Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014
Không thể chấp nhận việc hợp pháp hóa mại dâm
19:25
Hoàng Phong Nhã
No comments
Hợp pháp hóa mại dâm tưởng như
là cách để bảo vệ quyền của phụ nữ, vô hình chung lại chỉ hợp pháp hóa
sự mua dâm của đàn ông. Hơn nữa nó sẽ tăng thêm sức hút, biến nhiều
người phụ nữ và trẻ em gái thành nạn nhân của hoạt động buôn bán người,
hoặc nô lệ tình dục. Nó hợp pháp hóa sự bất bình đẳng về cơ thể giữa
người mua dâm và người bán dâm.
Hoạt
động mua bán mại dâm tưởng là bình đẳng, nhưng thật ra là một việc làm
phi đạo đức và không công bằng. Hai cơ thể con người, sinh ra tự do và
bình đẳng, thì phải được đối xử công bằng như nhau. Trong mại dâm, một
người phải đưa thân xác ra mua vui cho một người; cơ thể người mua dâm
có được khoái cảm và thỏa mãn dục vọng; cơ thể người bán dâm không có
khoái cảm, thậm chí đau đớn. Việc “tự nguyện” tham gia hợp đồng mua bán
dâm chỉ đúng với người mua dâm vì họ chủ động đi thỏa mãn nhu cầu và sẵn
sàng trả tiền. Còn với người bán dâm không phải là tự nguyện, mà họ
buộc phải lựa chọn vì cuộc mưu sinh của mình. Hoạt động mua bán dâm thể
hiện sự bất bình đẳng giữa hai con người.
Hợp pháp hóa mại dâm cũng đồng nghĩa với
việc hợp pháp hóa các đường dây cung cấp “hàng mới” cho các nhà chứa.
Điều này cũng có nghĩa là toàn bộ hệ thống buôn người, ma cô, bảo kê sẽ
được huy động để săn lùng phụ nữ. Nhiều nghiên cứu chỉ ra trẻ em gái và
phụ nữ ở các gia đình nghèo, khó khăn, và thiếu thông tin là các nạn
nhân đầu tiên của các băng đảng. Chúng nhắm đến những gia đình yếu thế,
dễ bị dụ dỗ để “tuyển dụng”, mà thực chất là ép buộc hoặc lừa đảo. Khi
đã tham gia, toàn bộ hệ thống bảo kê, tội phạm, ma cô và quản lý sẽ ép
buộc họ làm việc như nô lệ tình dục trong các nhà thổ. Theo UNICEF, hàng
năm có hàng triệu phụ nữ bị buôn bán và ép buộc gia nhập ngành công
nghiệp mại dâm, và khoảng 30% trong số họ là trẻ vị thành niên, thâm chí
dưới 13 tuổi.
Nhiều người cho rằng vấn đề buôn bán
người không liên quan đến vấn đề mại dâm. Nhiều chính phủ còn đề nghị
phải phân nhóm những người bị buôn bán thành hai loại, một loại bị ép
buộc và một loại đồng thuận. Họ còn đề nghị nạn nhân bị buôn bán phải tự
đưa ra bằng chứng bị ép buộc của mình nếu muốn được coi là nạn nhân.
Các quốc gia ủng hộ việc tách biệt này chủ yếu là những nước đã hợp pháp
hóa mại dâm, hoặc có ngành công nghiệp du lịch tình dục phát triển.
Tuy nhiên, không thể tách rời giữa tình
trạng buôn nguời và mại dâm vì hai vấn đề này liên quan rất mật thiết
với nhau, như cung (buôn bán người) và cầu (mại dâm). Kể cả những người
phụ nữ được coi là “đồng thuận” tham gia, thực chất vẫn là bị ép buộc.
Họ thường là những người yếu thế, nghèo, không còn lựa chọn nào khác, do
hoàn cảnh họ phải đồng thuận. Bên cạnh đó, nhiều người bị cung cấp
thông tin sai lệch, một chiều hoặc thậm chí dối trá để tham gia vào công
việc này. Đến khi phát hiện bị lừa thì họ đã bị ràng buộc, kiểm soát,
dọa dẫm hoặc thậm chí bạo lực phải phục vụ như nô lệ tình dục.
Việc coi mại dâm là một nghề hợp pháp vì
nó đóng góp vào GDP, bảo vệ phụ nữ hành nghề mại dâm khỏi bạo lực và
bệnh tật là một lý luận không dựa trên công lý và sự công bằng. Thứ
nhất, phải đặt câu hỏi liệu mại dâm có phải là một ngành kinh tế đáng
mong đợi hay không? Rõ ràng là không, vì những người phụ nữ tham gia vì
không còn lựa chọn nào khác, nên đó là một lựa chọn bắt buộc. Điều này
đồng nghĩa họ phải lao động trái với mong muốn của mình. Việc lao động
trái với mong muốn của mình, trong chừng mực nào đó đồng nghĩa với nô lệ
tình dục. Một ngành kinh tế dựa vào sự chịu đựng của phụ nữ, cũng như
sự đối xử mang tính ép buộc của hệ thống là không có đạo đức. Thứ hai,
như đã thảo luận ở trên, mại dâm là một trong những nguyên nhân dẫn đến
tình trạng buôn bán phụ nữ và trẻ em. Nó là một sức hút vô hình, đẩy
nhiều con người, đặc biệt những người yếu thế vào con đường cụt, không
có tương lai. Thứ ba, mối quan hệ quyền lực giữa phụ nữ bán dâm và nam
giới mua dâm là không bao giờ công bằng, cho dù mại dâm được hợp pháp
hóa. Việc hợp pháp hóa mại dâm chỉ biến những người đàn ông thành những
người mua dâm “đàng hoàng và hợp pháp”, và vô hình dung tăng thêm quyền
lực cho họ ép buộc và hành hạ tình dục với món hàng của mình. Khi là một
món hàng, người phụ nữ bán dâm cũng khó từ chối vì nó liên quan đến
sinh kế và cuộc sống của họ.
Nếu cho rằng việc đánh đập hoặc ép buộc
quan hệ không an toàn không nằm ở bản chất của mại dâm, mà nằm ở việc
quản lý của nhà nước cũng như trình độ của đội ngũ ma cô và chủ nhà chứa
là sai lầm. Năng lực quản lý của nhà nước, đặc biệt ở những nước như
Việt Nam cho một ngành dịch vụ phức tạp này là rất yếu, đấy là chưa nói
đến tham nhũng và cấu kết bảo kê. Hơn nữa, khi hoạt động hợp pháp, các
chủ chứa và ma cô càng lộng hành vì họ được pháp luật bảo hộ. Phụ nữ mại
dâm, với “chứng chỉ hành nghề mại dâm” không cải thiện được vị thế,
cũng như quyền lực của họ trong quan hệ kinh tế này. Và kết quả là trước
đây họ bị bóc lột một cách bất hợp pháp, thì giờ đây họ bị bóc lột hợp
pháp.
Như vậy, hợp pháp hóa mại dâm tưởng như
là cách để bảo vệ quyền của phụ nữ, vô hình chung lại chỉ hợp pháp hóa
sự mua dâm của đàn ông. Hơn nữa nó sẽ tăng thêm sức hút, biến nhiều
người phụ nữ và trẻ em gái thành nạn nhân của hoạt động buôn bán người,
hoặc nô lệ tình dục. Nó hợp pháp hóa sự bất bình đẳng về cơ thể giữa
người mua dâm và người bán dâm. Đáng buồn, lợi nhuận thu được sẽ được
chia đều cho những người tham gia, thậm chí cho cả nhà nước, và người bị
hành hạ trên thân xác của mình, cuối cùng lại là người phụ nữ!
LỆ QUYÊN (DIỄN NGÔN)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét