Thứ Bảy, 8 tháng 2, 2014
Lane Kenworthy Tương lai dân chủ xã hội của Mỹ: Hình cung chính sách tuy dài nhưng đang uốn tới công bằng xã hội (2)
21:21
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tháng 2 7, 2014
CÁC RỦI RO VÀ PHẦN THƯỞNG XÃ HỘI
Hầu hết những gì mà các nhà khoa học xã
hội gọi là “chính sách xã hội” thực ra chỉ là bảo hiểm công. An sinh xã
hội (Social Security) và Bảo hiểm y tế cho người nghỉ hưu (Medicare) là
bảo hiểm giúp cá nhân chống lại rủi ro thiếu thốn hay không có tiền bạc
sau khi nghỉ hưu. Bồi thường thất nghiệp (unemployment compensation) là
bảo hiểm giúp cá nhân chống lại rủi ro mất việc làm. Các chương trình
chi trả cho người tàn tật (Disability payment) là bảo hiểm giúp cá nhân
chống lại rủi ro phải chịu những đau đớn thể chất, tinh thần và tâm lý
khiến họ không thể kiếm sống.
Các dịch vụ và quyền lợi công cộng khác
tại Hoa Kỳ cũng là các chương trình bảo hiểm, cho dù người ta thường
không quan niệm như thế. Trường công là bảo hiểm chống lại rủi ro không
có trường tư, hoặc có mà quá đắt hay thiếu chất lượng. Những chương
trình tái huấn luyện hay tìm việc là bảo hiểm chống lại rủi ro do các
điều kiện thị trường gây khó khăn cho việc kiếm việc làm. Tín dụng thuế
trên lợi tức kiếm được (The Earned Income Tax Credit [i])
là bảo hiểm chống lại rủi ro do tiền lương của một người làm việc nằm
dưới mức cần thiết để duy trì một tiêu chuẩn sống đàng hoàng. Các chương
trình trợ cấp xã hội, như tem phiếu (food stamps) và Trợ cấp tạm thời
cho các gia đình túng thiếu (Temporary Assistance for Needy Families),
là bảo hiểm chống lại rủi ro không thể tìm ra việc làm nhưng lại không
đủ điều kiện để hưởng tiền bồi hoàn thất nghiệp hay bệnh tật.
Trong thế kỷ qua, Hoa Kỳ, cũng như các
nước giàu khác, đã tạo ra một số chương trình bảo hiểm công. Nhưng để
đạt được an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, sự thịnh vượng chung thật sự,
thì trong nửa thế kỷ tới, chính phủ liên bang cần phải mạnh dạn nới
rộng tầm mức và phạm vi hoạt động của các chương trình bảo hiểm hiện có,
đồng thời đưa ra các chương trình mới.
Chính phủ có thể giúp các hộ gia đình Mỹ
có một hoặc hai người lớn đi làm bằng cách tăng mức lương tối thiểu
theo qui định và điều chỉnh mức lương này theo lạm phát và bằng cách
tăng quyền lợi được đưa ra trong Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được,
đặc biệt đối với những hộ không con, tức những người mà Tín dụng này chỉ
trả lại một số tiền nhỏ. Đối với những hộ gia đình không có người đi
làm, giải pháp này trở nên phức tạp hơn. Những người có thể thành công
trong thị trường lao động thì cần phải được giúp đỡ và được thúc đẩy đi
kiếm việc, việc này đòi hỏi một sự hỗ trợ rộng rãi và nhắm vào từng cá
nhân. Chính phủ liên bang cần phải gia tăng mức lợi ích (benefit levels)
và nới lỏng các tiêu chuẩn về quyền được hưởng các chương trình trợ cấp
xã hội chủ yếu như: Trợ cấp tạm thời cho các gia đình thiếu thốn, cứu
trợ tổng quát cho người không con (general assistance), tem phiếu thực
phẩm, trợ cấp nhà ở, và trợ cấp năng lượng.
Vài sáng kiến có thể giúp giảm bớt các
vụ mất lợi tức lớn ngoài ý muốn: bảo hiểm y tế công cộng, nghỉ phép được
trả lương để chăm sóc con, và quyền hưởng bảo hiểm thất nghiệp được nới
rộng. Hiện nay, gần một phần ba công nhân Mỹ nghỉ bệnh không được trả
lương, luật pháp Hoa Kỳ chỉ đòi hỏi các công ty cho phép nhân viên nghỉ
12 tuần không lương để chăm sóc con, và chỉ 40 phần trăm người Mỹ mất
việc có đủ điều kiện để hưởng tiền bồi thường thất nghiệp. Hoa Kỳ cũng
sẽ hưởng được lợi ích từ một chương trình bảo hiểm đồng lương (wage
insurance). Đối với người Mỹ bị sa thải và không kiếm được một việc làm
trả lương hậu như công việc trước đó, bảo hiểm đồng lương sẽ bù vào một
nửa khoảng cách giữa đồng lương cũ và đồng lương mới thấp hơn trong thời
gian một hay hai năm.
Bằng cách nâng lợi tức của những hộ gia đình nghèo có con, việc gia tăng Tín dụng thuế trên số con (the Child Tax Credit [ii])
sẽ giúp đảo ngược khoảng cách đang nới rộng trong tình trạng bất bình
đẳng cơ hội. Trường học giúp xóa khoảng cách trong năng lực trẻ em do
những khác biệt từ gia đình và khu láng giềng. Cho trẻ em vào trường ở
cái tuổi sớm hơn có thể giảm những khác biệt tồn tại khi chúng vào
trường mẫu giáo. Thật vậy, một số nhà nghiên cứu đã kết luận rằng ảnh
hưởng của việc đến trường là lớn nhất trong những năm mẫu giáo.
Vì quyền lợi của người cao niên, thiết
tưởng cần có thêm một bổ sung hữu ích cho mạng lưới an toàn xã hội Hoa
Kỳ, đó là một kế hoạch hưu trí bổ túc mà số tiền đóng góp được qui định
rõ ràng và nhân viên được tự động đăng ký. Các công ty nào đã có sẵn kế
hoạch này thì có thể tiếp tục duy trì nó, nhưng phải tự động đăng ký mọi
nhân viên và khấu trừ một phần lương của họ, trừ phi một nhân viên nào
đó không chịu tham gia. Các nhân viên không tiếp cận được một kế hoạch
hưu trí do công ty mình bảo trợ sẽ được tự động đăng ký vào quĩ hưu trí
phổ quát mới (the new universal fund), và các công nhân mà công ty không
khớp thêm (match) một số tiền tương ứng với phần đóng góp của mình sẽ
được hưởng phần khớp thêm này từ chính phủ.
Mảnh ghép cuối cùng cho bức tranh an
ninh kinh tế sẽ nằm dưới hình thức gia tăng các chi tiêu liên bang về
chăm sóc trẻ em ở các cơ sở công cộng, về đường sá và cầu cống, về y tế
và các luật lệ liên bang đòi hỏi các công ty phải thêm ngày nghỉ lễ và
nghỉ phép cho công nhân. Những thay đổi này sẽ nâng cao phẩm chất đời
sống của mọi người dân Mỹ và giải phóng lợi tức của họ để họ có thể mua
sắm các hàng hóa và dịch vụ khác.
Làm sao để chia sẻ sự thịnh vượng cho
mọi người? Cách hay nhất để đảm bảo lợi tức của các hộ gia đình gia tăng
đồng bộ với nền kinh tế sẽ là nâng cao tiền lương và tạo thêm công ăn
việc làm cho giới trung lưu và tầng lớp thấp hơn. Sau khi điều chỉnh lạm
phát, tiền lương của người Mỹ bình thường đã không tăng từ giữa thập
niên 1970, và hiện nay tỉ lệ người có công ăn việc làm thấp hơn năm
2000. Những người làm chính sách cũng phải xét đến một cách điều chỉnh
bảo hiểm công; không những phải gia tăng quyền lợi được đưa ra trong Tín
dụng thuế trên lợi tức kiếm được mà lại còn cống hiến tín dụng này cho
người Mỹ trung lưu và gắn liền nó với GDP đầu người.
Dĩ nhiên, việc chi tiêu cho bảo hiểm xã
hội sẽ diễn ra với một cái giá. Người Mỹ cần phải trả thuế nhiều hơn.
Ngoài ra, sự hiện hữu của bảo hiểm xã hội có khả năng khuyến khích thêm
các hành vi mạo hiểm hay trốn tránh công việc. Tuy vậy, bảo hiểm xã hội
cũng có nhiều lợi ích kinh tế. Một nền giáo dục và y tế tốt đẹp hơn sẽ
cải tiến năng suất. Các biện pháp ngăn chặn phá sản sẽ khuyến khích óc
kinh doanh. Chương trình bồi thường thất nghiệp sẽ khuyến khích một lực
lượng lao động linh động hơn và tạo điều kiện dễ dàng hơn cho công nhân
cải tiến kỹ năng của mình. Những chương trình như Tín dụng thuế trên số
con hay Tín dụng thuế trên lợi tức kiếm được sẽ cải thiện viễn ảnh giáo
dục và kinh tế của các trẻ em lớn lên trong những hộ gia đình nghèo. Và,
quan trọng hơn cả, bảo hiểm xã hội cho phép một nền kinh tế hiện đại đề
phòng rủi ro mà không dựa vào những biện pháp điều tiết bóp nghẹt kinh
tế, những qui định chi ly về những gì các doanh nghiệp có thể làm và
không thể làm.
Kinh nghiệm của các nước giàu trên thế
giới trong thế kỷ qua chắc chắn sẽ làm dịu nỗi lo sợ là việc gia tăng
tầm cỡ và phạm vi của các chương trình xã hội công cộng sẽ làm suy yếu
nền kinh tế Hoa Kỳ. Chắc chắn là có một mức độ nào đó mà nếu vượt quá
thì việc chi tiêu cho các chương trình công ích sẽ gây tai hại đối với
tăng trưởng kinh tế. Nhưng bằng chứng cho thấy là Hoa Kỳ chưa vượt tới
mức đó. Trên thực tế, hẳn là nước Mỹ vẫn còn nằm dưới mức đó khá xa.
CÁI GIÁ DÙ LỚN, NHƯNG LỢI ÍCH CÒN LỚN HƠN
Một số nhà quan sát, thậm chí cả những
người bên cánh Tả, lo ngại về tính khả thi của những chính sách theo mô
hình Bắc Âu – những chính sách đã thành công trong bối cảnh các nước nhỏ
và tương đối đồng nhất về chủng tộc – đối với một quốc gia rộng lớn và
đa diện như Hoa Kỳ. Nhưng tiến tới một nền dân chủ xã hội tại Hoa Kỳ gần
như chỉ là đòi hỏi chính phủ liên bang làm thêm những gì mà chính phủ
này đã thực hiện. Việc này không đòi hỏi phải chuyển sang một khế ước xã
hội khác hẳn về phẩm chất.
Nhưng liệu Hoa Kỳ có đủ sức để theo đuổi
một nền dân chủ xã hội không? Mặc dù cái giá được cộng thêm để tạo ra
những chương trình mới và triển khai các chương trình sẵn có được mô tả ở
trên trong khi vẫn duy trì An sinh xã hội và Trợ cấp y tế cho người
nghỉ hưu sẽ tùy thuộc vào phạm vi chính xác và sự hào phóng của những
chương trình này, người ta ước tính các bảo hiểm xã hội Mỹ cần thêm một
số tiền tương đương 10 phần trăm GDP của Hoa Kỳ, hay khoảng 1.500 tỉ
USD. (Một suy thoái kinh tế, như cuộc suy thoái gây ra do khủng hoảng
tài chính 2008, thường làm sai lệch các số liệu GDP và lợi tức thuế, vì
thế sử dụng dữ liệu của năm 2007, năm cao điểm của chu kỳ kinh tế trước
khủng hoảng, là cách hay nhất.) Nếu 10 phần trăm GDP nghe có vẻ dữ dội,
xin hãy nhớ hai điều: Một, nếu chi tiêu của chính phủ Hoa Kỳ tăng từ 37
phần trăm GDP, tức mức chi tiêu năm 2007, đến khoảng 47 phần trăm, sự
gia tăng này sẽ đặt Hoa Kỳ chỉ vài phần trăm trên chuẩn mực của những
nước giàu trên thế giới. Hai, một gia tăng chi tiêu chính phủ 10 phần
trăm GDP sẽ nhỏ hơn nhiều so với sự gia tăng 25 phần trăm đã diễn ra từ
năm 1925 cho đến ngày nay.
Là một vấn đề kỹ thuật, sửa đổi lại luật
thuế Hoa Kỳ để gây thêm ngân quĩ sẽ tương đối đơn giản. Bước đầu tiên
và quan trọng nhất sẽ là đưa ra một thuế tiêu thụ quốc gia dưới hình
thức một thuế giá trị gia tăng (a value-added tax), mà chính phủ sẽ đánh
lên hàng hóa và dịch vụ vào từng giai đoạn sản xuất và phân phối chúng.
Các phân tích của Robert Barro, Alan Krueger, và các nhà kinh tế khác
cho thấy rằng một thuế giá trị gia tăng ở tỉ lệ 12 phần trăm, với các
miễn trừ hạn chế, sẽ có khả năng mang lại khoảng 5 phần trăm GDP lợi tức
quốc gia — nửa số tiền cần thiết để tài trợ việc nới rộng các chương
trình bảo hiểm xã hội được đề xuất nơi đây.
Tùy thuộc quá nhiều vào một thuế tiêu
thụ là điều cấm kỵ đối với một số trí thức tiến bộ, những người tin
tưởng rằng lợi tức thuế quốc gia phụ trội phải đến chủ yếu – có lẽ hoàn
toàn – từ những hộ gia đình giàu có nhất nước. Nhưng trên thực tế,
Washington không thể vắt thêm một lợi tức thuế tương đương 10 phần trăm
GDP từ những hộ gia đình ở chóp bu xã hội, cho dù những thành phần giàu
có này đang thụ hưởng đều đặn một phần lợi tức chưa trừ thuế ngày càng
lớn hơn so với cả nước. Từ năm 1960 đến nay, thuế suất liên bang trung
bình thực thụ (tức những số tiền thuế trả cho chính phủ liên bang như
một phần của thu nhập chưa trừ thuế) đánh vào những hộ gia đình giàu có
nhất chiếm 5 phần trăm dân số chưa bao giờ vượt quá 37 phần trăm, và
trong những năm gần đây, thuế suất này chỉ quanh quẩn ở 29 phần trăm.
Nếu muốn thu vào một lợi tức thuế tương đương với 10 phần trăm GDP chỉ
từ nhóm nhà giàu này, thuế suất thực thụ nói trên sẽ phải lên đến 67
phần trăm. Dù muốn dù không, một sự tăng thuế ở mức độ này sẽ không được
các nhà hoạch định chính sách ủng hộ.
Một pha trộn gồm các thay đổi khác trong
hệ thống thuế liên bang có thể tạo thêm một lợi tức thuế tương đương
với 5 phần trăm GDP – những biện pháp như: trở lại thuế suất liên bang
trước khi có chính quyền Tổng thống George W. Bush, gia tăng thuế suất
liên bang trung bình thực thụ của 1 phần trăm dân số gồm những gia đình
giàu có nhất lên khoảng 37 phần trăm, chấm dứt việc giảm thuế cho tiền
lãi nợ nhà, đặt ra những thuế mới đánh trên khí thải carbon dioxide và
các giao dịch tài chính, nâng cao mức trần của tiền lương phải chịu thuế
an sinh xã hội [iii], và tăng thêm một phần trăm thuế suất tiền lương hiện nay.
NHỮNG Ụ GIẢM TỐC, CHỨ KHÔNG PHẢI LÀ NHỮNG Ụ CẢN CHÍNH TRỊ
Những loại cải tổ thuế này và những
chương trình bảo hiểm xã hội mà chúng tài trợ sẽ không diễn ra tức khắc.
Đó sẽ là một tiến trình chậm chạp, có phần do một loạt trở ngại mà các
đề xuất dân chủ xã hội chắc chắn sẽ gặp phải. Nhưng không một rào cản
nào trong số này tỏ ra là không thể vượt qua.
Một vấn đề cơ bản, mà những người chống
đối có thể nêu ra, là dân Mỹ vốn không thích một chính phủ đồ sộ. Mặc dù
điều này đúng ở một mức độ trừu tượng, nhưng khi nói đến những chương
trình chính phủ cụ thể, dân Mỹ lại có xu thế ủng hộ mạnh mẽ. Chẳng hạn,
theo bản Thăm dò Xã hội Tổng quát của Trung tâm Nghiên cứu Dư luận Quốc
gia, kể từ thập niên 1970, đại đa số dân Mỹ – luôn luôn trên 80 phần
trăm và thường thường trên 90 phần trăm – đã nói rằng họ tin tưởng chính
phủ hiện đang chi tiêu đúng mức hay quá ít về trợ cấp cho người nghèo,
về cải tiến hệ thống giáo dục quốc gia, về cải thiện và bảo vệ sức khỏe
cho toàn dân, và về tài trợ quĩ An sinh Xã hội.
Những người hoài nghi cũng có thể ghi
nhận rằng việc bành trướng các chương trình xã hội sẽ tùy thuộc vào sự
thành công của các ứng viên Dân chủ trong các cuộc bầu cử, và có khả
năng là thời vận của Đảng Dân chủ đang trở nên lu mờ. Phe Dân chủ đã mất
hậu thuẫn trong hàng ngũ công nhân da trắng, một thành phần quan trọng
của liên minh New Deal, một liên minh từng thống trị chính trị Hoa Kỳ từ
thập niên 1930 đến hết thập niên 1970. Nhưng các ứng viên tổng thống và
quốc hội thuộc Đảng Dân chủ đã thành công với một cơ sở cử tri mới gồm
giới chuyên nghiệp ở thành thị, phụ nữ, người Mỹ gốc châu Phi và châu Mỹ
La tinh. Việc đổ tiền ào ạt của khu vực tư vào các cuộc vận động tranh
cử, được khuyến khích bởi phán quyết Citizens United năm 2010 của Tối
cao Pháp viện [cho phép các tập đoàn kinh tế và các công đoàn đóng góp
vô giới hạn vào việc ủng hộ hay chống lại các ứng viên], có thể đặt phe
Dân chủ vào thế bất lợi khi gây quĩ. Nhưng các đóng góp của tư nhân vào
các cuộc vận động tranh cử đã gia tăng tầm quan trọng qua nhiều thập kỷ
rồi, mà cho đến nay, những ứng viên Dân chủ vẫn có thể bắt kịp đối
phương. Và mặc dù các khối dân số, các liên minh cử tri, và việc tài trợ
cho các cuộc vận động chắc chắn là quan trọng, nhưng tình hình kinh tế
thường là yếu tố quyết định chính cho kết quả của các cuộc tranh cử cấp
quốc gia. Nếu phe Dân chủ quản lý kinh tế tương đối tốt khi họ nắm chính
quyền, họ vẫn có thể duy trì khả năng cạnh tranh trong các mùa bầu cử.
Một trở ngại tiềm năng khác [cho dân chủ
xã hội Mỹ] là chuyển biến hữu khuynh trong cán cân quyền lực giữa các
nhóm lợi ích bên ngoài vũ đài tranh cử, những thế lực gây ảnh hưởng đáng
kể lên việc hoạch định chính sách. Kể từ thập niên 1970, các doanh
nghiệp và các cá nhân giàu có đã huy động được lực lượng, trong khi
phong trào công đoàn liên tục mất thành viên. Nhưng sự thay đổi này chỉ
có thể làm chậm lại, chứ không chặn đứng hẳn, sự đi tới của chính sách
xã hội tiến bộ.
Một trở ngại tiềm năng cuối cùng cho dân
chủ xã hội Mỹ là cấu trúc của hệ thống chính trị Hoa Kỳ, trong đó việc
chặn đứng các thay đổi chính sách thông qua vận động tại quốc hội hay
phủ quyết có hiệu lực của tổng thống là tương đối dễ dàng. Dựa vào cấu
trúc này, hình thức gây cản trở và trì hoãn việc thông qua các đạo luật
một cách có kỷ luật của các đại biểu Cộng hòa tại Quốc hội trong nhiệm
kỳ của Obama chắc chắn sẽ đe dọa bước tiến của bảo hiểm công. Tuy nhiên,
không chóng thì chầy, các lãnh đạo Cộng hòa sẽ tránh xa cái định hướng
cương quyết chống lại sự bành trướng của chính phủ, một định hướng đã
hình thành chiến lược và chiến thuật của Đảng Cộng hòa trong những năm
gần đây. Về lâu về dài, trọng tâm của đảng này sẽ chuyển dịch, và Đảng
Cộng hòa sẽ đi đến chỗ giống như các đảng trung-hữu (center-right
parties) tại Tây Âu, mà đại đa số đều chấp nhận một nhà nước phúc lợi
hào phóng và những loại thuế tương đối cao.
Ba điều có tiềm năng châm ngòi cho một
chuyển biến như thế. Một là sự thất cử của một ứng viên Cộng hòa rất bảo
thủ trong một cuộc tuyển cử mà lẽ ra người này đã có thể thắng nếu có
một lập trường cởi mở hơn. Nếu Đảng Cộng hòa sẽ đề cử một thành viên
trong phe cực hữu hay phe đòi hỏi tối đa cho các quyền tự do công dân và
giảm đến mức tối thiểu quyền lực chính phủ (libertarian faction) vào
năm 2016 hay 2020, ứng viên này gần như chắc chắn sẽ thất cử, và sự thất
bại này sẽ thúc đẩy các lãnh đạo Cộng hòa trở về với vị trí trung tâm.
Một yếu tố khác thúc đẩy lập trường trung dung của phe Cộng hòa là tầm
quan trọng đang gia tăng của giai cấp công nhân da trắng đối với đảng
này. Gần đây, một số tiếng nói sâu sắc và nổi bật từ khuynh hướng
trung-hữu, như David Brooks, Roth Douthat, David Frum, Charles Murray,
Ramesh Ponnuru, và Reihan Salam, đã ghi nhận rằng người da trắng thuộc
giai cấp công nhân hiện đang chật vật về kinh tế và có thể hưởng được
quyền lợi từ sự trợ giúp của chính phủ. Để tăng cường hậu thuẫn từ nhóm
cử tri này, nhiều lãnh đạo Cộng hòa hàng đầu sẽ quay ra ủng hộ – hay chí
ít không chống đối – việc nới rộng các chương trình như Tín dụng thuế
trên số con, chương trình cho trẻ đi học sớm, Tín dụng thuế lợi tức kiếm
được, An sinh xã hội, và thậm chí cả Bảo hiểm y tế cho người nghỉ hưu
và Trợ cấp y tế cho người nghèo và người tàn tật.
Có lẽ hầu hết các nhà lý luận sáng suốt
quan trọng bên cánh Hữu cuối cùng sẽ nhận thức rằng, căn cứ vào khát
vọng an ninh kinh tế và công bằng xã hội của dân Mỹ, vấn đề không còn là
chính phủ có nên can thiệp hay không, mà là nên can thiệp như thế nào.
Việc mở rộng các chương trình xã hội không nhất thiết có nghĩa là chính
phủ sẽ can thiệp hơn nữa vào thị trường và làm suy yếu thêm tính cạnh
tranh. Về điểm này, một lần nữa các nước Bắc Âu có thể soi đường dẫn lối
cho Hoa Kỳ. Viện nghiên cứu chính sách bảo thủ Heritage Foundation hợp
tác với The Wall Street Journal trong một dự án đánh giá các
nước trên mười kích thước của tự do kinh tế. Mặc dù Hoa Kỳ có các mức
thuế và chi tiêu của chính phủ thấp hơn các nước Bắc Âu, nhưng tính
trung bình Đan Mạch, Phần Lan, và Thụy Điển có điểm số cao hơn Mỹ trên
tám kích thước khác, gồm quyền thiết lập và điều hành một xí nghiệp mà
không có sự can thiệp của nhà nước, số rào cản bằng luật lệ điều tiết
đối với hàng nhập và xuất khẩu, số hạn chế áp đặt lên việc chuyển vốn.
Dân Mỹ muốn được chính phủ che chở và hậu thuẫn. Để đáp lại những nguyện
vọng này, các nhà hoạch địch chính sách phải lựa chọn giữa bảo hiểm
công và việc điều tiết kinh tế bằng luật lệ, và phe bảo thủ chắc chắn sẽ
ủng hộ bảo hiểm công hơn.
NƯỚC MỸ CỦA THẾ KỶ 21
Có lẽ điều quan trọng nhất để ghi nhận
về tương lai dân chủ xã hội của Hoa Kỳ là, tương lai này sẽ không cực kỳ
khác xa hiện tại. Hoa Kỳ sẽ không trở thành một xã hội không tưởng tiến
bộ (a progressive utopia); nói đúng ra, nó sẽ trở thành một phiên bản
tốt hơn của chính mình hiện nay.
Một bộ phận đông đảo hơn gồm người đã
trưởng thành sẽ có công ăn việc làm, mặc dù đối với nhiều người, tuần
làm việc sẽ ngắn hơn và sẽ có nhiều ngày nghỉ phép và nghỉ lễ hơn. Gần
như tất cả mọi công việc sẽ nằm trong khu vực dịch vụ, đặc biệt là nghề
dạy học, quảng cáo, huấn luyện, tổ chức, phụ tá, y tá, giám sát, và vận
chuyển; chỉ khoảng năm phần trăm số người làm việc sẽ ở trong khu vực
chế tạo hay nông nghiệp. Hầu hết người Mỹ sẽ thay đổi công việc và thậm
chí thay đổi nghề nghiệp thường xuyên hơn hiện nay. Sẽ có thêm nhiều
người Mỹ làm việc với lương thấp, và trong cuộc đời làm việc của mình sẽ
mất việc ít nhất một lần, và khi đến tuổi nghỉ hưu sẽ không dành dụm
được bao nhiêu. Gia đình, tổ chức cộng đồng, và công đoàn thậm chí có
thể trở nên yếu kém hơn hiện nay.
Nhưng bằng cách bổ túc những khiếm
khuyết trong mạng lưới an toàn xã hội, chính phủ liên bang sẽ cải thiện
an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, và thịnh vượng chung cho hầu hết mọi
người Mỹ bất chấp những thay đổi nói ở đoạn trên. Một nước Mỹ dân chủ xã
hội sẽ là một xã hội có an ninh kinh tế và công bằng rộng lớn hơn. Kinh
tế sẽ linh hoạt, năng động, và sáng tạo hơn. Tỉ lệ người có công ăn
việc làm sẽ tăng lên. Người dân sẽ có nhiều tự do trong sinh hoạt. Việc
quân bình giữa việc làm và gia đình sẽ trở nên dễ dàng hơn. Dân Mỹ sẽ
trả thuế cao hơn hiện nay, nhưng sự hi sinh này là đáng giá, vì họ sẽ
nhận về nhiều lợi lộc.
Hoa Kỳ đã tiến bộ nhiều trên con đường
trở thành một xã hội tốt đẹp, nhưng quốc gia này còn phải đi xa hơn nữa.
May thay, lịch sử Mỹ và kinh nghiệm của các quốc gia giàu có khác đang
chỉ dẫn con đường đi tới. Sở dĩ Hoa Kỳ ngày nay là một nước tốt đẹp hơn
nhiều so với một thế kỷ trước đây là vì chính phủ liên bang đã nỗ lực
nhiều hơn để đảm bảo an ninh kinh tế, cơ hội đồng đều, và thịnh vượng
chung. Trong tương lai, nếu chính phủ này nỗ lực hơn nữa, thì đất nước
này nhờ thế sẽ còn tốt đẹp hơn.
LANE KENWORTHY là
giáo sư Xã hội học và Chính trị học tại Đại học Arizona. Bài tiểu luận
này dựa vào tác phẩm gần đây nhất của ông, Social Democratic America
[Nước Mỹ dân chủ xã hội] (Oxford Unversity Press, 2014).
Nguồn: “America’s Social Democratic Future – The Arc of Policy Is Long But Bends Toward Justice”, Foreign Affairs Jan/Feb 2014
Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
[i]Tín
dụng thuế trên lợi tức kiếm được (the Earned Income Tax Credit): số
tiền thuế mà chính phủ liên bang hoàn trả lại cho những cá nhân hoặc cặp
vợ chồng có lợi tức thấp hoặc trung bình – đặc biệt những người có con.
[ii]Tín dụng thuế trên số con (The Child Tax Credit): số tiền thuế hoàn trả lại cho một hộ gia đình, dựa trên mức lợi tức và số con.
[iii]Riêng
năm 2013, trần lợi tức phải chịu thuế An sinh Xã hội là 113.700 USD; số
tiền kiếm được ngoài mức trần này khỏi phải đóng thuế An sinh Xã hội.
Nghĩa là, người có lợi tức 113.700 USD và người kiếm được một triệu USD
trong năm 2013 sẽ đóng thuế An sinh Xã hội ngang nhau.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét