến
Phi Châu bắt cóc người da đen đem đến
Mỹ Châu khoảng 60 triệu người để tăng
cường nhân lực nô lệ cho các đồn
điền và hầm mỏ. Ngay từ những
năm đầu của cuộc xâm lược vào Mexico,
riêng một mình Hernan Cortez đã chiếm 250 héc ta
đồn điền và làm chủ 200.000 nô lệ da
đỏ!
Cuối thế kỷ 18, do ảnh
hưởng của các cuộc cách mạng tại Hoa
Kỳ và Pháp, nhất là do ảnh hưởng tư
tưởng của các nhà tư tưởng thuộc phong
trào Soi Sáng Âu Châu (Enlightement) được dịch sang
tiếng Tây Ban Nha, một số linh mục cấp tiến
đã cầm đầu các cuộc cách mạng chống
lại chính quyền thuộc địa và nhà thờ Công
Giáo. Phần lớn các cuộc cách mạng này đều
bị tắm trong biển máu! Phải đợi
đến thế kỷ 19, nhiều nước tại
Châu Mỹ mới đạt được thắng
lợi lớn lao về chính trị kinh
tế và xã hội trên toàn lục địa Châu Mỹ La
Tinh. Sự kiện lớn lao này
được mô tả khá chi tiết trong tác phẩm The
Emergence of Latin America in the Nineteenth Century" (2nd edition, by
David Bushenell and Neil Macaulay. Oxford University
Press xuất bản năm 1994).
Đáng chú ý nhất là Hiến
Pháp Mexico năm 1857. Hiến pháp này được
nhiều nước Châu Mỹ La Tinh noi theo.
Bản hiến pháp này của Mexico
đã đưa ra nhiều biện pháp táo bạo và
cương quyết đối với các tu sĩ và nhà
thờ Công Giáo khiến ta cũng phải ngạc nhiên
sững sờ.
- Hiến pháp tước bỏ mọi
đặc quyền đặc lợi của các tu sĩ
đã được chính quyền thuộc địa Tây
Ban Nha công nhận trong các thế kỷ trước
. Các đặc quyền đặc lợi như: tu
sĩ được miễn đi lính, tu sĩ
được xét xử tại các tòa án riêng và theo luật riêng. Các tu sĩ tự xưng là
người của Chúa (agents of God), nên đòi phải
được xử theo luật
của Chúa chứ không thể bị xét xử theo luật
của người phàm (law of man). Tu sĩ bị
tước đoạt độc quyền làm khai sinh hôn
thú, chứng từ khai tử... Tất cả
các việc này đều được thế tục hóa,
tức là được chuyển cho các viên chức nhà
nước thực hiện.
- Điều quan trọng là nhà
thờ phải được tách rời hoàn toàn ra
khỏi chính quyền (the separation of Church and State). Các
tu viện bị đặt ra ngoài vòng pháp luật (outlawed
monasteries). Các viện nữ tu bị hoàn toàn dẹp bỏ
với hình phạt tử hình được áp dụng cho
bất cứ nữ tu nào bị bắt gặp còn ở
lại trong tu viện (the suppression of all nunneries upon the death
of the present occupants), Các nam tu sĩ bị cấm không
được mặc áo dòng khi xuất hiện ở các
nơi công cộng (forbidding the wearing of clerical clothing in
public). Toàn bộ tài sản của giáo hội bị
tịch thu, [Nhưng tại Viêt Nam,
các tài sản của giáo hội Công Giáo nhờ thế
lực của thực dân mà vẫn còn, chưa ai
đụng đến]. trong số
đó có một số nhà thờ được bán cho
những người Tin Lành ngoại quốc (The general
confiscation of church property).
Hầu hết các nước Châu Mỹ La
Tinh theo đuổi chính sách công khai
chống các tu sĩ Công Giáo (Anticlericalism) nhất là ở Venezuela,
Colombia và West
Granada.
Với rất nhiều kinh nghiệm
chống tà đạo Công Giáo trên khắp thế giới,
ước mong cần phải nghiên cứu và học
hỏi để có thể đề ra các biện pháp
hữu hiệu nhằm tiêu hủy, hoặc ít ra là giảm
thiểu, các ảnh hưởng tai
hại của Công Giáo La Mã trên đất nước ta.
Không có gì có thể ngăn cản chúng ta ban hành một
đạo luật tương tự như nước Nga
là cấm chỉ mọi hoạt động của Công Giáo
La Mã và Tin Lành trong khi vẫn cho phép các tôn giáo khác
được tự do hoạt động.
Bài học Anh Quốc thế kỷ 16 đã
chỉ cho chúng ta thấy là muốn bảo tồn chủ
quyền quốc gia và độc lập dân tộc thì, giáo
hội Công Giáo bản xứ phải dứt khoát
đoạn tuyệt với Vatican, vì Vatican luôn luôn tìm cách
xâm phạm chủ quyền quốc gia của các
nước trên thế giới qua giáo hội Công Giáo
bản địa mà ban tham mưu của nó là các hội
đồng giám mục tại mỗi nước. Quốc
hội Anh thế kỷ 16 đã khẳng định
mọi cuốn sách kinh nguyện (prayer books) phải
được quốc hội thông qua để loại
bỏ mọi câu kinh đi ngược lại quyền
lợi chung của quốc gia dân
tộc. [Trong cuốn Vatican Thú Tội và Xin Lỗi, Giao
Điểm 2001, ông Bùi Kha đề nghị giáo hội Công
Giáo Việt Nam nên chỉnh đốn lại toàn bộ
Thánh Kinh trước lúc mở các chủng viện và
giảng dạy cho tín đồ vì Thánh Kinh có hơn 80% là
ngụy tạo, và vô số lời dạy trong đó đã
đối nghịch với phong tục tập quán,
đạo đức và luật pháp Việt Nam.]
Các nước Châu Mỹ La Tinh,
như chúng ta đều biết, là những quốc gia toàn
tòng Công Giáo từ nhiều thế kỷ qua. Vậy mà
hầu hết các nước này đều noi gương Mexico
đặt tu viện nam nữ Công Giáo ra ngoài vòng pháp
luật theo tinh thần Hiến Pháp Mexico
năm 1857. Toàn thể tài sản của giáo hội Công Giáo
bị tịch thu. Các tu
sĩ Công Giáo bị tước đoạt quyền
dạy học và quyền ứng cử bầu cử.
Các nhà trường Công Giáo hoàn toàn bị
đóng cửa. Các tu sĩ dòng Tên
ngoại quốc bị trục xuất. Các tu sĩ
nhà thờ bị cấm ngặt không được thu tiền của giáo dân dưới bất
cứ hình thức nào. Các nhà thờ
được đặt dưới sự kiểm soát
thường xuyên của chính phủ.
Sở dĩ các dân tộc Châu Mỹ La tinh có
những biện pháp quyết liệt để trói tay giáo
hội Công Giáo vì họ không thể quên được
tội ác diệt chủng và diệt nền văn hóa
cổ xưa của tổ tiên họ là người Da
Đỏ. Thiết tưởng những biện pháp nêu
trên vẫn là quá nhẹ so với các tội ác tày trời
của giáo hội Công Giáo đã phạm trong quá khứ
đối với toàn thể các dân tộc Châu Mỹ La
Tinh.
Năm 1917, Mexico
có bản hiến pháp mới nhưng lập trường
của họ đối với giáo hội Công Giáo vẫn
giữ nguyên tinh thần của bản hiến pháp 1857.
Năm 1979 và trong thập niên
1990, Giáo Hoàng Jean Paul II đã nhiều lần đến
thăm Mexico để làm hòa nhưng đã hoàn toàn thất
bại. Mối quan hệ ngoại giao
giữa Mexico và Vatican đến nay vẫn chưa được
nối lại sau trên một thế kỷ hoàn toàn gián
đoạn. Trong các nước Châu Mỹ La Tinh toàn
tòng Công Giáo mà còn có những bản hiến pháp đặt
các tu viện Công Giáo ra ngoài vòng pháp luật như vậy,
không lẽ tại Việt Nam, Công Giáo chỉ chiếm
một tỷ lệ nhỏ nhoi chúng ta lại không thể
có được một đạo luật cho toàn bộ
hệ thống tu sĩ Công Giáo [Các giáo phái Tin Lành còn nguy
hiểm hơn. Họ muốn biến các
sắc dân thiểu số thành những khu vực tự
trị.]
ra ngoài vòng pháp luật
được hay sao? Tuy số tín đồ Công Giáo
chỉ chiếm khoảng 8% dân số Việt Nam nhưng hệ
thống tu sĩ Công Giáo là một tổ chức chặt
chẽ nắm đa số các trường học tư
thục từ cấp tiểu học đến
đại học, chi phối đa số ghế quốc
hội của thời đệ nhị Cộng Hòa, chi
phối các giới chức trong chính quyền và quân lực
Việt Nam Cộng Hòa ở cấp lãnh đạo cao nhất.
Hiện nay số giáo dân Việt Nam
tại hải ngoại phần đông rất giàu có sẽ
là nguồn tài trợ đắc lực cho mọi mưu
toan lũng đoạn quốc gia của giới tu sĩ
Công Giáo Việt Nam
Đứng trước các hiểm họa
đó, thiết tưởng một đạo luật
đặt hệ thống tu sĩ Công Giáo Việt Nam ra
ngoài vòng pháp luật là điều hết sức cần
thiết để kịp thời đối phó với các
xáo trộn chính trị có thể xảy ra khi đất
nước ta bước vào giai đoạn phú
cường.
Biện pháp này càng tỏ ra cần thiết
hơn nữa vì có triệu chứng cho thấy các tôn giáo
khác như một nhóm người của Phật Giáo, Hòa
Hảo, Cao Đài cũng bắt chước Công Giáo
củng cố hệ thống tu sĩ riêng của mình
để lũng đoạn chính trị trong cái gọi là
"Liên Tôn". Các ủy ban liên tôn sẽ là những sào
huyệt để cho kẻ lưu manh chính trị núp
đằng sau tha hồ phá rối an ninh
quốc gia và vô hiệu hóa hoàn toàn mọi cố gắng
của bất cứ chính phủ nào trong công cuộc
kiến thiết quốc gia để mưu cầu
hạnh phúc cho toàn dân tộc.
Các bài học chống giáo
hội Satan của các nước Âu Mỹ giúp các quốc
gia khác một số kinh nghiệm về phương
diện luật pháp và hành chánh.
Người Nhật trong thế kỷ 17
thấy biện pháp này không đủ hiệu năng nên
họ đã treo cổ hoặc đóng đinh trên thập
giá toàn bộ hệ thống tu sĩ Công Giáo bản
địa và thừa sai ngoại quốc cùng một lúc
với việc tiêu diệt trọn 37.000 giáo dân tại
Nagasaki năm 1638. [Nên tránh bài học đau
thương như Nhật Bản lúc bấy giờ.]
Chính nhờ biện pháp
quyết liệt này, nước Nhật đã bảo toàn
chủ quyền độc lập, bảo toàn danh dự
quốc gia và văn hóa dân tộc. Đó
chính là yếu tố đã đưa nước Nhật
lên địa vị siêu cường ngày nay.
Xin xem tiếp phần Hai: Sách Kinh Công giáo và tác hại của nó -
Charlie Nguyễn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét