Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014
Giê Su Là Ai ?
19:35
Hoàng Phong Nhã
No comments
CHƯƠNG I
-GIÊ-SU LÀ AI?
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoạioại... Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
(Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth... Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.)
(Russell Shorto in "Gospel Truth")
Như là một định chế trong thế giới này, Vatican đã thông thạo những phương pháp biến chế, xào xáo sự thực bằng những cách lạ lùng để thúc đẩy chương trình toàn cầu của mình. Vatican đã thông thạo cách che dấu lịch sử, khai thác sự ngu dốt của con người, và ngụy trang những chính sách phi-dân chủ của mình...
(As an institution in this world the Vatican has learned to manipulate and manage truth in strange ways in furthering its world-wide program. It has learned to shade history, exploit human ignorance, and disguise its undemocratic policies...)
(Paul Blanshard, in "The Management of Truth: The Vatican")
Ki-Tô Giáo nói chung, đặc biệt là Giáo-hội Ca-Tô Rô-Ma (phiên âm từ "The Roman Catholic Church") mà người Việt Nam thường biết dưới cưỡng từ quen thuộc là Giáo Hội Công Giáo La-Mã, đã thành công trong việc tạo dựng lên một hình ảnh của Giê-su, đối tượng của một đức tin thuộc loại "Tin là một cách sống, chết; không liên quan gì đến cái biết, cái hiểu." (Đỗ Mạnh Tri, trong cuốn "Ngón Tay và Mặt Trăng") trong đám tín đồ đông đảo, gần 2000 năm qua. Hình ảnh Giê-su mà Giáo hội cấy vào đầu tín đồ rất xa với sự thực, những sự thực không nằm trong sự hiểu biết của tín đồ, vì Giáo hội cũng đã thành công trong việc biến tín đồ thành những thuộc hạ với tâm cảnh nô lệ, hoàn toàn tuân phục Giáo hội. Trong bức "Thư Chung Năm 2001" của "Hội Đồng Giám Mục Việt Nam" gửi "Cộng Đồng Dân Chúa" để họ "Được Sống Dồi Dào", mục 4, các giáo dân được khuyến khích phải "quên mình trong vâng phục" theo đúng Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 44, nghĩa là phải tuyệt đối vâng phục những điều "Giáo hội dạy rằng...". Do đó, bất cứ Giáo hội giảng dạy ra sao, bất kể những điều giảng dạy này có đúng sự thực hay không, có thuận lý hay không, có hợp với trình độ hiểu biết của nhân loại ngày nay hay không v..v.., tín đồ đều phải vâng phục và tin theo. Đây là truyền thống tín ngưỡng của Ca-Tô Giáo Rô-ma. Thật vậy, Truyền thống trong Ca-Tô Giáo Rô-ma được tóm tắt trong câu (J. Sheatsley, The Pope's Catechism, p.80):
Tín đồ Ca-Tô phải tin tất cả những gì Thiên Chúa đã mạc khải và tất cả những gì Giáo hội Ca-Tô dạy, bất kể là những điều đó có hay không có trong Thánh Kinh.
Vì Truyền Thống Ca-Tô (nghĩa là những gì giáo hội dạy) và Thánh Kinh đều do Thiên Chúa mạc khải.
(A Catholic must believe all that God has revealed and the Catholic Church teaches, whether it is contained in Holy Scripture or not.
Because Catholic Tradition and Holy Scripture were alike revealed by God)
Bản chất của Tin Lành cũng không khác gì Ca-Tô Giáo. Họ chỉ thay những lời "Giáo hội dạy rằng.." của Ca-Tô Giáo bằng câu "Thánh Kinh viết rằng..." và điều kiện tiên quyết để theo Tin Lành là phải tuyệt đối tin vào Thánh Kinh và huyền thoại cứu rỗi của Giê-su. Trong Tin Lành, thẩm quyền của Giáo hội trong Ca-Tô Giáo được thay thế bằng thẩm quyền của Thánh Kinh. Mục sư Tin Lành Rubem Alves viết trong cuốn "Protestantism and Repression", trang 62 như sau về đức tin trong đạo Tin Lành: "Nếu những sự kiện khoa học, nhân văn, xã hội v..v.. hay thực tế ở ngoài đời (real life) mà trái ngược với Thánh Kinh thì những sự kiện này đương nhiên phải dẹp bỏ." (If the facts oppose the text (of the Scriptures), abolish the facts). Nếu khoa học mà phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học tốt (Good science). Nếu khoa học mà không phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học xấu (Bad science). Truyền thống trong Tin Lành cũng là phải tuyệt đối tin rằng con người sinh ra trong tội lỗi (born in sin) và do bản chất đó, con người không thể làm gì tốt (by nature, incapable of doing good), phải bị đày đoạ vĩnh viễn (To be a sinner is to be destined to eternal damnation), và cách duy nhất để được cứu rỗi là phải tin vào quyền năng của Giê-su (Justification by Faith). Vì vậy, Rubem Alves viết: "Chúng ta không bao giờ thấy Tin Lành giải thích hay biện minh cho thẩm quyền của Thánh Kinh bằng sự hiểu biết hay xuyên qua những thực tế ở ngoài đời. (Ibid., p.34: We will never see Right Doctrine Protestantism trying to explain or justify biblical authority in terms of understanding or comprehension of existence that it offers.)
Do đó, thảm trạng của nhân loại ngày nay là, gần một phần tư dân số trên thế giới vẫn tiếp tục sống trong bóng tối của một ý thức hệ mà thực chất không còn phù hợp với trình độ trí thức của con người trong thời đại thông tin điện tử này. Họ là nạn nhân của một nền Thần học tinh vi, dựa trên nhiều ngụy tạo và gian dối, một nền Thần học có tác dụng giữ họ trong bóng tối của đức tin thời Trung Cổ. Luận cứ này sẽ được chứng minh trong những phần sau của cuốn sách này.
Cho nên, nếu chúng ta đặt một câu hỏi then chốt: Giê-su là ai? thì câu trả lời thật là dễ dàng đối với những tín đồ Ki Tô Giáo, Ca-Tô cũng như Tin Lành: “Chúa tôi.”, vì họ chỉ được dạy như vậy và tin có vậy. Nhưng nếu chúng ta hỏi tiếp: “Chúa tôi là ai?” thì có lẽ tín đồ Ki Tô Giáo sẽ không trả lời vì không biết trả lời ra sao. Nhưng phần chắc là, do được dạy nhồi sọ từ nhỏ, họ sẽ nhìn chúng ta với một cặp mắt khinh khi, cho rằng chúng ta đích thật là những kẻ mọi rợ, chưa biết đến “tin mừng phúc âm.” trong khi họ chưa bao giờ đọc đến phúc âm và cũng không biết trong phúc âm có những gì, ngoài vài điều vụn vặt chọn lọc được rao giảng trong nhà thờ, và trong sách báo tuyên truyền một chiều của Ki-Tô giáo. Chỉ có điều, đối với thiểu số trên thế giới thì phúc âm, hay nói cho đúng hơn, những điều mê tín cách đây 2000 năm của dân tộc Do Thái, quả mang đến một tin mừng: “cứ tin ở Chúa thì sau khi chết phần hồn sẽ được lên thiên đường ở cùng Chúa, và đến ngày phán xét cuối cùng, thì Chúa sẽ làm cho xác chết của mình sống lại đoàn tụ với linh hồn”. Nhưng đối với đa số trên thế giới hiện đại có chút ít đầu óc thì chuyện “linh hồn lên thiên đường và xác chết ngày sau sống lại” thuộc loại chuyện “Chú Cuội ngồi trên cung Hằng”, vì "cứ tin ở Chúa" chỉ có thể áp dụng cho con người sinh sau Chúa, nghĩa là cách đây khoảng 2000 năm, trong khi lịch sử nhân loại đã trải dài ít ra là vài triệu năm.
Có lẽ tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô Giáo không hề đọc đến 3 tác phẩm nhan đề Giê-su là ai?, trong số hàng trăm tác phẩm khác, mà nội dung là kết quả nghiên cứu về nhân vật Giê-su trong lịch sử Ki Tô Giáo. Tác giả 3 tác phẩm nghiên cứu về cùng một chủ đề này là hai học giả Ki-Tô: Colin Cross và Thomas Wright, và Linh mục Ca-Tô John Dominic Crossan, giáo sư thần học tại đại học De Paul ở Chicago trong 26 năm. Ba tác phẩm này cùng với nhiều tác phẩm nghiên cứu khác ngày nay đã có thể cho chúng ta một cái nhìn về nhân vật Giê-su hoàn toàn khác với hình ảnh cùng những thuộc tính mà các giáo hội đã cấy vào đầu óc các tín đồ về Chúa của họ. Ngay cả mặt mũi thực sự của Giê-su cũng được đài BBC dùng máy điện toán tái tạo dựa trên những mẫu sọ người Do Thái cách đây 2000 năm, và những hình vẽ người Do Thái cho đến thế kỷ thứ 4. Hình ảnh gần đúng với sự thực này đã được đăng trên báo chí, và chương trình “Dateline NBC” của đài truyền hình NBC ngày 11 tháng 4, 2001 cũng đưa lên cho cả thế giới coi. Hình ảnh này cũng được đài TV Discover loan truyền cho thế giới coi tối ngày 15 tháng 4, 2001, trong cuốn phim khảo cứu “Jesus: The Complete Story”, cùng với những chi tiết đối ngược với những luận điệu thần học của giáo hội. Theo các khoa học gia thì hình ảnh Giê-su mà chúng ta thường thấy trên các hình vẽ, tượng hình v..v.. ngày nay chỉ là những sản phẩm tưởng tượng của các nghệ sĩ (Artists’ fantasies) thuộc giống dân da trắng, vì sự thực là không có một tài liệu nào cho biết hình dáng Giê-su ra sao. Nhưng với kỹ thuật tái tạo trong khoa học ngày nay, người ta đã có thể tái tạo khuôn mặt của Giê-su một cách sát với thực tế nhất. Khuôn mặt này trông thô lỗ, râu tóc quăn, da ngăm ngăm, mũi to, môi dày v..v.., như chúng ta thấy ở đầu cuốn sách này, không có gì giống với những hình ảnh do người da trắng tạo ra theo sự tưởng tượng của họ. Sự tái tạo khuôn mặt Giê-su của đài BBC đã gây nên nhiều phản ứng trong giới da trắng vì theo quan niệm của họ, Giê-su phải là người da trắng, mặt mũi gọn ghẽ như hình ảnh mà chúng ta thường thấy trong các xã hội Âu Mỹ.. Trong tờ Chicago Tribune ngày 13 tháng 4, 2001, Brad R. Braxton viết: “Vấn đề không phải là có lẽ Giê-su có tóc quăn, mũi lớn, môi dầy, da đen mà là tại sao hình ảnh này lại thu hút sự chú ý (phản đối) của một số người da trắng... Trong nhiều thế kỷ, dân da trắng đã hưởng lợi thế về tôn giáo, tâm lý, chính trị và kinh tế vì đã vẽ ra một vị thần theo hình ảnh của họ. Vẽ ra chân dung của Giê-su như là một người da trắng vốn không phải là điều khó hiểu. Đó chỉ là thần học dưới dạng nghệ thuật.” (So the news is not that Jesus probably had curly hair, a broad nose, thick lips and dark skin, the news is why this is so arresting to some white people...For centuries, white people have enjoyed the religious, psychological, political and economic advantages of having the divine cast in their image. The depiction of Jesus as a white man is not inherently problematic. It is theology in the form of art.)
Vậy thì “Giê-su là ai?”. Cho đến thế kỷ 16, hầu như toàn thể Á Châu chẳng có mấy người biết Giê-su là ai. Còn ở Âu Châu thì không một ai dám đặt ra câu hỏi này và không một ai dám phê phán bình luận cuốn Thánh Kinh vì sợ bị tù đầy, tra tấn và mang đi thiêu sống. Chúng ta nên nhớ, những tòa hình án xử Dị Giáo của giáo hội Ca-Tô, vì thế giới loài người càng ngày càng văn minh hơn, do đó quyền lực của giáo hội cũng càng ngày càng suy sụp, chỉ được dẹp bỏ vào khoảng giữa thế kỷ 19, sau khi đã tra tấn và giết hại 11 triệu người "dị giáo", và “Thánh bộ” (Holy Office) cầm đầu các tòa án xử dị giáo đã được biến thể, đổi tên thành Thánh Bộ Truyền Bá Giáo Lý Về Đức Tin, ngày nay do “hồng y thiết giáp” Ratzinger đứng đầu.
Sự tiến bộ trí thức là một định luật thiên nhiên của nhân loại. Dù giáo hội Ca-Tô đã tìm hết cách và xử dụng tối đa mọi quyền lực thế gian trong suốt 1500 năm, từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 19, với những biện pháp dã man, tàn bạo nhất để ngăn chận sự tiến bộ này, cuối cùng giáo hội cũng phải đầu hàng trước những bước tiến trí thức của loài người. Thật vậy, ngay từ 1760, Hermann Samuel Reimarus, giáo sư ngôn ngữ Á Đông tại đại học Hamburg bên Đức, đã viết một cuốn sách đưa ra nghi vấn về sự thực lịch sử viết trong các phúc âm. Vì sợ bị giáo hội trả thù, ông ta đã xếp đặt để cho tác phẩm của ông được xuất bản sau khi ông ta chết. Rồi cho đến năm 1835, Giáo sư Thần học David Friedrich Strauss cho ra đời cuốn Khảo Xát Kỹ Cuộc Đời Của Giê-su (Life of Jesus Critically Examined) trong đó tác giả dùng những phương pháp phân tích để đi tới kết luận: “các phúc âm không phải do các tông đồ của Giê-su viết mà là do những tín đồ Ki Tô về sau, những người đan lẫn những truyền thuyết, những điều tưởng tượng và sự kiện vào với nhau.”(..the gospels were written not by followers of Jesus but by later Christians who wove fact, legend, and fantasy together). Sau đó Strauss bị cấm dạy môn Thần học cho đến khi chết. Chúng ta có thể đọc tóm tắt những tác phẩm của Reimarus và Strauss trong cuốn sách được coi là làm “lung lay thế giới thần học” (..it rocked the theological world) vào đầu thế kỷ 20, Tìm Kiếm Nhân Vật Giê-su Lịch Sử (The Quest of The Historical Jesus), của một tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới, Y Khoa Bác Sĩ Albert Schweitzer. Ngoài bằng bác sĩ, Albert Schweitzer còn có hai bằng cấp khác: tiến sĩ Thần học, và tiến sĩ Triết Học.
Bước sang thế kỷ 20, sự khám phá ra những cuộn kinh nơi Biển Chết (The Dead Sea Scrolls) song song với kỹ thuật định tuổi vật chất cùng nhiều khám phá khác trong ngành khảo cổ đã giúp cho những nhà nghiên cứu rất nhiều trong công cuộc đi tìm những sự thực trong Thánh Kinh. Rồi đến thập niên 1960, những khoa dạy môn Thần học trong các trường đại học Ki Tô bắt đầu xuống dốc vì càng ngày càng ít người học, nhiều học giả đã bỏ các trường đại học Ki Tô để sang dạy tại các trường đại học công, nơi đây họ có nhiều tự do hơn trong việc khảo cứu.
Tất cả những sự kiện trên đã làm động cơ thúc đẩy cho công cuộc nghiên cứu phúc âm và về nhân vật Giê-su phát triển mạnh mẽ. Điển hình là Hội Nghiên Cứu Giê-su (The Jesus Seminar) gồm nhiều học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, đã phối hợp các kỹ thuật nghiên cứu tân tiến nhất như khảo cổ, cổ sinh vật học, phương pháp định tuổi vật chất, với phương pháp phân tích ngữ học, cổ ngữ học, xã hội học, sử học v..v.. để phân tích từng câu, từng lời, từng sự kiện viết trong phúc âm. Một khuôn mặt đặc biệt trong ngành nghiên cứu Tân Ước lại chính là một linh mục Ca-Tô: John P. Meier, giáo sư Thần học. Trong tác phẩm Một Người Do Thái Ở Ngoài Lề, Không Đáng Kể: Nghĩ Lại Về Nhân Vật Giê-su Lịch Sử (A Marginal Jew: Rethinking The Historical Jesus), tập 1 và 2, nhà xuất bản Doubleday tại New York phát hành năm 1991 và 1994, với sự duyệt và phê chuẩn (imprimatur) của Vatican, tuy còn dè dặt trong những điểm tế nhị khác thuộc về đức tin Ca-Tô, linh mục Meier đã thẳng thắn luận về những bằng chứng chứng tỏ Giê-su là đứa con hoang, đã lấy vợ, và nhiều chủ đề khác có thể gây ngỡ ngàng trong một giáo xứ (He discusses evidence that the historical Jesus was illegitimate, that he was married, and various topics that might raise eyebrows in a parish house). Hơn thế nữa, Meier đồng ý với các đồng nghiệp trong ngành, bác bỏ những chuyện có tính cách siêu nhiên trong Tân Ước như là sự thực lịch sử – Giê-su đi trên sóng, biến đổi nước thành rượu, và các phép lạ khác v..v.. Linh mục Meier cũng bàn đến một vấn đề quan trọng khác liên hệ đến tín lý then chốt “Maria đồng trinh” của Ca-Tô giáo, và đưa ra nhiều bằng chứng trong Thánh Kinh chứng tỏ là bà Maria đã sinh nở ít ra là 7 lần, với Giê-su là đứa con đầu lòng. Lẽ dĩ nhiên, tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô không hề biết đến những kết quả nghiên cứu sâu rộng này.
Vậy kết quả những công cuộc nghiên cứu về nhân vật Giê-su ra sao? Cho đến nay, các chuyên gia về tôn giáo ở trong cũng như ngoài Ki Tô giáo đã có thể đưa ra một giải đáp khá chính xác cho câu hỏi "Giê-su là ai?". Những kết quả nghiên cứu tổng hợp về nhân vật Giê-su đã cho chúng ta một con người lịch sử hoàn toàn khác với hình ảnh Giê-su mà các giáo hội Ki Tô đưa ra trước đám đông tín đồ thấp kém. Tại sao vậy? Chúng ta có thể đọc trong cuốn Sự Thật Về Phúc Âm của Russell Shorto, một học giả đã nghiên cứu và duyệt qua những công cuộc nghiên cứu về nhân vật Giê-su trong hai thế kỷ 19 và 20, những đoạn như sau:
Bữa ăn chiều cuối cùng, Sinh ra từ một trinh nữ, chết rồi sống lại: những niềm tin chính của Ki Tô Giáo đang bị thử thách từng điểm một. Các học giả chuyên nghiên cứu Thánh Kinh – một thời đã là những người gìn giữ nền Thần học Ki Tô – ngày nay đang dùng khoa khảo cổ, cổ sinh vật học, ngữ học, khoa học điện toán, và ngay cả khoa vật lý các hạt nhỏ, để tìm hiểu vấn đề “Giê-su là ai?” Kết quả là một sự duyệt lại tận gốc rễ Phúc âm và chuyện trong Phúc âm nay đã trở nên thật là rõ ràng nhưng lại làm cho một số người choáng váng bàng hoàng.
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu (như LM John Meier. TCN), cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại. 1
...Công cuộc nghiên cứu của Hội Nghiên Cứu Giê-su, và của tất cả những nhà nghiên cứu Thánh Kinh ngày nay, biểu thị cho một sự chuyển hướng của các học giả chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh về tiêu chuẩn lương thiện văn hóa, lánh xa sự độc đoán của giáo hội. Theo Funk (chủ tịch Hội Nghiên Cứu Giê-su. TCN), các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng (ảo tưởng tin rằng mình chính là con của Thần Do Thái và là đấng cứu tinh của dân Do Thái. TCN) – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. 2
Có ba chi tiết quan trọng trong đoạn tóm tắt kết quả nghiên cứu về nhân vật Giê-su của Shorto ở trên: 1) Phần lớn những điều mà ngày nay chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại; 2) Giáo hội và các bậc lãnh đạo trong giáo hội đã biết rõ sự thực trên; 3) Chỉ có những tín đồ Ki-Tô, và có thể những bậc lãnh đạo Ki Tô trong các nước kém phát triển, hoặc một số người ngoại đạo không hề nghiên cứu về nhân vật Giê-su, là vẫn còn tin rằng những gì giáo hội dạy về Giê-su đều là sự thực, và do đó vẫn tiếp tục sống trong bóng tối.
Phải chăng Shorto đã đưa ra những nhận định vô căn cứ? Tuyệt đối không phải. Chúng ta hãy xét đến vài kết quả nghiên cứu điển hình về nhân vật Giê-su của một số giám mục, linh mục, học giả chuyên về tôn giáo:
1. Trong cuốn Giê-su Là Ai ?, học giả Ki Tô Colin Cross viết như sau trong phần dẫn nhập:
Nhìn từ xa và xét về toàn thể, Giê-su ở Nazareth có vẻ như là một nhân vật lịch sử hiển nhiên. Nhưng khảo xát kỹ về bất cứ chi tiết nào cũng làm cho hình ảnh này mờ nhòa. Lý do về sự bất minh này thật là hết sức đơn giản. Đó là chúng ta không có bất cứ một tài liệu nào, thuộc bất cứ lãnh vực nào, về phần lớn cuộc đời của ông. Ông ta không viết một cuốn sách nào. Ngay cả hình dáng của ông ra sao cũng không ai biết. Không có ngay cả một bằng chứng nào tự nó có giá trị để chứng tỏ là ông đã hiện hữu. Những tài liệu hiện hữu, những phúc âm, chỉ viết về một phần nhỏ nhoi của đời ông và được viết theo quan điểm sùng bái cá nhân và nghi thức tôn giáo chứ không phải theo quan điểm sử học thông thường. Trong những chuyện kể trong phúc âm có những điều bất phù hợp nghiêm trọng cũng như những điều rõ ràng là không thể xảy ra. 3
2. Mục Sư Ernie Bringas cũng viết như sau, trong cuốn Thi Hành Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Do Quyền Lực Thánh Kinh Gây Nên:
Điểm đồng thuận ngày nay là nhân vật lịch sử Giê-su - những lời Giê su nói và những hành động Giê-su làm, và những biến cố xảy ra trong cuộc đời của ông - không thể xác định được chính xác. Trong khi chúng ta biết tác giả của một phúc âm nhìn nhân vật Giêsu như thế nào như họ đã viết lại, và viết lại như thế nào, thường là chúng ta không thể đi quá những điều viết trong phúc âm để biết về chính con người thực của Giê-su. Chúng ta không thể đoan quyết là những lời nào viết trong phúc âm về cuộc đời của Giê-su là đúng như sự thực. 4
3. Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên chiếm được ngôi vị Giáo sư Thần học Ca-Tô (A Chair in Catholic Theology), viết trong phần dẫn nhập của cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con như sau:
Chúng ta vấp phải sự thực sau đây về nhân vật Giê-su. Chúng ta không biết khi nào ông ta sinh ra và ở đâu cũng như khi nào ông ta chết. Ông ta là một người không có một tiểu sử. Chúng ta không biết những hoạt động của ông như là một thầy giảng trước quần chúng thật sự đúng là ở đâu và kéo dài bao lâu. Nói cho thật đúng, chúng ta chẳng biết gì nhiều hơn là ông ta đã sinh ra đời, có người theo ông ta làm môn đồ, và ông ta bị hành quyết trên giá hình chữ thập – loại hình phạt của La Mã – và như vậy có một kết cục xấu số...
Ông Giê-su này không chỉ nằm sâu dưới đất ở Jerusalem (nghĩa là thực ra đã chết và chôn ở Jerusalem. TCN) mà còn ở dưới một núi những nghệ thuật tồi tệ, chuyện hoang đường, và cách diễn giải của giáo hội. 5
4. Học giả Andrew Harvey viết trong cuốn Con Của Người:
Không còn nghi ngờ gì nữa, sự phân tích lịch sử đã chứng tỏ là các phúc âm không phải là những điều do Thần Ki Tô linh cảm hoặc là những điều trung thực do nhân chứng kể lại về cuộc đời của Giê-su, mà là những câu chuyện đã được gọt dũa cẩn thận, được xếp đặt để cho phù hợp với, hoặc cổ xúy những sở thích tôn giáo, nhân cách, nhóm người khác nhau trong những năm đầu đầy xúc động của Ki Tô Giáo. Những phúc âm không phải là những tài liệu viết ra theo sự linh cảm trực tiếp của Thần thánh, hoặc những ghi chứng lịch sử rõ ràng; chúng không phải là những điều mạc khải trực tiếp của Thần Ki Tô hoặc là những chuyện do những nhân chứng, những người biết rõ Giê-su, muốn kể lại rõ ràng những kinh nghiệm của họ đối với Giê-su. Được viết vào cuối thế kỷ đầu, chúng biểu thị và cô đọng những truyền thống trong những cộng đồng Ki Tô đầu tiên và từ từ biến đổi trong khoảng 300 năm để thành những phúc âm ngày nay chúng ta có. 6
5. Giám mục John Shelby Spong viết trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà:
Giê-su được diễn giảng bởi những tín đồ Ki Tô lúc đầu theo những quan niệm về Thần Ki Tô mà họ tin tuyệt đối, dựa theo hình ảnh của một ông vua trên trời. Điểm chủ yếu là hình ảnh Giê-su ngồi bên phải của cái ngai Chúa Cha ngồi trên trời. Hình ảnh này phản ánh niềm tin huyền thoại phổ thông thời đó về một vũ trụ được coi như là một vương quốc.
Nhưng Giê-su đã được “sinh ra từ một người đàn bà”. Sự sinh ra đời của Giê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta chết. Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa kiếm ra và chưa nổ . 7
Rồi giám mục Spong đã vạch ra những luận cứ, nhiều khi rất mâu thuẫn, của giáo hội đưa ra để thay đổi những sự kiện trên như sau:
Một lần nữa, nghệ thuật diễn giảng lại được mang ra áp dụng. Ông ta không phải là đứa con hoang, Thần Ki Tô là cha ông ta; Thánh Linh đã sinh ra ông ta. Ông ta không sinh ra ở Nazareth, mà sinh ra ở Bethlehem, thị trấn của David. Sự sinh ra ở Bethlehem đã được tiên đoán bởi nhà tiên tri Micah. Ông ta không phải không là ai cả, mà là thuộc dòng dõi vua David. 8
6. Trong cuốn Giê-su Chính Gốc, hai tác giả Elmar R. Gruber và Holger Kersten viết:
Hầu như không có đề tài nào khác gây sôi nổi trong thế giới Tây phương như là nhân vật “Giê-su ở Nazareth”; hầu như không có đề tài nào khác đã đưa đến sự hiện hữu của nhiều cuốn sách như vậy, hoặc đến những sự tranh luận sôi nổi và nồng nhiệt như vậy. Tuy vậy, nhân cách của con người Giê-su lịch sử được bao phủ bởi một bức màn đen tối dày đặc. Trong 15 thế kỷ, chúng ta chỉ có những chuyện kể về Giê-su theo luận điệu thần học chính thức của giáo hội, viết ra với mục đích củng cố đức tin Ki-Tô cùng lôi cuốn người ngoại đạo vào Ki Tô giáo....
Trong thế kỷ 19, lần đầu tiên Tân Ước được đưa ra làm chủ đề nghiên cứu trí thức. Đây là sự bắt đầu của công cuộc khảo cứu có hệ thống về cuộc đời của Giê-su.
Năm 1835 David Friedrich Strauss đã xuất bản một
cuốn sách nhan đề Cuộc Đời Của Giê-su, gây nhiều ảnh hưởng. Trang bị với những quan điểm phân tích thuần lý và với tinh thần không thỏa hiệp, Strauss đã thẳng thắn bác bỏ tích cách chính xác lịch sử của các phúc âm. Đối với ông, những điều viết trong phúc âm chỉ là những truyền thuyết và những chuyện sùng tín về hình ảnh con người Giê-su, lấy ý từ Cựu Ước. Sự chống đối tính cách xác thực của phúc âm như trên còn đi xa hơn vào khoảng giữa thế kỷ 19. Bruno Bauer loại hẳn hình ảnh của Giê-su trong công việc nghiên cứu lịch sử, tuyên bố rằng nhân vật chính trong Tân Ước là một phát minh huyền thoại. Giê-su và Paul (Phao Lồ) chỉ là những giả tượng văn chương; và Ki Tô Giáo được coi là tạo ra bởi một nhóm cuồng tín pha chế đức tin xung quanh hai nhân vật phát minh từ những truyền thống tôn giáo Hi Lạp, Do Thái và La Mã.
Ngày nay chúng ta có đến hơn 80000 tác phẩm chuyên khảo về Giê-su, nhưng tác dụng của chúng để soi sáng nhân vật Giê-su lịch sử thật quả là vô cùng khiêm nhường. Ai là Giê-su? Ông ta sinh ra bao giờ? Hình dáng ông ta ra sao? Khi nào ông ta bị đóng đinh trên thập giá? Bao giờ, ở đâu và ông ta chết như thế nào? Tìm kiếm giải đáp cho những câu hỏi trên đã trở thành một vấn đề không giải quyết nổi. Trong những cuốn sách viết trong hai thế kỷ đầu hầu như không có cuốn nào nhắc đến Giê-su như là một con người thực sự hiện hữu. Những nguồn tài liệu về sau toàn là những tác phẩm thần học, dựa trên niềm tin không thắc mắc: Giê-su là con đấng Cứu Tinh (của dân Do Thái. TCN) và là con của Thần Gia-vê (thần của dân Do Thái. TCN). Do đó, hầu như không có những tác phẩm thực sự vô tư về Giê-su, và cho tới ngày nay, công cuộc nghiên cứu trí thức cũng không ở vị thế có thể khẳng định là Giê-su sinh ra năm nào. Hầu như không có tài liệu nào nói về cuộc đời niên thiếu của Giê-su, một giai đoạn quan trọng làm nền tảng tạo ra những cá tính của con người. Ngay cả những chuyện kể về khoảng thời gian ngắn ngủi ông ta tiếp xúc với quần chúng cũng không nói gì nhiều về tiểu sử của ông ta. Có vẻ như là ông ta không được các sử gia đương thời biết tới, hay ít nhất là không đáng để nhắc tới. Vậy làm sao mà các sử gia này không hề biết tới những phép lạ hoặc những hiện tượng kỳ lạ như được kể trong phúc âm? 9
7. Michael Martin trong cuốn Bản Án Chống Ki Tô Giáo viết:
Những phương pháp phân tích hiện đại về học thuật khảo cứu Thánh Kinh đã đặt vấn đề về tính cách xác thực của Thánh Kinh, nhất là Tân ước. Trong ánh sáng của sự phân tích Tân Ước này, nhiều nhà thần học đã cho rằng người ta chẳng biết được bao nhiêu về Giê-su. Thí dụ, W. Trilling cho rằng “không có một ngày tháng nào trong đời sống của Giê-su” có thể được khẳng định và J. Kahl đoan quyết rằng điều duy nhất ta biết về Giê-su là ông ta “đã hiện hữu trong một thời điểm mà chúng ta chỉ có thể biết một cách đại khái”. Nhiều học giả khác cho rằng việc tìm kiếm một Giê-su lịch sử là điều vô vọng..
Sự phân tích về con người Giê-su lịch sử được tôn trọng nhất ngày nay là của G. A. Wells. Wells nhấn mạnh rằng những nghi vấn về giá trị lịch sử của Giê-su của ông phần lớn dựa trên những quan điểm của các nhà thần học Ki Tô và các học giả chuyên về Thánh Kinh. Những vị này đồng thuận chấp nhận rằng các phúc âm được viết trong khoảng từ 40 đến 80 năm sau khi Giê-su mãn kiếp và bởi những tác giả vô danh không đích thân biết đến Giê-su. Theo Wells thì những vị trên cũng thừa nhận rằng trong những chuyện kể về Giê-su, phần lớn là truyền thuyết và những chuyện trong phúc âm được viết theo động cơ thần học của những tác giả. Ngoài ra, những bằng chứng trong phúc âm thuần túy là của Ki Tô Giáo. 10
Trên đây chỉ là vài nhận định tổng quát về tiểu sử không rõ ràng của Giêsu. Sở dĩ những học giả nghiên cứu về nhân vật Giê-su đưa ra những nhận định như trên là vì họ đã dùng những phương pháp khảo cứu phân tích khoa học trên mọi khía cạnh liên quan đến con người Giê-su, thí dụ như đối chiếu cổ sử, phân tích cổ ngữ, phân tích từng câu từng lời trong Thánh Kinh v..v.. Đi vào chi tiết và dựa trên Thánh Kinh, chúng ta còn thấy rõ ràng là không có một căn bản nào có tính cách thuyết phục để cho những người có đầu óc có thể biết được Giê-su là ai để mà tin, vì trong Thánh Kinh có quá nhiều điều mâu thuẫn về con người lịch sử Giê su. Những chi tiết về một phần nhỏ, trong khoảng 3 năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi 33 năm của Giê-su được mô tả trong bốn Phúc Âm Matthew (Mã Thi Ơ), Mark (Mác-cô), Luke (Lưu Ca) , và John (Gioan), và những thư viết cho tông đồ của Paul (Phao Lồ). Nhưng chính những chi tiết này: khi sinh ra đời, gia phả, thời gian gần 3 năm đi giảng đạo, khi chết, đều hoàn toàn mâu thuẫn nhau. Vì chúng hoàn toàn mâu thuẫn nhau, chứ không phải là bổ túc cho nhau theo như luận điệu bào chữa của một số tín đồ được dạy như vậy mà không tự chính mình đọc Thánh Kinh với một đầu óc suy luận, cho nên, chúng ta không thể dựa vào đâu để tin chi tiết nào thật, chi tiết nào giả. Sau đây, tôi xin trích dẫn vài đoạn trong Thánh Kinh liên quan đến sự sinh ra và gia hệ của Giê-su để cho quý độc giả thấy rõ vấn đề.
Trước hết, chúng ta cần ghi nhận rằng, ngày nay những người nghiên cứu Tân Ước, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, đều đồng ý với nhau ở những điểm sau đây:
1. Những thư của Paul được viết vào khoảng 20 năm sau khi Giê-su chết và không hề viết gì về cuộc đời của Giê-su: nơi sinh, nơi giảng đạo, nơi bị hành hình v..v.. và còn viết rằng Giê-su là con của Joseph và Maria, một người đàn bà (born of a woman).
2. Trong 4 phúc âm thì phúc âm Mark được viết sớm nhất, vào khoảng 40 năm sau khi Giê-su chết, và Mark cũng không viết gì về sự sinh ra của Giê-su từ một trinh nữ cũng như về gia hệ của Giê-su.
3. Hai phúc âm Matthew và Luke được viết vào khoảng cuối thế kỷ đầu, nghĩa là khoảng 70 năm sau khi Giê-su chết. 90 phần trăm nội dung là lấy của Mark và thêm vào đó chuyện Giê-su được sinh ra từ Maria đồng trinh và viết về gia hệ của Giê-su. Thêm vào với mục đích gì, ngày nay các học giả nghiên cứu Thánh Kinh đã rõ.
4. Phúc âm John được viết vào đầu thế kỷ thứ hai, có thể gần 100 năm sau khi Giê-su chết, và cũng không viết gì về sự sinh ra của Giê-su.
5. Cả 5 tác giả trên đều không phải là tông đồ của Giê-su, không trực tiếp biết Giê-su là ai, cho nên chỉ viết lại những chuyện đồn đại theo ý kiến và chủ đích riêng của mình.
Như trên đã nói, trong Tân Ước chỉ có hai Phúc Âm Matthew và Luke là nói về sự sinh ra của Giê-su. Phúc Âm Matthew (MaThiêu) kể như sau, Matthew 1: 18-24:
Sự sinh ra của Giê-su Ki Tô như sau: Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với Thánh Linh.
Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn.
Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi.
Việc xảy ra đúng như lời Thần Ki Tô tiên đoán qua nhà tiên tri:
“Này, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và họ sẽ đặt tên cho hắn là Immanuel”, có nghĩa là “Thần ở cùng ta”.
Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Giê su.
Còn phúc âm Luke 1: 26- 33 thì thuật lại chuyện sinh ra của Giê-su như sau:
Qua tháng sáu, Thần Ki Tô sai thiên sứ Gabriel vào thành Nazareth, xứ Galilee, đến một trinh nữ đã hứa hôn với một người tên là Joseph, thuộc dòng dõi vua David. Tên người trinh nữ là Mary.
Thiên sứ nói: “Hãy hoan hỉ lên, hỡi người được đặc ân, Chúa ở cùng nàng, phúc cho người đàn bà như nàng.”
Nhưng khi Mary thấy thiên sứ, không hiểu thiên sứ nói gì, và những lời chúc tụng kia có nghĩa gì.
Rồi thiên sứ nói với nàng, “Đừng sợ, Mary, vì Thần đã ban đặc ân cho nàng. Và này, cô sẽ mang thai, và sinh ra một con trai và đặt tên nó là Giê-su. Đứa trẻ đó sẽ thành vĩ nhân, và sẽ được gọi là con của đấng tối cao; và Thần sẽ cho hắn ngôi vị của David. Hắn sẽ cai trị dân Do Thái (hậu duệ của Jacob) mãi mãi, và nước hắn cai trị sẽ bất
diệt.
Thông điệp như trên của Thần Gia-vê qua thiên sứ thật ra chỉ do Luke bịa ra để khuyến dụ dân Do Thái tin theo Giê-su, vì những điều thiên sứ nói về Giê-su hoàn toàn sai với sự thực. Giê-su chẳng bao giờ cai trị dân Do Thái và dân Do Thái cũng chẳng bao giờ chấp nhận Giê-su là Vua của dân Do Thái giống như David khi trước. Không những thế, dân Do Thái thời Giê-su còn cho ông ta là kẻ phỉ báng Thần Gia-vê, tự xưng là con của Thần, là Vua của dân Do Thái, là vị cứu tinh của dân Do Thái v..v.. Và cho đến ngày nay, dân Do Thái, dân được Thần Gia-vê chọn lựa làm dân của Thần (chosen people), vẫn không chấp nhận Giê-su, vì vậy mà suốt 2000 năm nay, giáo hội Ca-Tô mới thù hận và tìm mọi cách để bách hại dân Do Thái. Vậy, nếu chúng ta đối chiếu lời của Thiên sứ, thay mặt Thần Gia Vê, trong đoạn loan báo cho Mary ở trên, với thực tế, thì chúng ta phải kết luận là những lời “tiên tri” của Thần Gia-vê hoàn toàn sai, vì không hề xảy ra. Vậy chúng ta có thể chấp nhận những thuộc tính toàn năng, toàn trí của Thần Gia Vê mà giáo hội đã cấy vào đầu tín đồ hay không? Mặt khác, đọc kỹ Thánh Kinh chúng ta thấy rằng chuyện thiên sứ “báo mộng” cho Joseph xảy ra khi Maria đã có mang được 6 tháng, và Maria không hề nói cho Joseph biết cái thai trong bụng mình từ đâu mà ra. Tại sao Maria phải dấu chồng khi mà bà được ân sủng đặc biệt của Thánh Linh khiến bà mang thai?
Nhưng ở đây, tôi sẽ không đi vào công việc phân tích những đoạn trên trong Thánh Kinh. Sự phân tích này, tôi đã trình bày tạm gọi là đầy đủ trong Chương 2 của cuốn Đức Tin Công Giáo, Giao Điểm xuất bản cuối năm 2000. Tôi trích dẫn những đoạn trên trong phúc âm Matthew và Luke chỉ để chứng minh một sự mâu thuẫn cùng cực trong hai phúc âm trên, khi Matthew và Luke kể về dòng dõi, gia hệ của Giê-su, cho rằng Giê-su thuộc dòng dõi vua David, những chi tiết hoàn toàn bất phù hợp với chuyện Maria mang thai của Thánh Linh ở trên.
Thật vậy, theo Matthew 1:1-17 thì các thế hệ tiếp nối giòng họ Giê-su từ vua David như sau:
David, Solomon, Rehoboam, Abijah, Asa, Jehoshaphat, Jehoram, Uziah, Jotham, Ahaz, Hezekiah, Manasseh, Amon, Josiah, Jeconiah, Shealtiel, Zerubbabel, Abiud, Eliakim, Azor, Zadok, Akim, Eliud, Eleazar, Matthan, Jacob, Joseph, Jesus.(tất cả là 27 thế hệ.)
Nhưng theo Luke 3:23-28 thì các thế hệ tiếp nối từ vua David tới Giê-su như sau:
David, Nathan, Matthata, Menna, Melea, Eliakim, Jonam, Joseph, Judah, Simeon, Levi, Matthat, Jorim, Eliezer, Joshua,, Er, Elmadam, Cosam, Addi, Melki, Neri, Shealtiel, Zerubbabel, Rhesa, Joanan, Joda, Josech, Semein, Matthathias. Maath, Naggai, Esli, Nahum, Amos, Matthathias, Joses, Jannai, Melki, Leci, Matthat, Eli, Joseph, Jesus. (tất cả là 42 thế hệ.)
Chúng ta nên để ý rằng, trong 2 danh sách trên kể về dòng dõi của Giê-su, chỉ có ba tên giống nhau (chữ đậm), còn thì hoàn toàn khác biệt, và Matthew kê ra 27 thế hệ trong khi Luke kê ra 42 thế hệ. Nếu những tên thế hệ đều giống nhau thì chúng ta có thể cho rằng Matthew bỏ sót, liệt kê cách quãng những thế hệ tiếp nối từ David đến Giê-su. Nhưng rõ ràng là không phải vậy.
Một vài nhà thần học Ki Tô đã đưa ra một cách giải thích có tính cách ngụy biện nhưng không được thông minh cho lắm. Đó là gia phả của Giê-su theo Luke là theo dòng họ mẹ, nghĩa là Maria, chứ không phải là dòng họ bố là Joseph. Nghiên cứu về cổ sử và truyền thống Do Thái, các học giả đã bác bỏ lý luận ngụy biện này. Thật vậy, cả Matthew và Luke đều ghi Giê-su thuộc dòng dõi cha là Joseph chứ không ghi Giê-su thuộc dòng họ mẹ là Maria. Ngoài ra, luận điệu ngụy biện trên không hề để ý đến sự kiện là gia phả của Maria trong Luke, nếu thực là như vậy, lại nhiều hơn gia phả của Joseph tới 15 thế hệ, tính trung bình từ 20 đến 30 năm một thế hệ thì sự khác biệt này, bắt đầu từ vua David, là từ 300 năm đến 450 năm. Nhưng khi hứa hôn với Joseph thì Joseph đã nhiều tuổi, còn Maria mới có khoảng 14, 15 tuổi. Kết luận: dòng họ Joseph toàn những người sống dai, còn dòng họ Maria toàn những người chết non, chết yểu. Đó là những điều mâu thuẫn phi lý mà giáo hội không sao giải thích nổi. Tuy vậy mà nhiều tín đồ Ca Tô Việt Nam vẫn tin và viết báo ngụy biện là gia phả của Giê-su trong Luke là theo dòng mẹ.
Vậy khi những tín đồ Ki Tô nói đến “Chúa tôi” thì “Chúa tôi” của họ là Giê-su nào, và Giê-su nào của Matthew, hay Giê-su nào của Luke? vì cả Matthew lẫn Luke đều viết Giê-su vừa là con của Thánh Linh vừa thuộc dòng dõi vua David, hai điều hoàn toàn mâu thuẫn có tính cách loại trừ hỗ tương, có cái này thì không thể có cái kia? Có lẽ họ chẳng bao giờ bận tâm thắc mắc đến mâu thuẫn trên, vì Giáo hội dạy rằng, mọi thắc mắc về Chúa Giê-su là một trọng tội, phải bị đầy đọa nơi hỏa ngục trong ngọn lửa thiêu đốt vĩnh hằng.
Thomas Paine đã phân tích sự bất phù hợp trên trong cuốn Thời Đại Lý Trí, một cuốn sách đã giữ một địa vị cao trong nền văn học Tây phương từ thế kỷ 19 đến nay, về nhân vật Giê- su:
Lịch sử Giêsu KiTô được viết trong 4 cuốn mà người ta cho là Matthew, Mark, Luke, và John viết. Chương đầu trong Matthew bắt đầu bằng gia hệ của Giêsu KiTô, và trong chương 3 của Luke cũng có gia hệ của Giêsu KiTô. Nếu 2 gia hệ này phù hợp nhau, chúng cũng không chứng minh được là đúng vì đó có thể là một gia hệ đã được đặt ra; nhưng vì chúng mâu thuẫn nhau về từng chi tiết một, điều này chứng tỏ một cách tuyệt đối là chúng đều là giả.
Nếu Matthew đúng thì Luke phải sai; nếu Luke đúng thì Matthew phải sai; và vì không thể dựa vào đâu để tin ai đúng hơn ai, cho nên không dựa vào đâu để mà tin ai; và nếu chúng ta không thể tin được điều đầu tiên mà họ đưa ra, làm sao chúng ta có thể tin được những điều họ nói về sau? Nếu chúng ta không thể tin họ về gia hệ của Giêsu mà họ đưa ra, làm sao chúng ta có thể tin được khi họ nói với chúng ta những điều kỳ lạ như Giê su là con của Thần sinh ra bởi một hồn ma, và một thiên thần đã bí mật loan báo sự này cho mẹ của Giêsu? 11
Lý lịch không rõ ràng của Giê-su, do đó, là một lợi điểm để cho Giáo hội khai thác và mê hoặc tín đồ, vì Giáo hội muốn giải thích thế nào cũng được, đặt ra chuyện nào cũng xong, và với phương pháp nhồi sọ tín đồ ngay từ khi còn nhỏ, uốn nắn đầu óc để cho tín đồ tuân phục hệ thống quyền lực trong Giáo hội, tín đồ trở thành những người bị điều kiện hóa, không còn khả năng suy luận, chỉ còn biết tin theo một cách mù quáng mọi điều diễn giảng của Giáo hội, bất kể những điều này vô lý đến đâu, mâu thuẫn đến đâu, không hề thắc mắc. Họ đáng thương hơn là đáng trách. Và sự kiện thê thảm này không chỉ có trong đám tín đồ đầu óc thấp kém mà còn có thể thấy rõ trong một số được coi là trí thức, giữ chức vụ cao trong Ca-Tô giáo Việt Nam, nếu chúng ta đọc về đức tin Ca-Tô mà họ trình bày trong những bài viết hay tác phẩm của họ. Sau đây là một thí dụ điển hình:
Trong cuốn Chứng Nhân Hy Vọng: Các Bài Giảng Tĩnh Tâm Cho Đức Thánh Cha Và Giáo Triều Roma của TGM Nguyễn Văn Thuận, Công Đoàn Đức Mẹ xuất bản năm 2000, tác giả mở đầu cuốn sách bằng Bài Suy Niệm Dẫn Nhập: Gia Phả Đức Giêsu Kitô Đứng Trước Mầu Nhiệm Thiên Chúa, trang 25-34. Tác giả Nguyễn Văn Thuận chỉ nhắc đến gia phả Giê-su trong Matthew mà thôi và đặc biệt là, để biện minh cho những sự kiện được viết trong Thánh Kinh là trong gia phả của Giê-su có nhiều người vô đạo đức, phi luân, tác giả đã đưa ra một luận điệu thần học có tính cách ngụy biện để biện minh cho những sự kiện không mấy tốt đẹp này. Tác giả viết, trang 28:
“...sự chọn lựa của Thiên Chúa có tính cách nhưng không và đầy tình thương (??không hiểu tác giả muốn nói gì. TCN), không thể hiểu được theo những lý luận của lý trí.”
hàm ý dùng lý trí và lý luận thì không thể hiểu được Thánh Kinh, chỉ có đức tin Ca-Tô, nghĩa là tin vào những điều giáo hội giảng dạy về Thánh Kinh thì mới hiểu được Thánh kinh muốn viết gì và do đó hiểu được Thiên Chúa. Viết như trên, ông Nguyễn Văn Thuận tưởng rằng như vậy là tôn vinh Thiên Chúa mà không biết rằng chính mình đang mạ lỵ Thiên Chúa. Đúng vậy, theo Ca Tô Giáo, Thiên Chúa "sáng tạo" ra con người theo hình ảnh của Thiên Chúa, nghĩa là có đầy đủ đầu óc và lý trí để có thể cảm nhận những điều mặc khải của Thiên Chúa. Rồi Adam cưỡng điều cấm của Thiên Chúa, ăn một trái cây trên cây hiểu biết, do đó đầu óc con người đã trở thành không thua gì Thiên Chúa, có khả năng phân biệt Thiện Ác. Nhưng tình thương qua những việc làm của Thiên Chúa con người lại không hiểu được bằng đầu óc hay lý trí. Ai cũng biết những người không biết xử dụng đến đầu óc hay lý trí là những người ngu. Vậy hóa ra việc làm của Thiên Chúa chỉ để cho những người ngu tin theo hay sao? Vậy Thiên Chúa của những người ngu có giá trị gì đối với những người không ngu, nghĩa là biết xử dụng đến đầu óc và lý trí? Luận điệu dùng lý luận của lý trí không thể hiểu được những việc làm của Thiên Chúa chẳng qua chỉ là luận điệu của thời sơ khai. Bởi vì ngày nay, sự hiểu biết của con người đã vượt quá xa sự hiểu biết của Thiên Chúa như được viết trong Thánh Kinh. Những kiến thức của con người ngày nay về khoa học, y học, vũ trụ học, sinh học v..v.. đã bỏ xa những kiến thức của Thiên Chúa trong Thánh Kinh. Sự kiện này đã quá hiển nhiên, chẳng cần phải chứng minh.
Nhưng sự chọn lựa của Thiên Chúa mà chúng ta không thể hiểu được bằng lý trí là như thế nào? TGM Nguyễn Văn Thuận giải thích: Abraham bỏ trưởng lập thứ, rồi đến Isaac, con của Abraham, cũng bỏ trưởng lập thứ, rồi đến Jacob, cháu của Abraham, cũng phế bỏ ba đứa con đầu, lập đứa con thứ tư là Judah, và tất cả sự chọn lựa trên là do “ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa”. Ông giải thích thêm:
“Chúng ta không được lựa chọn vì công trạng của mình, nhưng chỉ vì lòng từ bi (sic) của Chúa.”
Trước hết, chúng ta nên để ý là ông Nguyễn Văn Thuận đã "mượn" danh từ "từ bi" trong Phật Giáo để dịch chữ "grace" nghe cho nó có vẻ Việt Nam, chứ thực ra "grace" có nghĩa là ân sủng hay ân huệ mà Thiên Chúa ban cho loài người. Nền Thần Học Ki-Tô đưa ra quan niệm là "Chúng ta được cứu rỗi chỉ bởi ân huệ của Thiên Chúa mà thôi" (Xin đọc, thí dụ, Karl Barth: We are saved "sola gratia" - "only by grace", without any works of our own).
Ngoài các tín đồ không bao giờ cần đến đầu óc của mình, nếu có, và tuyệt đối tuân phục các cấp lãnh đạo trong Ca Tô Giáo, có ai nghe lọt tai những lời giải thích đầy tính cách huyền hoặc, ngụy biện và phi lý như trên? Thứ nhất, chuyện bỏ trưởng lập thứ là chuyện thường tình thế gian, chúng ta thấy đầy dẫy trong lịch sử Tàu, Ta, những dân tộc không hề biết đến và không hề tin vào một Thiên Chúa hữu danh vô thực.. Vậy tất cả đều là ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa cả hay sao?
Thứ nhì, Thiên Chúa chọn lựa vì lòng "từ bi" (sic) thật hay sao? Từ là cho vui và bi là cứu khổ. Thiên Chúa bỏ người này, chọn người kia, bản chất đã là một hành động thiên vị, vì nếu bảo rằng đó là thể hiện lòng từ bi đối với người được chọn, thì đối với người bị loại bỏ một cách bất công Thiên Chúa đã thể hiện lòng gì? Mặt khác, Thiên Chúa lựa chọn tùy hứng, không dựa trên căn bản đạo đức hay công trạng, vậy thì chúng ta cứ việc làm ác rồi ngồi há miệng chờ quả sung từ bi của Thiên Chúa thì có được hay không? Sau cùng, Thiên Chúa đã sáng tạo ra con người theo hình ảnh của Thiên Chúa (thuyết sáng tạo này ngày nay đã không còn chỗ đứng trong thế giới của khoa học) thì mọi người đều phải bình đẳng trước Thiên Chúa, tại sao Thiên Chúa lại phải nhúng tay vào chuyện chọn người kế vị của vài ông vua Do Thái vô đạo đức? Tại sao Thiên Chúa lại vướng mắc vào cảnh "con yêu, con ghét" của người thường?
Viết lên một câu phi-lôgic mà nội dung có tính cách mạ lỵ Thiên Chúa mà ông TGM cũng viết lên được thì chúng ta phải hiểu đầu óc của ông TGM đã được giáo hội cho vào khuôn phép như thế nào? Nói tóm lại, cách giải thích theo luận điệu Thần học của TGM Nguyễn Văn Thuận chỉ là một lối ngụy biện không thuận lý. Điều này chúng ta có thể thấy rõ nếu chúng ta đọc tiếp cách “giải thích một chiều” của ông. Nơi trang 30-31, ông viết tiếp:
Nơi Đavit, người nổi danh nhất trong các vua đã sinh ra đấng Messia (nghĩa là Giê-su. TCN), sự thánh thiện và tội lỗi xen lẫn nhau: với nước mắt cay đắng, ngài xưng thú trong Thánh vịnh các tội ngoại tình và sát nhân, nhất là trong Thánh vịnh 50, một ca vịnh trở thành kinh nguyện thống hối thường được dùng trong phụng vụ của giáo hội..
Cả những phụ nữ mà Mathêu nêu tên trong đầu sách Tin Mừng của ngài như những người mẹ thông truyền sự sống, từ cung lòng phúc lành của Thiên Chúa, cũng gợi lên nơi chúng ta một sự xúc động. Tất cả họ đều là những phu nữ ở trong những hoàn cảnh bất hợp lệ: Tamar là một phụ nữ tội lỗi, Racab là một gái mãi dâm, Rut là một người ngoại bang và về người phụ nữ thứ tư, người ta không dám nêu danh, và chỉ nói “đó là vợ của ông Uria”. Người đàn bà đó chính là bà Betsabea mà vua Đavit đã ngoại tình.
Tuy nhiên, dòng lịch sử tràn đầy tội lỗi và tội ác như thế đã trở thành một nguồn nước trong (sic), khi càng đến gần thời gian sung mãn: đến đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và đến Chúa Giêsu, Đấng Messia. Nơi các Ngài tất cả các thế hệ được cứu chuộc.
Danh sách những người tội lỗi mà Mathêu nêu rõ trong gia phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại, gia phả ấy tuyên dương mầu nhiệm Thiên Chúa. Cả trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã chọn Phêrô, người đã chối ngài, và chọn Phaolô, người đã bách hại Ngài. Vậy mà các vị lại trở thành cột trụ của giáo hội. Trong thế gian, khi một dân tộc viết lịch sử chính thức của mình, họ thường nói về những chiến thắng đã đạt được, những vị anh hùng, hoặc sự cao cả của mình...Quả là một trường hợp duy nhất, đáng ngưỡng mộ và tuyệt vời, khi thấy một dân tộc không hề dấu diếm những tội lỗi của tiền nhân trong lịch sử chính thức của mình.
Chỉ bằng vào một đoạn văn ngắn ở trên, chúng ta đã có thể thấy rõ ràng đạo Ca-Tô Rô Ma đã thành công trong việc nhồi sọ, uốn nắn đầu óc tín đồ như thế nào, từ nhỏ tới lớn, từ thấp tới cao. Cao như ông TGM Nguyễn Văn Thuận là cùng, nay đã lên đến tột đỉnh danh vọng của Ca Tô Giáo với chức Hồng Y, và sắp sửa lên làm Giáo Hoàng theo hi vọng của một số tín đồ có đầu nhưng không có óc. Nhưng tôi xin hỏi ông vài câu: Bằng cách nào mà dòng lịch sử tràn đầy tội lỗi và tội ác như thế đã trở thành một nguồn nước trong, thưa ông Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận? Dù bà Maria và Giê-su có được môn thần học Ki Tô Giáo đôn lên thành những nhân vật thánh thiện thì cái "dòng lịch sử tràn đầy tội lỗi và tội ác như thế" luôn luôn vẫn là một dòng lịch sử tràn đầy tội lỗi và tội ác. Một cá nhân có thể ăn năn sám hối những tội lỗi của mình và nguyện sẽ không tái phạm những tội lỗi đó nữa, tâm hồn được yên ổn, nhưng tội lỗi vẫn luôn luôn là tội lỗi và vẫn phải gánh chịu nghiệp quả của những tội lỗi đó. Một linh mục can tội cưỡng bức tình dục trẻ em có thể ăn năn thống hối để Chúa "rửa sạch tội lỗi" cho, nhưng vẫn phải vào tù để đền tội thế gian, và cái tội ông ta phạm vẫn được ghi trong hồ sơ cá nhân của ông ta. Sự xóa bỏ tội lỗi của Chúa thật sự vô giá trị trước pháp luật thế gian. Huống chi là những sự kiện lịch sử của một dân tộc, mà đây lại là dân tộc Do Thái, chẳng liên hệ gì tới dân tộc Việt Nam. Trong hay đục thì cũng là lịch sử của dân Do Thái, và người Việt Nam chúng tôi chẳng có gì phải xấu hổ nếu nó đục, và cũng chẳng có gì phải hãnh diện nếu nó trong. Thực tế thì dòng lịch sử Do Thái từ khi Giê-su sinh ra cũng chẳng lấy gì làm hãnh diện mà gọi là dòng nước trong. Giáo hội Ca-Tô đã làm cho lịch sử Do Thái đục ngầu máu và nước mắt trong chính sách bách hại dân Do Thái suốt 2000 năm, với cao điểm là Hitler, một tín đồ Ca-Tô không hề bị giáo hội tuyệt thông, đã tiêu diệt 6 triệu người Do Thái trong các lò sát sinh. Giữa thế kỷ 20, Do Thái lập quốc và mở chiến dịch xâm chiếm cướp đất của khối Ả Rập, và ngay bây giờ, đầu thế kỷ 21, Do Thái đang áp dụng chính sách "cường quyền và bạo lực thắng công lý". Không những thế, Thiên Chúa trong Cựu Ước dạy "mắt đổi mắt, răng đổi răng", nhưng ngày nay Do Thái lại leo thang thành "mắt đổi 10 mắt, răng đổi 10 răng" đối với dân Palestine. Vậy dòng lịch sử đó trở thành trong ở chỗ nào?
Viết như trên, phải chăng ông Nguyễn Văn Thuận hi vọng có thể dùng một luận điệu thần học ngụy biện để thay đổi những sự kiện lịch sử đã ghi trong sử sách? Luận điệu này chỉ để nói cho những "bà lão công giáo nhà quê" của linh mục Thiện Cẩm ở Bùi Chu, Phát Diệm, Hố Nai, Gia Kiệm, và một số ở Houston, Bolsa, San Jose v..v.., ngoài ra ông định nói cho ai nghe? Đây không phải là nơi phê bình văn phong hay tư tưởng, nếu có, của ông Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, nên sau đây tôi chỉ đưa ra vài nhận xét ngắn ngủi về đoạn văn trên để trình bày cùng quý độc giả thấy rõ thế nào là đầu óc của một tín đồ Ca-Tô Việt Nam, dù ở địa vị cao trong hàng Giáo Phẩm, và thế nào là luận điệu Thần học ngụy biện để lừa dối tín đồ.
Thứ nhất, trong lịch sử Do Thái, David được coi là người có công mở mang nước Do Thái và mang đến cho Do Thái một thời đại hùng cường. Nhưng tư cách và đời sống của David thì không có gì có thể gọi là thánh thiện cả. Hắn là một tên bạo chúa, hiếu sát và hoang dâm, tuy vậy đối với dân Do Thái hắn vẫn là một vị vua nổi danh trong Cựu Ước. Tuy nhiên, hắn không thể nào là “người nổi danh nhất trong các vua đã sinh ra đấng Messia (nghĩa là Giê-su. TCN.)” như TGM Nguyễn Văn Thuận đã viết, vì như tôi đã trích dẫn từ Thánh Kinh ở trên: từ David tới Giê-su là 27 thế hệ theo Matthew, và 42 thế hệ theo Luke, cho nên chúng ta không thể dựa vào đâu để mà quyết định gia phả nào là của Giê-su. Hơn nữa, điều khẳng định của ông Nguyễn Văn Thuận về vua David ở trên lại đương nhiên bác bỏ thuyết Giê-su là con của Thiên Chúa do Thánh Linh xâm nhập bất hợp pháp vào bà Maria mà sinh ra như sẽ được trình bày rõ hơn trong một đoạn sau.
David không những mắc tội ngoại tình với Bathsheba, vợ của Uriah, một tướng dưới trướng của David, mà còn dùng quyền lực cướp vợ của Uriah bằng cách gửi Uriah ra mặt trận với lệnh ngầm cho viên chỉ huy mặt trận là Joab phải làm sao để cho Uriah không được sống sót. Tội lỗi của David thì đầy ra đấy, nhưng thánh thiện ở chỗ nào thì không thấy trong Thánh Kinh, và TGM Thuận cũng không cho độc giả biết David thánh thiện như thế nào. Trong phần Phụ Lục, quý độc giả sẽ biết rõ hơn về nhân vật David trong Cựu Ước.
Thứ nhì, trong Thánh Kinh chẳng có chỗ nào viết là “với nước mắt cay đắng, ngài (từ “ngài” TGM Nguyễn Văn Thuận dùng để gọi một tên sát nhân hoang dâm vô đạo đức như David) ăn năn trong Thánh vịnh (Psalms) hay Thi Thiên các tội ngoại tình và sát nhân..” “Thánh vịnh” là một tập hợp 150 bài thơ dài ngắn khác nhau mà nội dung là những lời rên rỉ, ca thán, vò đầu bứt tai, của những kẻ loạn thần kinh, bài nào cũng buồn chán như bài nào (Xin đọc The Happy Heretic của Judith Hayes, p. 131: Psalms: This is one long, whining, grousing, hand-wringing, neurotic harangue. There are 150 chapters, each as depressing as the next.), và “Thánh vịnh 50” là thơ của Asaph làm chứ không phải của David. Có lẽ ông đã lầm với "Thánh vịnh 51" vì Thánh vịnh này mới là những lời ăn năn thống hối của David rên rỉ cầu nguyện Chúa Cha (không phải là Giê-su) tha cho những tội ác đã phạm tuy thực tế cho thấy rằng chẳng làm gì có Chúa và Chúa cũng chẳng có quyền gì để mà tha tội (Psalm 51: 1-4: Đức Chúa Trời ôi! Xin hãy thương xót tôi tùy lòng nhân từ của Chúa; Xin hãy xóa các sự vi phạm tôi theo sự từ bi rất lớn của Chúa. Xin hãy rửa tôi cho sạch hết trọi gian-ác, và làm tôi được thanh khiết về tội lỗi tôi. Vì tôi nhận biết các sự vi phạm của tôi, tội lỗi tôi hằng ở trước mặt tôi. Tôi đã phạm tội cùng Chúa, chỉ cùng một mình Chúa thôi, và làm điều ác trước mặt Chúa ..) Có lẽ những lời ăn năn thống hối cùng Chúa này chỉ có một mục đích: đó là hi vọng được Chúa tha thứ để rồi sau khi chết sẽ được lên thiên đường sống cuộc sống đời đời cùng Chúa. Nhưng đó là niềm tin của những người Do Thái cách đây hơn 2000 năm. Với trình độ hiểu biết của nhân loại ngày nay thì đến Giáo Hoàng John Paul II cũng phải thú nhận rằng chẳng làm gì có thiên đường trên những tầng mây, tất cả đều do tâm mà ra. Vậy Thánh vịnh 51 đã trở thành lỗi thời vì chẳng có tác dụng gì thực tế. Bám vào đó để mà "phụng vụ" thì chỉ là duy trì sự mê tín của thời bán khai. Vả chăng, phạm tội với con người mà lại nói là chỉ phạm tội cùng Chúa thôi là điều mà thế giới ngày nay không thể chấp nhận.
Mặt khác, ngày nay các học giả nghiên cứu Thánh Kinh đã chứng minh được rằng trong 150 bài “Thánh Vịnh”, chỉ có vài bài là được sáng tác trong thời đại của David, phần còn lại được sáng tác vào khoảng và sau thời kỳ lưu đầy (Exile).
Thứ ba, trong Thánh Kinh có 2 Tamar rất đặc biệt: Tamar trong 2 Samuel 13: 11-14 là một thiếu nữ bị chính anh ruột của mình, Amnon, cưỡng hiếp. Tamar và Amnon đều là con ruột “ngài” David của TGM Nguyễn Văn Thuận. Còn Tamar, người phụ nữ tội lỗi mà ông Thuận viết trong đoạn trên, còn đặc biệt hơn nữa: chồng chết, ngủ với em chồng; em chồng chết, ngủ luôn với bố chồng, sinh con cái. Đó là những mẫu người mà TGM Thuận cho rằng được Thiên Chúa chọn với “ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa.”, mà không hề giải thích mầu nhiệm ở chỗ nào, phải chăng mầu nhiệm chỉ vì những người vô đạo đức phi luân này là tiền nhân của Giê-su?. Chuyện Tamar trong Thánh Kinh, quý độc giả có thể đọc trong Sáng Thế 38. Có nhiều đoạn tôi không tiện trích dẫn, vì chúng tục tĩu dâm loạn, đối ngược hẳn với nền luân lý Á Đông. Chúng ta cũng nên để ý là, Thiên chúa là Thiên Chúa của Do Thái, không dính líu gì tới dân tộc Việt Nam, vì ngay trong Thánh Kinh Thiên Chúa của Do Thái cũng không biết đến sự kiện là quả đất tròn. Sự hiểu biết của Thiên chúa ở trong Thánh Kinh về trái đất rất hạn hẹp, chỉ có ở quanh vùng Trung Đông mà thôi.
Thứ tư, TGM Thuận viết “Chúa Giêsu đã chọn Phêrô, người đã chối ngài, và chọn Phaolô, người đã bách hại Ngài.” là sai, chứng tỏ rằng ông đã được "giáo hội dạy rằng" rất kỹ, và chưa từng đọc Thánh Kinh, vì Thánh Kinh đã viết rõ Giê-su tin rằng ngày tận thế sắp tới, ngay khi một số người cùng thời với Giê-su còn sống, vậy chọn Phê-rô để làm gì? Rõ ràng chuyện Chúa chọn Phêrô là do giáo hội ngụy tạo để tự tạo vai trò kế thừa Phê rô và là đại diện của Chúa trên trần của các giáo hoàng. Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một phần sau. Mặt khác, PhaoLô không phải là tông đồ của Giê-su, PhaoLô chưa từng thấy Giê-su, làm sao mà bách hại Giêsu và làm sao Giê-su lại có thể chọn một người mình chưa từng biết? Tôi đố quý độc giả tìm trong Thánh Kinh xem có chỗ nào viết là Phao Lồ bách hại Giê-su .
Thứ năm, sợ tín đồ mất niềm tin khi đọc kỹ Thánh Kinh, TGM Nguyễn Văn Thuận dạy tín đồ:
Danh sách những người tội lỗi mà Mathêu nêu rõ trong gia phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại, gia phả ấy tuyên dương mầu nhiệm Thiên Chúa.
Mang cái bình phong “mầu nhiệm Thiên Chúa” ra để che đậy những điều có thể gây thắc mắc trong đầu óc tín đồ, TGM Thuận đã không lý gì đến những phần khác trong Thánh Kinh mà Giám Mục Spong đã nhận xét ở trên:
Chẳng có ai biết cha ông ta (Giê-su) là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi chất nổ chưa kiếm ra và chưa nổ .
Phải chăng vì không đếm xỉa gì đến sự lương thiện trí thức, dùng lý luận thần học ngụy biện để lừa dối đám tín đồ thấp kém qua những điều giải thích hoang đường, phi lý trí v..v.. mà gần đây Tổng Giám Mục đã được thăng lên chức Hồng Y? Khi xưa, người ta có thể mua chức Hồng Y bằng tiền bạc và quen thuộc. Ngày nay, chức Hồng Y để cho những thuộc hạ của Tòa Thánh tuyệt đối trung thành với Giáo Hoàng và cách diễn giảng giáo lý của Vatican bất kể là những điều diễn giảng này mâu thuẫn, phi lý, và sai sự thực đến đâu. Rất hiếm khi mà những chức vụ chỉ đạo trong giáo hội Ca-tô được tuyển chọn hay vinh thăng theo khả năng, trình độ hiểu biết và đầu óc cởi mở. Trường hợp của ông Nguyễn Văn Thuận là một thí dụ điển hình.
Thật vậy, đoạn văn trong Matthew ở trên chẳng có gì là gương mù như ông Thuận đã nghĩ, và cũng chẳng có gì là “mầu nhiệm Thiên Chúa”. Vì ngày nay, các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh đã hiểu tại sao Matthew lại nêu tên những người phụ nữ tội lỗi trong gia phả của Giê-su. Sau đây là vài trích dẫn từ cuốn Sự Thực Phúc Âm của Russell Shorto:
Từ đầu thế kỷ 2, nhiều tác giả Do Thái, khi quan sát sự phát triển nhanh chóng của Ki Tô Giáo, đã ghi nhận rằng khuôn mặt thần thánh trong trọng điểm của Ki Tô Giáo (nghĩa là Giê-su. TCN) thực ra chỉ là một đứa con hoang. ..Về phương diện kỹ thuật, ngay cả khi đọc Phúc Âm theo truyền thống, điều trên đúng là sự thực, vì Joseph, chồng của Mary, không phải là cha thực của Giê-su. Đọc thật kỹ Matthew chúng ta có thể thấy điều trên rõ ràng...và Matthew đã đưa ra một kiến trúc thần học tinh vi để biến đổi một sự thật xấu xa thành một huyền thoại..
Một vấn đề trong gia phả của Giê-su đã làm bận tâm những nhà thần học không ít trong nhiều thế kỷ là tên của các phụ nữ trong gia phả của Giê-su. Tại sao chúng ta đọc thấy rằng: “Abraham là cha của Isaac, Isaac là cha của Jacob” v..v.. mà không thấy tên một phụ nữ nào xen vào, nhưng rồi chúng ta thấy “Judah là cha của Perez và Zerah, sinh ra bởi Tamar”, và “Salmon là cha của Boaz, sinh ra bởi Rahab,” và Boaz là cha của Obed, sinh ra bởi Ruth”, và David là cha của Solomon, sinh ra bởi “vợ của Uriah”?
Một nhóm học giả đã tìm hiểu trong 20 năm qua để tìm ra giải đáp cho điều thắc mắc này và họ đã khám phá ra rằng tất cả những phụ nữ được nêu tên trong gia phả của Giê-su đều là những người mang tai tiếng về vấn đề tình dục. Nói cách khác, Matthew đã cố ý làm nhẹ bớt vấn nạn Giê-su là đứa con hoang bằng cách vạch ra rằng trong nhiều đời tiền nhân của Giê-su, đây là điều cần thiết để tiếp nối dòng dõi các vua Do Thái qua những nhân vật khác thường.. Là đứa con hoang, điều này có thể là một biểu hiện của sự danh giá (badge of honor). 12
Thứ sáu, TGM Nguyễn Văn Thuận ca tụng dân tộc Do Thái là “một trường hợp duy nhất, đáng ngưỡng mộ và tuyệt vời, khi thấy một dân tộc không hề dấu diếm những tội lỗi của tiền nhân trong lịch sử chính thức của mình.” Người Việt Nam chúng tôi, khi đọc đến những chuyện tàn bạo, dâm ô, loạn luân v..v.., chiếm quá nửa cuốn Cựu Ước, về dân tộc Do Thái, thì không có cách nào có thể đồng ý với nhận định của ông Thuận. Sử Trung Quốc cũng ghi lại những triều đại Kiệt, Trụ, Tần Thủy Hoàng, Võ Tắc Thiên v..v Đã là những sự kiện lịch sử của một dân tộc thì không có người này cũng có người kia ghi chép lại. Do Thái cũng không ra ngoài lệ và tuyệt đối không phải là nước duy nhất chép lại trung thực những sự kiện lịch sử. Cho nên chẳng có gì đáng ngưỡng mộ và cũng chẳng có gì gọi là tuyệt vời như chúng ta đã biết sơ về lịch sử Do Thái trong phần trên. Thật vậy, chúng ta hãy đọc một đoạn về dân tộc Do Thái cổ xưa mà Thomas Paine đã viết trong cuốn Thời Đại Lý Trí như sau:
Nếu chúng ta có thể tự cho phép để cho rằng Đấng Toàn Năng đã phân biệt một quốc gia nào đó và gọi là Dân Được Ngài Chọn Lựa thì chúng ta phải cho rằng dân tộc đó là một gương mẫu cho phần còn lại của thế giới về hiếu kính và nhân đạo thuần khiết nhất, chứ không phải là một dân tộc của những kẻ côn đồ và giết người như là dân Do Thái cổ xưa, một dân tộc đồi bại vì phỏng theo những con quái vật và mạo danh như là Moses và Aaron, Joshua, Samuel và David, một dân tộc đã làm cho chính mình nổi bật hơn mọi dân tộc khác trên thế giới về sự man rợ và độc ác. 13
Vậy, đáng ngưỡng mộ và tuyệt vời ở chỗ nào? Có lẽ dân Do Thái, dân cưng mà Chúa Cha chọn làm dân của Chúa (chosen people), đáng ngưỡng mộ và tuyệt vời ở chỗ không chấp nhận Giê-su là “Chúa con”, là “đấng cứu thế”, nên bị giáo hội Ca-Tô vu cho tội giết Chúa và bách hại dân Do Thái suốt 2000 năm nay. Những dân tộc như Việt, Mên, Lào v..v.. mà Chúa Cha không hề biết đến (xin đọc Augustine) không tin và chấp nhận Chúa Con thì là điều dễ hiểu, nhưng dân tộc Do Thái là dân Chúa Cha chọn (chosen people) mà lại không chấp nhận Chúa Con thì chúng ta phải hiểu rằng “Chúa Con” chỉ là một “ngụy Chúa” và những lời tự nhận như là “con của Thiên Chúa”, “vua của dân Do Thái” v..v.. thật ra chỉ bắt nguồn từ một hoang tưởng tôn giáo ở vào một thời đại mà quan niệm về quỷ thần tràn ngập dân gian. Đây không phải là chỗ phê bình cuốn Chứng Nhân Hy Vọng của TGM Nguyễn Văn Thuận, nhưng có một đoạn nơi trang 293 tôi không thể bỏ qua:
Do quyền năng của Chúa Thánh Thần, mầu nhiệm nhập thể cao cả được thực hiện. Người Con ở trên Trời sống trong lòng Thiên Chúa Cha, tìm thấy ở dưới đất, nơi Đức Maria, một cung lòng xứng đáng với Ngài. Là nữ tử của Thiên Chúa Cha, Đức Maria trở thành mẹ. Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Hiền Thê của Chúa Thánh Thần.
Người con ở trên Trời? Chỗ nào trên Trời? Phải chăng ở phía trên cái vòm trời bằng đồng thau có những cánh cửa mở ra để cho mưa rơi xuống như được viết trong Thánh Kinh? Hay là ở trong cái nhà ở trên trời, thiên đường, nơi Thiên Chúa ngự. Nhưng chính giáo hoàng John Paul II cũng phải thú nhận “Không làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây” TGM Thuận luôn luôn ở sát nách giáo hoàng mà không biết đến lời tuyên bố này hay sao? Mặt khác, trái đất đâu có đứng yên? Nó vừa di chuyển trong không gian xung quanh mặt trời với vận tốc trên một trăm ngàn cây số một giờ, vừa quay xung quanh trục Nam Bắc với vận tốc quay khoảng 1600 cây số 1 giờ, vậy TGM Thuận có dám khẳng định “người con ở trên Trời” là ở chỗ nào trên trời hay không, hay đối với con người đứng yên trên trái đất, "người con ở trên trời" cũng phải đảo điên điên đảo theo định luật tương đối của mọi chuyển động?
Luận điệu thần học ngụy biện lý luận rằng: Vì nhãn quang của con người cũng như những dụng cụ quang học như kính thiên văn đều giới hạn nên không thể nào thấy Chúa được, nếu chúng ta có khả năng nhìn đến tận cùng không gian thì sẽ thấy Chúa ngự bên hữu Chúa Cha. Luận điệu này ném thuyết Chúa Ba Ngôi, nghĩa là thuyết điên rồ toán học (mathematical insanity), 3 là 1 và 1 là 3, vào "Recycled Bin" . Luận điệu này cũng mù tịt về khoa vũ trụ học vì không hề có một ý niệm gì về tận cùng không gian là bao xa? Đại khái vào khoảng 15 tỷ năm ánh sáng. Ánh sáng truyền trong không gian khoảng 300000 cây số trong một giây đồng hồ. Chúa Giê-su mới chết cách đây 2000 năm. Và dù ông ta có sống lại và bay lên trời với vận tốc của ánh sáng, vận tốc giới hạn của mọi vật chất, thì ông ta cũng chưa ra khỏi giải Ngân Hà, rộng khoảng 100000 năm ánh sáng. Vậy bảo là sẽ thấy Chúa ngồi bên hữu Chúa Cha ở tận cùng không gian là nói bừa, nói bậy, không hiểu chút nào về vũ trụ và khoa học.
Tôi không muốn đi sâu vào đoạn văn trên của TGM Thuận mà chỉ muốn làm sáng tỏ một điều: đoạn này đương nhiên xóa bỏ đoạn nói về gia phả của Giê-su. Giê-su không thể vừa là con của Chúa Thánh Thần, vừa là con của Joseph, thuộc dòng dõi vua David. Mary không thể là “Hiền thê của Chúa Thánh Thần”, có mang với Chúa Thánh Thần nếu chúng ta vứt bỏ tất cả neuron ở trong óc đi để tin rằng Chúa Thánh Thần (Holy Spirit) cũng có 23 nhiễm sắc tố (chromosomes) gồm cả hai loại X và Y để có thể làm cho bà Mary mang thai, rồi sinh ra Giê-su, nhưng Giê-su lại không phải là con của Chúa Thánh Thần mà lại là con của Joseph, thuộc dòng dõi Vua David như được kể trong gia phả trên. Viết lên một sự mâu thuẫn rối răm cùng cực mà TGM Thuận cũng viết lên được thì thực là tài.
Một thí dụ khác sẽ cho chúng ta thấy rõ đầu óc của các bậc lãnh đạo trong Ca-Tô Giáo ở Việt Nam đã được nhào nặn như thế nào. Trong cuốn "Trần Lục", nhiều tác giả, xuất bản tại Canada, năm 1996, Đức Ông Trần Văn Khả cũng viết về Giê-su như sau, trang 269:
Trong Kinh cầu Thánh Giuse, chúng ta đọc như sau: "Ông Thánh Giuse là Cha Nuôi Con Đức Chúa Trời"; Ngay sau đó Đức Ông viết: “Chúa Giêsu là dòng dõi Vua Đa-vít, mà Thánh Giuse là một thành phần (Matthew 1:16). “
Cũng như TGM Nguyễn Văn Thuận, Đức Ông Trần Văn Khả nhắc lại những lời "giáo hội dạy rằng", tin rằng tất cả những lời trong Kinh đều phải đúng, mà không hề suy nghĩ. Thật vậy, nếu Giuse chỉ là cha nuôi của Giê-su thì dù cho Giuse thuộc dòng dõi vua David, Giê-su cũng không thể nào thuộc dòng dõi vua David. Vì sao? Vì Giê-su là hoa trái của sự "xâm phạm tiết hạnh" của Thánh Ma (Holy Ghost) vào Mary, một người đàn bà Do Thái đã có chồng là Joseph (Giu-se). Vì vậy, Giê-su mới được gọi là Con Thiên Chúa và Giu-se mới được coi như là cha nuôi của Giê-su. Đã là Con Thiên Chúa thì không thể thuộc dòng dõi vua David, dù cha nuôi của Giê-su là Giu-se thuộc dòng dõi vua David. Tôi có cảm tưởng rằng TGM Nguyễn Văn Thuận, Đức Ông Trần Văn Khả cũng như nhiều tín đồ Ca-Tô khác, được Giáo hội dạy sao thì cứ nhắc lại đúng như vậy mà không hề bận tâm suy nghĩ xem điều mình nói có hợp lý hay không. Sự hiểu biết của tuyệt đại đa số người dân Việt ngày nay đâu còn ở mức của những người dân đánh cá ở vài miền duyên hải Việt Nam cách đây vài thế kỷ, hay ở trong những "ốc đảo ngu dốt" (từ của Linh mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn "Thập Giá và Lưỡi Gươm"?)
Tuy nhiên tôi không phản đối TGM Nguyễn Văn Thuận, Đức Ông Trần Văn Khả, hay bất cứ ai, nếu họ tin cả hai huyền thoại có tính cách loại trừ hỗ tương (mutual exclusive) như trên cùng một lúc. Vấn đề là, đầu óc của các bậc lãnh đạo Ca-Tô Việt Nam như TGM Thuận và đức ông Khả, mà còn như vậy thì không hiểu đầu óc của đám tín đồ thấp kém thì như thế nào? Đối với tôi, nếu ai đó tin vào bất cứ một cái gì đó thì chúng ta có thể hiểu được, nhưng tin cùng lúc vào hai điều không thể nào cùng hiện hữu thì chỉ có những đầu óc đặc biệt Ca Tô được nhào nặn từ nhỏ mới có khả năng như vậy. Và đây quả là một phép lạ trong việc đào tạo, uốn nắn đầu óc tín đồ Ca-Tô. Nếu chúng ta có dùng lý trí để phê phán họ là mù lòa tin bướng tin càn thì họ vội lên tiếng lên án chúng ta là chống Thiên Chúa Giáo theo sách lược của CS. Họ lên án như vậy vì đầu óc của họ chỉ nghĩ có một chiều. Họ không thể nghĩ ra rằng, theo lý luận thần học của TGM Thuận ở trên, thì sự hiện hữu của CS cũng chỉ là để tuyên dương "mầu nhiệm Thiên Chúa", một điều mà chúng ta không thể nào dùng lý trí mà hiểu được. Cầu mong làm sao họ gỡ được cái vòng kim cô xiềng xích trí tuệ ra khỏi cái đầu họ trước khi họ tính đến chuyện đối thoại với các tôn giáo khác.
Qua những tài liệu mà tôi vừa trích dẫn ở trên, chúng ta thấy ngay rằng, hình ảnh Giê-su mà Giáo hội Ca-Tô Rô-ma cấy vào đầu óc tín đồ, từ trên xuống dưới, nó xa sự thực như thế nào. Làm sao mà Giáo hội có thể thành công trong việc nhào nặn đầu óc tín đồ đến độ họ không còn khả năng suy nghĩ. Đó là vì Giáo hội đã sử dụng Học Thuật Ca-Tô (Catholic scholarship), phối hợp một nền thần học ngụy biện, dối trá với những văn kiện ngụy tạo, giả mạo. Nguỵ biện vì lúc thì giải thích thế này, khi thì giải thích thế nọ, lúc thì giải thích suôi, khi thì giải thích ngược v..v..; dối trá vì không đúng với sự thật với chủ đích lừa dối; ngụy tạo, giả mạo là bịa đặt ra, thêm thắt vào. Học thuật này rất thành công đối với đám tín đồ ít học, đầu óc yếu kém. Nhưng ngày nay, học thuật này đã không còn chỗ đứng trong thế giới văn minh, tiến bộ. Thật vậy, ngày nay, nhiều học giả, trí thức, chuyên gia v..v.. đã phanh phui ra những thủ đoạn lừa dối của giáo hội Ca-Tô. Thí dụ, Douglas Lockhart đã viết trong cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Thiên Chúa (The Dark Side of God) như sau:
Với khả năng phịa sử qua những tài liệu giả mạo trông như thật với dấu ấn của Giáo Hoàng, và lồng những tài liệu giả mạo này vào trong Giáo Luật, Giáo hội Ca-Tô đã tái tạo quá khứ của mình một cách có hệ thống để rồi cuối cùng tin vào những điều nói láo của chính mình. 14
Nữ học giả Helen Ellerbe viết trong cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô (The Dark Side of Christian History):
Cuốn Tự Điển Bách Khoa Ca-Tô cũng phải thừa nhận rằng “Trong mọi lãnh vực, sự giả mạo và thêm thắt vào cũng như sự ngu đần đã được tập họp thành trò tinh quái có hạng.” Dù rằng Giáo hội đã cấm không cho nghiên cứu thêm về nguồn gốc của các Phúc Âm, nhiều học giả đã chứng tỏ cả bốn Phúc Âm đều đã được xào xáo viết lại. Trong khi Giáo hội tuyên bố rằng bản chất chân lý không thay đổi và chỉ được mạc khải một lần duy nhất, Giáo hội luôn luôn tìm ra lý do để thay đổi chân lý đó. 15
Không phải là vô cớ mà Lockhart và Ellerbe đã viết như trên. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử tôn giáo đã phân tích Thánh Kinh gồm Cựu Ước và Tân Ước bằng những phương pháp hiện đại nhất, phối hợp nhiều bộ môn trong khoa học và nhân văn, để tìm ra những sự thực về lịch sử, nguồn gốc, tư tưởng trong Thánh Kinh.
--Ba bằng chứng ngụy tạo:
Trong lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-Ma có nhiều bằng chứng có thể dùng để chứng minh những nhận định của Lockhart và Ellerbe ở trên. Sau đây tôi chỉ đưa ra vài trường hợp điển hình.
(1). Bằng chứng ngụy tạo thứ nhất:
Giả mạo Bản Văn Hiến Dâng Của Constantine (The Donation of Constantine). Về trường hợp này, Lockhart viết:
Trong cuốn “Sự Suy Thoái Của Rô-Ma”, sử gia Joseph Vogt lưu ý chúng ta về Bản Văn Hiến Dâng Của Constantine, một tài liệu đề ngày 30 tháng 3, năm 315, nhưng thực ra được viết trong triều đại của giáo hoàng Stephen III (năm 752-757) với mục đích thuyết phục Pepin, vua của dân Franks, phải bảo vệ giáo hội để chống dân Lombards. Là một tài liệu giả mạo từ đầu tới cuối, Bản Văn Hiến Dâng viết rằng Constantine, đang bị bệnh hủi (cùi), đã có một thị kiến trong đó Thánh Phê-rô (Peter) và Phao-Lồ (Paul) nói với Constantine là hãy tiếp xúc với Giáo Hoàng Sylvester. Khỏi bệnh vì tuân theo lệnh từ trên trời ban xuống, để tạ ơn, Constantine hiến dâng lâu đài mình đang ở cho Giáo hoàng Sylvester và đặt toàn thể Vương Quốc Miền Tây thuộc quyền Tòa Thánh. Tòa Thánh của Phê-rô phải được đặt lên trên Vương Quốc và Ngai Vàng của Vua, và Sylvester là người cai trị Antioch, Alexandria, Jerusalem, Constantinople và tất cả các giáo hội trên thế giới. Tài liệu trên được chấp nhận không bàn cãi cho đến năm 1440, khi Lorenzo Valla, một người hầu cận Giáo hoàng, chứng minh rằng, không còn nghi ngờ gì nữa: Bản Văn Hiến Dâng là giả mạo. Cuốn sách của Valla được xuất bản năm 1517, và mặc dầu tất cả các học giả khác khi nghiên cứu riêng rẽ đều đồng ý với Valla, Tòa Thánh vẫn phủ nhận sự giả mạo này trong vài thế kỷ tiếp theo..
Tuy nhiên, Vua Pepin, khi đọc Bản Văn Hiến Dâng, rất lấy làm khâm phục, vì có vẻ như là Bản Văn đã chứng minh chắc chắn rằng Giáo Hoàng là người kế thừa Phê-rô và Constantine, do đó có toàn quyền trên trái đất, và đàng sau hậu trường là sự hậu thuẫn của quyền lực từ trên trời. Đánh bại dân Lombards, Pepin dâng tất cả đất đai viết trong Bản Văn Hiến Dâng, một hành động làm cho Tòa Thánh trở nên toàn năng. 16
Chúng ta có thể thấy ngay rằng, bản văn hiến dâng của Constantine đúng là do giáo hội giả mạo để tạo quyền lực về tinh thần cũng như vật chất cho giáo hội. Mục đích của tài liệu giả mạo này là đưa ra quan niệm thần quyền đứng trên thế quyền, và quyền thống trị, cai quản thế giới của Giáo hội. Nhưng tiến hóa là một định luật của nhân loại nên những quyền tự phong của Giáo hội mà một thời bao trùm Âu Châu càng ngày càng suy giảm và ngày nay đã trở nên vô nghĩa và bất lực trước sự tiến bộ của nhân loại. Ngày nay, đất đai và quyền hạn của giáo hội chỉ còn thu hẹp trong phạm vi của Vatican, rộng bằng vài cái sân đá banh, và trong đám tín đồ thấp kém mà tổng số chưa tới 1/6 dân số trên thế giới.
Giáo sư Thần học Uta Ranke-Heinemann, khi nghiên cứu trường hợp giả mạo Bản Văn Hiến Dâng trên, cũng viết trong cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con (Putting Away Childish Things) như sau:
Một chuyện bất ngờ rất đặc biệt phát xuất từ Thánh Linh là cái gọi là Bản Văn Hiến Dâng Của Constantine. Trong bản văn này, Hoàng Đế Constantine (chết năm 337) đã bày tỏ tấm lòng quá rộng rãi đối với Giáo hội: “Chúng tôi đã chuyển nhượng lâu đài (Lateran) và tất cả tỉnh lỵ, nơi chốn, thành phố thuộc thị trấn Rô-ma, thuộc nước Ý, và thuộc khắp miền Tây..cho giáo hoàng tối cao, cha Sylvester của chúng ta, giáo hoàng của mọi người, và cho uy quyền và sự thống trị của giáo hoàng – hoặc những vị kế thừa ông ta.” Ngày ghi trên bản văn (30 tháng 3, năm 315. TCN), dấu ấn chính thức (của giáo hoàng [papal seal]. TCN), và chữ ký (của Constantine. TCN) đã chứng thực bản văn trên. Constantine, quốc vương tuyệt đối đã hiến dâng cho giáo hoàng toàn thể miền Tây của đế quốc Rô-ma; và các giáo hoàng trở thành những kế thừa của các vua Rô-ma ở miền Tây. Constantine tự thỏa mãn với miền Đông, bởi vì “các vua trên trần không thể có quyền năng ở nơi nào mà người cầm đầu giáo hội Ki Tô (giáo hoàng) đã được vua ở trên trời (Giê-su) bổ nhiệm.”
Nhưng thực ra, tất cả chỉ là một sự bịp bợm, một sự giả mạo của giới giáo sĩ trong nôi bộ giáo hội bày đặt ra. Lẽ dĩ nhiên, với bản văn ngụy tạo này, giáo hội đã chiếm được quyền lực tinh thần và vật chất to lớn không thể ước tính được trong nhiều thế kỷ. Sự giả mạo văn bản trên đã được xào nấu trong cung đình Vatican vào khoảng giữa thế kỷ thứ 8 (vào khoảng hơn 400 năm sau khi Constantine chết. TCN) và chỉ bị phanh phui vào thế kỷ thứ 15. Người khám phá ra sự gian lận này là một viên chức cao cấp trong cung đình Rô-ma (Vatican), theo chủ nghĩa nhân văn, một phê bình gia về chế độ giáo hoàng, tên là Lorenzo Valla (chết năm 1457). Nhưng mãi tới năm 1517 công cuộc khám phá ra sự gian lận trên của Valla mới được Ulrich von Hutten xuất bản, vào đầu thời kỳ cải cách. Sách “The Lexikon fur Theologie und Kirche” viết, “từ giữa thế kỷ 19..nội dung Bản Văn Hiến Dâng Của Constantine đã được coi như là giả mạo theo sự nhìn nhận của Ca-Tô” ([1961] VI, 484). (Sau nhiều thế kỷ phủ nhận. TCN) 17
Từ những tài liệu trên, chúng ta thấy ngay rằng, quyền lực tinh thần cũng như vật chất của Giáo hội Ca-Tô được xây dựng trên sự gian dối ngụy tạo. Trong Ca-Tô giáo có cả một trường phái chuyên ngụy tạo (school of forgery) những bản văn mới, và sửa đổi, viết lại những bản văn cũ cho hợp với đường lối dối trá để đạt được mục đích tạo quyền lực tinh thần và vật chất của Giáo hội.
Thật vậy, Douglas Lockhart viết như sau:
“Vào khoảng năm 1187 sự giả mạo các tài liệu đã trở thành một dịch vụ có lợi, với cả một trường phái các chuyên gia làm giả mạo, cặm cụi tạo ra sự phê chuẩn những tham vọng của giáo hoàng Gregory III; có ngay cả chính sách biến đổi những tài liệu cũ nói ngược hẳn lại những điều thực sự viết trong tài liệu. Điều thú vị là, de Rosa (Tổng Giám mục Peter de Rosa, tác giả cuốn “Vicars of Christ: The Dark Side of The Papacy”. TCN) vạch ra rằng chính những tài liệu cũ này cũng là giả mạo và phê phán rằng cái trường phái những kẻ chuyên làm tài liệu giả mạo này “..đã xào xáo tất cả những văn kiện cũ, bất kể là giả hay thực, với một tính bất lương như nhau.”
De Rosa, khi đứng trước tình trạng lạ lùng này, đã thẳng thắn phơi bày sự kiện là, vào giữa thế kỷ 12, sắc lệnh Decretum, hay Giáo Luật, đã được rắc vào trong đó những văn kiện giả mạo suốt trong 3 thế kỷ và những kết luận dẫn xuất từ chúng. Một trong những kết luận này là giáo hoàng đứng trên và là nguồn gốc của mọi giáo luật mà không có cần đến khả năng chuyên môn; một sự kiện mà theo sự diễn giải của de Rosa, giáo hoàng theo định nghĩa thì bằng vai với Con của Thiên Chúa. Và đây là giáo hội mà chúng ta phải có, cái định chế sáng lập ra bởi Thiên Chúa qua vai trò Constantine để soi sáng cho một thế giới tối tăm” 18
Có lẽ trong lịch sử nhân loại chúng ta không thể thấy một sự lừa bịp nào trắng trợn và hoang đường hơn. Ấy thế mà cho tới ngày nay vẫn còn nhiều người, kể cả những người thường được gọi là trí thức, vẫn còn tin vào luận điệu quái gở của giáo hội như trên, và rất lấy làm hãnh diện được hôn giày hôn dép “đức Thánh Cha”, đại diện của Chúa trên trần.
Nhưng Constantine là người như thế nào? Lịch sử đã viết rõ. Trong cuốn Những Sự Lừa Dối Và Huyền Thoại Trong Thánh Kinh, Loyld Graham viết:
Hắn ta đích thân giết hai người anh em rể, sai người giết vợ, giết đứa con tên là Crispus và 2 đứa cháu, giết những kẻ kẻ đối lập chính trị, quẳng những người không tin đạo Chúa xuống giếng, và làm cho nhiều ngàn người chết trên chiến trường. 19
Từ những sự kiện trên, và sau khi khảo xát về lịch sử thành lập, và lịch sử phát triển của Ki Tô Giáo, bắt đầu bằng sự ủng hộ của Constantine, Lloyd Graham đã bình luận như sau:
Trong gần 2000 năm nay, Ki Tô Giáo toan tính cứu rỗi chúng ta thay vì văn minh hóa chúng ta, và nó đã đi đến một thế kỷ man rợ, một thời đại trong đó có tới 250 triệu tín đồ Ki Tô chết trong những cuộc chiến của Ki Tô Giáo.
..Đó là Ki Tô Giáo, một tôn giáo đặt căn bản trên sự gian dối, thành lập bởi những kẻ điên và được củng cố bởi một tên sát nhân – Đại đế Constantine. 20
Tại sao Graham lại có thể viết như trên về một tôn giáo lớn nhất trên hoàn cầu như Ki Tô Giáo? Sự phân tích bằng chứng ngụy tạo thứ hai sau đây sẽ chứng minh cho chúng ta thấy rõ vấn đề. Chúng ta cũng nên biết rằng, sau nhiều thế kỷ phủ nhận những công trình nghiên cứu về Bản Văn Hiến Dâng của Constantine và giữ nguyên tính cách xác thực (authenticity) của Bản Văn, cuối cùng Tòa Thánh Vatican và các nhà Thần học Ki Tô Giáo cũng phải thú nhận rằng Bản Văn Hiến Dâng của Constantine thật ra là một bản văn giả mạo. Nhưng Giáo hội đã thực hiện được mưu đồ của mình và thành công trong việc tạo cho giáo hội quyền lực thế gian trong hơn 1000 năm, và tiếp tục duy trì quyền lực này bất kể đến liêm sỉ và đạo đức con người như lịch sử đã chứng tỏ.
(2). Bằng chứng ngụy tạo thứ hai:
Giáo hội dựa vào một câu trong Thánh Kinh, Matthew 16: 18, cho là của Giê-su nói: “Và ta cũng nói cho ngươi biết, ngươi là Phê-rô, và trên phiến đá này ta sẽ xây dựng giáo hội của ta...và Ta sẽ cho ngươi những chìa khóa của thiên đường” (King James Version: “And I also say to you that you are Peter, and on this rock I will build My church...and I will give you the keys of the kingdom of heaven”) và đưa ra thuyết Chúa Giê-su chính là người sáng lập ra Giáo hội nhưng chỉ đứng tên, còn Thánh Phê-rô mới là người được Giê-su trao cho nhiệm vụ thành lập giáo hội với chức vụ đứng đầu giáo hội (giáo hoàng đầu tiên), và các Giáo Hoàng đều là kế thừa của Phê-rô và như vậy đương nhiên là “đại diện của Chúa” (Vicars of Christ) ở trên trần, nắm trong tay những chìa khóa mở cửa thiên đường. Do đó, các tín đồ Ca-Tô không thể hiệp thông thẳng với Chúa mà phải đi qua ngả trung gian là giáo hội, giáo hoàng và Tòa Thánh Vatican. Ngoài ra, giáo hoàng còn có quyền tuyệt thông bất cứ tín đồ nào, ở bất cứ cấp bậc nào, nghĩa là giữ chặt chìa khóa mở cửa thiên đường trong tay, không mở cửa thiên đường cho bất cứ ai mà giáo hoàng không ưa, bất kể vì lý do gì. Giáo hoàng cũng còn trao quyền tuyệt thông cho các thuộc hạ thân tính như hồng y, tổng giám mục đối với đám tín đồ thấp kém bên dưới.
Tuy nhiên, thuyết Giê-su thành lập giáo hội, Phê-rô làm giáo hoàng đầu tiên v..v.. như trên chỉ có giá trị trong đám tín đồ Ca-Tô vốn không bao giờ đọc Thánh Kinh, thường không mấy khi dùng đến đầu óc để suy nghĩ, và đã bị nhồi sọ từ nhỏ để tin tất cả những gì giáo hội nói. Đối với các học giả nghiên cứu Thánh Kinh và đối với giới trí thức ở trong cũng như ở ngoài giáo hội thì câu ở trong Thánh Kinh ở trên rõ ràng là được thêm thắt sau này với mục đích thiết lập quyền lực tinh thần cũng như quyền lợi vật chất của giới lãnh đạo Ca-Tô trước đám đông tín đồ ở dưới. Thật vậy, các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh đã vạch ra rằng câu trên hoàn toàn mâu thuẫn với nhiều đoạn trong Thánh Kinh, với tư tưởng của Giê-su, và nhất là vai trò của Phê-rô.
Thứ nhất, đọc Thánh kinh, chúng ta thấy rõ ràng là những người viết Tân Ước đều tin rằng Giê-su sẽ trở lại trần gian trong một tương lai rất gần, ngay trong thời điểm của Giê-su. Thí dụ (Trích dẫn từ Thánh Kinh: Cựu Ước Và Tân Ước, Hội Quốc Tế xuất bản, 1994; và Holy Bible: The New King James Version, American Bible Society, New York, 1982):
Matthew 16: 27-28: “Ta (Con của Người: Giê-su) sẽ trở lại với các thiên sứ trong vinh quang của Cha ta để thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm. Ta cho các con biết: một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy ta vào trong Nước ta”. (For the Son of Man will come in the glory of His Father with His angels, and then He will reward each according to his works. Assuredly, I say to you, there are some standing here who shall not taste death till they see the Son of Man coming in his kingdom.)
Matthew 24:34: “Ta quả quyết, thời đại này chưa chấm dứt, các biến cố ấy đã xảy ra rồi” (Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things are fulfilled)
Mark 9: 1: Chúa bảo các môn đệ: “Ta cho các con biết, một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy nước trời thiết lập với uy quyền vĩ đại” (And He said to them, “Assuredly, I say to you that there are some standing here who will not taste death till they see the kingdom of God present with power.”)
Mark 13:30: “Ta quả quyết, thế hệ này chưa qua đi thì các biến cố đó (các biến cố xung quanh sự trở lại của Giê-su. TCN) đã xảy ra rồi”. (Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things take place.)
Luke 21: 27, 32: “Bấy giờ nhân loại sẽ thấy ta giáng xuống trong mây trời với vinh quang và uy quyền tuyệt đối.. Ta quả quyết: thế hệ này chưa qua, các biến cố ấy đã xảy ra rồi”. (Then they will see the Son of Man coming in a cloud with power and great glory.. Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things are fulfilled.)
John 14: 3: “Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho các con. Khi chuẩn bị xong, ta sẽ trở lại đón các con về với ta để các con ở cùng ta mãi mãi.” (And if I go and prepare a place for you, I will come again and receive you to myself; that where I am, there you may be also).
Qua những đoạn trích dẫn ở trên từ Thánh Kinh, chúng ta hãy tự hỏi: Giê-su thành lập giáo hội và trao chức vụ giáo hoàng chăn dắt tín đồ cho Phê-rô để làm gì khi mà ông ta tin rằng ngày tận thế gần kề, ngay trong đời ông, khi ông và một số môn đồ của ông còn sống? Có phải rằng giáo hội đã thêm thắt câu “..ngươi là Phê-rô, và trên phiến đá này ta sẽ xây dựng giáo hội của ta...” vào trong Thánh Kinh để lừa dối tín đồ là giáo hội do chính Chúa Giê-su thành lập và các giáo hoàng đều là kế thừa của Phê-rô?
Thứ nhì, đọc kỹ Thánh Kinh, chúng ta còn thấy, sau khi trao chìa khóa thiên đường cho Phê-rô (Matthew 16:19), chỉ 4 câu sau, Matthew 16: 23, Giê-su gọi Phê-rô là Satan: “Chúa quay lại và nói với Phê-rô: “Hãy đi ra đàng sau ta, Satan, ngươi là một sự xúc phạm đối với ta” (But he turned and said to Peter, “Get behind me, Satan! You are an offence to Me..”) Cũng vì sự mâu thuẫn và phi lý trong hai câu gần sát nhau trong Thánh kinh mà Lloyd Graham đã bình luận như sau:
Như vậy là giáo hội Ca-Tô được thành lập bởi Phê-rô, người mà, chỉ 4 câu sau trong Thánh Kinh, Chúa gọi là Satan. Vậy, nếu giáo hội Ca-Tô được thành lập bởi Phê-rô thì giáo hội đó đã được thành lập bởi Satan – một sự kiện mà chúng ta đã nghi ngờ từ lâu. (Xét đến lịch sử đẫm máu đầy tội ác của Ca-Tô Giáo mà giáo hoàng John Paul II và Tòa Thánh Vatican đã vừa xưng thú 7 núi tội lỗi và xin được tha thứ thì câu bình luận của Graham ở trên không phải là không có căn bản. TCN).
Câu chuyện về Phê-rô thậm vô nghĩa – một người chết như mọi người mà lại có quyền lực trên khắp nhân loại trong muôn đời muôn kiếp. Trong những vấn đề tôn giáo, tín đồ Ca-Tô thật là nhẹ dạ, cả tin, nhưng họ có thể nhẹ dạ đến mức tin rằng, trước khi có Ki Tô Giáo, những bậc thông thái như Pythagoras, Plato, Socrates...cần đến cái tên đánh cá Do Thái ngu đần này (Phê-rô) để đầy đọa hay cứu vớt linh hồn họ hay không? Nhất định là không, và chúng ta cũng vậy (Lẽ dĩ nhiên, người Việt Nam chúng ta cũng không cần đến bất cứ cái gì từ tên đánh cá Do Thái không những ngu đần mà còn hèn nhát này, như Thánh Kinh đã viết rõ. TCN) 21
Thứ ba, Phê-rô là mẫu người coi lời Chúa như không có, phản phúc và hèn nhát. Trước ngày Chúa bị bắt, Chúa bảo Phê-rô hãy thức chờ Chúa đi cầu nguyện, rồi Chúa đi cầu nguyện, khi trở lại thì Phê-rô đã ngủ khì. Khi Chúa bị bắt, vì sợ bị kết tội đồng lõa, Phê-rô đã ba lần chối Chúa, không nhận là mình đã biết Chúa. Khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá thì Phê-rô trốn biệt. Một người tư cách như vậy mà Chúa lại chọn để thành lập giáo hội hay sao? Chúa không có môn đồ nào tốt hơn và hiểu biết hơn tên đánh cá Phê-rô hay sao?
Trước những bằng chứng không thể phủ bác, Joseph L. Daleiden, một học giả Ca-tô, trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition), trang 83, cho rằng “câu chuyện ủy quyền cho Phê-rô xây dựng giáo hội là một chuyện tiếu lâm” (On the face of it, I would take it as a joke) và trích dẫn lời của Albert Camus, cho rằng “Giê-su đã riễu cợt cái tên nghèo khổ, hèn nhát Phê-rô khi bảo Phê-rô là vững như phiến đá” (Camus pointed out, Jesus must have been making fun of of poor, cowardly Peter by referring to him as a rock of steadfastness.). Rồi Daleiden kết luận:
Do đó, chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi biết rằng nhiều học giả chuyên về Thánh Kinh tin rằng câu chuyện về Phê-rô, giống như nhiều chuyện khác trong Tân Ước, đã được người ta thêm thắt vào sau. 22
Nhưng không phải chỉ có các học giả mới nhận ra sự phi lý trong câu chuyện về Phê-rô, mà chính những nhà Thần học nổi danh trong giáo hội Ca-Tô cũng phải thừa nhận rằng thuyết Chúa thành lập giáo hội và trao quyền cho Phê-rô chỉ là ngụy tạo.
Hans Kung, Giáo sư Thần học tại trường đại học nổi tiếng Tubingen ở Đức, cũng phải viết như sau:
Con người Giê-su lịch sử, tin chắc rằng ngày tận thế phải xảy ra ngay khi ông còn đang sống. Và vì sự sắp tới của Nước Trời này, không còn nghi ngờ gì nữa là ông ta không muốn lập ra một cộng đồng đặc biệt khác với nước Do Thái, với giáo lý, nghi thức thờ cúng, định chế, cơ quan chỉ đạo riêng. Tất cả những điều trên có nghĩa là khi còn sống Giê-su không bao giờ sáng lập một giáo hội nào. Ông ta không hề có ý tưởng thành lập và tổ chức một hoạt động tôn giáo đại qui mô như được tạo ra về sau. 23
Và nữ Giáo sư Thần học Uta Ranke-Heinemann cũng viết:
Giáo hội đã biến Giê-su thành một dụng cụ tuyên truyền. Vì lý do này mà chúng ta tin vào mọi điều biện minh cho sự thành lập một giáo hội như được thêm thắt vào những lời Giê-su nói bởi những tác giả các phúc âm. Sự thêm thắt này gồm có điều Giê-su ca tụng Phê-rô như một phiến đá làm nền tảng để Giê-su xây dựng giáo hội của ông ta (Matt. 16:18), vì Giê-su không bao giờ có ý thành lập một giáo hội... Ở đây, không phải là Giê-su nói, mà là giáo hội ban khai muốn tạo cho mình một địa vị lãnh đạo và một khuôn mặt quyền lực vì sự tăng trưởng của cấu trúc lãnh đạo theo cấp bậc.
Trong chương 21, chương ngụy tạo trong phúc âm John – nghĩa là chương được thêm vào phúc âm chính sau này – ý tưởng về một vai phó đã được phát triển rõ ràng. Phê-rô trở thành kẻ chăn đàn chiên của Giê-su. Như là đại diện của Giê-su, người chăn chiên thực sự lúc đầu, hắn thay thế Giê-su trong nhiệm vụ này. Ngay sau đó, giáo hội nghĩ rằng điều quan trọng không phải là con người Phê-rô. Giáo hội quyết định rằng chức vụ của Phê-rô là nền tảng của Giáo hội, do chính Giê-su thiết lập vĩnh viễn. Với quan niệm này chúng ta có những giáo hoàng là kế thừa Phê-rô và là phụ tá của Giê-su, và chế độ giáo hoàng là nền tảng của giáo hội. 24
Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết, Hội Nghiên Cứu Về Giê-su (The Jesus Seminar) gồm nhiều học giả thuộc mọi hệ phái Ki-tô, sau nhiều năm nghiên cứu, cũng đưa ra cùng một kết luận, nghĩa là, Giê-su không hề có ý định thành lập giáo hội cũng như không hề ủy quyền cho Phê-rô xây dựng giáo hội. Tất cả chỉ là những điều giáo hội bịa đặt để tạo quyền lực cho giáo hội mà thôi.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là, ngoài sự vạch ra sự gian dối trên, các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh còn chứng minh rằng Giê-su, với những lời hứa hẹn hão huyền đầy tính chất tự tôn, tự cao, tự đại như trên, là người mắc bệnh tâm thần hoang tưởng, và thực tế đã cho các môn đệ ăn bánh vẽ vì ông ta đã ra đi và không hề trở lại. 2000 năm qua, những người tin là Giê-su có quyền phép “cứu rỗi” họ và cho họ lên thiên đường ở cùng ông đã dài cổ ra ngóng chờ “ngày trở lại” của Giê-su, nhưng năm này qua năm khác, thế hệ này qua thế hệ khác, thiên niên kỷ này qua thiên niên kỷ khác, Giê-su vẫn biệt tăm. Làm sao ông ta có thể trở về được khi ông ta đã bị đóng đinh trên thập giá, chết, và táng xác? Lời hứa hẹn vô trách nhiệm đầy tính cách lừa dối những kẻ nhẹ dạ như trên có giá trị gì khi những điều ông hứa không hề mảy may thực hiện được đã 2000 năm nay.
Sự ngụy tạo ra tín điều "Chúa chọn Phê-rô là người thừa kế" cho chúng ta thấy rõ thủ đoạn của Giáo hội Ca-Tô để tạo quyền lực trên đám tín đồ đầu óc yếu kém, không bao giờ đọc Thánh Kinh. Biết chắc là Giê-su đã bị đóng đinh trên thập giá, chết, và táng xác nên không bao giờ có thể trở lại trần gian được nữa, Giáo hội mới phịa ra chuyện Chúa chọn Phê-rô. Nhưng mục đích của sự ngụy tạo này cũng không phải là để vinh danh Phê-rô mà thực ra chỉ dùng Phê-rô làm một bình phong thần học, một bàn đạp để tạo nên thần quyền cho giáo hoàng và giáo hội. Giáo hội bày đặt ra chuyện Chúa chọn Phê-rô để thiết lập giáo lý buộc các tín đồ phải tuyệt đối tin và tuân phục giáo hội thì mới được Chúa cứu rỗi. Theo sự diễn giảng của giáo hội thì Phê-rô là người tuyệt đối tin Chúa nên được Chúa chọn bất kể là Phê-rô ngu đần và hèn nhát. Và vì Phê-rô cũng đã chết rồi, cho nên quyền lực của Chúa nằm trong tay những người kế thừa Phê-rô, một chức vị tự phong của các giáo hoàng. Qua học thuật Ca-tô (Catholic scholarship), các tín đồ Ca Tô đều được nhồi sọ từ khi mới sinh ra đời tín điều hoang đường là "Giáo Hoàng là đại diện của Chúa" (Vicar of Christ), nắm trong tay những chìa khóa mở cửa thiên đường và có quyền tuyệt thông tín đồ, hoặc "giáo hội do Chúa Giê-su thành lập nên không thể sai lầm" v..v... Do đó điều kiện tiên quyết cho các tín đồ muốn được Chúa cứu rỗi là phải tuyệt đối tin vào giáo hoàng, giáo hội. Điều bất hạnh cho nhân loại là ngày nay vẫn có hàng triệu người tin như vậy, không hề quan tâm đến những điều phi lý nằm trong những thủ đoạn thần học này..
(3). Bằng chứng ngụy tạo thứ ba:
Giáo hội dựa vào câu trong Thánh Kinh, Matthew 28: 19, 20, cho là lời của Giê-su dạy các môn đồ: “Hãy đi đến mọi quốc gia để làm cho họ thành tín đồ của ta, làm lễ rửa tội họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy cho họ biết phải vâng giữ mọi điều răn ta dạy các ngươi; và ta sẽ ở với các ngươi cho đến ngày tận cùng của thời đại” (Go therefore and make disciples of all the nations, baptizing them in the name of the Father and of the Son and of the Holy Spirit, teaching them to observe all things that I have commanded you; and lo, I am with you always, even to the end of the age.) để viện cớ thi hành sách lược truyền đạo bằng bạo lực và cưỡng bách trên khắp thế giới.
Trước hết, chúng ta nên biết rằng câu trong Thánh Kinh trên không phải là câu Giê-su nói khi còn sống mà là khi đã chết rồi, và theo lý luận của nền Thần học Ca-Tô, đã sống lại sau ba ngày ba đêm (nhưng thực ra chỉ có hơn một ngày và 2 đêm : từ 3 giờ chiều thứ Sáu đến sáng sớm Chủ Nhật), và hiện ra trước các tông đồ, ra lệnh cho họ đi khắp thế giới truyền đạo, nếu chúng ta có thể tin được chuyện “sống lại” đầy tính cách hoang đường này. Ngày nay, ngoài đám tín đồ thấp kém, không còn ai, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, tin vào chuyện “sống lại” của một xác chết. Các nhà Thần học đã tìm cách giải thích khác đi sự “sống lại” (resurrection) của Giê-su và gọi đó là sự sống lại của tinh thần (spiritual resurrection).
Thứ đến, tất cả các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh ngày nay đã cho rằng câu mà giáo hội đặt vào miệng Giê-su sau khi ông ta đã nằm yên dưới mồ là do chính giáo hội thêm thắt vào Thánh Kinh sau này để thực hiện âm mưu bành trướng đạo với mục đích chính yếu là tạo quyền lực trên đám dân ngu dốt và vơ vét của cải thế gian. Chúng ta chỉ cần nhìn vào tâm cảnh nô lệ Vatican của các tín đồ và tài sản của giáo hội trên khắp thế giới là thấy ngay nhận định như trên của các học giả không phải là vô căn cứ.
Ngoài ra, trong phần phân tích bằng chứng ngụy tạo thứ hai ở trên, chúng ta đã thấy rõ, Thánh Kinh viết rằng Giê-su tin rằng ngày tận thế sắp tới, sẽ xảy ra ngay trong thời đại của ông, vậy bảo các tông đồ đi truyền đạo trên thế giới để làm gì?
Sau cùng, ngay trong Thánh Kinh cũng có nhiều điều trái ngược hẳn với tinh thần của câu ngụy tạo trên. Chứng minh?
Thứ nhất, tín đồ Ki Tô Giáo nói chung tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải không thể sai lầm của Chúa, Chúa Cha cũng như Chúa Con. Thánh Kinh viết rằng trái đất phẳng và dẹt, đứng yên một chỗ, ở trên có một vòm trời bằng đồng thau v..v.. Vậy, ngay cả Chúa Cha cũng không biết là quả đất tròn và cho đến thế kỷ thứ 4, Thánh Augustine, bậc Thánh của Ca-Tô Giáo được coi là ông tổ của nền Thần học Đức Tin Ca-Tô, có trí tuệ siêu việt v..v.. cũng còn không quan niệm nổi một trái đất có hình cầu qua lời phát biểu: “Không thể nào có chuyện có người ở phía bên kia của trái đất, vì Thánh Kinh không ghi lại bất cứ một giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam” (It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded by Scripture among the descendants of Adam). Vậy, trước đó gần 400 năm, Chúa Con (Giê-su) bảo các tông đồ đi đến “mọi quốc gia” thì đó là những quốc gia nào? Hiển nhiên đó không phải là những quốc gia ở phía bên kia của một trái đất hình cầu, mà chỉ là những quốc gia giới hạn trong tầm nhìn của Giê-su, nghĩa là không ra ngoài những quốc gia trong miền Trung Đông. Điều này thật là rõ ràng khi chúng ta đọc nhận định sau đây của giáo sư thần học Uta Ranke-Heinemann:
Giê-su không hề có ý định thành lập một “giáo hội”, nhất lại là một “giáo hội phổ quát”. Thí dụ chân thực về quan điểm của Giê-su, chúng ta hãy xét đoạn văn trong Thánh Kinh, Matthew 10: 5-6, nội dung đối ngược hẳn với nhiệm vụ truyền giáo trên thế giới: “Mười hai tông đồ Giê-su phái đi để truyền đạo với lời dặn dò: “Không được đi đến nơi nào có dân Gentiles, và không được vào thành phố nào của dân Samaritan, mà chỉ đi đến những con dân Do Thái bị lạc” (nghĩa là chỉ đi rao truyền đạo Chúa trong dân Do Thái mà thôi. Và câu tiếp theo trong Thánh Kinh, Matthew 10:7 là “Trong khi đi hãy rao truyền tin Nước Trời đã gần đến rồi”. TCN). Hai đoạn khác là trong Matthew 15:24: “Ta được phái xuống trần chỉ để cứu đàn chiên Do Thái bị lạc mà thôi”, và 10: 23: “Ta bảo đảm với các ngươi, các ngươi chưa đi hết các thành phố của Do Thái thì Con của Người (nghĩa là Ta: Giê-su) đã đến rồi”.
Chính Giê-su - và ngày nay mọi nhà thần học đều biết vậy – tin rằng Nước Chúa sắp tới. Điều này đối ngược với nhiệm vụ truyền bá đạo một cách đại qui mô trên thế giới. 25
Cũng vì những bằng chứng không thể chối cãi được ở ngay trong Thánh Kinh mà khi được hỏi rằng: “Giê-su có ý định thành lập một tôn giáo mới, tôn giáo mà ngày nay chúng ta gọi là Ki Tô Giáo, hay ít nhất là tạo ra một giáo hội Ki Tô tách biệt (ra khỏi Do Thái giáo. TCN) không?” (Did Jesus intend to found a new religion, the one we now call Christianity, or at least create a separate Christian church?), linh mục John Dominic Crossan đã trả lời: “Câu trả lời cho câu hỏi đó là một chữ “Không”quyết định” (The answer to that is an emphatic NO).
Có lẽ chúng ta cũng nên xét qua đến tác dụng của sách lược ngụy tạo này trên nhân loại. Giáo hội ngụy tạo những văn kiện trên để dựa vào đó mà đi truyền đạo trên thế giới. Nhưng giáo hội không truyền đạo bằng phương pháp hòa bình mà bằng chiến tranh, bạo lực, cưỡng ép cho nên đã gây ra cho nhân loại những thảm cảnh vô tiền khoáng hậu mà không có bất cứ một tôn giáo nào có thể sánh ngang. Bỏ qua chính sách đốt sách vở và những tài liệu ngoại đạo, những cuộc Thánh Chiến đẫm máu, những Tòa Hình Án man rợ, sau đây là vài tài liệu bắt nguồn từ sự ngụy tạo lời Chúa ở trên.
Năm 1452, giáo hoàng Nicholas V ban sắc lệnh Dum Diversas nội dung như sau:
“Bằng vào những văn kiện này, chúng tôi, với quyền hành của các tông đồ, cho các ngươi (Vua Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha) được toàn quyền và tự do xâm lăng, lục xoát, bắt giam, và chinh phục dân Sacarens và dân ngoại đạo, và bất cứ người không tin Chúa hay kẻ thù nào khác của Chúa Ki Tô bất cứ ở nơi nào, cũng như đất nước, địa phận, hạt, công quốc, và mọi tài sản của chúng và bắt chúng làm nô lệ vĩnh viễn.” 26
Sau đó giáo hoàng Calixtus III xác định lại sắc lệnh này năm 1456, giáo hoàng Sixtus IV nhắc lại sắc lệnh năm 1481, năm 1493 giáo hoàng Alexander VI mở rộng địa hạt xâm lăng trên khắp thế giới, từ Phi Châu đến Mỹ Châu, và giáo hoàng Leo X cũng ban lại sắc lệnh này năm 1514 (Context: Pope Calixtus III confirmed this decree in 1456. Sixtus IV renewed it in 1481. Alexander VI extended it from Africa to America in 1493, and Leo X renewed it in 1514.) Chúng ta cũng biết rằng:
Vào cuối thế kỷ 15, năm 1493, giáo hoàng Alexander VI, tự cho Ca-Tô Giáo quyền thống trị hoàn cầu, đã chia thế giới ra làm hai vùng ảnh hưởng: 1) toàn thể Mỹ Châu, trừ Ba-Tây (Brazil), thuộc Tây Ban Nha; 2) còn Bồ Đào Nha thì được Ba-Tây và tất cả những đất đai nào chiếm được ở Á Châu và Phi Châu. Sắc lệnh phân chia vùng ảnh hưởng này quy định rằng, song song với việc chiếm cứ đất đai là bổn phận phải cải đạo các dân địa phương vào Ca-Tô giáo. Do đó, đi cùng với những đoàn quân xâm lăng là những linh mục. Sự có mặt của giới linh mục đã biện minh cho những hành động áp chế dân địa phương cũng như bất cứ thủ đoạn cưỡng ép nào được coi là cần thiết để kéo họ vào đức tin Ca-Tô 27
Từ những sự kiện lịch sử trên, giáo sư Huntington đã viết:
..và trong thế kỷ 16 Tây phương đã đi chinh phục thế giới cho Chúa và để cướp vàng. 28
Không đọc lịch sử hay cố ý xuyên tạc lịch sử nên ông Nguyễn Gia Kiểng trong nhóm Thông Luận đã viết trong cuốn sách có cái tên quái gở Tổ Quốc Ăn Năn, trang 190, là “Không làm gì có chủ ý chính trị của các nước Âu Châu (và Pháp nói riêng) để chiếm đóng các nước Châu Á.”, việc xâm chiếm chỉ do các công ty thương mại chủ trương, để chạy tội cho “mẫu quốc Pháp” và vai trò “truyền giáo cho Chúa và cho vàng” của các thừa sai Ca-Tô. Nếu ông Kiểng đã đi đến Lisbon ở Bồ Đào Nha thì sẽ thấy trên mặt đất, gần đài kỷ niệm Henri The Navigator, người dẫn đầu đoàn con buôn, linh mục, binh lính đi xâm chiếm các nước khác, có vẽ bản đồ thế giới và ghi những nơi mà Bồ Đào Nha đã xâm chiếm làm thuộc địa. Trong cuốn sách trên ông Kiểng cũng còn theo đúng sách lược Ca-Tô, đả phá tất cả những giá trị truyền thống và nhiều danh nhân lịch sử Việt Nam, tôn xưng nền văn hóa Tây phương là cao nhất, phản ánh rõ tâm cảnh của một trí thức Ca-Tô mê muội, nô lệ, cuồng tín, vọng ngoại v..v.. với một kiến thức rất hời hợt về bản chất và lịch sử các nền văn minh trên thế giới nói chung, lịch sử Việt Nam nói riêng.
Cho tới đây, chúng ta thấy rằng mọi quyền lực của giáo hội Ca-Tô đều được xây dựng trên một nền tảng ngụy tạo gian dối, từ sự ngụy tạo Bản Văn Hiến Dâng của Constantine cho đến thuyết Giê-su thành lập giáo hội, trao quyền cho Phê-rô, và đến huấn lệnh của Giê-su “nói sau khi chết” là phải đi khắp thế giới để truyền đạo v..v... Ngoài ra, giáo hội còn đặt ra những tín điều như “Giáo hoàng không thể sai lầm” và những “bí tích” để nắm giữ đầu óc tín đồ (xin đọc cuốn Đức Tin Công Giáo của Trần Chung Ngọc, Giao Điểm xuất bản, 2000). Nhưng đây không phải là những điều tôi muốn bàn tới. Trong cuốn sách này, tôi muốn tìm giải đáp cho câu hỏi then chốt: Chúa Giê-su Là Ai?
Câu trả lời có tính cách quyết định là: xuyên qua những công cuộc khảo cứu về nhân vật Giê-su của nhiều chuyên gia, học giả lương thiện ở trong cũng như ở ngoài giáo hội trong vài thế kỷ nay thì “nhân vật Giê-su lịch sử tuyệt đối không phải là Giê-su của nền Thần học Ki Tô Giáo, đồng nghĩa với Chúa Ki-Tô của đức tin (Christ of Faith)”. Trong phần mở đầu cuốn Jesus, A. N. Wilson viết như sau:
Giê-su của lịch sử và Chúa Ki-Tô của đức tin là hai nhân vật khác biệt với những câu chuyện rất khác nhau. Thật là khó mà có thể tái tạo nhân vật Giê-su lịch sử, và trong toan tính này, chúng ta chắc chắn là làm hại đến Giê-su của đức tin một cách không thể hàn gắn được. 29
Vậy Giê-su của nền Thần học Ki Tô Giáo là Giê-su như thế nào? Đó là Giê-su “là con một của Thiên Chúa”, “sinh ra từ một trinh nữ ở trong một chuồng súc vật ở Bethlehem để cứu nhân loại ra khỏi tội lỗi”, “làm nhiều phép lạ”, “tình nguyện hi sinh chịu chết trên giá gỗ hình chữ thập để chuộc tội cho nhân loại”, “là đấng cứu thế của cả nhân loại”, “chết đi rồi lại sống lại, xác bay lên trời ngồi bên phải của Thiên Chúa”, “trở lại trần trong ngày tận thế để phán xét mọi người, làm cho xác chết những kẻ tin Giê-su sống lại đoàn tụ với linh hồn trên thiên đường và đầy những người không tin xuống hỏa ngục vĩnh viễn” v..v.. Đó là những niềm tin chính mà nền thần học Ki Tô Giáo đã thành công cấy vào đầu óc của tuyệt đại đa số tín đồ thấp kém. Tuy nhiên, chúng ta nên biết rằng, những niềm tin này ngày nay đã không còn chỗ đứng trong giới hiểu biết. Tất cả những thuộc tính thần thánh, siêu nhiên mà giáo hội Ca-Tô gán cho Giê-su ngày nay đã hoàn toàn bị bác bỏ trước những sự kiện khoa học và qua những công cuộc nghiên cứu rất công phu của một số đông học giả ở trong cũng như ở ngoài giáo hội trong suốt hai thế kỷ nay. Tuy nhiên, như Russell Shorto đã viết ở trên, sự thực này các giới lãnh đạo Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-Ma nói riêng, đã biết, nhưng vẫn dấu kín không cho đám tín đồ thấp kém ở dưới biết, sợ gây nên một xúc động không thể vãn hồi, và nhất là, để duy trì quyền lực trên đám đông, do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ bình thường. Thật là tội nghiệp cho họ, phải sống trong một sự lừa dối hào nhoáng mà không biết rằng mình bị lừa dối.
Còn Giê-su lịch sử (historical Jesus) thì như thế nào? Có thể nói, không có nhân vật nào trong lịch sử nhân loại được nghiên cứu, phân tích, mổ xẻ v..v.. kỹ như là Giê-su. Không có một khía cạnh nào của Giê-su mà không được để ý tới trong những công cuộc nghiên cứu của hàng trăm học giả, tất cả đều là những người có uy tín trong lãnh vực khảo cứu tôn giáo. Hiển nhiên là không ai có thể trình bày đầy đủ những kết quả khảo cứu về nhân vật Giê-su trong suốt mấy thế kỷ nay, trong một chương của một cuốn sách. Do đó tôi chỉ có thể tóm tắt vài kết quả nghiên cứu điển hình mà ngày nay tuyệt đại đa số những nhà nghiên cứu đều đồng ý.
Trước hết là kết luận của Douglas Lockhart trong cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Thiên Chúa:
Trong chương 14 chúng tôi đã cứu xét khía cạnh nhân bản của Giê-su và kết luận rằng ông ta cũng là một người như mọi người khác. Ông ta cũng không thoát ra khỏi những tình cảm như giận dữ, đau đớn, khát, mệt mỏi, buồn rầu, sợ hãi và sự chết. Ông ta cũng phạm phải những lỗi lầm; điều này có nghĩa là kiến thức của ông ta cũng là kiến thức của con người, hệ thống tín ngưỡng của ông phản ánh nền văn hóa và thời đại khi ông sinh ra. Ông ta không có một kiến thức nào về vật lý hiện đại. Ông ta không biết đến những siêu vi trùng (virus) hay vi trùng hay thuốc sát trùng, không biết gì về động cơ nổ, và không thể dạy con người là Hỏa Tinh di chuyển trên một quỹ đạo hình ellip. Xét toàn thể, đây là một sự hạ giá tất cả những gì mà người ta thường nói về ông (nghĩa là tư cách thần thánh của Giê-su. TCN). Nhưng không phải là một sự bác bỏ. Không dễ gì bác bỏ cái con người quá đặc biệt này mà ý thức độc nhất về Thiên Chúa đã tách riêng ông ta ra khỏi đám người sùng tín cùng thời. Thật vậy, ông ta thật là đặc biệt, và chắc chắn là duy nhất, nhưng không đến độ mà chúng ta phải tưởng tượng quá mức đến độ như toàn hảo hay toàn trí mà các tư tưởng gia Ca-Tô đề xuất về sau.” 30
Tiến sĩ Hugh J. Schonfield, một học giả chuyên về khảo cứu Thánh Kinh (Biblical scholar) đã nghiên cứu về nhân vật Giê-su trong 40 năm và cho ra đời, ngoài những tác phẩm nổi tiếng khác, hai cuốn sách bán chạy nhất: cuốn The Passover Plot trong đó tác giả trình bày những chi tiết rút từ Thánh Kinh và từ những Cuộn Kinh Nơi Biển Chết (Dead Sea Scrolls) mới tìm thấy và chứng minh rằng Giê-su đã tự mình xếp đặt những chuyện như : bị bắt, bị đóng đinh trên thập giá, rồi sống lại v..v.. để phù hợp với điều tiên tri về đấng cứu thế trong Cựu Ước; và cuốn Those Incredible Christians trong đó tác giả tái tạo lịch sử 150 đầu tiên của Ki Tô Giáo và giải thích tại sao một phong trào bắt nguồn từ quan niệm về một Cứu Tinh của dân tộc Do Thái, tranh đấu để tồn tại trong dân gian, đã biến thành một tôn giáo không bao giờ có trong ý định của Giê-su và trái ngược với chính những điều giảng dạy của Giê su, trong tôn giáo này Giê-su được thờ phụng như một Thiên Chúa. Tác giả viết, Those Incredible Christians, trang xi:
Trong cuốn Âm Mưu Trong Ngày Lễ Vượt Qua (The Passover Plot), sau khi nghiên cứu kỹ và lâu dài tôi đã bác bỏ bức tranh mô tả truyền thống về Giê-su và chứng tỏ rằng ông ta là một người Do Thái, ở một tình trạng tâm lý trong lịch sử Do Thái, đã can đảm, kiên trì, và với sự nhận thức sâu xa, hành động với sự tin tưởng rằng ông ta là đấng cứu thế mà dân tộc đau khổ của ông đang chờ đợi. Tôi đã chứng tỏ rằng ông ta là một người có một đức tin, nhưng chỉ là một người thường, một người đã dùng sự thông minh tự nhiên của mình để mang lại những kết quả của những điều tiên tri mà trong thời đại của ông, ông ta tin rằng chúng phải được hoàn thành. 31
Nhận định của Tiến sĩ Schonfield như trên rất phù hợp với những kết quả nghiên cứu về khía cạnh tâm thần của Giê-su. Thật vậy, ngày nay, qua các công cuộc nghiên cứu Thánh Kinh để tìm ra con người thực của Giê-su, đa số học giả đã cho rằng nhiều chuyện trong Thánh Kinh là những chuyện hoang đường, và đối với một số học giả trong ngành phân tâm học thì những điều Giê-su tự nhận như: “con duy nhất của Thiên Chúa”, “có khả năng chuộc tội cho nhân loại”, “đấng cứu thế”, “sẽ trở lại trần phán xét thiên hạ trong tương lai gần thời Giê-su” v..v.. đều là những ảo tưởng của một người bị bệnh tâm thần, mắc bệnh chứng hoang tưởng (paranoia). Bệnh chứng này bắt nguồn từ một nguồn gốc lý lịch không mấy tốt đẹp của Giê-su, một tâm cảnh cuồng tín tôn giáo của Giê-su khi ông đọc và tuyệt đối tin những điều trong Cựu Ước, sinh ra nhiều ảo giác và tự cho mình những quyền năng thần thánh, vai trò cứu thế, rửa sạch tội lỗi nhân loại v..v.. Đó là kết luận của những nhà phân tâm học như các bác sĩ George de Loosten, William Hirsch, Binet-Sanglé, tiến sĩ Emil Rasmussen v..v.. Công cuộc nghiên cứu về vấn đề tâm thần của Giê-su các các khảo cứu gia như trên thường là dài và đi vào nhiều chi tiết để chứng minh. Hiển nhiên là tôi không thể nào trình bày đầy đủ những kết quả nghiên cứu sâu rộng của họ. Cho nên sau đây tôi chỉ tóm tắt những điểm chính.
Trong cuốn Sự Nghiên Cứu Về Tâm Thần Của Giê-su bác sĩ Albert Schweitzer viết:
Trong thập niên qua sự nghiên cứu lịch sử càng ngày càng nhận thức ra rằng niềm tin chắc về sự trở lại trần (second coming) của một đấng cứu tinh (của dân tộc Do Thái. TCN) là trọng điểm trong ý nghĩ của Giê-su. Tư tưởng này ngự trị cảm tính, ý chí và hành động của ông ta chặt chẽ hơn là là chúng ta trước đây thường tưởng...Giê-su tự coi như là đấng cứu tinh và tin chắc rằng ông ta sẽ trở lại trần trong sự huy hoàng từ những đám mây trên trời. 32
Công cuộc nghiên cứu của bác sĩ George De Loosten cũng đưa tới những kết quả tương tự chính như sau:
Giê-su hiển nhiên là một đứa con lai giống (hybrid: có nghĩa là mẹ Giê-su, bà Maria, là người Do Thái nhưng bố Giê-su không phải là người Do Thái), nhơ nhuốc do di truyền (tainted from birth by heredity), ý thức bản thân quá lố, do đó ít phát triển ý niệm về gia đình. Ý thức bản thân của ông ta dần dần đi lên đến độ thành một hệ thống hoang tưởng cố định mà những đặc tính của nó được xác định bởi những khuynh hướng tôn giáo mãnh liệt trong thời đại của ông ta và sự bận tâm một chiều của ông ta về những điều viết trong Cựu Ước. Do sự xuất hiện của Gioan Ba-ti-xi-ta (John the Baptist), Giê-su bị thúc đẩy để phát biểu những tư tưởng của mình. Rồi từng bước một, sau cùng ông ta đi đến độ đặt chính mình vào những lời hứa hẹn trong Cựu Ước, những lời này đã trở thành chủ yếu vì sự bất hạnh của quốc gia (Do Thái), và sự hoàn thành một cách vinh quang những hứa hẹn này mà mọi người Do Thái đều trông đợi,
Giê-su tự coi mình như là một đấng siêu nhiên. Chỉ như vậy chúng ta mới hiểu được cách xử sự của Giê-su khi ông ta tự nhận vơ những thần quyền thí dụ như quyền tha mọi tội lỗi. (Matt. 9:2; Mark 2:5-12; Luke 5:20, 7:48) 33
Nghiên cứu kỹ hơn về tâm bệnh của Giê-su, William Hirsch nhận định như sau:
Chúng ta thấy một đứa trẻ với những khả năng tâm linh đặc biệt, tuy nhiên, trong đầu hắn đã có sẵn những nhiễu loạn tinh thần, và dần dà những hoang tưởng được lập thành. Hắn dùng toàn thể những thì giờ nhàn rỗi vào việc nghiền ngẫm Cựu Ước, điều này tất nhiên góp phần vào tâm bệnh của hắn. Khi hắn bắt đầu xuất hiện trước quần chúng lúc 30 tuổi, căn bệnh hoang tưởng của hắn đã hoàn toàn ăn sâu vào đầu óc. Đây hiển nhiên là một trong những trường hợp mà đầu óc đã sẵn có những ý tưởng tâm linh vô hình dạng và mơ hồ, tuy nhiên cần có một kích động từ bên ngoài và một cảm xúc mãnh liệt để có thể tạo thành một cơ cấu hoang tưởng có hệ thống điển hình.
Sự kích động từ bên ngoài này được đem tới cho Giê-su bởi một một người mang bệnh hoang tưởng khác, người này, không ngoài ai khác, chính là Gioan Ba-ti-xi-ta (John the Baptist). Khi đó, những ảo tưởng của Giê-su đã lên tới mức độ hoàn toàn vững chắc, và khi Giê-su nghe tin có một "người mang dấu hiệu sẽ có đấng cứu thế xuất hiện" đang rửa tội cho những kẻ tội lỗi ở trên giòng sông Jordan thì Giê-su vội vã tới nơi để cũng được rửa tội.
Sau khi rửa tội, Giê-su đi vào vùng hoang dại trong 40 ngày. Đối với chúng ta, thời gian 40 ngày này thật là đáng chú ý, vì nó nằm giữa 2 giai đoạn khác hẳn nhau trong cuộc đời của Giê-su. Những ảo tưởng của Giê-su, cho đến lúc này, có tính cách cô lập và không liên hệ mấy tới nhau, đã hợp với nhau thành một cơ cấu những ảo tưởng một cách có hệ thống; chắc hẳn là Giê-su trong thời gian 40 ngày này đã đàm thoại nhiều lần với Chúa Cha, vị Thần đã giao phó nhiệm vụ cho Giê-su giảng dạy giáo lý của ông ta. Sự phát triển tâm bệnh của Giê-su như vậy, một sự chuyển tiếp từ giai đoạn tiềm tàng sang giai đoạn hoạt động của bệnh hoang tưởng, đích thực là đặc tính của loại bệnh tâm thần này.
Trong 3 năm giảng đạo cho quần chúng của Giê su, cái Tâm Lý Bệnh Hoạn về Những Ao Tưởng Hão Huyền về Quyền Lực hay Toàn Năng [tác giả dùng từ Megalomania = A psycho-pathological condition in which fantasies of wealth, power or omnipotence predominate] không ngừng tăng gia một cách khó có thể đo lường được, và đã tạo thành tâm điểm mà mọi hành động của Giê-su đều xoay quanh.
Tất cả những điều Giê-su nói, giáo lý, bài giảng đều đưa tới một đơn từ: "Ta" . (John 6:29, 35, 38, 40, 47-58; 8:12; 11:25ff; 14:6, 13 v..v..) 34
Công cuộc nghiên cứu về nhân vật Giê-su của Binet-Sanglé có thể tóm tắt sơ lược những điểm chính như sau:
Qua những sự việc khác nhau có tính cách gợi ý, qua Gioan Ba-ti-xi-ta ... và qua sự thích thú của những người theo, Giê-su đã bị đưa tới tình trạng tin rằng mình là đấng cứu tinh (của dân tộc Do Thái), là Vua của dân Do Thái, con của Thần Ki Tô, người giải thích ý Thần, nhân chứng của Thần, và sau cùng tự cho mình là Thần. Những sự đe dọa của dân Pharisees và Scribes cũng gây trong ông khái niệm ông chính là vật hy sinh tế Thần để xóa hết tội lỗi của dân Israel, và rằng sau khi sống lại ông ta sẽ lên thiên đường hoàn toàn vinh quang. Binet-Sanglé tìm thấy trong Thánh Kinh 7 trường hợp Giê-su phát sinh ảo giác, 2 ảo giác nhìn thấy Thần, và 5 ảo giác vừa nhìn thấy vừa nghe thấy tiếng Thần nói. 35
Thật ra, căn bệnh hoang tưởng của Giê-su cũng không lấy gì làm lạ. Trên đời không thiếu gì người nhìn đâu cũng thấy Giê-su hay Maria, hoặc nghe tiếng nói của Thiên Chúa. Báo chí Hoa Kỳ đã đưa lên những trường hợp người ta thấy Giê-su hay đức Mẹ Maria trên những đám mây, trên vách ngoài của một vựa chứa ngũ cốc, trên mui một chiếc xe ô-tô, trên vết loang của một bức tường, và trên cả mặt một cái bánh Pancake trong một tiệm ăn v..v... tuy rằng không ai thực sự biết rõ mặt mũi của Giê-su và Maria ra sao. Mỗi khi có tin như vậy, thiên hạ lại đổ xô đến nơi mà người ta cho rằng Giê-su hay đức Mẹ Maria đã hiện ra, quỳ lạy van vái. Người nào đến coi mà tỏ ý nghi ngờ liền bị những tín đồ cuồng tín mạ lỵ hành hung. Đó là tình trạng xảy ra ngay trên đất Mỹ, một đất nước được coi là văn minh tiến bộ nhất. Tình trạng này phản ánh trình độ tôn giáo của những tín đồ Ki-Tô luôn luôn tự cho là mình đang theo một tôn giáo thiên khải, không như các tôn giáo mê tín dị đoan khác.
Tưởng chúng ta cũng nên nhớ, gần đây có những nhân vật như James Jones, David Koresh, cùng mang một bệnh chứng tâm thần hoang tưởng như Giê-su ngày xưa, đều thuộc làu Thánh Kinh và nghĩ rằng mình là hiện thân của Giê-su, mang trên người chức năng cứu thế. Kết quả là những thảm cảnh xảy ra ở Jonestown và Waco làm cho hàng trăm con người ngu muội tin theo bị chết thảm. Ở Phi Luật Tân, mỗi năm đến ngày lễ Phục Sinh đều có người tình nguyện chịu đóng đinh trên thập giá vài tiếng đồng hồ giống như Giê-su ngày xưa, tin rằng làm như vậy để cứu nhân loại, đến nỗi một Tổng Giám Mục địa phương phải than rằng: “Nếu tôi ngăn cản sự mê tín này, họ sẽ ném đá cho tôi chết.”
Theo những kết quả nghiên cứu sâu rộng về Giê-su, nếu Giê-su chỉ là một người như mọi người khác, với những giới hạn của một con người, thì khi đánh giá một nhân vật có tên tuổi trong lịch sử, chúng ta phải xét đến những khía cạnh đạo đức, trí tuệ và ảnh hưởng của nhân vật đó trên nhân loại. Đạo đức và trí tuệ của Giê-su, chúng ta có thể suy ra từ Thánh Kinh. Còn ảnh hưởng trên nhân loại thì chúng ta phải xét đến lịch sử Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô giáo nói riêng. Vì, những gì mà Ki Tô Giáo mang đến cho nhân loại trong hai ngàn năm nay đều là nhân danh Giê-su. Dù Giê-su có muốn hay không, Giê-su cũng không thể từ bỏ trách nhiệm của mình là nguồn cảm hứng cho Ki Tô Giáo. Và, theo như nền thần học Ca-tô thì tất cả những hành động của giáo hội Ca-tô là do Thánh Linh, hay đức Chúa Thánh Thần, một bộ mặt khác của Giê-su, hướng dẫn, chỉ đạo.
Thứ nhất, về vấn đề đạo đức và trí tuệ của Giê-su thì không một người nào trong giới trí thức không biết đến nhận định của Bertrand Russell, một triết gia và khoa học gia nổi tiếng trên thế giới trong thế kỷ 20:
Riêng tôi, tôi thấy trong cả hai lãnh vực trí tuệ và đạo đức, Chúa KiTô không thể đứng ngang hàng với những vĩ nhân khác của lịch sử. Tôi cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Socrate đứng cao hơn Ngài trong hai lãnh vực này. 36
Và, không phải chỉ có mình Bertrand Russell nhận định như trên mà giám mục John Shelby Spong cũng đưa ra một nhận định tương tự như sau:
Có những đoạn trong 4 Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả. 37
Và, nhận xét về một vài trong số nhiều hành động của Giê-su được mô tả trong Tân Ước, giám mục Spong đưa ra ý kiến:
Chúng ta có thấy hấp dẫn đối với một Chúa (Giê-su) phải giết cả một bày heo (vào khoảng 2000 con. TCN) để đuổi một con quỷ ra khỏi thân người hay không? Chúng ta có nên khâm phục và kính trọng người mà chúng ta gọi là Chúa đã nguyền rủa một cây sung khi nó không ra trái lúc trái mùa không?..
Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một vị Thần mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng. 38
Tại sao Bertrand Russell, giám mục Spong, và không biết bao nhiêu người khác nữa, lại chê trí tuệ của Giê-su? Vì trong Thánh Kinh có nhiều bằng chứng chứng tỏ như vậy. Sau đây là một thí dụ:
Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ, một tín đồ Ca-Tô trong khoảng 30 năm hồi thiếu thời, viết trong bài nghiên cứu rất đặc sắc "Ít Nhiều Nhận Định về Thiên Chúa Giáo", đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tập I, trang 18:
Ngày nay các học giả đã chứng minh được rằng: Ngũ Kinh (Genesis, Exodus, Numbers, Deuteronomy, Leviticus) là do nhiều môn phái, nhiều người sống trong nhiều thế kỷ khác nhau viết. Những môn phái đó là:
- Phái Yahwistic (viết tắt là J - J là đầu chữ Jehovah),
vì gọi Chúa là Yahweh hay Jehovah, viết vào khoảng thế kỷ IX trước kỷ nguyên.
- Phái Elohistic (viết tắt là E) vì gọi Chúa là Elohim, viết ít lâu sau trường phái trên...
- Phái Deuteronomic (viết tắt là D) viết vào khoảng 622 đời Josiah.
- Phái Priestly (viết tắt là P) viết sau khi dân Do Thái đi lưu đày, tức là sau 500.
Như vậy Moses sống vào khoảng 1250 (TTL), người mà ta vẫn được dạy dỗ là tác giả Ngũ Kinh - ngay Chúa Giêsu cũng tin vậy (John 5:46 - Luke 24:27 - Luke 16:31) - thực ra lại không phải là tác giả, mà tác giả lại là vô số người viết, cách nhau nhiều thế kỷ, bộ Ngũ Kinh như vậy đã được viết ra trong vòng 400 năm.
Cũng vì vậy mà Rubem Alves đã đặt vấn đề trong cuốn Protestantism and Repression:
Ai viết Ngũ Kinh? Câu trả lời của giáo hội Ki Tô lịch sử cho câu hỏi trên là khẳng định: "Moses viết". Nếu Moses không hề viết Ngũ Kinh (theo những kết quả nghiên cứu của các học giả mà Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ đã trình bày ở trên. TCN) thì các tông đồ (Paul và John) đã sai lầm khi họ nói rằng Moses viết. Nếu họ sai lầm trong vấn đề này thì làm sao chúng ta có thể tin họ khi họ nói về những vấn đề như thiên đường và đời sau? Nếu Moses không viết Ngũ Kinh thì Giê-su đã nói láo hay sai lầm khi ông ta nói rằng Moses viết. (John 5:46 - Luke 24:27 - Luke 16:31). Nếu Giê-su thực sự không biết ai viết, tuy rằng ông ta nói rằng ông ta biết, làm sao chúng ta có thể tin ông ta được khi ông ta nói những chuyện trên trời? 39
Vài tài liệu trên cũng đủ để chứng minh rằng trí tuệ của Giê-su cũng không có gì đặc biệt, khác thường, không thể so sánh với trí tuệ của các học giả ngày nay, những người khám phá ra rằng Ngũ Kinh không phải do Moses viết, và lẽ dĩ nhiên không thể là trí tuệ của một vị Thần toàn trí, nghĩa là cái gì cũng biết, kể cả quá khứ vị lai.
Nhưng vấn đề không phải là trí tuệ của Giê-su kém cỏi, mà nhận xét phân tích Thánh Kinh
-- Tạm kết Giêsu là ai?
Để kết luận chương này, phần trích dẫn sau đây từ một bài dài có tính cách tổng hợp của Robert G. Ingersoll có thể dùng để giải đáp cho những câu hỏi như Giê-su là ai, là người như thế nào, và ảnh hưởng của ông ta đối với nhân loại ra sao:
Ki Tô Giáo không thể sống hòa bình với bất cứ tín ngưỡng nào khác. Nếu tôn giáo này đúng thì chỉ có một đấng cứu thế, một cuốn sách do Thiên Chúa Ki-Tô (Christian god) truyền cảm, và chỉ là một con đường cỏ nhỏ hẹp dẫn tới thiên đường.
Tại sao Giê-su không trở lại đền thờ để chấm dứt những cuộc tranh luận cũ kỹ? Tại sao Giê-su không đối diện với những người lính La Mã đã nhận tiền để thề rằng xác ông ta đã bị các đồng bạn đánh cắp? Tại sao ông ta không chiến thắng đi vào thành Jerusalem lần thứ hai? Tại sao ông ta không nói trước quần chúng: "Đây là những vết thương ở chân, tay, và cạnh sườn ta. Ta là người các ngươi muốn giết, nhưng thần chết chỉ là nô lệ của ta."? Thật là đơn giản, sự sống lại của Giê-su chỉ là một huyền thoại. Tôi không tin và không thể nào tin cái phép lạ về sự sống lại.
Chúng ta không biết gì chắc chắn về Giê-su. Chúng ta không biết gì về thời ông ta còn là đứa con nít, thời niên thiếu của ông ta, và chúng ta cũng không chắc là một người như vậy đã hiện hữu.
Rất có thể có một người như vậy tên là Giê-su. Ông ta đã có thể sống ở Jerusalem. Ông ta có thể đã bị đóng đinh trên giá gỗ hình chữ thập, nhưng những điều như ông ta là con của Thiên Chúa, chết rồi sống lại và thân thể bay lên thiên đường thì, trong bản chất của mọi vật, chưa bao giờ và không bao giờ có thể chứng minh được.
Trong nhiều thế kỷ, cái tên nhà quê đặc ở Palestine này (Giê-su) đã được người ta thờ phụng như là Thiên Chúa. Hàng triệu người đã hiến thân để phục vụ hắn. Của cải thế gian được đổ vào những đền thờ hắn. Tên hắn đã mang sự an ủi đến cho những kẻ bệnh hoạn và sắp chết. Tên hắn đã mang sự can đảm đến cho những kẻ cuồng tín chết vì đạo.. Những kẻ sống ngoài lề xã hội, bị xã hội ruồng bỏ, thất bại, cảm thấy rằng hắn biết đến và thương hại những sự đau khổ của họ.
Đúng là có tất cả những điều trên, và nếu đó là tất cả thì đẹp đẽ biết bao, cảm động biết bao, và vinh quang biết bao. Nhưng đó không phải là tất cả. Nó còn một mặt khác.
Nhân danh hắn hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ. Nhân danh hắn những tư tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi như là những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của những người thông thái nhất, giỏi nhất.
Nhân danh hắn sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng cả ngàn năm. Trong Kinh hắn giảng chúng ta thấy cái tín lý về sự đau đớn vĩnh viễn (đọa hỏa ngục. TCN), và những lời của hắn đã gia thêm sự kinh khủng vô tận vào sự chết. Kinh hắn giảng chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi sự lương thiện trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên cõi đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình thương yêu như là thấp hèn và như súc vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt tự do của con người. Nhân loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết ra - Chúa Ki Tô theo quan niệm thần học cũng chưa từng được sinh ra." Nếu những người viết Tân Ước được coi như không phải là do Thiên Chúa gây cho cảm hứng, nếu Giê-su chỉ được coi như là một người thường, nếu những điều tốt đẹp được thu nhận và vứt bỏ đi những điều vô nghĩa, không thể xảy ra, sự trả thù, thì nhân loại sẽ tránh được chiến tranh, những sự tra tấn, máy chém, ngục tối, sự hấp hối và nước mắt, những tội ác và đau khổ trong một ngàn năm.
Trước hết Giê-su là một con người - không gì hơn một con người. Mary là mẹ ông ta. Joseph là cha ông ta. Gia phả của cha ông ta, Joseph, được viết để chứng tỏ rằng thuộc dòng dõi David.
Rồi người ta tuyên bố rằng Giê-su là con của Thượng Đế, rằng mẹ ông ta là một nữ trinh và tiếp tục đồng trinh cho đến khi chết.
Người ta tuyên bố rằng Giê-su sống lại và thân thể bay lên trời.
Phải mất rất nhiều năm những điều vô nghĩa này mới cấy được vào đầu óc con người.
Nếu thực sự ông ta thăng thiên, tại sao ông ta không làm việc này trước công chúng, trước những người đã bạo hành ông? Tại sao cái phép lạ vĩ đại nhất trong các phép lạ này lại phải thực hiện trong bí mật, trong một xó xỉnh?...
Nhưng sau cùng, khi đối diện thần chết, Giê-su mới nhận ra là mình sai lầm và than khóc: "Chúa ơi! Chúa ơi! Sao Ngài lại ruồng bỏ tôi?"
Tại sao chúng ta phải đặt Giê-su lên tột đỉnh của nhân loại? Ông ta có từ ái hơn, dễ tha thứ hơn, hay hi sinh bản thân hơn đức Phật hay không? Ông ta có thông thái hơn, đối diện với cái chết một cách bình tĩnh toàn hảo hơn là Socrates không? Ông ta có kiên nhẫn, nhân từ hơn là Epictetus không? Ông ta có là một triết gia lớn hơn, một tư tưởng gia sâu sắc hơn là Epicurus hay không? Về phương diện nào ông ta đứng trên Zoroaster? Ông ta có hòa ái hơn Lão Tử hay phổ quát hơn Khổng tử không? Những ý tưởng về nhân quyền và bổn phận con người của ông có cao hơn của Zeno không? Ông ta có đưa ra những chân lý cao hơn của Cicero không? Đầu óc ông ta có tinh tế hơn Spinoza không? Đầu óc ông ta có sánh bằng đầu óc của Kepler và Newton không? Trong sự thông minh, trong cách diễn đạt, trong sự sâu rộng của tư tưởng, trong sự phong phú của cách minh họa, trong khả năng so sánh, trong sự hiểu biết về tâm trí, sự đam mê và sợ hãi của con người, ông ta có hơn được Shakespeare không?
Nếu Giê-su thực sự là Thiên Chúa, ông ta phải biết mọi việc trong tương lai. Ông ta phải thấy rõ lịch sử sẽ xảy ra. Ông ta phải biết người ta sẽ diễn giải những lời ông nói như thế nào. Ông ta phải biết những tội ác nào, những sự khủng khiếp nào, những sự ô nhục nào mà người ta sẽ phạm phải nhân danh ông. Ông ta phải biết đến những ngọn lửa bạo hành bốc lên xung quanh chân tay những kẻ bị thiêu sống vì không có cùng niềm tin như những tín đồ Ki Tô Giáo. Ông ta phải biết đến hàng ngàn người, đàn ông cũng như đàn bà, đau đớn mòn mỏi trong ngục tù tối tăm. Ông ta phải biết cái giáo hội của ông ta sẽ phát minh ra những dụng cụ tra tấn; những tín đồ của ông sẽ dùng đến roi vọt và bó củi, xiềng xích và giá căng (banh) người. Ông ta phải thấy chân trời tương lai sáng rực với những ngọn lửa thiêu sống con người trong những cuộc lễ auto da fe. Ông ta phải biết những tín lý, giáo điều sẽ mọc lên như nấm độc trong mọi cuốn sách bổn của giáo hội. Ông ta phải thấy những phe phái Ki Tô ngu đần gây chiến với nhau. Ông ta phải thấy hàng ngàn con người, theo lệnh của các linh mục, xây những nhà tù cho đồng loại. Ông ta phải thấy hàng ngàn máy chém đẫm máu của những người tốt nhất và dũng cảm nhất. Ông ta phải thấy những tín đồ của ông ta sử dụng những dụng cụ tra tấn gây đau đớn cho con người. Ông ta phải biết những diễn giảng về lời ông nói sẽ được viết bằng gươm giáo, và đọc trong ánh sáng của những bó củi thiêu sống người. Ông ta phải biết những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo sẽ được thiết lập theo những lời giảng dạy của ông.
Ông ta phải thấy những sự ngụy tạo và suy diễn lệch lạc mà những kẻ đạo đức giả viết ra và nói cho quần chúng. Ông ta phải thấy những cuộc chiến tranh sẽ được gây ra, và ông ta phải biết là trên những cánh đồng chết chóc đó, những ngục tù tăm tối đó, những giá căng người đó, những cuộc thiêu sống người đó, những cuộc hành quyết đó, trong cả ngàn năm, ngọn cờ của cây thập giá đẫm máu đã tung bay.
Ông ta phải biết người ta sẽ khoác áo thánh thiện và đội vương miện cho sự đạo đức giả - sự độc ác và nhẹ dạ cả tin sẽ ngự trị thế giới; phải biết sự tự do của con người sẽ mai một trên thế giới (dưới quyền lực của giáo hội); phải biết rằng nhân danh ông các giáo hoàng và vua chúa sẽ nô lệ hóa hồn xác con người; phải biết rằng họ sẽ bạo hành và tiêu diệt mọi nhà khảo cứu, nhà tư tưởng và nhà phát minh; phải biết là giáo hội của ông ta sẽ dập tắt ánh sáng thánh thiện của lý trí và giữ thế giới trong tăm tối.
Ông ta phải thấy những người theo ông sẽ chọc mù mắt con người, róc thịt, cắt lưỡi họ, tìm những chỗ nào đau đớn nhất trên thân thể con người để mà hành hạ.
Tuy nhiên ông ta đã chết đi với bờ môi khép kín.
Tại sao ông ta không nói lên, không dạy các tông đồ và xuyên qua họ, dạy thế giới: "Các ngươi không được thiêu sống, tù đầy và tra tấn con người nhân danh ta. Các ngươi không được bạo hành đồng loại.
Tại sao ông ta đi đến cõi chết một cách ngu đần, để lại thế giới cho sự đau khổ và nghi ngờ?
Tôi sẽ nói cho các người biết. Vì Giê-su chỉ là một người thường, ông ta chẳng biết gì đến những điều trên. 40
Qua 40 trích dẫn từ những tài liệu nghiên cứu sâu rộng về nhân vật Giê-su của các học giả, chuyên gia v.. v.. mà hầu hết đang sống trong truyền thống Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-ma nói riêng, chúng ta đã thấy phần nào chính xác con người thực của Giê-su lịch sử khác với Giê-su mà nền thần học Ki Tô đôn lên như thế nào. Nền thần học Ki Tô đã đưa Giê-su lên địa vị giáo chủ của giáo hội Ca-tô Rô-ma với những thuộc tính thần thánh qua nhiều huyền thoại mà ngày nay đã không còn giá trị. Tuy nhiên, giả thử chúng ta chấp nhận những luận cứ thần học về nhân vật Giê-su với danh nghĩa là giáo chủ lập giáo Ca-Tô Giáo Rô-ma thì có lẽ chúng ta cũng nên biết đến giáo lý của vị giáo chủ này. Vậy thì Giê-su đã giảng dạy những gì, đã giúp cho con người về vấn đề tu tập, đạo đức hay mở mang trí tuệ như thế nào? Đây chính là những chủ đề mà tôi sẽ bàn tới trong chương sau.
Chú Thích - Chương I:
1. Shorto, Russell, Gospel Truth, Riverhead Books, New York, 1997, Front Cover. The Last Supper, the Virgin Birth, the Resurrection: one by one the great beams of Christianity are being tested. Biblical scholars – once the guardians of Christian theology – are now using the tools of archaeology, anthropology, linguistics, computer science, and even particle physics to probe the question “Who was Jesus?” The result is a radical revision of the Gospel story that is both surprisingly vivid and to some people, deeply shocking... Most important, the author tells of the impact the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth.
2. Shorto, Russell, Ibid., p. 14.: ..The work of the Jesus Seminar, and of all contemporary Jesus researchers, in Funk’s view, represents a shift on the part of biblical scholars away from the tyranny of the church and toward cultural honesty. As far as Funk is concerned, scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.
3. Cross, Colin, Who Was Jesus?, Barnes & Nobles Books, New York, 1993, Introduction: Viewed from a distance and considered as a whole, Jesus of Nazareth is a reasonably tangible historical figure. But too close an examination of any individual detail of him causes him to blur...The reason for uncertainty about Jesus is the simplest possible. It is just that there is no record at all, of any kind, about the greater part of his life. He wrote no book. Even what he looked like is unknown. There is not a word of independent proof that he ever even existed. The records that do exist, the gospels, cover only a fraction of Jesus' life and are written from a cultic and ritualistic point of view and not as ordinary history. There are the gravest inconsistencies in the gospel accounts and also many blatant improbabilities.
4. Ernie Bringas, Going By The Book: Past And Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads Pub., Co. VA., 1996, p. 191: The consensus today is that the historical Jesus - the words and actions of Jesus and the real events surrounding his life - cannot be determined with precision. While we know how the author of a Gospel regarded Jesus by what he reported (and how he reported it), it is not always possible to penetrate beyond the Gospel portrayals of Jesus to Jesus himself. We cannot determine with certainty what Gospel statements about his life and career are genuine.
5. Ranke-Heinemann, Uta, Putting Away Childish Things, Harper-Collins., San Francisco, 1995, p. 2: We encounter this truth in the person of Jesus. We know neither when and where he was born, nor when he died: He is a man without a biography. We don’t know how long his public activity as a peacher lasted or where exactly it took place. Strictly speaking, we don’t know a whole lot more than that he was born, that there were people who followed him as his disciples, and that he was executed on the cross – the Roman version of the gallows – and thus came the wretched end... This Jesus lies burried not only in Jerusalem, but also beneath a mountain of kitsch, tall tales, and church phraseology.
6. Harvey, Andrew, Son of Man: The Mystical Path to Christ, Jeremy P. Tarcher / Putnam,New York, 1998, p. 4.: Historical criticism has proved, conclusively, that the Gospels are to be read not as Spirit-inspired, faithful eye-witness accounts of Jesus’ life but as carefully sculpted versions of that life, arranged to suit or promote different spiritual interests, personalities, and factions within the dramatic years of early Christianity. The Gospels are neither directly inspired divine documents nor straight-forward historical records; neither divine revelations directly inspired by God nor eye-witness accounts written by people who had known Jesus and wanted to report clearly what they had experienced with him. Written in the last third of the first century, they express and condense the traditions of different early Cristian communities and were put into their current form slowly over a period of three hundred years.
7. Spong, John Shelby, Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, Harper, San Francisco, 1992, p. 35. Jesus was interpreted by the early Christians in terms of their assumed and unquestioned concepts of God, modeled after the image of a heavenly king. The focus was on the exalted Jesus seated at the right hand of the heavenly throne. The image reflected the popular mythic understanding of the universe as a kingdom.. But he was “born of a woman”.. His origins were equally as scandalous as his means of death. He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemed to know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition.
8. Spong, John Shelby, Ibid., p. 41. ... Once again the interpretive task went to work. He was not an illegitimate child, God was his father; he was born of the Holy Spitit. He was not a native of Nazareth, he was born in Bethlehem, the city of David. That Bethlehem birth had been foretold by the prophet Micah. He was not a nobody, he was of the royal house of David...
9. Gruber, Elmar R. & Kersten, Holger, The Original Jesus: The Buddhist Sources of Christianity, Element Books, Inc., Rockport, MA, 1995, pp. 3-4.: Hardly any other theme has caused such a stir in the Western world as the person of “Jesus of Nazareth”; hardly any other theme has led to the writing of so many books, or such animated and passionate discussions. And yet the personality of the historical Jesus is veiled in profound darkness. For a millennium and a half there were only accounts depicting Jesus in accordance with official Church theology, written with the objective of strengthening Christians’ faith or inducing other to turn to Christianity... During the nineteenth century the New Testament was subjected to scholarly investigation for the first time. It was the beginning of systematic research into the life of Jesus.. In 1835 David Friedrich Strauss published his influential book The Life of Jesus (Das Leben Jesu). Armed with uncompromisingly critical rational views, he bluntly rejected the historical factuality of the Gospels. For Strauss they were nothing but legends and pious stories about the figure of Jesus, inspired by the Old Testament. Such opposition went further at the mid-nineteenth century. Bruno Bauer completely banned the figure of Jesus from historical research, simply declaring that the central figure in the New Testament was a mythical invention. Jesus and Paul were said to be nothing but literary fictions; and Christianity was seen as having been created by a fanatical group which concocted the faith around those two invented figures out of Jewish, Greek, and Roman religious traditions... Today there are well over 80000 monographs on Jesus, but their impact in terms of illuminating the historical figure is modest in the extreme. Who was Jesus? When he was born? What did he look like? When he was crucified? When how, and where did he died? Finding answers to those questions soon turned out to be an insoluble problem. In the books written during the first two centuries AD there is hardly any mention of Jesus as a real human being. The later sources are almost exclusively theological writings, which take for granted a belief in Jesus Christ as the Messiah and Son of God. So truly impartial written testimony is practically non-existent, and scholarship in thus not in a position, even today, to say in which year Jesus was born... Hardly any attention is paid in the canonical Gospels of Jesus’ childhood and youth, a phase of life of such importance for the formation of a person’s character. Even in the accounts of the brief period of his public impact there is only very sparse biographical information about him. It seems as if he was almost completely unknown to the historians of his time, or at least not worth mentioning. How is it possible that they paid no attention to the amazing miracles and extraordinary events recorded in the Gospels.
10. Martin, Michael, The Case Against Christianity, Temple University Press, Philadelphia, 1991, p. 37: Modern critical methods of biblical scholarship have called into question the historical accuracy of the Bible and, in particular, the New Testament. In the light of this critical approach to the New Testament many theologians have argued that not much is known about Jesus. For example, W. Trilling argues that “not a single date of his life” can be established with certainty and J. Kahl maintains that the only thing that is known about him is that he “existed at a date and place which can be established approximately”. Other scholars argue that the quest for the historical Jesus is hopeless...The most respected contemporary critic of the historicity of Jesus is G. A. Wells... Wells stresses that his skepticism concerning the historicity of Jesus is based in large part on the views of Christian theologians and biblical scholars who admit that the canonical Gospels were written by unknown authors not personally acquainted with Jesus, between 40 and 80 years after Jesus’ supposed lifetime. According to Wells they also admit that there is much in these accounts that is legend and that the Gospel stories are shaped by the writers’ theological motives. Furthermore, the evidence provided by the Gospels is exclusively Christian..
11. Foner, Philip S., Editor, The Life and Major Writings of Thomas Paine: “The Age of Reason”, A Citadel Press Book, New York, 1993, pp. 571-572: The history of Jesus Christ is contained in the four books ascribed to Matthew, Mark, Luke, and John. The first chapter of Matthew begins with giving a genealogy of Jesus Christ; and in the third chapter of Luke there is also given a genealogy of Jesus Christ. Did those two agree, it would not prove the genealogy to be true, because it might, nevertheless, be a fabrication; but as they contradict each other in every particular, it proves falsehood absolutely. If Matthew speaks truth, Luke speaks falsehood, and if Luke speaks truth, Matthew speaks falsehood; and as there is no authority for believing one more than the other, there is no authority for believing either; and if they cannot be believed even in the very first thing they say and set out to prove, they are not entitled to be believed in anything they say afterward...If they cannot be believed in their account of Jesus' genealogy, how are we to believe them when they tell us strange things such as Jesus was the Son of God begotten by a ghost, and that an angel announced this in secret to his mother?..
12. Shorto, Russell, Ibid., pp. 36-41: From the early second century, Jewish writers observing the rapidly spreading Christian religion noted with a sneer that the supposed divinely inspired figure at its center was in fact a bastard. Swirling around the gospel stories, according to some scholars, are whispered cries of “illegitimate”... Technically, even by the traditional rewading, this charge is true, for according to the accepted interpretation, Joseph, Mary’s betrothed, is not the actual father of the child. But a careful reading of Matthew’s account may suggest a more mundane kind of illegitimacy..and that Matthew constructed an elaborate theological architecture to try to transform that nasty reality into a myth he could build a tradition on... One thing about the genealogy that has bothered theologians for centuries is the mention of several women among the men who, in the ancient view, carry the bloodline. Why we are told that “Abraham was the father of Isaac, and Isaac the father of Jacob”, and so on, with no mention of the women involved, but then learn that Judah was the father of Perez and Zerah “by Tamar”, and Salmon the father of Boaz b”by Rahab”, and Boaz the father of Obed “by Ruth”, and that David was the father of Solomon “by the wife od Uriah”..? A solution to the puzzle has been worked up over the two past decades by a group of scholars who realized that all of the women mentioned are associated with scandalous sexual behavior. In other word, Matthew is softening the blow of Jesus’ questionable legitimacy by indicating that in several previous instances it was necessary for the royal bloodline of Israel to be passed on via less-than-ordinary means. Bastardy, it may even be suggested, was a badge of honor...
13. Foner, Philip S., Ibid., p. 539: Could we permit ourselves to suppose that the Almighty would distinguish any nation of people by the name of His Chosen People we must suppose that people to have been an example to all the rest of the world of the purest piety and humanity, and not such a nation of ruffians and cut-throats as the ancient Jews were; a people who, corrupted by the copying after such monsters and impostors as Moses and Aaron, Joshua, Samuel and David, had distinguished themselves above all others on the face of the known earth for barbarity and wiskedness.
14. Lockhart, Douglas, The Dark Side of God, Elements Books, Inc., Boston, MA., 1999, p. 47: With the ability to invent history through the forging of imposing-looking documents complete with papal seals, and with the added ability to instantly insert such fabrications into Canon Law, the Catholic Church systematically recreated its past and ended up believing its own lies.
15. Ellerbe, Helen, The Dark Side of Christian History, Morningstar & Lark, Orlando, FL., 1999, p.17: The Catholic Encyclopedia concedes that “In all departments forgery and interpolation as well as ignorance had wrought mischief on a grand scale.” Despite Church prohibitions against any further research into the origins of the Gospels, scholars have shown that all four canonized Gospels have been doctored and revised. While the Church claimed that truth was static in nature and had been revealed only once, it continually found cause for changing that truth.
16. Lockhart, Douglas, Ibid., p 46: In his book, The Decline of Rome, the historian Joseph Vogt draws our attention to The Donation of Constantine, a document dated 30 March, 315, but actually composed during the papacy of Stephen III (752-7) to convince Pepin, king of the Franks, that he should defend the Church against the Lombards. A forgery through and through, The Donation claimed that Constantine, suffering from leprosy, had had a vision in which Saints Peter and Paul had told him to contact Pope Sylvester. Healed as a result of obeying this heavenly command, Constantine had in gratitude handed over his palace to Pope Sylvester and made the entire Western Empire subservient to the Holy See. The Sacred See of Blessed Peter was to be exalted above the Empire and the Emperor’s throne, and Sylvester made ruler of Antioch, Alexandria, Jerusalem, Constantinople and all the churches of the world...This document was accepted without a quibble until 1440, when Lorenzo Valla, a papal aide, proved beyong all doubt the The Donation was a fraud. Valla’s book was published in 1517..and in spite of all independent scholars agreeing with Valla, the Papacy continued to deny any skulduggery for the next few centuries... King Pepin, however, was very impressed when he read The Donation; for it appeared to prove beyond doubt that the Pope was successor to both Peter and Constantine. All power on earth, indeed; and behind the scenes the power of heaven to back it up. Routing the Lombards, Pepin dutifully handed over the lands mentioned in The Donation, thus making the Holy See all-powerful at a single stroke.
17. Uta Ranke-Heinemann, Ibid., p. 212: One very special lightning bolt from the Spirit was the so –called Donation of Constantine. In it Emperor Constantine (d. 337) showed great generosity toward the Church: “We have transferred our [Lateran] palace and all the provinces, places, and towns belonging to the city of Rome, to Italy, and to the West to the most blessed supreme pontiff, our father Sylvester, the universal pope, and to his – or his successors’ – power and sway.” The date, official seal, and signature authenticated this donation. Constantine, the absolute monarch thus gave to the pope all of Western Roman Empire; and the popes became successors of the Roman Emperors in the West. Constantine himself was content with the East, “because the earthly emperor should not have authority where the head of the Christian religion [the pope] has been appointed by the heavenly emperor [Jesus].” Yet it was all a swindle, a hand-made-homemade inside job, an ecclesiastical forgery. From it, of course, the Church got inestimable advantages in power and possessions, and that for centuries. The forgery had been cooked up in the papal chanceries around the middle of the 8th century; it was not exposed until the 15th century. The detective was a humanist, critic of the papacy, and high official of the Roman Curia, Lorenzo Valla (chết năm 1457). But his work exposing the fraud wasn’t published until 1517 by Ulrich von Hutten at the beginning of the Reformation. The Catholic side did not admit the whole deception until much later. The Lexikon fur Theologie und Kirche writes, “since the middle of the 19th century..the contents of the Donation of Constantine have been considered a forgery from the Catholic standpoint” ([1961] VI, 484).
18. Lockhart, Douglas, Ibid., p. 47: By 1187 the forging of documents had become a profitable business, with a whole school of forgers toiling to produce ratification of Gregory III’s ambititions; there were even a policy of making old documents say the reverse of what they actually said. Amusingly, de Rosa points out that some these earlier documents were forgeries in their own right, and states that this school of forgers “...treated all papers, forged or genuine, with a completely impartial dishonesty”. De Rosa is rightfully merciless when dealing with this extraordinary situation, and reveals that during the mid-twelfth century, the Decretum, or Code of Canon Laws, was “..peppered with three centuries of forgeries and the conclusions drawn from them”. One such conclusion was that the pope was superior to, and the “source” of, all laws without qualification; a fact noted by de Rosa as suggesting that he was by definition equal to the Son of God. Here then was the Church we had to have, the institution created by God through Constantine to shed light on a darkened world.
19. Graham, Lloyd, Deceptions & Myths of the Bible, The Citadel Press Book, New York, 1995, p. 454: ...He (Constantine) killed with his own hands two of hid brothers-in-law, had his wife, his son Crispus and two nephews murdered, bled to death his political rivals, threw the unbelieving into a well, and caused uncounted thousands to die on the battle field.
20. Graham, Lloyd, Ibid., p. 454: For nearly 2000 years Christianity has been trying to save us instead of civilizing us and it has ended in a century of savagery, an era in which 250 million Christians died in Christian wars... Such is Christianity, a religion based on a fraud, founded by “fools” and confirmed by an assassin – Constantine the Great.
21. Graham, Lloyd, Ibid., p.: 438: Thus the Catholic Church is founded on Peter whom, four verses later, Jesus openly calls Satan. Thus if the Catholic Church is founded on Peter, it is founded on Satan – a fact we have long expected. Peter’s story is the veriest nonsense – one mortal man endowed with the power over all humanity for all eternity. In things religious, Catholics are indeed credulous but can they be so credulous as to believe that pre-Christian sages like Pythagoras, Plato, Socrates...require this ignorant Jewish fisherman to bind and loose theirs souls? No, and neither are we.
22. Daleiden, Joseph, The Final Superstition: A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy, Prometheus Books, New York, 1994, p. 83: It is not surprising, therefore, to learn that many biblical scholars believe the evidence indicates that this reference to Peter, like many other New Testament passages, was inserted at a later date.
23. Kung, Hans, Christ Sein (1976), p.338-339: The historical Jesus.. counted on the world’s coming to an end in his own lifetime. And for this coming of God’s kingdom he doubtless did not want to found a special community distinct from Israel, with its own creed, its own cult, its own constitution, its own office...All this means that in his own lifetime Jesus never found any church. He had no idea of founding and organizing a large-scale religious operation that would have to be created...
24. Uta Ranke-Heinemann, Ibid., p. 217: The Church has turned Jesus into its propagandist. For this reason we take everything that presupposes or dicusses or promotes the existence of a Church as interpolation by the authors of the Gospels into Jesus’ original sayings. That includes Jesus’ hailing Peter as the rock on which he will build his church (Matt. 16:18), since Jesus never meant to found a church... It’s not Jesus who’s speaking here; it’s the early church, which was interested in having such a leadership position and authority figure because of its growing hierarchical structure. In the inauthentic chapter 21 of John – that is, in a later addition to the actual gospel – the idea of a deputy is already clearly developed. Peter becomes the shepherd of the flock of Christ. He takes over the functions of Jesus, the former and actual shepherd, as his representative. Shortly afterward, the Church began to think that the important thing was not the person of Peter. The Church decided that the office Peter held was the bedrock foundation of the Church, and that Jesus established it permanently. With this concept we have the popes as Peter’s successors and Christ’s deputies, and the papacy as the foundation of the Church.
25. Uta Ranke-Heinemann, Ibid., p. 215: Jesus has no intention of founding a “church” and certainly not a “church universal.” For an authentic example of Jesus’ view, consider Matt 10:5-6, which expresses the exact opposite of a universal commission: “These twelve Jesus sent out, charging them, “Go nowhere among the Gentiles, and enter no town of the Samaritans, but go rather to the lost sheep of the house of Israel.” Two further authentic passages are Matt 15:24, “I was sent only to the lost sheep of the house of Israel,” and Matt. 10:23, “You will not have gone through all the towns of Israel, before the Son of Man comes.” ...Jesus himself – and all theologians have by now acknowleged this – believed that the Kingdom of God would be coming soon. But that is the opposite of a world mission in the grand style.
26. Maureen Fiedler and Linda Rabben, Rome Has Spoken, p. 82: Nicholas V, Dum Diversas, 1452/54: We grant to you (Kings of Spain and Portugal) by these present documents, with our Apostolic Authority, full and free permission to invade, search out, capture, and subjugate the Sacarens and pagans and any other unbelievers and enemies of Christ wherever they may be, as well as their kingdoms, duchies, counties, principalities, and other property..and to reduce their persons into perpetual slavery.
27. Pettifer, Julian & Bradley, Richard, Missionaries, BBC Books, London, 1990, p. 132-133: By the end of the 15th century, (1493), Pope Alexander VI created two spheres of influence; he determined that the whole of the Americas with the exception of Brazil, should belong to Spain, while Portugal would take Brazil and whatever could be seized in Asia and Africa. It was decreed that along with territorial gains whould go the duty to incorporate any native peoples into the Catholic Church..With the invading armies came priests and friars whose presence justified the subjugation of the people and the use of whatever coercion was judged necessary to bring them to the faith.
28. Huntington, Samuel P., The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order, Simon & Schuster, New York, 1996, p. 70: ..and it was for God as well as for gold that Westerners went out to
conquer the world in the sixteenth century.
29. Wilson, A.N., Jesus, W.W. Norton & Company, New York, 1992, p. vii: The Jesus of history and the Christ of faith are two separate beings, with very different stories. It is difficult enough to reconstruct the first, and in the attempt we are likely to do irreparable harm to the second..
30. Lockhart, Douglas, The Dark Side of God, p.275: In Chapter 14 we considered the humanity of Jesus and concluded that he had been a man like any other. He was subject to anger, pain, thirst, weariness, sadness, fear and death. And he was capable of making mistakes; which is to say that his knowledge was human knowledge, his belief system a reflection of the culture and time into which he was born. He had no knowledge of modern physics. He was not aware of virus or germs or the possibility of antiseptics, knew nothing of the combustion engine, and could not have told you that Mars followed an elliptic orbit. All in all, a diminution of what has been said about him by others. But not a dismissal. Not easily dismissed, this highly unusual man whose unique sense of God separated him from his religious peers. He was unusual, yes, unique certainly, but not by any stretch of the imagination either perfect or all-knowing in the sense eventually suggested by Catholic thinkers.
31. Schonfield, Hugh J., Those Incredible Christians, p. xi: In The Passover Plot, I rejected after protracted and thorough research the traditional portrayal of Jesus and revealed him as a Jew, who at a psychological moment in Jewish history courageously, steadfastly and with deep insight acted on the conviction that he was the Messiah his afflicted people were awaiting. I showed him to have been a man of faith, but no more than man, who employed his natural intelligence to bring to fruition the predictions which in the manner of his time he believed must be accomplished.
32. Schweitzer, Albert, The Psychiatric Study of Jesus, p. 35: In the last decade historical research has more and more clearly perceived that the expectation of the second coming of the Messiah is at the center of Jesus' thought, and that it dominates his feeling, his will and his action far more rigorously than we had previously supposed... Jesus considered himself to be the Messiah and expected his majestic return on the clouds of heaven.
33. Schweitzer, Albert, Ibid., p. 37: Jesus is evidently a hybrid, tainted from birth by heredity, who even in his early youth as a born degenerate attracted attention by an extremely exaggerated self-consciousness combined with high intelligence and a very slightly developed sense of family and sex. His self-consciousness slowly unfolded until it rose to a fixed delusional system, the pecularities of which were determined by the intensive religious tendencies of the time and his one-sided preoccupation with the writings of the Old Testament. Jesus was moved to express his ideas by the appearance of John the Baptist. Proceeding step by step Jesus finally arrived at the point of relating to himself all the Scriptural promises, which had become vital again through national misfortune, and for whose ultimate glorious fuldilment all hearts hoped. Jesus regards himself as a completely supernatural being. For only so and not otherwise can man understand his behavior when he arrogated to himself divine rights like the forgiveness of sins. (Matt. 9:2; Mark 2:5-12; Luke 5:20, 7:48)
34. Schweitzer, Albert, Ibid., p.40: We find a boy with unusual mental talents who is, nevertheless, predisposed to psychic disturbances, and within whom delusions gradually form. He spent his whole leisure in the study of the Holy Scriptures, the reading of which certainly contributed to his mental illness. When at the age of thirty he first made a public appearance, his paranoia was completely established. It is apparently one of those cases, where formless and indistinct psychotic ideas are, indeed, present, but where, nonetheless, they need an external shock and a strong emotion, in order to form a typical systematic structure of paranoia. This shock was provided for Jesus by another paranoid, no other than John the Baptist. Meantime Jesus' delusions attained their most complete maturity, and when he heard of the "forerunner of the Messiah", who was baptizing sinful people in the river Jordan, he betook himself there in order to receive baptism himself. After the baptism Jesus went into the wilderness for forty days. This sojourn is for us of the greater interest for these forty days lie between two sharply differentiated sections of his life. The delusions which up to that time were isolated and unrelated to each other henceforth merged into a great systematic structure of delusions; doubtless Jesus had at that time repeated conversations with God the Father who had commissioned him and whose doctrine he preached. Such a development of his illness, a transition from the latent to the active stage of paranoia, is quite characteristic of this psychosis. In the great drama of the public ministry of Jesus stretching over three years, the megalomania, which mounted ceaselessly and immeasurably, formed the center around which everything else turned. All his sayings, his teachings, his sermons culminated in a single word: "I" (John 6:29, 35, 38, 40, 47-58; 8:12; 11:25ff; 14:6, 13 etc..)
35. Schweitzer, Albert, Ibid., p. 43: Through the suggestive power of various incidents, through John the Baptist...and through the enthusiasm of the disciples, Jesus is brought to the point of believing himself to be the Messiah, the King of the Jews, the Son of God, God's interpreter, God's witness, and finally identifying himself with God. Threats of the fanatical Pharisees and Scribes also awakened in him the notion that he was the sacrificial lamb which by its death was to take away the sins of Israel, and that after his resurrection he would ascend into the heavens, there to be revealed in his complete glory... Binet-Sanglé finds seven hallucinations in all the account, two purely optical and five which are described as both optical and auditory-verbal.
36. Russel, Bertrand, Why I Am Not A Christian, p. 19: I cannot myself feel that either in the matter of wisdom or in the manner of virtue Christ stands quite as high as some other people known to history. I think I should put Buddha and Socrates above Him in those respects.
37. Spong, John Shelby, Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 21: There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical.
38. Spong, John Shelby, Ibid., pp. 21,24: Are we drawn to a Lord who would destroy a herd of pigs in order to exorcise a demon? Are we impressed when the one we call Lord curses a fig tree because it did not bear fruit out of season?... A literal Bible presents me with far more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less worship.
39. Alves, Rubem, Protestantism And Repression, p. 63: Who wrote the Pentateuch? The response of the historical Christian Church to that question is definite: “Moses wrote them”. If Moses did not write the Pentateuch, then the apostles (e.g., Paul and John) made a mistake when they said that he did. If they erred on this matter, how can we believe them when they deal with truths concerning heaven and the future life? If Moses did not write the Pentateuch, then Jesus lied or erred when he said Moses did. If Jesus did not know this, though he said he did know, how can we believe him when he talks about the thing of heaven?
40. Lewis, Joseph, Editor: Ingersoll: The Magnificent , p. 117-122:
Christianity cannot live in peace with any other form of faith. If that religion be true, there is but one savior, one inspired book, and but one little narrow grass-grown path that leads to heaven.
Why did Jesus not again enter the temple and end the old dispute with demonstration? Why did he not confront the Roman soldiers who had taken money to falsely swear that his body had been stolen by his friends? Why did he not make another triumphal entry into Jerusalem? Why did he not say to the multitude: "Here are the wounds in my feet, and in my hands, and in my side. I am the one you endeavored to kill, but death is my slave? Simply because resurrection is a myth. The miracle of the resurrection I do not and cannot believe.
We know nothing certainly of Jesus Christ. We know nothing of his infancy, nothing of his youth, and we are not sure that such a person ever existed.
There was in all probability such a man as Jesus Christ. He may have lived in Jerusalem. He may have been crucified; but that he was the son of god, or that he was raised from the dead, and ascended bodily to heaven, has never been, and, in the nature of things, can never be, substantiated.
For many centuries this Peasant of Palestine has been worshiped as god.
Millions and millions have given their lives to his service. The wealth of the world was lavished on his shrines. His name carried consolation to the diseased and dying... His name gave courage to the martyr..., The outcasts, the deserted, the fallen, felt that Christ was their friend, felt that he knew their sorrows and pitied their sufferings.
All this is true, and if it were all, how beautiful, how touching, how glorious it would be. But it is not all. There is another side.
In his name millions and millions of men and women have been imprisoned, tortured and killed. In his name millions and millions have been enslaved. In his name the thinkers, the investigators, have branded as criminals, and his followers have shed the blood of the wisest and best. In his name the progress of many nations was stayed for a thousand years. In his gospel was found the dogma of eternal pain, and his words added an infinite horror to death. His gospel filled the world with hatred and revenge; made intellectual honesty a crime; made happiness here the road to hell, denounce love as base and bestial, canonized credulity, crowned bigotry and destroyed the liberty of man.
It would have been far better had the NT never been written - far better had the theological Christ never lived. Had the writers of the NT been regarde as uninspired, had Christ been thought of only a man, had the good been accepted and the absurd, the impossible, and the revengeful thrown away, mankind would have escaped the wars, the crimes and sorrows of a thousand years.
At first Christ was a man - nothing more. Mary was his mother, Joseph his father. The genealogy of his father, Joseph, was given to show that he was of the blood of David.
Then the claim was made that he was the son of god, and that his mother was a virgin, and that she remained virgin until her death.
The claim was made that Christ rose from the dead and ascended bodily to heaven.
It required many years for these absurdities to take possession of the minds of men.
If he really ascended, why did he not do so in public, in the presence of his persecutors? Why should this, the greatest of miracles, be done in secret, in a corner?
At last, in the dusk of death, Christ, finding that he was mistaken, cried out: "My God, my God! Why hast thou forsaken me?"
Why should we place Christ at the top and summit of the human race? Was he kinder, more forgiving, more self-sacrificing than Buddha? Was he wiser, did he meet death with more perfect calmness, than Socrates? Was he more patient, more charitable, than Epictetus? Was he a greater philosopher, a deeper thinker, than Epicurus? In what respect was he the superior of Zoroaster? Was he gentler than Lao Tsze, more universal than Confucius? Were his ideas of human rights and duties superior to those of Zeno? Did he express grander truths than Cicero? Was his mind subtler than Spinoza's? Was his brain equal to Kepler's or Newton's? Was he grander in death - a sublimer martyr than Bruno? Was he in intelligence, in the force and beauty of expression, in breadth and scope of thought, in wealth of illustration, in aptness of comparison, in knowledge of the human brain and heart, of all passions, hopes and fears, the equal of Shakespeare, the greatest of human race?
If Christ was in fact god, he knew all the future. Before him like a paronama moved the history yet to be. He knew how his words would be interpreted. He knew what crimes, what horrors, what infamies, would be committed in his name. He knew that the hungry flames of persecution would climb around the limbs of countless martyrs. He knew that thousands and thousands of brave men and women would languish in dungeons in darkness, filled with pain. He knew that his church would invent and use instruments of torture; that his followers would appeal to whip and fagot, to chain and rack. He saw the horizon of the future lurid with the flames of the auto da fé. He knew what creeds would spring like poisonous fungi from every text. He saw the ignorant sects waging war against each other. He saw thousands of men, under the order of priests, building prisons for their fellow-men. He saw thousands of scaffolds dripping with the best and bravest blood. He saw his followers using the instruments of pain. He heard the groans - saw the faces white with agony. He heard the shrieks and sobs and cries of all the moaning, martyred multitudes. He knew that commentaries would be written on his words with swords, to be read by the light of fagots. He knew that the Inquisition would be born of the teachings attributed to him.
He saw the interpolations and falsehoods that hypocrisy would write and tell. He saw all wars that would be waged, and he knew that above these fields of death, these dungeons, these racking, these burnings, the executions, for a thousand years would float the dripping banner of the cross.
He knew that hypocrisy would be robed and crowned - that cruelty and credulity would rule the world; knew that liberty would perish from the earth; knew that popes and kings in his name would enslave the souls and bodies of men; knew that they would persecute and destroy the discoverers, thinkers and inventors; knew that his church would extinguish reason's holy light and leave the world without a star.
He saw his disciples extinguishing the eyes of men, flaying them alive, cutting out their tongues, searching for all the nerves of pain...
And yet he died with voiceless lips.
Why did he fail to speak? Why did he not tell his disciples, and through them the world: "You shall not burn, imprison and torture in my name. You shall not persecute your fellow-men."..
Why did he go dumbly to his death, leaving the world to misery and to doubt?
I will tell you why. He was a man, and did not know.
-GIÊ-SU LÀ AI?
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoạioại... Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường.
(Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth... Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.)
(Russell Shorto in "Gospel Truth")
Như là một định chế trong thế giới này, Vatican đã thông thạo những phương pháp biến chế, xào xáo sự thực bằng những cách lạ lùng để thúc đẩy chương trình toàn cầu của mình. Vatican đã thông thạo cách che dấu lịch sử, khai thác sự ngu dốt của con người, và ngụy trang những chính sách phi-dân chủ của mình...
(As an institution in this world the Vatican has learned to manipulate and manage truth in strange ways in furthering its world-wide program. It has learned to shade history, exploit human ignorance, and disguise its undemocratic policies...)
(Paul Blanshard, in "The Management of Truth: The Vatican")
Ki-Tô Giáo nói chung, đặc biệt là Giáo-hội Ca-Tô Rô-Ma (phiên âm từ "The Roman Catholic Church") mà người Việt Nam thường biết dưới cưỡng từ quen thuộc là Giáo Hội Công Giáo La-Mã, đã thành công trong việc tạo dựng lên một hình ảnh của Giê-su, đối tượng của một đức tin thuộc loại "Tin là một cách sống, chết; không liên quan gì đến cái biết, cái hiểu." (Đỗ Mạnh Tri, trong cuốn "Ngón Tay và Mặt Trăng") trong đám tín đồ đông đảo, gần 2000 năm qua. Hình ảnh Giê-su mà Giáo hội cấy vào đầu tín đồ rất xa với sự thực, những sự thực không nằm trong sự hiểu biết của tín đồ, vì Giáo hội cũng đã thành công trong việc biến tín đồ thành những thuộc hạ với tâm cảnh nô lệ, hoàn toàn tuân phục Giáo hội. Trong bức "Thư Chung Năm 2001" của "Hội Đồng Giám Mục Việt Nam" gửi "Cộng Đồng Dân Chúa" để họ "Được Sống Dồi Dào", mục 4, các giáo dân được khuyến khích phải "quên mình trong vâng phục" theo đúng Tông Huấn Giáo Hội tại Châu Á, số 44, nghĩa là phải tuyệt đối vâng phục những điều "Giáo hội dạy rằng...". Do đó, bất cứ Giáo hội giảng dạy ra sao, bất kể những điều giảng dạy này có đúng sự thực hay không, có thuận lý hay không, có hợp với trình độ hiểu biết của nhân loại ngày nay hay không v..v.., tín đồ đều phải vâng phục và tin theo. Đây là truyền thống tín ngưỡng của Ca-Tô Giáo Rô-ma. Thật vậy, Truyền thống trong Ca-Tô Giáo Rô-ma được tóm tắt trong câu (J. Sheatsley, The Pope's Catechism, p.80):
Tín đồ Ca-Tô phải tin tất cả những gì Thiên Chúa đã mạc khải và tất cả những gì Giáo hội Ca-Tô dạy, bất kể là những điều đó có hay không có trong Thánh Kinh.
Vì Truyền Thống Ca-Tô (nghĩa là những gì giáo hội dạy) và Thánh Kinh đều do Thiên Chúa mạc khải.
(A Catholic must believe all that God has revealed and the Catholic Church teaches, whether it is contained in Holy Scripture or not.
Because Catholic Tradition and Holy Scripture were alike revealed by God)
Bản chất của Tin Lành cũng không khác gì Ca-Tô Giáo. Họ chỉ thay những lời "Giáo hội dạy rằng.." của Ca-Tô Giáo bằng câu "Thánh Kinh viết rằng..." và điều kiện tiên quyết để theo Tin Lành là phải tuyệt đối tin vào Thánh Kinh và huyền thoại cứu rỗi của Giê-su. Trong Tin Lành, thẩm quyền của Giáo hội trong Ca-Tô Giáo được thay thế bằng thẩm quyền của Thánh Kinh. Mục sư Tin Lành Rubem Alves viết trong cuốn "Protestantism and Repression", trang 62 như sau về đức tin trong đạo Tin Lành: "Nếu những sự kiện khoa học, nhân văn, xã hội v..v.. hay thực tế ở ngoài đời (real life) mà trái ngược với Thánh Kinh thì những sự kiện này đương nhiên phải dẹp bỏ." (If the facts oppose the text (of the Scriptures), abolish the facts). Nếu khoa học mà phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học tốt (Good science). Nếu khoa học mà không phù hợp với Thánh Kinh thì đó là khoa học xấu (Bad science). Truyền thống trong Tin Lành cũng là phải tuyệt đối tin rằng con người sinh ra trong tội lỗi (born in sin) và do bản chất đó, con người không thể làm gì tốt (by nature, incapable of doing good), phải bị đày đoạ vĩnh viễn (To be a sinner is to be destined to eternal damnation), và cách duy nhất để được cứu rỗi là phải tin vào quyền năng của Giê-su (Justification by Faith). Vì vậy, Rubem Alves viết: "Chúng ta không bao giờ thấy Tin Lành giải thích hay biện minh cho thẩm quyền của Thánh Kinh bằng sự hiểu biết hay xuyên qua những thực tế ở ngoài đời. (Ibid., p.34: We will never see Right Doctrine Protestantism trying to explain or justify biblical authority in terms of understanding or comprehension of existence that it offers.)
Do đó, thảm trạng của nhân loại ngày nay là, gần một phần tư dân số trên thế giới vẫn tiếp tục sống trong bóng tối của một ý thức hệ mà thực chất không còn phù hợp với trình độ trí thức của con người trong thời đại thông tin điện tử này. Họ là nạn nhân của một nền Thần học tinh vi, dựa trên nhiều ngụy tạo và gian dối, một nền Thần học có tác dụng giữ họ trong bóng tối của đức tin thời Trung Cổ. Luận cứ này sẽ được chứng minh trong những phần sau của cuốn sách này.
Cho nên, nếu chúng ta đặt một câu hỏi then chốt: Giê-su là ai? thì câu trả lời thật là dễ dàng đối với những tín đồ Ki Tô Giáo, Ca-Tô cũng như Tin Lành: “Chúa tôi.”, vì họ chỉ được dạy như vậy và tin có vậy. Nhưng nếu chúng ta hỏi tiếp: “Chúa tôi là ai?” thì có lẽ tín đồ Ki Tô Giáo sẽ không trả lời vì không biết trả lời ra sao. Nhưng phần chắc là, do được dạy nhồi sọ từ nhỏ, họ sẽ nhìn chúng ta với một cặp mắt khinh khi, cho rằng chúng ta đích thật là những kẻ mọi rợ, chưa biết đến “tin mừng phúc âm.” trong khi họ chưa bao giờ đọc đến phúc âm và cũng không biết trong phúc âm có những gì, ngoài vài điều vụn vặt chọn lọc được rao giảng trong nhà thờ, và trong sách báo tuyên truyền một chiều của Ki-Tô giáo. Chỉ có điều, đối với thiểu số trên thế giới thì phúc âm, hay nói cho đúng hơn, những điều mê tín cách đây 2000 năm của dân tộc Do Thái, quả mang đến một tin mừng: “cứ tin ở Chúa thì sau khi chết phần hồn sẽ được lên thiên đường ở cùng Chúa, và đến ngày phán xét cuối cùng, thì Chúa sẽ làm cho xác chết của mình sống lại đoàn tụ với linh hồn”. Nhưng đối với đa số trên thế giới hiện đại có chút ít đầu óc thì chuyện “linh hồn lên thiên đường và xác chết ngày sau sống lại” thuộc loại chuyện “Chú Cuội ngồi trên cung Hằng”, vì "cứ tin ở Chúa" chỉ có thể áp dụng cho con người sinh sau Chúa, nghĩa là cách đây khoảng 2000 năm, trong khi lịch sử nhân loại đã trải dài ít ra là vài triệu năm.
Có lẽ tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô Giáo không hề đọc đến 3 tác phẩm nhan đề Giê-su là ai?, trong số hàng trăm tác phẩm khác, mà nội dung là kết quả nghiên cứu về nhân vật Giê-su trong lịch sử Ki Tô Giáo. Tác giả 3 tác phẩm nghiên cứu về cùng một chủ đề này là hai học giả Ki-Tô: Colin Cross và Thomas Wright, và Linh mục Ca-Tô John Dominic Crossan, giáo sư thần học tại đại học De Paul ở Chicago trong 26 năm. Ba tác phẩm này cùng với nhiều tác phẩm nghiên cứu khác ngày nay đã có thể cho chúng ta một cái nhìn về nhân vật Giê-su hoàn toàn khác với hình ảnh cùng những thuộc tính mà các giáo hội đã cấy vào đầu óc các tín đồ về Chúa của họ. Ngay cả mặt mũi thực sự của Giê-su cũng được đài BBC dùng máy điện toán tái tạo dựa trên những mẫu sọ người Do Thái cách đây 2000 năm, và những hình vẽ người Do Thái cho đến thế kỷ thứ 4. Hình ảnh gần đúng với sự thực này đã được đăng trên báo chí, và chương trình “Dateline NBC” của đài truyền hình NBC ngày 11 tháng 4, 2001 cũng đưa lên cho cả thế giới coi. Hình ảnh này cũng được đài TV Discover loan truyền cho thế giới coi tối ngày 15 tháng 4, 2001, trong cuốn phim khảo cứu “Jesus: The Complete Story”, cùng với những chi tiết đối ngược với những luận điệu thần học của giáo hội. Theo các khoa học gia thì hình ảnh Giê-su mà chúng ta thường thấy trên các hình vẽ, tượng hình v..v.. ngày nay chỉ là những sản phẩm tưởng tượng của các nghệ sĩ (Artists’ fantasies) thuộc giống dân da trắng, vì sự thực là không có một tài liệu nào cho biết hình dáng Giê-su ra sao. Nhưng với kỹ thuật tái tạo trong khoa học ngày nay, người ta đã có thể tái tạo khuôn mặt của Giê-su một cách sát với thực tế nhất. Khuôn mặt này trông thô lỗ, râu tóc quăn, da ngăm ngăm, mũi to, môi dày v..v.., như chúng ta thấy ở đầu cuốn sách này, không có gì giống với những hình ảnh do người da trắng tạo ra theo sự tưởng tượng của họ. Sự tái tạo khuôn mặt Giê-su của đài BBC đã gây nên nhiều phản ứng trong giới da trắng vì theo quan niệm của họ, Giê-su phải là người da trắng, mặt mũi gọn ghẽ như hình ảnh mà chúng ta thường thấy trong các xã hội Âu Mỹ.. Trong tờ Chicago Tribune ngày 13 tháng 4, 2001, Brad R. Braxton viết: “Vấn đề không phải là có lẽ Giê-su có tóc quăn, mũi lớn, môi dầy, da đen mà là tại sao hình ảnh này lại thu hút sự chú ý (phản đối) của một số người da trắng... Trong nhiều thế kỷ, dân da trắng đã hưởng lợi thế về tôn giáo, tâm lý, chính trị và kinh tế vì đã vẽ ra một vị thần theo hình ảnh của họ. Vẽ ra chân dung của Giê-su như là một người da trắng vốn không phải là điều khó hiểu. Đó chỉ là thần học dưới dạng nghệ thuật.” (So the news is not that Jesus probably had curly hair, a broad nose, thick lips and dark skin, the news is why this is so arresting to some white people...For centuries, white people have enjoyed the religious, psychological, political and economic advantages of having the divine cast in their image. The depiction of Jesus as a white man is not inherently problematic. It is theology in the form of art.)
Vậy thì “Giê-su là ai?”. Cho đến thế kỷ 16, hầu như toàn thể Á Châu chẳng có mấy người biết Giê-su là ai. Còn ở Âu Châu thì không một ai dám đặt ra câu hỏi này và không một ai dám phê phán bình luận cuốn Thánh Kinh vì sợ bị tù đầy, tra tấn và mang đi thiêu sống. Chúng ta nên nhớ, những tòa hình án xử Dị Giáo của giáo hội Ca-Tô, vì thế giới loài người càng ngày càng văn minh hơn, do đó quyền lực của giáo hội cũng càng ngày càng suy sụp, chỉ được dẹp bỏ vào khoảng giữa thế kỷ 19, sau khi đã tra tấn và giết hại 11 triệu người "dị giáo", và “Thánh bộ” (Holy Office) cầm đầu các tòa án xử dị giáo đã được biến thể, đổi tên thành Thánh Bộ Truyền Bá Giáo Lý Về Đức Tin, ngày nay do “hồng y thiết giáp” Ratzinger đứng đầu.
Sự tiến bộ trí thức là một định luật thiên nhiên của nhân loại. Dù giáo hội Ca-Tô đã tìm hết cách và xử dụng tối đa mọi quyền lực thế gian trong suốt 1500 năm, từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 19, với những biện pháp dã man, tàn bạo nhất để ngăn chận sự tiến bộ này, cuối cùng giáo hội cũng phải đầu hàng trước những bước tiến trí thức của loài người. Thật vậy, ngay từ 1760, Hermann Samuel Reimarus, giáo sư ngôn ngữ Á Đông tại đại học Hamburg bên Đức, đã viết một cuốn sách đưa ra nghi vấn về sự thực lịch sử viết trong các phúc âm. Vì sợ bị giáo hội trả thù, ông ta đã xếp đặt để cho tác phẩm của ông được xuất bản sau khi ông ta chết. Rồi cho đến năm 1835, Giáo sư Thần học David Friedrich Strauss cho ra đời cuốn Khảo Xát Kỹ Cuộc Đời Của Giê-su (Life of Jesus Critically Examined) trong đó tác giả dùng những phương pháp phân tích để đi tới kết luận: “các phúc âm không phải do các tông đồ của Giê-su viết mà là do những tín đồ Ki Tô về sau, những người đan lẫn những truyền thuyết, những điều tưởng tượng và sự kiện vào với nhau.”(..the gospels were written not by followers of Jesus but by later Christians who wove fact, legend, and fantasy together). Sau đó Strauss bị cấm dạy môn Thần học cho đến khi chết. Chúng ta có thể đọc tóm tắt những tác phẩm của Reimarus và Strauss trong cuốn sách được coi là làm “lung lay thế giới thần học” (..it rocked the theological world) vào đầu thế kỷ 20, Tìm Kiếm Nhân Vật Giê-su Lịch Sử (The Quest of The Historical Jesus), của một tác giả nổi tiếng trên toàn thế giới, Y Khoa Bác Sĩ Albert Schweitzer. Ngoài bằng bác sĩ, Albert Schweitzer còn có hai bằng cấp khác: tiến sĩ Thần học, và tiến sĩ Triết Học.
Bước sang thế kỷ 20, sự khám phá ra những cuộn kinh nơi Biển Chết (The Dead Sea Scrolls) song song với kỹ thuật định tuổi vật chất cùng nhiều khám phá khác trong ngành khảo cổ đã giúp cho những nhà nghiên cứu rất nhiều trong công cuộc đi tìm những sự thực trong Thánh Kinh. Rồi đến thập niên 1960, những khoa dạy môn Thần học trong các trường đại học Ki Tô bắt đầu xuống dốc vì càng ngày càng ít người học, nhiều học giả đã bỏ các trường đại học Ki Tô để sang dạy tại các trường đại học công, nơi đây họ có nhiều tự do hơn trong việc khảo cứu.
Tất cả những sự kiện trên đã làm động cơ thúc đẩy cho công cuộc nghiên cứu phúc âm và về nhân vật Giê-su phát triển mạnh mẽ. Điển hình là Hội Nghiên Cứu Giê-su (The Jesus Seminar) gồm nhiều học giả ở trong cũng như ở ngoài các giáo hội Ki Tô, đã phối hợp các kỹ thuật nghiên cứu tân tiến nhất như khảo cổ, cổ sinh vật học, phương pháp định tuổi vật chất, với phương pháp phân tích ngữ học, cổ ngữ học, xã hội học, sử học v..v.. để phân tích từng câu, từng lời, từng sự kiện viết trong phúc âm. Một khuôn mặt đặc biệt trong ngành nghiên cứu Tân Ước lại chính là một linh mục Ca-Tô: John P. Meier, giáo sư Thần học. Trong tác phẩm Một Người Do Thái Ở Ngoài Lề, Không Đáng Kể: Nghĩ Lại Về Nhân Vật Giê-su Lịch Sử (A Marginal Jew: Rethinking The Historical Jesus), tập 1 và 2, nhà xuất bản Doubleday tại New York phát hành năm 1991 và 1994, với sự duyệt và phê chuẩn (imprimatur) của Vatican, tuy còn dè dặt trong những điểm tế nhị khác thuộc về đức tin Ca-Tô, linh mục Meier đã thẳng thắn luận về những bằng chứng chứng tỏ Giê-su là đứa con hoang, đã lấy vợ, và nhiều chủ đề khác có thể gây ngỡ ngàng trong một giáo xứ (He discusses evidence that the historical Jesus was illegitimate, that he was married, and various topics that might raise eyebrows in a parish house). Hơn thế nữa, Meier đồng ý với các đồng nghiệp trong ngành, bác bỏ những chuyện có tính cách siêu nhiên trong Tân Ước như là sự thực lịch sử – Giê-su đi trên sóng, biến đổi nước thành rượu, và các phép lạ khác v..v.. Linh mục Meier cũng bàn đến một vấn đề quan trọng khác liên hệ đến tín lý then chốt “Maria đồng trinh” của Ca-Tô giáo, và đưa ra nhiều bằng chứng trong Thánh Kinh chứng tỏ là bà Maria đã sinh nở ít ra là 7 lần, với Giê-su là đứa con đầu lòng. Lẽ dĩ nhiên, tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô không hề biết đến những kết quả nghiên cứu sâu rộng này.
Vậy kết quả những công cuộc nghiên cứu về nhân vật Giê-su ra sao? Cho đến nay, các chuyên gia về tôn giáo ở trong cũng như ngoài Ki Tô giáo đã có thể đưa ra một giải đáp khá chính xác cho câu hỏi "Giê-su là ai?". Những kết quả nghiên cứu tổng hợp về nhân vật Giê-su đã cho chúng ta một con người lịch sử hoàn toàn khác với hình ảnh Giê-su mà các giáo hội Ki Tô đưa ra trước đám đông tín đồ thấp kém. Tại sao vậy? Chúng ta có thể đọc trong cuốn Sự Thật Về Phúc Âm của Russell Shorto, một học giả đã nghiên cứu và duyệt qua những công cuộc nghiên cứu về nhân vật Giê-su trong hai thế kỷ 19 và 20, những đoạn như sau:
Bữa ăn chiều cuối cùng, Sinh ra từ một trinh nữ, chết rồi sống lại: những niềm tin chính của Ki Tô Giáo đang bị thử thách từng điểm một. Các học giả chuyên nghiên cứu Thánh Kinh – một thời đã là những người gìn giữ nền Thần học Ki Tô – ngày nay đang dùng khoa khảo cổ, cổ sinh vật học, ngữ học, khoa học điện toán, và ngay cả khoa vật lý các hạt nhỏ, để tìm hiểu vấn đề “Giê-su là ai?” Kết quả là một sự duyệt lại tận gốc rễ Phúc âm và chuyện trong Phúc âm nay đã trở nên thật là rõ ràng nhưng lại làm cho một số người choáng váng bàng hoàng.
Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu (như LM John Meier. TCN), cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại. 1
...Công cuộc nghiên cứu của Hội Nghiên Cứu Giê-su, và của tất cả những nhà nghiên cứu Thánh Kinh ngày nay, biểu thị cho một sự chuyển hướng của các học giả chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh về tiêu chuẩn lương thiện văn hóa, lánh xa sự độc đoán của giáo hội. Theo Funk (chủ tịch Hội Nghiên Cứu Giê-su. TCN), các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng (ảo tưởng tin rằng mình chính là con của Thần Do Thái và là đấng cứu tinh của dân Do Thái. TCN) – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường. 2
Có ba chi tiết quan trọng trong đoạn tóm tắt kết quả nghiên cứu về nhân vật Giê-su của Shorto ở trên: 1) Phần lớn những điều mà ngày nay chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại; 2) Giáo hội và các bậc lãnh đạo trong giáo hội đã biết rõ sự thực trên; 3) Chỉ có những tín đồ Ki-Tô, và có thể những bậc lãnh đạo Ki Tô trong các nước kém phát triển, hoặc một số người ngoại đạo không hề nghiên cứu về nhân vật Giê-su, là vẫn còn tin rằng những gì giáo hội dạy về Giê-su đều là sự thực, và do đó vẫn tiếp tục sống trong bóng tối.
Phải chăng Shorto đã đưa ra những nhận định vô căn cứ? Tuyệt đối không phải. Chúng ta hãy xét đến vài kết quả nghiên cứu điển hình về nhân vật Giê-su của một số giám mục, linh mục, học giả chuyên về tôn giáo:
1. Trong cuốn Giê-su Là Ai ?, học giả Ki Tô Colin Cross viết như sau trong phần dẫn nhập:
Nhìn từ xa và xét về toàn thể, Giê-su ở Nazareth có vẻ như là một nhân vật lịch sử hiển nhiên. Nhưng khảo xát kỹ về bất cứ chi tiết nào cũng làm cho hình ảnh này mờ nhòa. Lý do về sự bất minh này thật là hết sức đơn giản. Đó là chúng ta không có bất cứ một tài liệu nào, thuộc bất cứ lãnh vực nào, về phần lớn cuộc đời của ông. Ông ta không viết một cuốn sách nào. Ngay cả hình dáng của ông ra sao cũng không ai biết. Không có ngay cả một bằng chứng nào tự nó có giá trị để chứng tỏ là ông đã hiện hữu. Những tài liệu hiện hữu, những phúc âm, chỉ viết về một phần nhỏ nhoi của đời ông và được viết theo quan điểm sùng bái cá nhân và nghi thức tôn giáo chứ không phải theo quan điểm sử học thông thường. Trong những chuyện kể trong phúc âm có những điều bất phù hợp nghiêm trọng cũng như những điều rõ ràng là không thể xảy ra. 3
2. Mục Sư Ernie Bringas cũng viết như sau, trong cuốn Thi Hành Đúng Như Trong Sách: Những Thảm Họa Trong Quá Khứ Và Hiện Tại Do Quyền Lực Thánh Kinh Gây Nên:
Điểm đồng thuận ngày nay là nhân vật lịch sử Giê-su - những lời Giê su nói và những hành động Giê-su làm, và những biến cố xảy ra trong cuộc đời của ông - không thể xác định được chính xác. Trong khi chúng ta biết tác giả của một phúc âm nhìn nhân vật Giêsu như thế nào như họ đã viết lại, và viết lại như thế nào, thường là chúng ta không thể đi quá những điều viết trong phúc âm để biết về chính con người thực của Giê-su. Chúng ta không thể đoan quyết là những lời nào viết trong phúc âm về cuộc đời của Giê-su là đúng như sự thực. 4
3. Uta Ranke-Heinemann, người phụ nữ đầu tiên chiếm được ngôi vị Giáo sư Thần học Ca-Tô (A Chair in Catholic Theology), viết trong phần dẫn nhập của cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con như sau:
Chúng ta vấp phải sự thực sau đây về nhân vật Giê-su. Chúng ta không biết khi nào ông ta sinh ra và ở đâu cũng như khi nào ông ta chết. Ông ta là một người không có một tiểu sử. Chúng ta không biết những hoạt động của ông như là một thầy giảng trước quần chúng thật sự đúng là ở đâu và kéo dài bao lâu. Nói cho thật đúng, chúng ta chẳng biết gì nhiều hơn là ông ta đã sinh ra đời, có người theo ông ta làm môn đồ, và ông ta bị hành quyết trên giá hình chữ thập – loại hình phạt của La Mã – và như vậy có một kết cục xấu số...
Ông Giê-su này không chỉ nằm sâu dưới đất ở Jerusalem (nghĩa là thực ra đã chết và chôn ở Jerusalem. TCN) mà còn ở dưới một núi những nghệ thuật tồi tệ, chuyện hoang đường, và cách diễn giải của giáo hội. 5
4. Học giả Andrew Harvey viết trong cuốn Con Của Người:
Không còn nghi ngờ gì nữa, sự phân tích lịch sử đã chứng tỏ là các phúc âm không phải là những điều do Thần Ki Tô linh cảm hoặc là những điều trung thực do nhân chứng kể lại về cuộc đời của Giê-su, mà là những câu chuyện đã được gọt dũa cẩn thận, được xếp đặt để cho phù hợp với, hoặc cổ xúy những sở thích tôn giáo, nhân cách, nhóm người khác nhau trong những năm đầu đầy xúc động của Ki Tô Giáo. Những phúc âm không phải là những tài liệu viết ra theo sự linh cảm trực tiếp của Thần thánh, hoặc những ghi chứng lịch sử rõ ràng; chúng không phải là những điều mạc khải trực tiếp của Thần Ki Tô hoặc là những chuyện do những nhân chứng, những người biết rõ Giê-su, muốn kể lại rõ ràng những kinh nghiệm của họ đối với Giê-su. Được viết vào cuối thế kỷ đầu, chúng biểu thị và cô đọng những truyền thống trong những cộng đồng Ki Tô đầu tiên và từ từ biến đổi trong khoảng 300 năm để thành những phúc âm ngày nay chúng ta có. 6
5. Giám mục John Shelby Spong viết trong cuốn Sinh Ra Từ Một Người Đàn Bà:
Giê-su được diễn giảng bởi những tín đồ Ki Tô lúc đầu theo những quan niệm về Thần Ki Tô mà họ tin tuyệt đối, dựa theo hình ảnh của một ông vua trên trời. Điểm chủ yếu là hình ảnh Giê-su ngồi bên phải của cái ngai Chúa Cha ngồi trên trời. Hình ảnh này phản ánh niềm tin huyền thoại phổ thông thời đó về một vũ trụ được coi như là một vương quốc.
Nhưng Giê-su đã được “sinh ra từ một người đàn bà”. Sự sinh ra đời của Giê-su cũng gây nhiều tai tiếng như cách ông ta chết. Ông ta (Giê-su) không là ai cả, một đứa trẻ ở Nazareth, chẳng có gì tốt đẹp có thể rút tỉa ra từ sự sinh ra đời này. Chẳng có ai biết cha ông ta là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi mìn chưa kiếm ra và chưa nổ . 7
Rồi giám mục Spong đã vạch ra những luận cứ, nhiều khi rất mâu thuẫn, của giáo hội đưa ra để thay đổi những sự kiện trên như sau:
Một lần nữa, nghệ thuật diễn giảng lại được mang ra áp dụng. Ông ta không phải là đứa con hoang, Thần Ki Tô là cha ông ta; Thánh Linh đã sinh ra ông ta. Ông ta không sinh ra ở Nazareth, mà sinh ra ở Bethlehem, thị trấn của David. Sự sinh ra ở Bethlehem đã được tiên đoán bởi nhà tiên tri Micah. Ông ta không phải không là ai cả, mà là thuộc dòng dõi vua David. 8
6. Trong cuốn Giê-su Chính Gốc, hai tác giả Elmar R. Gruber và Holger Kersten viết:
Hầu như không có đề tài nào khác gây sôi nổi trong thế giới Tây phương như là nhân vật “Giê-su ở Nazareth”; hầu như không có đề tài nào khác đã đưa đến sự hiện hữu của nhiều cuốn sách như vậy, hoặc đến những sự tranh luận sôi nổi và nồng nhiệt như vậy. Tuy vậy, nhân cách của con người Giê-su lịch sử được bao phủ bởi một bức màn đen tối dày đặc. Trong 15 thế kỷ, chúng ta chỉ có những chuyện kể về Giê-su theo luận điệu thần học chính thức của giáo hội, viết ra với mục đích củng cố đức tin Ki-Tô cùng lôi cuốn người ngoại đạo vào Ki Tô giáo....
Trong thế kỷ 19, lần đầu tiên Tân Ước được đưa ra làm chủ đề nghiên cứu trí thức. Đây là sự bắt đầu của công cuộc khảo cứu có hệ thống về cuộc đời của Giê-su.
Năm 1835 David Friedrich Strauss đã xuất bản một
cuốn sách nhan đề Cuộc Đời Của Giê-su, gây nhiều ảnh hưởng. Trang bị với những quan điểm phân tích thuần lý và với tinh thần không thỏa hiệp, Strauss đã thẳng thắn bác bỏ tích cách chính xác lịch sử của các phúc âm. Đối với ông, những điều viết trong phúc âm chỉ là những truyền thuyết và những chuyện sùng tín về hình ảnh con người Giê-su, lấy ý từ Cựu Ước. Sự chống đối tính cách xác thực của phúc âm như trên còn đi xa hơn vào khoảng giữa thế kỷ 19. Bruno Bauer loại hẳn hình ảnh của Giê-su trong công việc nghiên cứu lịch sử, tuyên bố rằng nhân vật chính trong Tân Ước là một phát minh huyền thoại. Giê-su và Paul (Phao Lồ) chỉ là những giả tượng văn chương; và Ki Tô Giáo được coi là tạo ra bởi một nhóm cuồng tín pha chế đức tin xung quanh hai nhân vật phát minh từ những truyền thống tôn giáo Hi Lạp, Do Thái và La Mã.
Ngày nay chúng ta có đến hơn 80000 tác phẩm chuyên khảo về Giê-su, nhưng tác dụng của chúng để soi sáng nhân vật Giê-su lịch sử thật quả là vô cùng khiêm nhường. Ai là Giê-su? Ông ta sinh ra bao giờ? Hình dáng ông ta ra sao? Khi nào ông ta bị đóng đinh trên thập giá? Bao giờ, ở đâu và ông ta chết như thế nào? Tìm kiếm giải đáp cho những câu hỏi trên đã trở thành một vấn đề không giải quyết nổi. Trong những cuốn sách viết trong hai thế kỷ đầu hầu như không có cuốn nào nhắc đến Giê-su như là một con người thực sự hiện hữu. Những nguồn tài liệu về sau toàn là những tác phẩm thần học, dựa trên niềm tin không thắc mắc: Giê-su là con đấng Cứu Tinh (của dân Do Thái. TCN) và là con của Thần Gia-vê (thần của dân Do Thái. TCN). Do đó, hầu như không có những tác phẩm thực sự vô tư về Giê-su, và cho tới ngày nay, công cuộc nghiên cứu trí thức cũng không ở vị thế có thể khẳng định là Giê-su sinh ra năm nào. Hầu như không có tài liệu nào nói về cuộc đời niên thiếu của Giê-su, một giai đoạn quan trọng làm nền tảng tạo ra những cá tính của con người. Ngay cả những chuyện kể về khoảng thời gian ngắn ngủi ông ta tiếp xúc với quần chúng cũng không nói gì nhiều về tiểu sử của ông ta. Có vẻ như là ông ta không được các sử gia đương thời biết tới, hay ít nhất là không đáng để nhắc tới. Vậy làm sao mà các sử gia này không hề biết tới những phép lạ hoặc những hiện tượng kỳ lạ như được kể trong phúc âm? 9
7. Michael Martin trong cuốn Bản Án Chống Ki Tô Giáo viết:
Những phương pháp phân tích hiện đại về học thuật khảo cứu Thánh Kinh đã đặt vấn đề về tính cách xác thực của Thánh Kinh, nhất là Tân ước. Trong ánh sáng của sự phân tích Tân Ước này, nhiều nhà thần học đã cho rằng người ta chẳng biết được bao nhiêu về Giê-su. Thí dụ, W. Trilling cho rằng “không có một ngày tháng nào trong đời sống của Giê-su” có thể được khẳng định và J. Kahl đoan quyết rằng điều duy nhất ta biết về Giê-su là ông ta “đã hiện hữu trong một thời điểm mà chúng ta chỉ có thể biết một cách đại khái”. Nhiều học giả khác cho rằng việc tìm kiếm một Giê-su lịch sử là điều vô vọng..
Sự phân tích về con người Giê-su lịch sử được tôn trọng nhất ngày nay là của G. A. Wells. Wells nhấn mạnh rằng những nghi vấn về giá trị lịch sử của Giê-su của ông phần lớn dựa trên những quan điểm của các nhà thần học Ki Tô và các học giả chuyên về Thánh Kinh. Những vị này đồng thuận chấp nhận rằng các phúc âm được viết trong khoảng từ 40 đến 80 năm sau khi Giê-su mãn kiếp và bởi những tác giả vô danh không đích thân biết đến Giê-su. Theo Wells thì những vị trên cũng thừa nhận rằng trong những chuyện kể về Giê-su, phần lớn là truyền thuyết và những chuyện trong phúc âm được viết theo động cơ thần học của những tác giả. Ngoài ra, những bằng chứng trong phúc âm thuần túy là của Ki Tô Giáo. 10
Trên đây chỉ là vài nhận định tổng quát về tiểu sử không rõ ràng của Giêsu. Sở dĩ những học giả nghiên cứu về nhân vật Giê-su đưa ra những nhận định như trên là vì họ đã dùng những phương pháp khảo cứu phân tích khoa học trên mọi khía cạnh liên quan đến con người Giê-su, thí dụ như đối chiếu cổ sử, phân tích cổ ngữ, phân tích từng câu từng lời trong Thánh Kinh v..v.. Đi vào chi tiết và dựa trên Thánh Kinh, chúng ta còn thấy rõ ràng là không có một căn bản nào có tính cách thuyết phục để cho những người có đầu óc có thể biết được Giê-su là ai để mà tin, vì trong Thánh Kinh có quá nhiều điều mâu thuẫn về con người lịch sử Giê su. Những chi tiết về một phần nhỏ, trong khoảng 3 năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi 33 năm của Giê-su được mô tả trong bốn Phúc Âm Matthew (Mã Thi Ơ), Mark (Mác-cô), Luke (Lưu Ca) , và John (Gioan), và những thư viết cho tông đồ của Paul (Phao Lồ). Nhưng chính những chi tiết này: khi sinh ra đời, gia phả, thời gian gần 3 năm đi giảng đạo, khi chết, đều hoàn toàn mâu thuẫn nhau. Vì chúng hoàn toàn mâu thuẫn nhau, chứ không phải là bổ túc cho nhau theo như luận điệu bào chữa của một số tín đồ được dạy như vậy mà không tự chính mình đọc Thánh Kinh với một đầu óc suy luận, cho nên, chúng ta không thể dựa vào đâu để tin chi tiết nào thật, chi tiết nào giả. Sau đây, tôi xin trích dẫn vài đoạn trong Thánh Kinh liên quan đến sự sinh ra và gia hệ của Giê-su để cho quý độc giả thấy rõ vấn đề.
Trước hết, chúng ta cần ghi nhận rằng, ngày nay những người nghiên cứu Tân Ước, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, đều đồng ý với nhau ở những điểm sau đây:
1. Những thư của Paul được viết vào khoảng 20 năm sau khi Giê-su chết và không hề viết gì về cuộc đời của Giê-su: nơi sinh, nơi giảng đạo, nơi bị hành hình v..v.. và còn viết rằng Giê-su là con của Joseph và Maria, một người đàn bà (born of a woman).
2. Trong 4 phúc âm thì phúc âm Mark được viết sớm nhất, vào khoảng 40 năm sau khi Giê-su chết, và Mark cũng không viết gì về sự sinh ra của Giê-su từ một trinh nữ cũng như về gia hệ của Giê-su.
3. Hai phúc âm Matthew và Luke được viết vào khoảng cuối thế kỷ đầu, nghĩa là khoảng 70 năm sau khi Giê-su chết. 90 phần trăm nội dung là lấy của Mark và thêm vào đó chuyện Giê-su được sinh ra từ Maria đồng trinh và viết về gia hệ của Giê-su. Thêm vào với mục đích gì, ngày nay các học giả nghiên cứu Thánh Kinh đã rõ.
4. Phúc âm John được viết vào đầu thế kỷ thứ hai, có thể gần 100 năm sau khi Giê-su chết, và cũng không viết gì về sự sinh ra của Giê-su.
5. Cả 5 tác giả trên đều không phải là tông đồ của Giê-su, không trực tiếp biết Giê-su là ai, cho nên chỉ viết lại những chuyện đồn đại theo ý kiến và chủ đích riêng của mình.
Như trên đã nói, trong Tân Ước chỉ có hai Phúc Âm Matthew và Luke là nói về sự sinh ra của Giê-su. Phúc Âm Matthew (MaThiêu) kể như sau, Matthew 1: 18-24:
Sự sinh ra của Giê-su Ki Tô như sau: Sau khi mẹ Giê-su là Mary đính hôn với Joseph, trước khi họ giao hợp cùng nhau, người ta thấy bà có mang với Thánh Linh.
Chồng nàng, Joseph, là người tốt bụng, và không muốn nàng bị nhục trước công chúng, định kín đáo từ hôn.
Nhưng khi ông còn đang suy nghĩ về quyết định này, bỗng nhiên, một thiên sứ hiện ra trong một giấc mộng, nói rằng, “Joseph, con dòng David, đừng có sợ, cứ lấy Mary làm vợ, vì cái thai nàng mang trong bụng là của Thánh Linh. Rồi nàng sẽ sinh ra một đứa con trai, ngươi hãy đặt tên cho nó là Giê-su, vì nó sẽ cứu dân của nó khỏi tội lỗi.
Việc xảy ra đúng như lời Thần Ki Tô tiên đoán qua nhà tiên tri:
“Này, một trinh nữ sẽ mang thai, sinh hạ một con trai, và họ sẽ đặt tên cho hắn là Immanuel”, có nghĩa là “Thần ở cùng ta”.
Joseph tỉnh giậy, theo lệnh của thiên sứ, cưới Mary làm vợ, nhưng không giao hợp cùng vợ cho đến khi Mary sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Giê su.
Còn phúc âm Luke 1: 26- 33 thì thuật lại chuyện sinh ra của Giê-su như sau:
Qua tháng sáu, Thần Ki Tô sai thiên sứ Gabriel vào thành Nazareth, xứ Galilee, đến một trinh nữ đã hứa hôn với một người tên là Joseph, thuộc dòng dõi vua David. Tên người trinh nữ là Mary.
Thiên sứ nói: “Hãy hoan hỉ lên, hỡi người được đặc ân, Chúa ở cùng nàng, phúc cho người đàn bà như nàng.”
Nhưng khi Mary thấy thiên sứ, không hiểu thiên sứ nói gì, và những lời chúc tụng kia có nghĩa gì.
Rồi thiên sứ nói với nàng, “Đừng sợ, Mary, vì Thần đã ban đặc ân cho nàng. Và này, cô sẽ mang thai, và sinh ra một con trai và đặt tên nó là Giê-su. Đứa trẻ đó sẽ thành vĩ nhân, và sẽ được gọi là con của đấng tối cao; và Thần sẽ cho hắn ngôi vị của David. Hắn sẽ cai trị dân Do Thái (hậu duệ của Jacob) mãi mãi, và nước hắn cai trị sẽ bất
diệt.
Thông điệp như trên của Thần Gia-vê qua thiên sứ thật ra chỉ do Luke bịa ra để khuyến dụ dân Do Thái tin theo Giê-su, vì những điều thiên sứ nói về Giê-su hoàn toàn sai với sự thực. Giê-su chẳng bao giờ cai trị dân Do Thái và dân Do Thái cũng chẳng bao giờ chấp nhận Giê-su là Vua của dân Do Thái giống như David khi trước. Không những thế, dân Do Thái thời Giê-su còn cho ông ta là kẻ phỉ báng Thần Gia-vê, tự xưng là con của Thần, là Vua của dân Do Thái, là vị cứu tinh của dân Do Thái v..v.. Và cho đến ngày nay, dân Do Thái, dân được Thần Gia-vê chọn lựa làm dân của Thần (chosen people), vẫn không chấp nhận Giê-su, vì vậy mà suốt 2000 năm nay, giáo hội Ca-Tô mới thù hận và tìm mọi cách để bách hại dân Do Thái. Vậy, nếu chúng ta đối chiếu lời của Thiên sứ, thay mặt Thần Gia Vê, trong đoạn loan báo cho Mary ở trên, với thực tế, thì chúng ta phải kết luận là những lời “tiên tri” của Thần Gia-vê hoàn toàn sai, vì không hề xảy ra. Vậy chúng ta có thể chấp nhận những thuộc tính toàn năng, toàn trí của Thần Gia Vê mà giáo hội đã cấy vào đầu tín đồ hay không? Mặt khác, đọc kỹ Thánh Kinh chúng ta thấy rằng chuyện thiên sứ “báo mộng” cho Joseph xảy ra khi Maria đã có mang được 6 tháng, và Maria không hề nói cho Joseph biết cái thai trong bụng mình từ đâu mà ra. Tại sao Maria phải dấu chồng khi mà bà được ân sủng đặc biệt của Thánh Linh khiến bà mang thai?
Nhưng ở đây, tôi sẽ không đi vào công việc phân tích những đoạn trên trong Thánh Kinh. Sự phân tích này, tôi đã trình bày tạm gọi là đầy đủ trong Chương 2 của cuốn Đức Tin Công Giáo, Giao Điểm xuất bản cuối năm 2000. Tôi trích dẫn những đoạn trên trong phúc âm Matthew và Luke chỉ để chứng minh một sự mâu thuẫn cùng cực trong hai phúc âm trên, khi Matthew và Luke kể về dòng dõi, gia hệ của Giê-su, cho rằng Giê-su thuộc dòng dõi vua David, những chi tiết hoàn toàn bất phù hợp với chuyện Maria mang thai của Thánh Linh ở trên.
Thật vậy, theo Matthew 1:1-17 thì các thế hệ tiếp nối giòng họ Giê-su từ vua David như sau:
David, Solomon, Rehoboam, Abijah, Asa, Jehoshaphat, Jehoram, Uziah, Jotham, Ahaz, Hezekiah, Manasseh, Amon, Josiah, Jeconiah, Shealtiel, Zerubbabel, Abiud, Eliakim, Azor, Zadok, Akim, Eliud, Eleazar, Matthan, Jacob, Joseph, Jesus.(tất cả là 27 thế hệ.)
Nhưng theo Luke 3:23-28 thì các thế hệ tiếp nối từ vua David tới Giê-su như sau:
David, Nathan, Matthata, Menna, Melea, Eliakim, Jonam, Joseph, Judah, Simeon, Levi, Matthat, Jorim, Eliezer, Joshua,, Er, Elmadam, Cosam, Addi, Melki, Neri, Shealtiel, Zerubbabel, Rhesa, Joanan, Joda, Josech, Semein, Matthathias. Maath, Naggai, Esli, Nahum, Amos, Matthathias, Joses, Jannai, Melki, Leci, Matthat, Eli, Joseph, Jesus. (tất cả là 42 thế hệ.)
Chúng ta nên để ý rằng, trong 2 danh sách trên kể về dòng dõi của Giê-su, chỉ có ba tên giống nhau (chữ đậm), còn thì hoàn toàn khác biệt, và Matthew kê ra 27 thế hệ trong khi Luke kê ra 42 thế hệ. Nếu những tên thế hệ đều giống nhau thì chúng ta có thể cho rằng Matthew bỏ sót, liệt kê cách quãng những thế hệ tiếp nối từ David đến Giê-su. Nhưng rõ ràng là không phải vậy.
Một vài nhà thần học Ki Tô đã đưa ra một cách giải thích có tính cách ngụy biện nhưng không được thông minh cho lắm. Đó là gia phả của Giê-su theo Luke là theo dòng họ mẹ, nghĩa là Maria, chứ không phải là dòng họ bố là Joseph. Nghiên cứu về cổ sử và truyền thống Do Thái, các học giả đã bác bỏ lý luận ngụy biện này. Thật vậy, cả Matthew và Luke đều ghi Giê-su thuộc dòng dõi cha là Joseph chứ không ghi Giê-su thuộc dòng họ mẹ là Maria. Ngoài ra, luận điệu ngụy biện trên không hề để ý đến sự kiện là gia phả của Maria trong Luke, nếu thực là như vậy, lại nhiều hơn gia phả của Joseph tới 15 thế hệ, tính trung bình từ 20 đến 30 năm một thế hệ thì sự khác biệt này, bắt đầu từ vua David, là từ 300 năm đến 450 năm. Nhưng khi hứa hôn với Joseph thì Joseph đã nhiều tuổi, còn Maria mới có khoảng 14, 15 tuổi. Kết luận: dòng họ Joseph toàn những người sống dai, còn dòng họ Maria toàn những người chết non, chết yểu. Đó là những điều mâu thuẫn phi lý mà giáo hội không sao giải thích nổi. Tuy vậy mà nhiều tín đồ Ca Tô Việt Nam vẫn tin và viết báo ngụy biện là gia phả của Giê-su trong Luke là theo dòng mẹ.
Vậy khi những tín đồ Ki Tô nói đến “Chúa tôi” thì “Chúa tôi” của họ là Giê-su nào, và Giê-su nào của Matthew, hay Giê-su nào của Luke? vì cả Matthew lẫn Luke đều viết Giê-su vừa là con của Thánh Linh vừa thuộc dòng dõi vua David, hai điều hoàn toàn mâu thuẫn có tính cách loại trừ hỗ tương, có cái này thì không thể có cái kia? Có lẽ họ chẳng bao giờ bận tâm thắc mắc đến mâu thuẫn trên, vì Giáo hội dạy rằng, mọi thắc mắc về Chúa Giê-su là một trọng tội, phải bị đầy đọa nơi hỏa ngục trong ngọn lửa thiêu đốt vĩnh hằng.
Thomas Paine đã phân tích sự bất phù hợp trên trong cuốn Thời Đại Lý Trí, một cuốn sách đã giữ một địa vị cao trong nền văn học Tây phương từ thế kỷ 19 đến nay, về nhân vật Giê- su:
Lịch sử Giêsu KiTô được viết trong 4 cuốn mà người ta cho là Matthew, Mark, Luke, và John viết. Chương đầu trong Matthew bắt đầu bằng gia hệ của Giêsu KiTô, và trong chương 3 của Luke cũng có gia hệ của Giêsu KiTô. Nếu 2 gia hệ này phù hợp nhau, chúng cũng không chứng minh được là đúng vì đó có thể là một gia hệ đã được đặt ra; nhưng vì chúng mâu thuẫn nhau về từng chi tiết một, điều này chứng tỏ một cách tuyệt đối là chúng đều là giả.
Nếu Matthew đúng thì Luke phải sai; nếu Luke đúng thì Matthew phải sai; và vì không thể dựa vào đâu để tin ai đúng hơn ai, cho nên không dựa vào đâu để mà tin ai; và nếu chúng ta không thể tin được điều đầu tiên mà họ đưa ra, làm sao chúng ta có thể tin được những điều họ nói về sau? Nếu chúng ta không thể tin họ về gia hệ của Giêsu mà họ đưa ra, làm sao chúng ta có thể tin được khi họ nói với chúng ta những điều kỳ lạ như Giê su là con của Thần sinh ra bởi một hồn ma, và một thiên thần đã bí mật loan báo sự này cho mẹ của Giêsu? 11
Lý lịch không rõ ràng của Giê-su, do đó, là một lợi điểm để cho Giáo hội khai thác và mê hoặc tín đồ, vì Giáo hội muốn giải thích thế nào cũng được, đặt ra chuyện nào cũng xong, và với phương pháp nhồi sọ tín đồ ngay từ khi còn nhỏ, uốn nắn đầu óc để cho tín đồ tuân phục hệ thống quyền lực trong Giáo hội, tín đồ trở thành những người bị điều kiện hóa, không còn khả năng suy luận, chỉ còn biết tin theo một cách mù quáng mọi điều diễn giảng của Giáo hội, bất kể những điều này vô lý đến đâu, mâu thuẫn đến đâu, không hề thắc mắc. Họ đáng thương hơn là đáng trách. Và sự kiện thê thảm này không chỉ có trong đám tín đồ đầu óc thấp kém mà còn có thể thấy rõ trong một số được coi là trí thức, giữ chức vụ cao trong Ca-Tô giáo Việt Nam, nếu chúng ta đọc về đức tin Ca-Tô mà họ trình bày trong những bài viết hay tác phẩm của họ. Sau đây là một thí dụ điển hình:
Trong cuốn Chứng Nhân Hy Vọng: Các Bài Giảng Tĩnh Tâm Cho Đức Thánh Cha Và Giáo Triều Roma của TGM Nguyễn Văn Thuận, Công Đoàn Đức Mẹ xuất bản năm 2000, tác giả mở đầu cuốn sách bằng Bài Suy Niệm Dẫn Nhập: Gia Phả Đức Giêsu Kitô Đứng Trước Mầu Nhiệm Thiên Chúa, trang 25-34. Tác giả Nguyễn Văn Thuận chỉ nhắc đến gia phả Giê-su trong Matthew mà thôi và đặc biệt là, để biện minh cho những sự kiện được viết trong Thánh Kinh là trong gia phả của Giê-su có nhiều người vô đạo đức, phi luân, tác giả đã đưa ra một luận điệu thần học có tính cách ngụy biện để biện minh cho những sự kiện không mấy tốt đẹp này. Tác giả viết, trang 28:
“...sự chọn lựa của Thiên Chúa có tính cách nhưng không và đầy tình thương (??không hiểu tác giả muốn nói gì. TCN), không thể hiểu được theo những lý luận của lý trí.”
hàm ý dùng lý trí và lý luận thì không thể hiểu được Thánh Kinh, chỉ có đức tin Ca-Tô, nghĩa là tin vào những điều giáo hội giảng dạy về Thánh Kinh thì mới hiểu được Thánh kinh muốn viết gì và do đó hiểu được Thiên Chúa. Viết như trên, ông Nguyễn Văn Thuận tưởng rằng như vậy là tôn vinh Thiên Chúa mà không biết rằng chính mình đang mạ lỵ Thiên Chúa. Đúng vậy, theo Ca Tô Giáo, Thiên Chúa "sáng tạo" ra con người theo hình ảnh của Thiên Chúa, nghĩa là có đầy đủ đầu óc và lý trí để có thể cảm nhận những điều mặc khải của Thiên Chúa. Rồi Adam cưỡng điều cấm của Thiên Chúa, ăn một trái cây trên cây hiểu biết, do đó đầu óc con người đã trở thành không thua gì Thiên Chúa, có khả năng phân biệt Thiện Ác. Nhưng tình thương qua những việc làm của Thiên Chúa con người lại không hiểu được bằng đầu óc hay lý trí. Ai cũng biết những người không biết xử dụng đến đầu óc hay lý trí là những người ngu. Vậy hóa ra việc làm của Thiên Chúa chỉ để cho những người ngu tin theo hay sao? Vậy Thiên Chúa của những người ngu có giá trị gì đối với những người không ngu, nghĩa là biết xử dụng đến đầu óc và lý trí? Luận điệu dùng lý luận của lý trí không thể hiểu được những việc làm của Thiên Chúa chẳng qua chỉ là luận điệu của thời sơ khai. Bởi vì ngày nay, sự hiểu biết của con người đã vượt quá xa sự hiểu biết của Thiên Chúa như được viết trong Thánh Kinh. Những kiến thức của con người ngày nay về khoa học, y học, vũ trụ học, sinh học v..v.. đã bỏ xa những kiến thức của Thiên Chúa trong Thánh Kinh. Sự kiện này đã quá hiển nhiên, chẳng cần phải chứng minh.
Nhưng sự chọn lựa của Thiên Chúa mà chúng ta không thể hiểu được bằng lý trí là như thế nào? TGM Nguyễn Văn Thuận giải thích: Abraham bỏ trưởng lập thứ, rồi đến Isaac, con của Abraham, cũng bỏ trưởng lập thứ, rồi đến Jacob, cháu của Abraham, cũng phế bỏ ba đứa con đầu, lập đứa con thứ tư là Judah, và tất cả sự chọn lựa trên là do “ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa”. Ông giải thích thêm:
“Chúng ta không được lựa chọn vì công trạng của mình, nhưng chỉ vì lòng từ bi (sic) của Chúa.”
Trước hết, chúng ta nên để ý là ông Nguyễn Văn Thuận đã "mượn" danh từ "từ bi" trong Phật Giáo để dịch chữ "grace" nghe cho nó có vẻ Việt Nam, chứ thực ra "grace" có nghĩa là ân sủng hay ân huệ mà Thiên Chúa ban cho loài người. Nền Thần Học Ki-Tô đưa ra quan niệm là "Chúng ta được cứu rỗi chỉ bởi ân huệ của Thiên Chúa mà thôi" (Xin đọc, thí dụ, Karl Barth: We are saved "sola gratia" - "only by grace", without any works of our own).
Ngoài các tín đồ không bao giờ cần đến đầu óc của mình, nếu có, và tuyệt đối tuân phục các cấp lãnh đạo trong Ca Tô Giáo, có ai nghe lọt tai những lời giải thích đầy tính cách huyền hoặc, ngụy biện và phi lý như trên? Thứ nhất, chuyện bỏ trưởng lập thứ là chuyện thường tình thế gian, chúng ta thấy đầy dẫy trong lịch sử Tàu, Ta, những dân tộc không hề biết đến và không hề tin vào một Thiên Chúa hữu danh vô thực.. Vậy tất cả đều là ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa cả hay sao?
Thứ nhì, Thiên Chúa chọn lựa vì lòng "từ bi" (sic) thật hay sao? Từ là cho vui và bi là cứu khổ. Thiên Chúa bỏ người này, chọn người kia, bản chất đã là một hành động thiên vị, vì nếu bảo rằng đó là thể hiện lòng từ bi đối với người được chọn, thì đối với người bị loại bỏ một cách bất công Thiên Chúa đã thể hiện lòng gì? Mặt khác, Thiên Chúa lựa chọn tùy hứng, không dựa trên căn bản đạo đức hay công trạng, vậy thì chúng ta cứ việc làm ác rồi ngồi há miệng chờ quả sung từ bi của Thiên Chúa thì có được hay không? Sau cùng, Thiên Chúa đã sáng tạo ra con người theo hình ảnh của Thiên Chúa (thuyết sáng tạo này ngày nay đã không còn chỗ đứng trong thế giới của khoa học) thì mọi người đều phải bình đẳng trước Thiên Chúa, tại sao Thiên Chúa lại phải nhúng tay vào chuyện chọn người kế vị của vài ông vua Do Thái vô đạo đức? Tại sao Thiên Chúa lại vướng mắc vào cảnh "con yêu, con ghét" của người thường?
Viết lên một câu phi-lôgic mà nội dung có tính cách mạ lỵ Thiên Chúa mà ông TGM cũng viết lên được thì chúng ta phải hiểu đầu óc của ông TGM đã được giáo hội cho vào khuôn phép như thế nào? Nói tóm lại, cách giải thích theo luận điệu Thần học của TGM Nguyễn Văn Thuận chỉ là một lối ngụy biện không thuận lý. Điều này chúng ta có thể thấy rõ nếu chúng ta đọc tiếp cách “giải thích một chiều” của ông. Nơi trang 30-31, ông viết tiếp:
Nơi Đavit, người nổi danh nhất trong các vua đã sinh ra đấng Messia (nghĩa là Giê-su. TCN), sự thánh thiện và tội lỗi xen lẫn nhau: với nước mắt cay đắng, ngài xưng thú trong Thánh vịnh các tội ngoại tình và sát nhân, nhất là trong Thánh vịnh 50, một ca vịnh trở thành kinh nguyện thống hối thường được dùng trong phụng vụ của giáo hội..
Cả những phụ nữ mà Mathêu nêu tên trong đầu sách Tin Mừng của ngài như những người mẹ thông truyền sự sống, từ cung lòng phúc lành của Thiên Chúa, cũng gợi lên nơi chúng ta một sự xúc động. Tất cả họ đều là những phu nữ ở trong những hoàn cảnh bất hợp lệ: Tamar là một phụ nữ tội lỗi, Racab là một gái mãi dâm, Rut là một người ngoại bang và về người phụ nữ thứ tư, người ta không dám nêu danh, và chỉ nói “đó là vợ của ông Uria”. Người đàn bà đó chính là bà Betsabea mà vua Đavit đã ngoại tình.
Tuy nhiên, dòng lịch sử tràn đầy tội lỗi và tội ác như thế đã trở thành một nguồn nước trong (sic), khi càng đến gần thời gian sung mãn: đến đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu, và đến Chúa Giêsu, Đấng Messia. Nơi các Ngài tất cả các thế hệ được cứu chuộc.
Danh sách những người tội lỗi mà Mathêu nêu rõ trong gia phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại, gia phả ấy tuyên dương mầu nhiệm Thiên Chúa. Cả trong Tân Ước, Chúa Giêsu đã chọn Phêrô, người đã chối ngài, và chọn Phaolô, người đã bách hại Ngài. Vậy mà các vị lại trở thành cột trụ của giáo hội. Trong thế gian, khi một dân tộc viết lịch sử chính thức của mình, họ thường nói về những chiến thắng đã đạt được, những vị anh hùng, hoặc sự cao cả của mình...Quả là một trường hợp duy nhất, đáng ngưỡng mộ và tuyệt vời, khi thấy một dân tộc không hề dấu diếm những tội lỗi của tiền nhân trong lịch sử chính thức của mình.
Chỉ bằng vào một đoạn văn ngắn ở trên, chúng ta đã có thể thấy rõ ràng đạo Ca-Tô Rô Ma đã thành công trong việc nhồi sọ, uốn nắn đầu óc tín đồ như thế nào, từ nhỏ tới lớn, từ thấp tới cao. Cao như ông TGM Nguyễn Văn Thuận là cùng, nay đã lên đến tột đỉnh danh vọng của Ca Tô Giáo với chức Hồng Y, và sắp sửa lên làm Giáo Hoàng theo hi vọng của một số tín đồ có đầu nhưng không có óc. Nhưng tôi xin hỏi ông vài câu: Bằng cách nào mà dòng lịch sử tràn đầy tội lỗi và tội ác như thế đã trở thành một nguồn nước trong, thưa ông Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận? Dù bà Maria và Giê-su có được môn thần học Ki Tô Giáo đôn lên thành những nhân vật thánh thiện thì cái "dòng lịch sử tràn đầy tội lỗi và tội ác như thế" luôn luôn vẫn là một dòng lịch sử tràn đầy tội lỗi và tội ác. Một cá nhân có thể ăn năn sám hối những tội lỗi của mình và nguyện sẽ không tái phạm những tội lỗi đó nữa, tâm hồn được yên ổn, nhưng tội lỗi vẫn luôn luôn là tội lỗi và vẫn phải gánh chịu nghiệp quả của những tội lỗi đó. Một linh mục can tội cưỡng bức tình dục trẻ em có thể ăn năn thống hối để Chúa "rửa sạch tội lỗi" cho, nhưng vẫn phải vào tù để đền tội thế gian, và cái tội ông ta phạm vẫn được ghi trong hồ sơ cá nhân của ông ta. Sự xóa bỏ tội lỗi của Chúa thật sự vô giá trị trước pháp luật thế gian. Huống chi là những sự kiện lịch sử của một dân tộc, mà đây lại là dân tộc Do Thái, chẳng liên hệ gì tới dân tộc Việt Nam. Trong hay đục thì cũng là lịch sử của dân Do Thái, và người Việt Nam chúng tôi chẳng có gì phải xấu hổ nếu nó đục, và cũng chẳng có gì phải hãnh diện nếu nó trong. Thực tế thì dòng lịch sử Do Thái từ khi Giê-su sinh ra cũng chẳng lấy gì làm hãnh diện mà gọi là dòng nước trong. Giáo hội Ca-Tô đã làm cho lịch sử Do Thái đục ngầu máu và nước mắt trong chính sách bách hại dân Do Thái suốt 2000 năm, với cao điểm là Hitler, một tín đồ Ca-Tô không hề bị giáo hội tuyệt thông, đã tiêu diệt 6 triệu người Do Thái trong các lò sát sinh. Giữa thế kỷ 20, Do Thái lập quốc và mở chiến dịch xâm chiếm cướp đất của khối Ả Rập, và ngay bây giờ, đầu thế kỷ 21, Do Thái đang áp dụng chính sách "cường quyền và bạo lực thắng công lý". Không những thế, Thiên Chúa trong Cựu Ước dạy "mắt đổi mắt, răng đổi răng", nhưng ngày nay Do Thái lại leo thang thành "mắt đổi 10 mắt, răng đổi 10 răng" đối với dân Palestine. Vậy dòng lịch sử đó trở thành trong ở chỗ nào?
Viết như trên, phải chăng ông Nguyễn Văn Thuận hi vọng có thể dùng một luận điệu thần học ngụy biện để thay đổi những sự kiện lịch sử đã ghi trong sử sách? Luận điệu này chỉ để nói cho những "bà lão công giáo nhà quê" của linh mục Thiện Cẩm ở Bùi Chu, Phát Diệm, Hố Nai, Gia Kiệm, và một số ở Houston, Bolsa, San Jose v..v.., ngoài ra ông định nói cho ai nghe? Đây không phải là nơi phê bình văn phong hay tư tưởng, nếu có, của ông Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, nên sau đây tôi chỉ đưa ra vài nhận xét ngắn ngủi về đoạn văn trên để trình bày cùng quý độc giả thấy rõ thế nào là đầu óc của một tín đồ Ca-Tô Việt Nam, dù ở địa vị cao trong hàng Giáo Phẩm, và thế nào là luận điệu Thần học ngụy biện để lừa dối tín đồ.
Thứ nhất, trong lịch sử Do Thái, David được coi là người có công mở mang nước Do Thái và mang đến cho Do Thái một thời đại hùng cường. Nhưng tư cách và đời sống của David thì không có gì có thể gọi là thánh thiện cả. Hắn là một tên bạo chúa, hiếu sát và hoang dâm, tuy vậy đối với dân Do Thái hắn vẫn là một vị vua nổi danh trong Cựu Ước. Tuy nhiên, hắn không thể nào là “người nổi danh nhất trong các vua đã sinh ra đấng Messia (nghĩa là Giê-su. TCN.)” như TGM Nguyễn Văn Thuận đã viết, vì như tôi đã trích dẫn từ Thánh Kinh ở trên: từ David tới Giê-su là 27 thế hệ theo Matthew, và 42 thế hệ theo Luke, cho nên chúng ta không thể dựa vào đâu để mà quyết định gia phả nào là của Giê-su. Hơn nữa, điều khẳng định của ông Nguyễn Văn Thuận về vua David ở trên lại đương nhiên bác bỏ thuyết Giê-su là con của Thiên Chúa do Thánh Linh xâm nhập bất hợp pháp vào bà Maria mà sinh ra như sẽ được trình bày rõ hơn trong một đoạn sau.
David không những mắc tội ngoại tình với Bathsheba, vợ của Uriah, một tướng dưới trướng của David, mà còn dùng quyền lực cướp vợ của Uriah bằng cách gửi Uriah ra mặt trận với lệnh ngầm cho viên chỉ huy mặt trận là Joab phải làm sao để cho Uriah không được sống sót. Tội lỗi của David thì đầy ra đấy, nhưng thánh thiện ở chỗ nào thì không thấy trong Thánh Kinh, và TGM Thuận cũng không cho độc giả biết David thánh thiện như thế nào. Trong phần Phụ Lục, quý độc giả sẽ biết rõ hơn về nhân vật David trong Cựu Ước.
Thứ nhì, trong Thánh Kinh chẳng có chỗ nào viết là “với nước mắt cay đắng, ngài (từ “ngài” TGM Nguyễn Văn Thuận dùng để gọi một tên sát nhân hoang dâm vô đạo đức như David) ăn năn trong Thánh vịnh (Psalms) hay Thi Thiên các tội ngoại tình và sát nhân..” “Thánh vịnh” là một tập hợp 150 bài thơ dài ngắn khác nhau mà nội dung là những lời rên rỉ, ca thán, vò đầu bứt tai, của những kẻ loạn thần kinh, bài nào cũng buồn chán như bài nào (Xin đọc The Happy Heretic của Judith Hayes, p. 131: Psalms: This is one long, whining, grousing, hand-wringing, neurotic harangue. There are 150 chapters, each as depressing as the next.), và “Thánh vịnh 50” là thơ của Asaph làm chứ không phải của David. Có lẽ ông đã lầm với "Thánh vịnh 51" vì Thánh vịnh này mới là những lời ăn năn thống hối của David rên rỉ cầu nguyện Chúa Cha (không phải là Giê-su) tha cho những tội ác đã phạm tuy thực tế cho thấy rằng chẳng làm gì có Chúa và Chúa cũng chẳng có quyền gì để mà tha tội (Psalm 51: 1-4: Đức Chúa Trời ôi! Xin hãy thương xót tôi tùy lòng nhân từ của Chúa; Xin hãy xóa các sự vi phạm tôi theo sự từ bi rất lớn của Chúa. Xin hãy rửa tôi cho sạch hết trọi gian-ác, và làm tôi được thanh khiết về tội lỗi tôi. Vì tôi nhận biết các sự vi phạm của tôi, tội lỗi tôi hằng ở trước mặt tôi. Tôi đã phạm tội cùng Chúa, chỉ cùng một mình Chúa thôi, và làm điều ác trước mặt Chúa ..) Có lẽ những lời ăn năn thống hối cùng Chúa này chỉ có một mục đích: đó là hi vọng được Chúa tha thứ để rồi sau khi chết sẽ được lên thiên đường sống cuộc sống đời đời cùng Chúa. Nhưng đó là niềm tin của những người Do Thái cách đây hơn 2000 năm. Với trình độ hiểu biết của nhân loại ngày nay thì đến Giáo Hoàng John Paul II cũng phải thú nhận rằng chẳng làm gì có thiên đường trên những tầng mây, tất cả đều do tâm mà ra. Vậy Thánh vịnh 51 đã trở thành lỗi thời vì chẳng có tác dụng gì thực tế. Bám vào đó để mà "phụng vụ" thì chỉ là duy trì sự mê tín của thời bán khai. Vả chăng, phạm tội với con người mà lại nói là chỉ phạm tội cùng Chúa thôi là điều mà thế giới ngày nay không thể chấp nhận.
Mặt khác, ngày nay các học giả nghiên cứu Thánh Kinh đã chứng minh được rằng trong 150 bài “Thánh Vịnh”, chỉ có vài bài là được sáng tác trong thời đại của David, phần còn lại được sáng tác vào khoảng và sau thời kỳ lưu đầy (Exile).
Thứ ba, trong Thánh Kinh có 2 Tamar rất đặc biệt: Tamar trong 2 Samuel 13: 11-14 là một thiếu nữ bị chính anh ruột của mình, Amnon, cưỡng hiếp. Tamar và Amnon đều là con ruột “ngài” David của TGM Nguyễn Văn Thuận. Còn Tamar, người phụ nữ tội lỗi mà ông Thuận viết trong đoạn trên, còn đặc biệt hơn nữa: chồng chết, ngủ với em chồng; em chồng chết, ngủ luôn với bố chồng, sinh con cái. Đó là những mẫu người mà TGM Thuận cho rằng được Thiên Chúa chọn với “ý định mầu nhiệm của Thiên Chúa.”, mà không hề giải thích mầu nhiệm ở chỗ nào, phải chăng mầu nhiệm chỉ vì những người vô đạo đức phi luân này là tiền nhân của Giê-su?. Chuyện Tamar trong Thánh Kinh, quý độc giả có thể đọc trong Sáng Thế 38. Có nhiều đoạn tôi không tiện trích dẫn, vì chúng tục tĩu dâm loạn, đối ngược hẳn với nền luân lý Á Đông. Chúng ta cũng nên để ý là, Thiên chúa là Thiên Chúa của Do Thái, không dính líu gì tới dân tộc Việt Nam, vì ngay trong Thánh Kinh Thiên Chúa của Do Thái cũng không biết đến sự kiện là quả đất tròn. Sự hiểu biết của Thiên chúa ở trong Thánh Kinh về trái đất rất hạn hẹp, chỉ có ở quanh vùng Trung Đông mà thôi.
Thứ tư, TGM Thuận viết “Chúa Giêsu đã chọn Phêrô, người đã chối ngài, và chọn Phaolô, người đã bách hại Ngài.” là sai, chứng tỏ rằng ông đã được "giáo hội dạy rằng" rất kỹ, và chưa từng đọc Thánh Kinh, vì Thánh Kinh đã viết rõ Giê-su tin rằng ngày tận thế sắp tới, ngay khi một số người cùng thời với Giê-su còn sống, vậy chọn Phê-rô để làm gì? Rõ ràng chuyện Chúa chọn Phêrô là do giáo hội ngụy tạo để tự tạo vai trò kế thừa Phê rô và là đại diện của Chúa trên trần của các giáo hoàng. Tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một phần sau. Mặt khác, PhaoLô không phải là tông đồ của Giê-su, PhaoLô chưa từng thấy Giê-su, làm sao mà bách hại Giêsu và làm sao Giê-su lại có thể chọn một người mình chưa từng biết? Tôi đố quý độc giả tìm trong Thánh Kinh xem có chỗ nào viết là Phao Lồ bách hại Giê-su .
Thứ năm, sợ tín đồ mất niềm tin khi đọc kỹ Thánh Kinh, TGM Nguyễn Văn Thuận dạy tín đồ:
Danh sách những người tội lỗi mà Mathêu nêu rõ trong gia phả của Chúa Giêsu không được gây gương mù cho chúng ta. Trái lại, gia phả ấy tuyên dương mầu nhiệm Thiên Chúa.
Mang cái bình phong “mầu nhiệm Thiên Chúa” ra để che đậy những điều có thể gây thắc mắc trong đầu óc tín đồ, TGM Thuận đã không lý gì đến những phần khác trong Thánh Kinh mà Giám Mục Spong đã nhận xét ở trên:
Chẳng có ai biết cha ông ta (Giê-su) là ai. Rất có thể ông ta là một đứa con hoang. Rải rác trong miền đất truyền thống Ki Tô lúc đầu (4 Phúc Âm), có những chi tiết chứng tỏ như vậy, giống như những thỏi chất nổ chưa kiếm ra và chưa nổ .
Phải chăng vì không đếm xỉa gì đến sự lương thiện trí thức, dùng lý luận thần học ngụy biện để lừa dối đám tín đồ thấp kém qua những điều giải thích hoang đường, phi lý trí v..v.. mà gần đây Tổng Giám Mục đã được thăng lên chức Hồng Y? Khi xưa, người ta có thể mua chức Hồng Y bằng tiền bạc và quen thuộc. Ngày nay, chức Hồng Y để cho những thuộc hạ của Tòa Thánh tuyệt đối trung thành với Giáo Hoàng và cách diễn giảng giáo lý của Vatican bất kể là những điều diễn giảng này mâu thuẫn, phi lý, và sai sự thực đến đâu. Rất hiếm khi mà những chức vụ chỉ đạo trong giáo hội Ca-tô được tuyển chọn hay vinh thăng theo khả năng, trình độ hiểu biết và đầu óc cởi mở. Trường hợp của ông Nguyễn Văn Thuận là một thí dụ điển hình.
Thật vậy, đoạn văn trong Matthew ở trên chẳng có gì là gương mù như ông Thuận đã nghĩ, và cũng chẳng có gì là “mầu nhiệm Thiên Chúa”. Vì ngày nay, các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh đã hiểu tại sao Matthew lại nêu tên những người phụ nữ tội lỗi trong gia phả của Giê-su. Sau đây là vài trích dẫn từ cuốn Sự Thực Phúc Âm của Russell Shorto:
Từ đầu thế kỷ 2, nhiều tác giả Do Thái, khi quan sát sự phát triển nhanh chóng của Ki Tô Giáo, đã ghi nhận rằng khuôn mặt thần thánh trong trọng điểm của Ki Tô Giáo (nghĩa là Giê-su. TCN) thực ra chỉ là một đứa con hoang. ..Về phương diện kỹ thuật, ngay cả khi đọc Phúc Âm theo truyền thống, điều trên đúng là sự thực, vì Joseph, chồng của Mary, không phải là cha thực của Giê-su. Đọc thật kỹ Matthew chúng ta có thể thấy điều trên rõ ràng...và Matthew đã đưa ra một kiến trúc thần học tinh vi để biến đổi một sự thật xấu xa thành một huyền thoại..
Một vấn đề trong gia phả của Giê-su đã làm bận tâm những nhà thần học không ít trong nhiều thế kỷ là tên của các phụ nữ trong gia phả của Giê-su. Tại sao chúng ta đọc thấy rằng: “Abraham là cha của Isaac, Isaac là cha của Jacob” v..v.. mà không thấy tên một phụ nữ nào xen vào, nhưng rồi chúng ta thấy “Judah là cha của Perez và Zerah, sinh ra bởi Tamar”, và “Salmon là cha của Boaz, sinh ra bởi Rahab,” và Boaz là cha của Obed, sinh ra bởi Ruth”, và David là cha của Solomon, sinh ra bởi “vợ của Uriah”?
Một nhóm học giả đã tìm hiểu trong 20 năm qua để tìm ra giải đáp cho điều thắc mắc này và họ đã khám phá ra rằng tất cả những phụ nữ được nêu tên trong gia phả của Giê-su đều là những người mang tai tiếng về vấn đề tình dục. Nói cách khác, Matthew đã cố ý làm nhẹ bớt vấn nạn Giê-su là đứa con hoang bằng cách vạch ra rằng trong nhiều đời tiền nhân của Giê-su, đây là điều cần thiết để tiếp nối dòng dõi các vua Do Thái qua những nhân vật khác thường.. Là đứa con hoang, điều này có thể là một biểu hiện của sự danh giá (badge of honor). 12
Thứ sáu, TGM Nguyễn Văn Thuận ca tụng dân tộc Do Thái là “một trường hợp duy nhất, đáng ngưỡng mộ và tuyệt vời, khi thấy một dân tộc không hề dấu diếm những tội lỗi của tiền nhân trong lịch sử chính thức của mình.” Người Việt Nam chúng tôi, khi đọc đến những chuyện tàn bạo, dâm ô, loạn luân v..v.., chiếm quá nửa cuốn Cựu Ước, về dân tộc Do Thái, thì không có cách nào có thể đồng ý với nhận định của ông Thuận. Sử Trung Quốc cũng ghi lại những triều đại Kiệt, Trụ, Tần Thủy Hoàng, Võ Tắc Thiên v..v Đã là những sự kiện lịch sử của một dân tộc thì không có người này cũng có người kia ghi chép lại. Do Thái cũng không ra ngoài lệ và tuyệt đối không phải là nước duy nhất chép lại trung thực những sự kiện lịch sử. Cho nên chẳng có gì đáng ngưỡng mộ và cũng chẳng có gì gọi là tuyệt vời như chúng ta đã biết sơ về lịch sử Do Thái trong phần trên. Thật vậy, chúng ta hãy đọc một đoạn về dân tộc Do Thái cổ xưa mà Thomas Paine đã viết trong cuốn Thời Đại Lý Trí như sau:
Nếu chúng ta có thể tự cho phép để cho rằng Đấng Toàn Năng đã phân biệt một quốc gia nào đó và gọi là Dân Được Ngài Chọn Lựa thì chúng ta phải cho rằng dân tộc đó là một gương mẫu cho phần còn lại của thế giới về hiếu kính và nhân đạo thuần khiết nhất, chứ không phải là một dân tộc của những kẻ côn đồ và giết người như là dân Do Thái cổ xưa, một dân tộc đồi bại vì phỏng theo những con quái vật và mạo danh như là Moses và Aaron, Joshua, Samuel và David, một dân tộc đã làm cho chính mình nổi bật hơn mọi dân tộc khác trên thế giới về sự man rợ và độc ác. 13
Vậy, đáng ngưỡng mộ và tuyệt vời ở chỗ nào? Có lẽ dân Do Thái, dân cưng mà Chúa Cha chọn làm dân của Chúa (chosen people), đáng ngưỡng mộ và tuyệt vời ở chỗ không chấp nhận Giê-su là “Chúa con”, là “đấng cứu thế”, nên bị giáo hội Ca-Tô vu cho tội giết Chúa và bách hại dân Do Thái suốt 2000 năm nay. Những dân tộc như Việt, Mên, Lào v..v.. mà Chúa Cha không hề biết đến (xin đọc Augustine) không tin và chấp nhận Chúa Con thì là điều dễ hiểu, nhưng dân tộc Do Thái là dân Chúa Cha chọn (chosen people) mà lại không chấp nhận Chúa Con thì chúng ta phải hiểu rằng “Chúa Con” chỉ là một “ngụy Chúa” và những lời tự nhận như là “con của Thiên Chúa”, “vua của dân Do Thái” v..v.. thật ra chỉ bắt nguồn từ một hoang tưởng tôn giáo ở vào một thời đại mà quan niệm về quỷ thần tràn ngập dân gian. Đây không phải là chỗ phê bình cuốn Chứng Nhân Hy Vọng của TGM Nguyễn Văn Thuận, nhưng có một đoạn nơi trang 293 tôi không thể bỏ qua:
Do quyền năng của Chúa Thánh Thần, mầu nhiệm nhập thể cao cả được thực hiện. Người Con ở trên Trời sống trong lòng Thiên Chúa Cha, tìm thấy ở dưới đất, nơi Đức Maria, một cung lòng xứng đáng với Ngài. Là nữ tử của Thiên Chúa Cha, Đức Maria trở thành mẹ. Mẹ của Ngôi Lời nhập thể, Hiền Thê của Chúa Thánh Thần.
Người con ở trên Trời? Chỗ nào trên Trời? Phải chăng ở phía trên cái vòm trời bằng đồng thau có những cánh cửa mở ra để cho mưa rơi xuống như được viết trong Thánh Kinh? Hay là ở trong cái nhà ở trên trời, thiên đường, nơi Thiên Chúa ngự. Nhưng chính giáo hoàng John Paul II cũng phải thú nhận “Không làm gì có thiên đường ở trên các tầng mây” TGM Thuận luôn luôn ở sát nách giáo hoàng mà không biết đến lời tuyên bố này hay sao? Mặt khác, trái đất đâu có đứng yên? Nó vừa di chuyển trong không gian xung quanh mặt trời với vận tốc trên một trăm ngàn cây số một giờ, vừa quay xung quanh trục Nam Bắc với vận tốc quay khoảng 1600 cây số 1 giờ, vậy TGM Thuận có dám khẳng định “người con ở trên Trời” là ở chỗ nào trên trời hay không, hay đối với con người đứng yên trên trái đất, "người con ở trên trời" cũng phải đảo điên điên đảo theo định luật tương đối của mọi chuyển động?
Luận điệu thần học ngụy biện lý luận rằng: Vì nhãn quang của con người cũng như những dụng cụ quang học như kính thiên văn đều giới hạn nên không thể nào thấy Chúa được, nếu chúng ta có khả năng nhìn đến tận cùng không gian thì sẽ thấy Chúa ngự bên hữu Chúa Cha. Luận điệu này ném thuyết Chúa Ba Ngôi, nghĩa là thuyết điên rồ toán học (mathematical insanity), 3 là 1 và 1 là 3, vào "Recycled Bin" . Luận điệu này cũng mù tịt về khoa vũ trụ học vì không hề có một ý niệm gì về tận cùng không gian là bao xa? Đại khái vào khoảng 15 tỷ năm ánh sáng. Ánh sáng truyền trong không gian khoảng 300000 cây số trong một giây đồng hồ. Chúa Giê-su mới chết cách đây 2000 năm. Và dù ông ta có sống lại và bay lên trời với vận tốc của ánh sáng, vận tốc giới hạn của mọi vật chất, thì ông ta cũng chưa ra khỏi giải Ngân Hà, rộng khoảng 100000 năm ánh sáng. Vậy bảo là sẽ thấy Chúa ngồi bên hữu Chúa Cha ở tận cùng không gian là nói bừa, nói bậy, không hiểu chút nào về vũ trụ và khoa học.
Tôi không muốn đi sâu vào đoạn văn trên của TGM Thuận mà chỉ muốn làm sáng tỏ một điều: đoạn này đương nhiên xóa bỏ đoạn nói về gia phả của Giê-su. Giê-su không thể vừa là con của Chúa Thánh Thần, vừa là con của Joseph, thuộc dòng dõi vua David. Mary không thể là “Hiền thê của Chúa Thánh Thần”, có mang với Chúa Thánh Thần nếu chúng ta vứt bỏ tất cả neuron ở trong óc đi để tin rằng Chúa Thánh Thần (Holy Spirit) cũng có 23 nhiễm sắc tố (chromosomes) gồm cả hai loại X và Y để có thể làm cho bà Mary mang thai, rồi sinh ra Giê-su, nhưng Giê-su lại không phải là con của Chúa Thánh Thần mà lại là con của Joseph, thuộc dòng dõi Vua David như được kể trong gia phả trên. Viết lên một sự mâu thuẫn rối răm cùng cực mà TGM Thuận cũng viết lên được thì thực là tài.
Một thí dụ khác sẽ cho chúng ta thấy rõ đầu óc của các bậc lãnh đạo trong Ca-Tô Giáo ở Việt Nam đã được nhào nặn như thế nào. Trong cuốn "Trần Lục", nhiều tác giả, xuất bản tại Canada, năm 1996, Đức Ông Trần Văn Khả cũng viết về Giê-su như sau, trang 269:
Trong Kinh cầu Thánh Giuse, chúng ta đọc như sau: "Ông Thánh Giuse là Cha Nuôi Con Đức Chúa Trời"; Ngay sau đó Đức Ông viết: “Chúa Giêsu là dòng dõi Vua Đa-vít, mà Thánh Giuse là một thành phần (Matthew 1:16). “
Cũng như TGM Nguyễn Văn Thuận, Đức Ông Trần Văn Khả nhắc lại những lời "giáo hội dạy rằng", tin rằng tất cả những lời trong Kinh đều phải đúng, mà không hề suy nghĩ. Thật vậy, nếu Giuse chỉ là cha nuôi của Giê-su thì dù cho Giuse thuộc dòng dõi vua David, Giê-su cũng không thể nào thuộc dòng dõi vua David. Vì sao? Vì Giê-su là hoa trái của sự "xâm phạm tiết hạnh" của Thánh Ma (Holy Ghost) vào Mary, một người đàn bà Do Thái đã có chồng là Joseph (Giu-se). Vì vậy, Giê-su mới được gọi là Con Thiên Chúa và Giu-se mới được coi như là cha nuôi của Giê-su. Đã là Con Thiên Chúa thì không thể thuộc dòng dõi vua David, dù cha nuôi của Giê-su là Giu-se thuộc dòng dõi vua David. Tôi có cảm tưởng rằng TGM Nguyễn Văn Thuận, Đức Ông Trần Văn Khả cũng như nhiều tín đồ Ca-Tô khác, được Giáo hội dạy sao thì cứ nhắc lại đúng như vậy mà không hề bận tâm suy nghĩ xem điều mình nói có hợp lý hay không. Sự hiểu biết của tuyệt đại đa số người dân Việt ngày nay đâu còn ở mức của những người dân đánh cá ở vài miền duyên hải Việt Nam cách đây vài thế kỷ, hay ở trong những "ốc đảo ngu dốt" (từ của Linh mục Trần Tam Tĩnh trong cuốn "Thập Giá và Lưỡi Gươm"?)
Tuy nhiên tôi không phản đối TGM Nguyễn Văn Thuận, Đức Ông Trần Văn Khả, hay bất cứ ai, nếu họ tin cả hai huyền thoại có tính cách loại trừ hỗ tương (mutual exclusive) như trên cùng một lúc. Vấn đề là, đầu óc của các bậc lãnh đạo Ca-Tô Việt Nam như TGM Thuận và đức ông Khả, mà còn như vậy thì không hiểu đầu óc của đám tín đồ thấp kém thì như thế nào? Đối với tôi, nếu ai đó tin vào bất cứ một cái gì đó thì chúng ta có thể hiểu được, nhưng tin cùng lúc vào hai điều không thể nào cùng hiện hữu thì chỉ có những đầu óc đặc biệt Ca Tô được nhào nặn từ nhỏ mới có khả năng như vậy. Và đây quả là một phép lạ trong việc đào tạo, uốn nắn đầu óc tín đồ Ca-Tô. Nếu chúng ta có dùng lý trí để phê phán họ là mù lòa tin bướng tin càn thì họ vội lên tiếng lên án chúng ta là chống Thiên Chúa Giáo theo sách lược của CS. Họ lên án như vậy vì đầu óc của họ chỉ nghĩ có một chiều. Họ không thể nghĩ ra rằng, theo lý luận thần học của TGM Thuận ở trên, thì sự hiện hữu của CS cũng chỉ là để tuyên dương "mầu nhiệm Thiên Chúa", một điều mà chúng ta không thể nào dùng lý trí mà hiểu được. Cầu mong làm sao họ gỡ được cái vòng kim cô xiềng xích trí tuệ ra khỏi cái đầu họ trước khi họ tính đến chuyện đối thoại với các tôn giáo khác.
Qua những tài liệu mà tôi vừa trích dẫn ở trên, chúng ta thấy ngay rằng, hình ảnh Giê-su mà Giáo hội Ca-Tô Rô-ma cấy vào đầu óc tín đồ, từ trên xuống dưới, nó xa sự thực như thế nào. Làm sao mà Giáo hội có thể thành công trong việc nhào nặn đầu óc tín đồ đến độ họ không còn khả năng suy nghĩ. Đó là vì Giáo hội đã sử dụng Học Thuật Ca-Tô (Catholic scholarship), phối hợp một nền thần học ngụy biện, dối trá với những văn kiện ngụy tạo, giả mạo. Nguỵ biện vì lúc thì giải thích thế này, khi thì giải thích thế nọ, lúc thì giải thích suôi, khi thì giải thích ngược v..v..; dối trá vì không đúng với sự thật với chủ đích lừa dối; ngụy tạo, giả mạo là bịa đặt ra, thêm thắt vào. Học thuật này rất thành công đối với đám tín đồ ít học, đầu óc yếu kém. Nhưng ngày nay, học thuật này đã không còn chỗ đứng trong thế giới văn minh, tiến bộ. Thật vậy, ngày nay, nhiều học giả, trí thức, chuyên gia v..v.. đã phanh phui ra những thủ đoạn lừa dối của giáo hội Ca-Tô. Thí dụ, Douglas Lockhart đã viết trong cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Thiên Chúa (The Dark Side of God) như sau:
Với khả năng phịa sử qua những tài liệu giả mạo trông như thật với dấu ấn của Giáo Hoàng, và lồng những tài liệu giả mạo này vào trong Giáo Luật, Giáo hội Ca-Tô đã tái tạo quá khứ của mình một cách có hệ thống để rồi cuối cùng tin vào những điều nói láo của chính mình. 14
Nữ học giả Helen Ellerbe viết trong cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Lịch Sử Ki Tô (The Dark Side of Christian History):
Cuốn Tự Điển Bách Khoa Ca-Tô cũng phải thừa nhận rằng “Trong mọi lãnh vực, sự giả mạo và thêm thắt vào cũng như sự ngu đần đã được tập họp thành trò tinh quái có hạng.” Dù rằng Giáo hội đã cấm không cho nghiên cứu thêm về nguồn gốc của các Phúc Âm, nhiều học giả đã chứng tỏ cả bốn Phúc Âm đều đã được xào xáo viết lại. Trong khi Giáo hội tuyên bố rằng bản chất chân lý không thay đổi và chỉ được mạc khải một lần duy nhất, Giáo hội luôn luôn tìm ra lý do để thay đổi chân lý đó. 15
Không phải là vô cớ mà Lockhart và Ellerbe đã viết như trên. Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử tôn giáo đã phân tích Thánh Kinh gồm Cựu Ước và Tân Ước bằng những phương pháp hiện đại nhất, phối hợp nhiều bộ môn trong khoa học và nhân văn, để tìm ra những sự thực về lịch sử, nguồn gốc, tư tưởng trong Thánh Kinh.
--Ba bằng chứng ngụy tạo:
Trong lịch sử Ca-Tô Giáo Rô-Ma có nhiều bằng chứng có thể dùng để chứng minh những nhận định của Lockhart và Ellerbe ở trên. Sau đây tôi chỉ đưa ra vài trường hợp điển hình.
(1). Bằng chứng ngụy tạo thứ nhất:
Giả mạo Bản Văn Hiến Dâng Của Constantine (The Donation of Constantine). Về trường hợp này, Lockhart viết:
Trong cuốn “Sự Suy Thoái Của Rô-Ma”, sử gia Joseph Vogt lưu ý chúng ta về Bản Văn Hiến Dâng Của Constantine, một tài liệu đề ngày 30 tháng 3, năm 315, nhưng thực ra được viết trong triều đại của giáo hoàng Stephen III (năm 752-757) với mục đích thuyết phục Pepin, vua của dân Franks, phải bảo vệ giáo hội để chống dân Lombards. Là một tài liệu giả mạo từ đầu tới cuối, Bản Văn Hiến Dâng viết rằng Constantine, đang bị bệnh hủi (cùi), đã có một thị kiến trong đó Thánh Phê-rô (Peter) và Phao-Lồ (Paul) nói với Constantine là hãy tiếp xúc với Giáo Hoàng Sylvester. Khỏi bệnh vì tuân theo lệnh từ trên trời ban xuống, để tạ ơn, Constantine hiến dâng lâu đài mình đang ở cho Giáo hoàng Sylvester và đặt toàn thể Vương Quốc Miền Tây thuộc quyền Tòa Thánh. Tòa Thánh của Phê-rô phải được đặt lên trên Vương Quốc và Ngai Vàng của Vua, và Sylvester là người cai trị Antioch, Alexandria, Jerusalem, Constantinople và tất cả các giáo hội trên thế giới. Tài liệu trên được chấp nhận không bàn cãi cho đến năm 1440, khi Lorenzo Valla, một người hầu cận Giáo hoàng, chứng minh rằng, không còn nghi ngờ gì nữa: Bản Văn Hiến Dâng là giả mạo. Cuốn sách của Valla được xuất bản năm 1517, và mặc dầu tất cả các học giả khác khi nghiên cứu riêng rẽ đều đồng ý với Valla, Tòa Thánh vẫn phủ nhận sự giả mạo này trong vài thế kỷ tiếp theo..
Tuy nhiên, Vua Pepin, khi đọc Bản Văn Hiến Dâng, rất lấy làm khâm phục, vì có vẻ như là Bản Văn đã chứng minh chắc chắn rằng Giáo Hoàng là người kế thừa Phê-rô và Constantine, do đó có toàn quyền trên trái đất, và đàng sau hậu trường là sự hậu thuẫn của quyền lực từ trên trời. Đánh bại dân Lombards, Pepin dâng tất cả đất đai viết trong Bản Văn Hiến Dâng, một hành động làm cho Tòa Thánh trở nên toàn năng. 16
Chúng ta có thể thấy ngay rằng, bản văn hiến dâng của Constantine đúng là do giáo hội giả mạo để tạo quyền lực về tinh thần cũng như vật chất cho giáo hội. Mục đích của tài liệu giả mạo này là đưa ra quan niệm thần quyền đứng trên thế quyền, và quyền thống trị, cai quản thế giới của Giáo hội. Nhưng tiến hóa là một định luật của nhân loại nên những quyền tự phong của Giáo hội mà một thời bao trùm Âu Châu càng ngày càng suy giảm và ngày nay đã trở nên vô nghĩa và bất lực trước sự tiến bộ của nhân loại. Ngày nay, đất đai và quyền hạn của giáo hội chỉ còn thu hẹp trong phạm vi của Vatican, rộng bằng vài cái sân đá banh, và trong đám tín đồ thấp kém mà tổng số chưa tới 1/6 dân số trên thế giới.
Giáo sư Thần học Uta Ranke-Heinemann, khi nghiên cứu trường hợp giả mạo Bản Văn Hiến Dâng trên, cũng viết trong cuốn Hãy Dẹp Đi Những Chuyện Trẻ Con (Putting Away Childish Things) như sau:
Một chuyện bất ngờ rất đặc biệt phát xuất từ Thánh Linh là cái gọi là Bản Văn Hiến Dâng Của Constantine. Trong bản văn này, Hoàng Đế Constantine (chết năm 337) đã bày tỏ tấm lòng quá rộng rãi đối với Giáo hội: “Chúng tôi đã chuyển nhượng lâu đài (Lateran) và tất cả tỉnh lỵ, nơi chốn, thành phố thuộc thị trấn Rô-ma, thuộc nước Ý, và thuộc khắp miền Tây..cho giáo hoàng tối cao, cha Sylvester của chúng ta, giáo hoàng của mọi người, và cho uy quyền và sự thống trị của giáo hoàng – hoặc những vị kế thừa ông ta.” Ngày ghi trên bản văn (30 tháng 3, năm 315. TCN), dấu ấn chính thức (của giáo hoàng [papal seal]. TCN), và chữ ký (của Constantine. TCN) đã chứng thực bản văn trên. Constantine, quốc vương tuyệt đối đã hiến dâng cho giáo hoàng toàn thể miền Tây của đế quốc Rô-ma; và các giáo hoàng trở thành những kế thừa của các vua Rô-ma ở miền Tây. Constantine tự thỏa mãn với miền Đông, bởi vì “các vua trên trần không thể có quyền năng ở nơi nào mà người cầm đầu giáo hội Ki Tô (giáo hoàng) đã được vua ở trên trời (Giê-su) bổ nhiệm.”
Nhưng thực ra, tất cả chỉ là một sự bịp bợm, một sự giả mạo của giới giáo sĩ trong nôi bộ giáo hội bày đặt ra. Lẽ dĩ nhiên, với bản văn ngụy tạo này, giáo hội đã chiếm được quyền lực tinh thần và vật chất to lớn không thể ước tính được trong nhiều thế kỷ. Sự giả mạo văn bản trên đã được xào nấu trong cung đình Vatican vào khoảng giữa thế kỷ thứ 8 (vào khoảng hơn 400 năm sau khi Constantine chết. TCN) và chỉ bị phanh phui vào thế kỷ thứ 15. Người khám phá ra sự gian lận này là một viên chức cao cấp trong cung đình Rô-ma (Vatican), theo chủ nghĩa nhân văn, một phê bình gia về chế độ giáo hoàng, tên là Lorenzo Valla (chết năm 1457). Nhưng mãi tới năm 1517 công cuộc khám phá ra sự gian lận trên của Valla mới được Ulrich von Hutten xuất bản, vào đầu thời kỳ cải cách. Sách “The Lexikon fur Theologie und Kirche” viết, “từ giữa thế kỷ 19..nội dung Bản Văn Hiến Dâng Của Constantine đã được coi như là giả mạo theo sự nhìn nhận của Ca-Tô” ([1961] VI, 484). (Sau nhiều thế kỷ phủ nhận. TCN) 17
Từ những tài liệu trên, chúng ta thấy ngay rằng, quyền lực tinh thần cũng như vật chất của Giáo hội Ca-Tô được xây dựng trên sự gian dối ngụy tạo. Trong Ca-Tô giáo có cả một trường phái chuyên ngụy tạo (school of forgery) những bản văn mới, và sửa đổi, viết lại những bản văn cũ cho hợp với đường lối dối trá để đạt được mục đích tạo quyền lực tinh thần và vật chất của Giáo hội.
Thật vậy, Douglas Lockhart viết như sau:
“Vào khoảng năm 1187 sự giả mạo các tài liệu đã trở thành một dịch vụ có lợi, với cả một trường phái các chuyên gia làm giả mạo, cặm cụi tạo ra sự phê chuẩn những tham vọng của giáo hoàng Gregory III; có ngay cả chính sách biến đổi những tài liệu cũ nói ngược hẳn lại những điều thực sự viết trong tài liệu. Điều thú vị là, de Rosa (Tổng Giám mục Peter de Rosa, tác giả cuốn “Vicars of Christ: The Dark Side of The Papacy”. TCN) vạch ra rằng chính những tài liệu cũ này cũng là giả mạo và phê phán rằng cái trường phái những kẻ chuyên làm tài liệu giả mạo này “..đã xào xáo tất cả những văn kiện cũ, bất kể là giả hay thực, với một tính bất lương như nhau.”
De Rosa, khi đứng trước tình trạng lạ lùng này, đã thẳng thắn phơi bày sự kiện là, vào giữa thế kỷ 12, sắc lệnh Decretum, hay Giáo Luật, đã được rắc vào trong đó những văn kiện giả mạo suốt trong 3 thế kỷ và những kết luận dẫn xuất từ chúng. Một trong những kết luận này là giáo hoàng đứng trên và là nguồn gốc của mọi giáo luật mà không có cần đến khả năng chuyên môn; một sự kiện mà theo sự diễn giải của de Rosa, giáo hoàng theo định nghĩa thì bằng vai với Con của Thiên Chúa. Và đây là giáo hội mà chúng ta phải có, cái định chế sáng lập ra bởi Thiên Chúa qua vai trò Constantine để soi sáng cho một thế giới tối tăm” 18
Có lẽ trong lịch sử nhân loại chúng ta không thể thấy một sự lừa bịp nào trắng trợn và hoang đường hơn. Ấy thế mà cho tới ngày nay vẫn còn nhiều người, kể cả những người thường được gọi là trí thức, vẫn còn tin vào luận điệu quái gở của giáo hội như trên, và rất lấy làm hãnh diện được hôn giày hôn dép “đức Thánh Cha”, đại diện của Chúa trên trần.
Nhưng Constantine là người như thế nào? Lịch sử đã viết rõ. Trong cuốn Những Sự Lừa Dối Và Huyền Thoại Trong Thánh Kinh, Loyld Graham viết:
Hắn ta đích thân giết hai người anh em rể, sai người giết vợ, giết đứa con tên là Crispus và 2 đứa cháu, giết những kẻ kẻ đối lập chính trị, quẳng những người không tin đạo Chúa xuống giếng, và làm cho nhiều ngàn người chết trên chiến trường. 19
Từ những sự kiện trên, và sau khi khảo xát về lịch sử thành lập, và lịch sử phát triển của Ki Tô Giáo, bắt đầu bằng sự ủng hộ của Constantine, Lloyd Graham đã bình luận như sau:
Trong gần 2000 năm nay, Ki Tô Giáo toan tính cứu rỗi chúng ta thay vì văn minh hóa chúng ta, và nó đã đi đến một thế kỷ man rợ, một thời đại trong đó có tới 250 triệu tín đồ Ki Tô chết trong những cuộc chiến của Ki Tô Giáo.
..Đó là Ki Tô Giáo, một tôn giáo đặt căn bản trên sự gian dối, thành lập bởi những kẻ điên và được củng cố bởi một tên sát nhân – Đại đế Constantine. 20
Tại sao Graham lại có thể viết như trên về một tôn giáo lớn nhất trên hoàn cầu như Ki Tô Giáo? Sự phân tích bằng chứng ngụy tạo thứ hai sau đây sẽ chứng minh cho chúng ta thấy rõ vấn đề. Chúng ta cũng nên biết rằng, sau nhiều thế kỷ phủ nhận những công trình nghiên cứu về Bản Văn Hiến Dâng của Constantine và giữ nguyên tính cách xác thực (authenticity) của Bản Văn, cuối cùng Tòa Thánh Vatican và các nhà Thần học Ki Tô Giáo cũng phải thú nhận rằng Bản Văn Hiến Dâng của Constantine thật ra là một bản văn giả mạo. Nhưng Giáo hội đã thực hiện được mưu đồ của mình và thành công trong việc tạo cho giáo hội quyền lực thế gian trong hơn 1000 năm, và tiếp tục duy trì quyền lực này bất kể đến liêm sỉ và đạo đức con người như lịch sử đã chứng tỏ.
(2). Bằng chứng ngụy tạo thứ hai:
Giáo hội dựa vào một câu trong Thánh Kinh, Matthew 16: 18, cho là của Giê-su nói: “Và ta cũng nói cho ngươi biết, ngươi là Phê-rô, và trên phiến đá này ta sẽ xây dựng giáo hội của ta...và Ta sẽ cho ngươi những chìa khóa của thiên đường” (King James Version: “And I also say to you that you are Peter, and on this rock I will build My church...and I will give you the keys of the kingdom of heaven”) và đưa ra thuyết Chúa Giê-su chính là người sáng lập ra Giáo hội nhưng chỉ đứng tên, còn Thánh Phê-rô mới là người được Giê-su trao cho nhiệm vụ thành lập giáo hội với chức vụ đứng đầu giáo hội (giáo hoàng đầu tiên), và các Giáo Hoàng đều là kế thừa của Phê-rô và như vậy đương nhiên là “đại diện của Chúa” (Vicars of Christ) ở trên trần, nắm trong tay những chìa khóa mở cửa thiên đường. Do đó, các tín đồ Ca-Tô không thể hiệp thông thẳng với Chúa mà phải đi qua ngả trung gian là giáo hội, giáo hoàng và Tòa Thánh Vatican. Ngoài ra, giáo hoàng còn có quyền tuyệt thông bất cứ tín đồ nào, ở bất cứ cấp bậc nào, nghĩa là giữ chặt chìa khóa mở cửa thiên đường trong tay, không mở cửa thiên đường cho bất cứ ai mà giáo hoàng không ưa, bất kể vì lý do gì. Giáo hoàng cũng còn trao quyền tuyệt thông cho các thuộc hạ thân tính như hồng y, tổng giám mục đối với đám tín đồ thấp kém bên dưới.
Tuy nhiên, thuyết Giê-su thành lập giáo hội, Phê-rô làm giáo hoàng đầu tiên v..v.. như trên chỉ có giá trị trong đám tín đồ Ca-Tô vốn không bao giờ đọc Thánh Kinh, thường không mấy khi dùng đến đầu óc để suy nghĩ, và đã bị nhồi sọ từ nhỏ để tin tất cả những gì giáo hội nói. Đối với các học giả nghiên cứu Thánh Kinh và đối với giới trí thức ở trong cũng như ở ngoài giáo hội thì câu ở trong Thánh Kinh ở trên rõ ràng là được thêm thắt sau này với mục đích thiết lập quyền lực tinh thần cũng như quyền lợi vật chất của giới lãnh đạo Ca-Tô trước đám đông tín đồ ở dưới. Thật vậy, các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh đã vạch ra rằng câu trên hoàn toàn mâu thuẫn với nhiều đoạn trong Thánh Kinh, với tư tưởng của Giê-su, và nhất là vai trò của Phê-rô.
Thứ nhất, đọc Thánh kinh, chúng ta thấy rõ ràng là những người viết Tân Ước đều tin rằng Giê-su sẽ trở lại trần gian trong một tương lai rất gần, ngay trong thời điểm của Giê-su. Thí dụ (Trích dẫn từ Thánh Kinh: Cựu Ước Và Tân Ước, Hội Quốc Tế xuất bản, 1994; và Holy Bible: The New King James Version, American Bible Society, New York, 1982):
Matthew 16: 27-28: “Ta (Con của Người: Giê-su) sẽ trở lại với các thiên sứ trong vinh quang của Cha ta để thưởng phạt mỗi người tùy theo việc họ làm. Ta cho các con biết: một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy ta vào trong Nước ta”. (For the Son of Man will come in the glory of His Father with His angels, and then He will reward each according to his works. Assuredly, I say to you, there are some standing here who shall not taste death till they see the Son of Man coming in his kingdom.)
Matthew 24:34: “Ta quả quyết, thời đại này chưa chấm dứt, các biến cố ấy đã xảy ra rồi” (Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things are fulfilled)
Mark 9: 1: Chúa bảo các môn đệ: “Ta cho các con biết, một vài người đang đứng đây sẽ còn sống cho đến khi nhìn thấy nước trời thiết lập với uy quyền vĩ đại” (And He said to them, “Assuredly, I say to you that there are some standing here who will not taste death till they see the kingdom of God present with power.”)
Mark 13:30: “Ta quả quyết, thế hệ này chưa qua đi thì các biến cố đó (các biến cố xung quanh sự trở lại của Giê-su. TCN) đã xảy ra rồi”. (Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things take place.)
Luke 21: 27, 32: “Bấy giờ nhân loại sẽ thấy ta giáng xuống trong mây trời với vinh quang và uy quyền tuyệt đối.. Ta quả quyết: thế hệ này chưa qua, các biến cố ấy đã xảy ra rồi”. (Then they will see the Son of Man coming in a cloud with power and great glory.. Assuredly, I say to you, this generation will by no means pass away till all these things are fulfilled.)
John 14: 3: “Ta đi chuẩn bị chỗ ở cho các con. Khi chuẩn bị xong, ta sẽ trở lại đón các con về với ta để các con ở cùng ta mãi mãi.” (And if I go and prepare a place for you, I will come again and receive you to myself; that where I am, there you may be also).
Qua những đoạn trích dẫn ở trên từ Thánh Kinh, chúng ta hãy tự hỏi: Giê-su thành lập giáo hội và trao chức vụ giáo hoàng chăn dắt tín đồ cho Phê-rô để làm gì khi mà ông ta tin rằng ngày tận thế gần kề, ngay trong đời ông, khi ông và một số môn đồ của ông còn sống? Có phải rằng giáo hội đã thêm thắt câu “..ngươi là Phê-rô, và trên phiến đá này ta sẽ xây dựng giáo hội của ta...” vào trong Thánh Kinh để lừa dối tín đồ là giáo hội do chính Chúa Giê-su thành lập và các giáo hoàng đều là kế thừa của Phê-rô?
Thứ nhì, đọc kỹ Thánh Kinh, chúng ta còn thấy, sau khi trao chìa khóa thiên đường cho Phê-rô (Matthew 16:19), chỉ 4 câu sau, Matthew 16: 23, Giê-su gọi Phê-rô là Satan: “Chúa quay lại và nói với Phê-rô: “Hãy đi ra đàng sau ta, Satan, ngươi là một sự xúc phạm đối với ta” (But he turned and said to Peter, “Get behind me, Satan! You are an offence to Me..”) Cũng vì sự mâu thuẫn và phi lý trong hai câu gần sát nhau trong Thánh kinh mà Lloyd Graham đã bình luận như sau:
Như vậy là giáo hội Ca-Tô được thành lập bởi Phê-rô, người mà, chỉ 4 câu sau trong Thánh Kinh, Chúa gọi là Satan. Vậy, nếu giáo hội Ca-Tô được thành lập bởi Phê-rô thì giáo hội đó đã được thành lập bởi Satan – một sự kiện mà chúng ta đã nghi ngờ từ lâu. (Xét đến lịch sử đẫm máu đầy tội ác của Ca-Tô Giáo mà giáo hoàng John Paul II và Tòa Thánh Vatican đã vừa xưng thú 7 núi tội lỗi và xin được tha thứ thì câu bình luận của Graham ở trên không phải là không có căn bản. TCN).
Câu chuyện về Phê-rô thậm vô nghĩa – một người chết như mọi người mà lại có quyền lực trên khắp nhân loại trong muôn đời muôn kiếp. Trong những vấn đề tôn giáo, tín đồ Ca-Tô thật là nhẹ dạ, cả tin, nhưng họ có thể nhẹ dạ đến mức tin rằng, trước khi có Ki Tô Giáo, những bậc thông thái như Pythagoras, Plato, Socrates...cần đến cái tên đánh cá Do Thái ngu đần này (Phê-rô) để đầy đọa hay cứu vớt linh hồn họ hay không? Nhất định là không, và chúng ta cũng vậy (Lẽ dĩ nhiên, người Việt Nam chúng ta cũng không cần đến bất cứ cái gì từ tên đánh cá Do Thái không những ngu đần mà còn hèn nhát này, như Thánh Kinh đã viết rõ. TCN) 21
Thứ ba, Phê-rô là mẫu người coi lời Chúa như không có, phản phúc và hèn nhát. Trước ngày Chúa bị bắt, Chúa bảo Phê-rô hãy thức chờ Chúa đi cầu nguyện, rồi Chúa đi cầu nguyện, khi trở lại thì Phê-rô đã ngủ khì. Khi Chúa bị bắt, vì sợ bị kết tội đồng lõa, Phê-rô đã ba lần chối Chúa, không nhận là mình đã biết Chúa. Khi Chúa bị đóng đinh trên thập giá thì Phê-rô trốn biệt. Một người tư cách như vậy mà Chúa lại chọn để thành lập giáo hội hay sao? Chúa không có môn đồ nào tốt hơn và hiểu biết hơn tên đánh cá Phê-rô hay sao?
Trước những bằng chứng không thể phủ bác, Joseph L. Daleiden, một học giả Ca-tô, trong cuốn Sự Mê Tín Cuối Cùng (The Final Superstition), trang 83, cho rằng “câu chuyện ủy quyền cho Phê-rô xây dựng giáo hội là một chuyện tiếu lâm” (On the face of it, I would take it as a joke) và trích dẫn lời của Albert Camus, cho rằng “Giê-su đã riễu cợt cái tên nghèo khổ, hèn nhát Phê-rô khi bảo Phê-rô là vững như phiến đá” (Camus pointed out, Jesus must have been making fun of of poor, cowardly Peter by referring to him as a rock of steadfastness.). Rồi Daleiden kết luận:
Do đó, chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi biết rằng nhiều học giả chuyên về Thánh Kinh tin rằng câu chuyện về Phê-rô, giống như nhiều chuyện khác trong Tân Ước, đã được người ta thêm thắt vào sau. 22
Nhưng không phải chỉ có các học giả mới nhận ra sự phi lý trong câu chuyện về Phê-rô, mà chính những nhà Thần học nổi danh trong giáo hội Ca-Tô cũng phải thừa nhận rằng thuyết Chúa thành lập giáo hội và trao quyền cho Phê-rô chỉ là ngụy tạo.
Hans Kung, Giáo sư Thần học tại trường đại học nổi tiếng Tubingen ở Đức, cũng phải viết như sau:
Con người Giê-su lịch sử, tin chắc rằng ngày tận thế phải xảy ra ngay khi ông còn đang sống. Và vì sự sắp tới của Nước Trời này, không còn nghi ngờ gì nữa là ông ta không muốn lập ra một cộng đồng đặc biệt khác với nước Do Thái, với giáo lý, nghi thức thờ cúng, định chế, cơ quan chỉ đạo riêng. Tất cả những điều trên có nghĩa là khi còn sống Giê-su không bao giờ sáng lập một giáo hội nào. Ông ta không hề có ý tưởng thành lập và tổ chức một hoạt động tôn giáo đại qui mô như được tạo ra về sau. 23
Và nữ Giáo sư Thần học Uta Ranke-Heinemann cũng viết:
Giáo hội đã biến Giê-su thành một dụng cụ tuyên truyền. Vì lý do này mà chúng ta tin vào mọi điều biện minh cho sự thành lập một giáo hội như được thêm thắt vào những lời Giê-su nói bởi những tác giả các phúc âm. Sự thêm thắt này gồm có điều Giê-su ca tụng Phê-rô như một phiến đá làm nền tảng để Giê-su xây dựng giáo hội của ông ta (Matt. 16:18), vì Giê-su không bao giờ có ý thành lập một giáo hội... Ở đây, không phải là Giê-su nói, mà là giáo hội ban khai muốn tạo cho mình một địa vị lãnh đạo và một khuôn mặt quyền lực vì sự tăng trưởng của cấu trúc lãnh đạo theo cấp bậc.
Trong chương 21, chương ngụy tạo trong phúc âm John – nghĩa là chương được thêm vào phúc âm chính sau này – ý tưởng về một vai phó đã được phát triển rõ ràng. Phê-rô trở thành kẻ chăn đàn chiên của Giê-su. Như là đại diện của Giê-su, người chăn chiên thực sự lúc đầu, hắn thay thế Giê-su trong nhiệm vụ này. Ngay sau đó, giáo hội nghĩ rằng điều quan trọng không phải là con người Phê-rô. Giáo hội quyết định rằng chức vụ của Phê-rô là nền tảng của Giáo hội, do chính Giê-su thiết lập vĩnh viễn. Với quan niệm này chúng ta có những giáo hoàng là kế thừa Phê-rô và là phụ tá của Giê-su, và chế độ giáo hoàng là nền tảng của giáo hội. 24
Ngoài ra, chúng ta cũng nên biết, Hội Nghiên Cứu Về Giê-su (The Jesus Seminar) gồm nhiều học giả thuộc mọi hệ phái Ki-tô, sau nhiều năm nghiên cứu, cũng đưa ra cùng một kết luận, nghĩa là, Giê-su không hề có ý định thành lập giáo hội cũng như không hề ủy quyền cho Phê-rô xây dựng giáo hội. Tất cả chỉ là những điều giáo hội bịa đặt để tạo quyền lực cho giáo hội mà thôi.
Tuy nhiên, điều đáng nói ở đây là, ngoài sự vạch ra sự gian dối trên, các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh còn chứng minh rằng Giê-su, với những lời hứa hẹn hão huyền đầy tính chất tự tôn, tự cao, tự đại như trên, là người mắc bệnh tâm thần hoang tưởng, và thực tế đã cho các môn đệ ăn bánh vẽ vì ông ta đã ra đi và không hề trở lại. 2000 năm qua, những người tin là Giê-su có quyền phép “cứu rỗi” họ và cho họ lên thiên đường ở cùng ông đã dài cổ ra ngóng chờ “ngày trở lại” của Giê-su, nhưng năm này qua năm khác, thế hệ này qua thế hệ khác, thiên niên kỷ này qua thiên niên kỷ khác, Giê-su vẫn biệt tăm. Làm sao ông ta có thể trở về được khi ông ta đã bị đóng đinh trên thập giá, chết, và táng xác? Lời hứa hẹn vô trách nhiệm đầy tính cách lừa dối những kẻ nhẹ dạ như trên có giá trị gì khi những điều ông hứa không hề mảy may thực hiện được đã 2000 năm nay.
Sự ngụy tạo ra tín điều "Chúa chọn Phê-rô là người thừa kế" cho chúng ta thấy rõ thủ đoạn của Giáo hội Ca-Tô để tạo quyền lực trên đám tín đồ đầu óc yếu kém, không bao giờ đọc Thánh Kinh. Biết chắc là Giê-su đã bị đóng đinh trên thập giá, chết, và táng xác nên không bao giờ có thể trở lại trần gian được nữa, Giáo hội mới phịa ra chuyện Chúa chọn Phê-rô. Nhưng mục đích của sự ngụy tạo này cũng không phải là để vinh danh Phê-rô mà thực ra chỉ dùng Phê-rô làm một bình phong thần học, một bàn đạp để tạo nên thần quyền cho giáo hoàng và giáo hội. Giáo hội bày đặt ra chuyện Chúa chọn Phê-rô để thiết lập giáo lý buộc các tín đồ phải tuyệt đối tin và tuân phục giáo hội thì mới được Chúa cứu rỗi. Theo sự diễn giảng của giáo hội thì Phê-rô là người tuyệt đối tin Chúa nên được Chúa chọn bất kể là Phê-rô ngu đần và hèn nhát. Và vì Phê-rô cũng đã chết rồi, cho nên quyền lực của Chúa nằm trong tay những người kế thừa Phê-rô, một chức vị tự phong của các giáo hoàng. Qua học thuật Ca-tô (Catholic scholarship), các tín đồ Ca Tô đều được nhồi sọ từ khi mới sinh ra đời tín điều hoang đường là "Giáo Hoàng là đại diện của Chúa" (Vicar of Christ), nắm trong tay những chìa khóa mở cửa thiên đường và có quyền tuyệt thông tín đồ, hoặc "giáo hội do Chúa Giê-su thành lập nên không thể sai lầm" v..v... Do đó điều kiện tiên quyết cho các tín đồ muốn được Chúa cứu rỗi là phải tuyệt đối tin vào giáo hoàng, giáo hội. Điều bất hạnh cho nhân loại là ngày nay vẫn có hàng triệu người tin như vậy, không hề quan tâm đến những điều phi lý nằm trong những thủ đoạn thần học này..
(3). Bằng chứng ngụy tạo thứ ba:
Giáo hội dựa vào câu trong Thánh Kinh, Matthew 28: 19, 20, cho là lời của Giê-su dạy các môn đồ: “Hãy đi đến mọi quốc gia để làm cho họ thành tín đồ của ta, làm lễ rửa tội họ nhân danh Cha, Con và Thánh Thần, dạy cho họ biết phải vâng giữ mọi điều răn ta dạy các ngươi; và ta sẽ ở với các ngươi cho đến ngày tận cùng của thời đại” (Go therefore and make disciples of all the nations, baptizing them in the name of the Father and of the Son and of the Holy Spirit, teaching them to observe all things that I have commanded you; and lo, I am with you always, even to the end of the age.) để viện cớ thi hành sách lược truyền đạo bằng bạo lực và cưỡng bách trên khắp thế giới.
Trước hết, chúng ta nên biết rằng câu trong Thánh Kinh trên không phải là câu Giê-su nói khi còn sống mà là khi đã chết rồi, và theo lý luận của nền Thần học Ca-Tô, đã sống lại sau ba ngày ba đêm (nhưng thực ra chỉ có hơn một ngày và 2 đêm : từ 3 giờ chiều thứ Sáu đến sáng sớm Chủ Nhật), và hiện ra trước các tông đồ, ra lệnh cho họ đi khắp thế giới truyền đạo, nếu chúng ta có thể tin được chuyện “sống lại” đầy tính cách hoang đường này. Ngày nay, ngoài đám tín đồ thấp kém, không còn ai, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội, tin vào chuyện “sống lại” của một xác chết. Các nhà Thần học đã tìm cách giải thích khác đi sự “sống lại” (resurrection) của Giê-su và gọi đó là sự sống lại của tinh thần (spiritual resurrection).
Thứ đến, tất cả các chuyên gia nghiên cứu Thánh Kinh ngày nay đã cho rằng câu mà giáo hội đặt vào miệng Giê-su sau khi ông ta đã nằm yên dưới mồ là do chính giáo hội thêm thắt vào Thánh Kinh sau này để thực hiện âm mưu bành trướng đạo với mục đích chính yếu là tạo quyền lực trên đám dân ngu dốt và vơ vét của cải thế gian. Chúng ta chỉ cần nhìn vào tâm cảnh nô lệ Vatican của các tín đồ và tài sản của giáo hội trên khắp thế giới là thấy ngay nhận định như trên của các học giả không phải là vô căn cứ.
Ngoài ra, trong phần phân tích bằng chứng ngụy tạo thứ hai ở trên, chúng ta đã thấy rõ, Thánh Kinh viết rằng Giê-su tin rằng ngày tận thế sắp tới, sẽ xảy ra ngay trong thời đại của ông, vậy bảo các tông đồ đi truyền đạo trên thế giới để làm gì?
Sau cùng, ngay trong Thánh Kinh cũng có nhiều điều trái ngược hẳn với tinh thần của câu ngụy tạo trên. Chứng minh?
Thứ nhất, tín đồ Ki Tô Giáo nói chung tin rằng Thánh Kinh là những lời mạc khải không thể sai lầm của Chúa, Chúa Cha cũng như Chúa Con. Thánh Kinh viết rằng trái đất phẳng và dẹt, đứng yên một chỗ, ở trên có một vòm trời bằng đồng thau v..v.. Vậy, ngay cả Chúa Cha cũng không biết là quả đất tròn và cho đến thế kỷ thứ 4, Thánh Augustine, bậc Thánh của Ca-Tô Giáo được coi là ông tổ của nền Thần học Đức Tin Ca-Tô, có trí tuệ siêu việt v..v.. cũng còn không quan niệm nổi một trái đất có hình cầu qua lời phát biểu: “Không thể nào có chuyện có người ở phía bên kia của trái đất, vì Thánh Kinh không ghi lại bất cứ một giống người nào như vậy trong các hậu duệ của Adam” (It is impossible there should be inhabitants on the opposite side of the earth, since no such race is recorded by Scripture among the descendants of Adam). Vậy, trước đó gần 400 năm, Chúa Con (Giê-su) bảo các tông đồ đi đến “mọi quốc gia” thì đó là những quốc gia nào? Hiển nhiên đó không phải là những quốc gia ở phía bên kia của một trái đất hình cầu, mà chỉ là những quốc gia giới hạn trong tầm nhìn của Giê-su, nghĩa là không ra ngoài những quốc gia trong miền Trung Đông. Điều này thật là rõ ràng khi chúng ta đọc nhận định sau đây của giáo sư thần học Uta Ranke-Heinemann:
Giê-su không hề có ý định thành lập một “giáo hội”, nhất lại là một “giáo hội phổ quát”. Thí dụ chân thực về quan điểm của Giê-su, chúng ta hãy xét đoạn văn trong Thánh Kinh, Matthew 10: 5-6, nội dung đối ngược hẳn với nhiệm vụ truyền giáo trên thế giới: “Mười hai tông đồ Giê-su phái đi để truyền đạo với lời dặn dò: “Không được đi đến nơi nào có dân Gentiles, và không được vào thành phố nào của dân Samaritan, mà chỉ đi đến những con dân Do Thái bị lạc” (nghĩa là chỉ đi rao truyền đạo Chúa trong dân Do Thái mà thôi. Và câu tiếp theo trong Thánh Kinh, Matthew 10:7 là “Trong khi đi hãy rao truyền tin Nước Trời đã gần đến rồi”. TCN). Hai đoạn khác là trong Matthew 15:24: “Ta được phái xuống trần chỉ để cứu đàn chiên Do Thái bị lạc mà thôi”, và 10: 23: “Ta bảo đảm với các ngươi, các ngươi chưa đi hết các thành phố của Do Thái thì Con của Người (nghĩa là Ta: Giê-su) đã đến rồi”.
Chính Giê-su - và ngày nay mọi nhà thần học đều biết vậy – tin rằng Nước Chúa sắp tới. Điều này đối ngược với nhiệm vụ truyền bá đạo một cách đại qui mô trên thế giới. 25
Cũng vì những bằng chứng không thể chối cãi được ở ngay trong Thánh Kinh mà khi được hỏi rằng: “Giê-su có ý định thành lập một tôn giáo mới, tôn giáo mà ngày nay chúng ta gọi là Ki Tô Giáo, hay ít nhất là tạo ra một giáo hội Ki Tô tách biệt (ra khỏi Do Thái giáo. TCN) không?” (Did Jesus intend to found a new religion, the one we now call Christianity, or at least create a separate Christian church?), linh mục John Dominic Crossan đã trả lời: “Câu trả lời cho câu hỏi đó là một chữ “Không”quyết định” (The answer to that is an emphatic NO).
Có lẽ chúng ta cũng nên xét qua đến tác dụng của sách lược ngụy tạo này trên nhân loại. Giáo hội ngụy tạo những văn kiện trên để dựa vào đó mà đi truyền đạo trên thế giới. Nhưng giáo hội không truyền đạo bằng phương pháp hòa bình mà bằng chiến tranh, bạo lực, cưỡng ép cho nên đã gây ra cho nhân loại những thảm cảnh vô tiền khoáng hậu mà không có bất cứ một tôn giáo nào có thể sánh ngang. Bỏ qua chính sách đốt sách vở và những tài liệu ngoại đạo, những cuộc Thánh Chiến đẫm máu, những Tòa Hình Án man rợ, sau đây là vài tài liệu bắt nguồn từ sự ngụy tạo lời Chúa ở trên.
Năm 1452, giáo hoàng Nicholas V ban sắc lệnh Dum Diversas nội dung như sau:
“Bằng vào những văn kiện này, chúng tôi, với quyền hành của các tông đồ, cho các ngươi (Vua Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha) được toàn quyền và tự do xâm lăng, lục xoát, bắt giam, và chinh phục dân Sacarens và dân ngoại đạo, và bất cứ người không tin Chúa hay kẻ thù nào khác của Chúa Ki Tô bất cứ ở nơi nào, cũng như đất nước, địa phận, hạt, công quốc, và mọi tài sản của chúng và bắt chúng làm nô lệ vĩnh viễn.” 26
Sau đó giáo hoàng Calixtus III xác định lại sắc lệnh này năm 1456, giáo hoàng Sixtus IV nhắc lại sắc lệnh năm 1481, năm 1493 giáo hoàng Alexander VI mở rộng địa hạt xâm lăng trên khắp thế giới, từ Phi Châu đến Mỹ Châu, và giáo hoàng Leo X cũng ban lại sắc lệnh này năm 1514 (Context: Pope Calixtus III confirmed this decree in 1456. Sixtus IV renewed it in 1481. Alexander VI extended it from Africa to America in 1493, and Leo X renewed it in 1514.) Chúng ta cũng biết rằng:
Vào cuối thế kỷ 15, năm 1493, giáo hoàng Alexander VI, tự cho Ca-Tô Giáo quyền thống trị hoàn cầu, đã chia thế giới ra làm hai vùng ảnh hưởng: 1) toàn thể Mỹ Châu, trừ Ba-Tây (Brazil), thuộc Tây Ban Nha; 2) còn Bồ Đào Nha thì được Ba-Tây và tất cả những đất đai nào chiếm được ở Á Châu và Phi Châu. Sắc lệnh phân chia vùng ảnh hưởng này quy định rằng, song song với việc chiếm cứ đất đai là bổn phận phải cải đạo các dân địa phương vào Ca-Tô giáo. Do đó, đi cùng với những đoàn quân xâm lăng là những linh mục. Sự có mặt của giới linh mục đã biện minh cho những hành động áp chế dân địa phương cũng như bất cứ thủ đoạn cưỡng ép nào được coi là cần thiết để kéo họ vào đức tin Ca-Tô 27
Từ những sự kiện lịch sử trên, giáo sư Huntington đã viết:
..và trong thế kỷ 16 Tây phương đã đi chinh phục thế giới cho Chúa và để cướp vàng. 28
Không đọc lịch sử hay cố ý xuyên tạc lịch sử nên ông Nguyễn Gia Kiểng trong nhóm Thông Luận đã viết trong cuốn sách có cái tên quái gở Tổ Quốc Ăn Năn, trang 190, là “Không làm gì có chủ ý chính trị của các nước Âu Châu (và Pháp nói riêng) để chiếm đóng các nước Châu Á.”, việc xâm chiếm chỉ do các công ty thương mại chủ trương, để chạy tội cho “mẫu quốc Pháp” và vai trò “truyền giáo cho Chúa và cho vàng” của các thừa sai Ca-Tô. Nếu ông Kiểng đã đi đến Lisbon ở Bồ Đào Nha thì sẽ thấy trên mặt đất, gần đài kỷ niệm Henri The Navigator, người dẫn đầu đoàn con buôn, linh mục, binh lính đi xâm chiếm các nước khác, có vẽ bản đồ thế giới và ghi những nơi mà Bồ Đào Nha đã xâm chiếm làm thuộc địa. Trong cuốn sách trên ông Kiểng cũng còn theo đúng sách lược Ca-Tô, đả phá tất cả những giá trị truyền thống và nhiều danh nhân lịch sử Việt Nam, tôn xưng nền văn hóa Tây phương là cao nhất, phản ánh rõ tâm cảnh của một trí thức Ca-Tô mê muội, nô lệ, cuồng tín, vọng ngoại v..v.. với một kiến thức rất hời hợt về bản chất và lịch sử các nền văn minh trên thế giới nói chung, lịch sử Việt Nam nói riêng.
Cho tới đây, chúng ta thấy rằng mọi quyền lực của giáo hội Ca-Tô đều được xây dựng trên một nền tảng ngụy tạo gian dối, từ sự ngụy tạo Bản Văn Hiến Dâng của Constantine cho đến thuyết Giê-su thành lập giáo hội, trao quyền cho Phê-rô, và đến huấn lệnh của Giê-su “nói sau khi chết” là phải đi khắp thế giới để truyền đạo v..v... Ngoài ra, giáo hội còn đặt ra những tín điều như “Giáo hoàng không thể sai lầm” và những “bí tích” để nắm giữ đầu óc tín đồ (xin đọc cuốn Đức Tin Công Giáo của Trần Chung Ngọc, Giao Điểm xuất bản, 2000). Nhưng đây không phải là những điều tôi muốn bàn tới. Trong cuốn sách này, tôi muốn tìm giải đáp cho câu hỏi then chốt: Chúa Giê-su Là Ai?
Câu trả lời có tính cách quyết định là: xuyên qua những công cuộc khảo cứu về nhân vật Giê-su của nhiều chuyên gia, học giả lương thiện ở trong cũng như ở ngoài giáo hội trong vài thế kỷ nay thì “nhân vật Giê-su lịch sử tuyệt đối không phải là Giê-su của nền Thần học Ki Tô Giáo, đồng nghĩa với Chúa Ki-Tô của đức tin (Christ of Faith)”. Trong phần mở đầu cuốn Jesus, A. N. Wilson viết như sau:
Giê-su của lịch sử và Chúa Ki-Tô của đức tin là hai nhân vật khác biệt với những câu chuyện rất khác nhau. Thật là khó mà có thể tái tạo nhân vật Giê-su lịch sử, và trong toan tính này, chúng ta chắc chắn là làm hại đến Giê-su của đức tin một cách không thể hàn gắn được. 29
Vậy Giê-su của nền Thần học Ki Tô Giáo là Giê-su như thế nào? Đó là Giê-su “là con một của Thiên Chúa”, “sinh ra từ một trinh nữ ở trong một chuồng súc vật ở Bethlehem để cứu nhân loại ra khỏi tội lỗi”, “làm nhiều phép lạ”, “tình nguyện hi sinh chịu chết trên giá gỗ hình chữ thập để chuộc tội cho nhân loại”, “là đấng cứu thế của cả nhân loại”, “chết đi rồi lại sống lại, xác bay lên trời ngồi bên phải của Thiên Chúa”, “trở lại trần trong ngày tận thế để phán xét mọi người, làm cho xác chết những kẻ tin Giê-su sống lại đoàn tụ với linh hồn trên thiên đường và đầy những người không tin xuống hỏa ngục vĩnh viễn” v..v.. Đó là những niềm tin chính mà nền thần học Ki Tô Giáo đã thành công cấy vào đầu óc của tuyệt đại đa số tín đồ thấp kém. Tuy nhiên, chúng ta nên biết rằng, những niềm tin này ngày nay đã không còn chỗ đứng trong giới hiểu biết. Tất cả những thuộc tính thần thánh, siêu nhiên mà giáo hội Ca-Tô gán cho Giê-su ngày nay đã hoàn toàn bị bác bỏ trước những sự kiện khoa học và qua những công cuộc nghiên cứu rất công phu của một số đông học giả ở trong cũng như ở ngoài giáo hội trong suốt hai thế kỷ nay. Tuy nhiên, như Russell Shorto đã viết ở trên, sự thực này các giới lãnh đạo Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-Ma nói riêng, đã biết, nhưng vẫn dấu kín không cho đám tín đồ thấp kém ở dưới biết, sợ gây nên một xúc động không thể vãn hồi, và nhất là, để duy trì quyền lực trên đám đông, do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ bình thường. Thật là tội nghiệp cho họ, phải sống trong một sự lừa dối hào nhoáng mà không biết rằng mình bị lừa dối.
Còn Giê-su lịch sử (historical Jesus) thì như thế nào? Có thể nói, không có nhân vật nào trong lịch sử nhân loại được nghiên cứu, phân tích, mổ xẻ v..v.. kỹ như là Giê-su. Không có một khía cạnh nào của Giê-su mà không được để ý tới trong những công cuộc nghiên cứu của hàng trăm học giả, tất cả đều là những người có uy tín trong lãnh vực khảo cứu tôn giáo. Hiển nhiên là không ai có thể trình bày đầy đủ những kết quả khảo cứu về nhân vật Giê-su trong suốt mấy thế kỷ nay, trong một chương của một cuốn sách. Do đó tôi chỉ có thể tóm tắt vài kết quả nghiên cứu điển hình mà ngày nay tuyệt đại đa số những nhà nghiên cứu đều đồng ý.
Trước hết là kết luận của Douglas Lockhart trong cuốn Cái Mặt Đen Tối Của Thiên Chúa:
Trong chương 14 chúng tôi đã cứu xét khía cạnh nhân bản của Giê-su và kết luận rằng ông ta cũng là một người như mọi người khác. Ông ta cũng không thoát ra khỏi những tình cảm như giận dữ, đau đớn, khát, mệt mỏi, buồn rầu, sợ hãi và sự chết. Ông ta cũng phạm phải những lỗi lầm; điều này có nghĩa là kiến thức của ông ta cũng là kiến thức của con người, hệ thống tín ngưỡng của ông phản ánh nền văn hóa và thời đại khi ông sinh ra. Ông ta không có một kiến thức nào về vật lý hiện đại. Ông ta không biết đến những siêu vi trùng (virus) hay vi trùng hay thuốc sát trùng, không biết gì về động cơ nổ, và không thể dạy con người là Hỏa Tinh di chuyển trên một quỹ đạo hình ellip. Xét toàn thể, đây là một sự hạ giá tất cả những gì mà người ta thường nói về ông (nghĩa là tư cách thần thánh của Giê-su. TCN). Nhưng không phải là một sự bác bỏ. Không dễ gì bác bỏ cái con người quá đặc biệt này mà ý thức độc nhất về Thiên Chúa đã tách riêng ông ta ra khỏi đám người sùng tín cùng thời. Thật vậy, ông ta thật là đặc biệt, và chắc chắn là duy nhất, nhưng không đến độ mà chúng ta phải tưởng tượng quá mức đến độ như toàn hảo hay toàn trí mà các tư tưởng gia Ca-Tô đề xuất về sau.” 30
Tiến sĩ Hugh J. Schonfield, một học giả chuyên về khảo cứu Thánh Kinh (Biblical scholar) đã nghiên cứu về nhân vật Giê-su trong 40 năm và cho ra đời, ngoài những tác phẩm nổi tiếng khác, hai cuốn sách bán chạy nhất: cuốn The Passover Plot trong đó tác giả trình bày những chi tiết rút từ Thánh Kinh và từ những Cuộn Kinh Nơi Biển Chết (Dead Sea Scrolls) mới tìm thấy và chứng minh rằng Giê-su đã tự mình xếp đặt những chuyện như : bị bắt, bị đóng đinh trên thập giá, rồi sống lại v..v.. để phù hợp với điều tiên tri về đấng cứu thế trong Cựu Ước; và cuốn Those Incredible Christians trong đó tác giả tái tạo lịch sử 150 đầu tiên của Ki Tô Giáo và giải thích tại sao một phong trào bắt nguồn từ quan niệm về một Cứu Tinh của dân tộc Do Thái, tranh đấu để tồn tại trong dân gian, đã biến thành một tôn giáo không bao giờ có trong ý định của Giê-su và trái ngược với chính những điều giảng dạy của Giê su, trong tôn giáo này Giê-su được thờ phụng như một Thiên Chúa. Tác giả viết, Those Incredible Christians, trang xi:
Trong cuốn Âm Mưu Trong Ngày Lễ Vượt Qua (The Passover Plot), sau khi nghiên cứu kỹ và lâu dài tôi đã bác bỏ bức tranh mô tả truyền thống về Giê-su và chứng tỏ rằng ông ta là một người Do Thái, ở một tình trạng tâm lý trong lịch sử Do Thái, đã can đảm, kiên trì, và với sự nhận thức sâu xa, hành động với sự tin tưởng rằng ông ta là đấng cứu thế mà dân tộc đau khổ của ông đang chờ đợi. Tôi đã chứng tỏ rằng ông ta là một người có một đức tin, nhưng chỉ là một người thường, một người đã dùng sự thông minh tự nhiên của mình để mang lại những kết quả của những điều tiên tri mà trong thời đại của ông, ông ta tin rằng chúng phải được hoàn thành. 31
Nhận định của Tiến sĩ Schonfield như trên rất phù hợp với những kết quả nghiên cứu về khía cạnh tâm thần của Giê-su. Thật vậy, ngày nay, qua các công cuộc nghiên cứu Thánh Kinh để tìm ra con người thực của Giê-su, đa số học giả đã cho rằng nhiều chuyện trong Thánh Kinh là những chuyện hoang đường, và đối với một số học giả trong ngành phân tâm học thì những điều Giê-su tự nhận như: “con duy nhất của Thiên Chúa”, “có khả năng chuộc tội cho nhân loại”, “đấng cứu thế”, “sẽ trở lại trần phán xét thiên hạ trong tương lai gần thời Giê-su” v..v.. đều là những ảo tưởng của một người bị bệnh tâm thần, mắc bệnh chứng hoang tưởng (paranoia). Bệnh chứng này bắt nguồn từ một nguồn gốc lý lịch không mấy tốt đẹp của Giê-su, một tâm cảnh cuồng tín tôn giáo của Giê-su khi ông đọc và tuyệt đối tin những điều trong Cựu Ước, sinh ra nhiều ảo giác và tự cho mình những quyền năng thần thánh, vai trò cứu thế, rửa sạch tội lỗi nhân loại v..v.. Đó là kết luận của những nhà phân tâm học như các bác sĩ George de Loosten, William Hirsch, Binet-Sanglé, tiến sĩ Emil Rasmussen v..v.. Công cuộc nghiên cứu về vấn đề tâm thần của Giê-su các các khảo cứu gia như trên thường là dài và đi vào nhiều chi tiết để chứng minh. Hiển nhiên là tôi không thể nào trình bày đầy đủ những kết quả nghiên cứu sâu rộng của họ. Cho nên sau đây tôi chỉ tóm tắt những điểm chính.
Trong cuốn Sự Nghiên Cứu Về Tâm Thần Của Giê-su bác sĩ Albert Schweitzer viết:
Trong thập niên qua sự nghiên cứu lịch sử càng ngày càng nhận thức ra rằng niềm tin chắc về sự trở lại trần (second coming) của một đấng cứu tinh (của dân tộc Do Thái. TCN) là trọng điểm trong ý nghĩ của Giê-su. Tư tưởng này ngự trị cảm tính, ý chí và hành động của ông ta chặt chẽ hơn là là chúng ta trước đây thường tưởng...Giê-su tự coi như là đấng cứu tinh và tin chắc rằng ông ta sẽ trở lại trần trong sự huy hoàng từ những đám mây trên trời. 32
Công cuộc nghiên cứu của bác sĩ George De Loosten cũng đưa tới những kết quả tương tự chính như sau:
Giê-su hiển nhiên là một đứa con lai giống (hybrid: có nghĩa là mẹ Giê-su, bà Maria, là người Do Thái nhưng bố Giê-su không phải là người Do Thái), nhơ nhuốc do di truyền (tainted from birth by heredity), ý thức bản thân quá lố, do đó ít phát triển ý niệm về gia đình. Ý thức bản thân của ông ta dần dần đi lên đến độ thành một hệ thống hoang tưởng cố định mà những đặc tính của nó được xác định bởi những khuynh hướng tôn giáo mãnh liệt trong thời đại của ông ta và sự bận tâm một chiều của ông ta về những điều viết trong Cựu Ước. Do sự xuất hiện của Gioan Ba-ti-xi-ta (John the Baptist), Giê-su bị thúc đẩy để phát biểu những tư tưởng của mình. Rồi từng bước một, sau cùng ông ta đi đến độ đặt chính mình vào những lời hứa hẹn trong Cựu Ước, những lời này đã trở thành chủ yếu vì sự bất hạnh của quốc gia (Do Thái), và sự hoàn thành một cách vinh quang những hứa hẹn này mà mọi người Do Thái đều trông đợi,
Giê-su tự coi mình như là một đấng siêu nhiên. Chỉ như vậy chúng ta mới hiểu được cách xử sự của Giê-su khi ông ta tự nhận vơ những thần quyền thí dụ như quyền tha mọi tội lỗi. (Matt. 9:2; Mark 2:5-12; Luke 5:20, 7:48) 33
Nghiên cứu kỹ hơn về tâm bệnh của Giê-su, William Hirsch nhận định như sau:
Chúng ta thấy một đứa trẻ với những khả năng tâm linh đặc biệt, tuy nhiên, trong đầu hắn đã có sẵn những nhiễu loạn tinh thần, và dần dà những hoang tưởng được lập thành. Hắn dùng toàn thể những thì giờ nhàn rỗi vào việc nghiền ngẫm Cựu Ước, điều này tất nhiên góp phần vào tâm bệnh của hắn. Khi hắn bắt đầu xuất hiện trước quần chúng lúc 30 tuổi, căn bệnh hoang tưởng của hắn đã hoàn toàn ăn sâu vào đầu óc. Đây hiển nhiên là một trong những trường hợp mà đầu óc đã sẵn có những ý tưởng tâm linh vô hình dạng và mơ hồ, tuy nhiên cần có một kích động từ bên ngoài và một cảm xúc mãnh liệt để có thể tạo thành một cơ cấu hoang tưởng có hệ thống điển hình.
Sự kích động từ bên ngoài này được đem tới cho Giê-su bởi một một người mang bệnh hoang tưởng khác, người này, không ngoài ai khác, chính là Gioan Ba-ti-xi-ta (John the Baptist). Khi đó, những ảo tưởng của Giê-su đã lên tới mức độ hoàn toàn vững chắc, và khi Giê-su nghe tin có một "người mang dấu hiệu sẽ có đấng cứu thế xuất hiện" đang rửa tội cho những kẻ tội lỗi ở trên giòng sông Jordan thì Giê-su vội vã tới nơi để cũng được rửa tội.
Sau khi rửa tội, Giê-su đi vào vùng hoang dại trong 40 ngày. Đối với chúng ta, thời gian 40 ngày này thật là đáng chú ý, vì nó nằm giữa 2 giai đoạn khác hẳn nhau trong cuộc đời của Giê-su. Những ảo tưởng của Giê-su, cho đến lúc này, có tính cách cô lập và không liên hệ mấy tới nhau, đã hợp với nhau thành một cơ cấu những ảo tưởng một cách có hệ thống; chắc hẳn là Giê-su trong thời gian 40 ngày này đã đàm thoại nhiều lần với Chúa Cha, vị Thần đã giao phó nhiệm vụ cho Giê-su giảng dạy giáo lý của ông ta. Sự phát triển tâm bệnh của Giê-su như vậy, một sự chuyển tiếp từ giai đoạn tiềm tàng sang giai đoạn hoạt động của bệnh hoang tưởng, đích thực là đặc tính của loại bệnh tâm thần này.
Trong 3 năm giảng đạo cho quần chúng của Giê su, cái Tâm Lý Bệnh Hoạn về Những Ao Tưởng Hão Huyền về Quyền Lực hay Toàn Năng [tác giả dùng từ Megalomania = A psycho-pathological condition in which fantasies of wealth, power or omnipotence predominate] không ngừng tăng gia một cách khó có thể đo lường được, và đã tạo thành tâm điểm mà mọi hành động của Giê-su đều xoay quanh.
Tất cả những điều Giê-su nói, giáo lý, bài giảng đều đưa tới một đơn từ: "Ta" . (John 6:29, 35, 38, 40, 47-58; 8:12; 11:25ff; 14:6, 13 v..v..) 34
Công cuộc nghiên cứu về nhân vật Giê-su của Binet-Sanglé có thể tóm tắt sơ lược những điểm chính như sau:
Qua những sự việc khác nhau có tính cách gợi ý, qua Gioan Ba-ti-xi-ta ... và qua sự thích thú của những người theo, Giê-su đã bị đưa tới tình trạng tin rằng mình là đấng cứu tinh (của dân tộc Do Thái), là Vua của dân Do Thái, con của Thần Ki Tô, người giải thích ý Thần, nhân chứng của Thần, và sau cùng tự cho mình là Thần. Những sự đe dọa của dân Pharisees và Scribes cũng gây trong ông khái niệm ông chính là vật hy sinh tế Thần để xóa hết tội lỗi của dân Israel, và rằng sau khi sống lại ông ta sẽ lên thiên đường hoàn toàn vinh quang. Binet-Sanglé tìm thấy trong Thánh Kinh 7 trường hợp Giê-su phát sinh ảo giác, 2 ảo giác nhìn thấy Thần, và 5 ảo giác vừa nhìn thấy vừa nghe thấy tiếng Thần nói. 35
Thật ra, căn bệnh hoang tưởng của Giê-su cũng không lấy gì làm lạ. Trên đời không thiếu gì người nhìn đâu cũng thấy Giê-su hay Maria, hoặc nghe tiếng nói của Thiên Chúa. Báo chí Hoa Kỳ đã đưa lên những trường hợp người ta thấy Giê-su hay đức Mẹ Maria trên những đám mây, trên vách ngoài của một vựa chứa ngũ cốc, trên mui một chiếc xe ô-tô, trên vết loang của một bức tường, và trên cả mặt một cái bánh Pancake trong một tiệm ăn v..v... tuy rằng không ai thực sự biết rõ mặt mũi của Giê-su và Maria ra sao. Mỗi khi có tin như vậy, thiên hạ lại đổ xô đến nơi mà người ta cho rằng Giê-su hay đức Mẹ Maria đã hiện ra, quỳ lạy van vái. Người nào đến coi mà tỏ ý nghi ngờ liền bị những tín đồ cuồng tín mạ lỵ hành hung. Đó là tình trạng xảy ra ngay trên đất Mỹ, một đất nước được coi là văn minh tiến bộ nhất. Tình trạng này phản ánh trình độ tôn giáo của những tín đồ Ki-Tô luôn luôn tự cho là mình đang theo một tôn giáo thiên khải, không như các tôn giáo mê tín dị đoan khác.
Tưởng chúng ta cũng nên nhớ, gần đây có những nhân vật như James Jones, David Koresh, cùng mang một bệnh chứng tâm thần hoang tưởng như Giê-su ngày xưa, đều thuộc làu Thánh Kinh và nghĩ rằng mình là hiện thân của Giê-su, mang trên người chức năng cứu thế. Kết quả là những thảm cảnh xảy ra ở Jonestown và Waco làm cho hàng trăm con người ngu muội tin theo bị chết thảm. Ở Phi Luật Tân, mỗi năm đến ngày lễ Phục Sinh đều có người tình nguyện chịu đóng đinh trên thập giá vài tiếng đồng hồ giống như Giê-su ngày xưa, tin rằng làm như vậy để cứu nhân loại, đến nỗi một Tổng Giám Mục địa phương phải than rằng: “Nếu tôi ngăn cản sự mê tín này, họ sẽ ném đá cho tôi chết.”
Theo những kết quả nghiên cứu sâu rộng về Giê-su, nếu Giê-su chỉ là một người như mọi người khác, với những giới hạn của một con người, thì khi đánh giá một nhân vật có tên tuổi trong lịch sử, chúng ta phải xét đến những khía cạnh đạo đức, trí tuệ và ảnh hưởng của nhân vật đó trên nhân loại. Đạo đức và trí tuệ của Giê-su, chúng ta có thể suy ra từ Thánh Kinh. Còn ảnh hưởng trên nhân loại thì chúng ta phải xét đến lịch sử Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô giáo nói riêng. Vì, những gì mà Ki Tô Giáo mang đến cho nhân loại trong hai ngàn năm nay đều là nhân danh Giê-su. Dù Giê-su có muốn hay không, Giê-su cũng không thể từ bỏ trách nhiệm của mình là nguồn cảm hứng cho Ki Tô Giáo. Và, theo như nền thần học Ca-tô thì tất cả những hành động của giáo hội Ca-tô là do Thánh Linh, hay đức Chúa Thánh Thần, một bộ mặt khác của Giê-su, hướng dẫn, chỉ đạo.
Thứ nhất, về vấn đề đạo đức và trí tuệ của Giê-su thì không một người nào trong giới trí thức không biết đến nhận định của Bertrand Russell, một triết gia và khoa học gia nổi tiếng trên thế giới trong thế kỷ 20:
Riêng tôi, tôi thấy trong cả hai lãnh vực trí tuệ và đạo đức, Chúa KiTô không thể đứng ngang hàng với những vĩ nhân khác của lịch sử. Tôi cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni và Socrate đứng cao hơn Ngài trong hai lãnh vực này. 36
Và, không phải chỉ có mình Bertrand Russell nhận định như trên mà giám mục John Shelby Spong cũng đưa ra một nhận định tương tự như sau:
Có những đoạn trong 4 Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả. 37
Và, nhận xét về một vài trong số nhiều hành động của Giê-su được mô tả trong Tân Ước, giám mục Spong đưa ra ý kiến:
Chúng ta có thấy hấp dẫn đối với một Chúa (Giê-su) phải giết cả một bày heo (vào khoảng 2000 con. TCN) để đuổi một con quỷ ra khỏi thân người hay không? Chúng ta có nên khâm phục và kính trọng người mà chúng ta gọi là Chúa đã nguyền rủa một cây sung khi nó không ra trái lúc trái mùa không?..
Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một vị Thần mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng. 38
Tại sao Bertrand Russell, giám mục Spong, và không biết bao nhiêu người khác nữa, lại chê trí tuệ của Giê-su? Vì trong Thánh Kinh có nhiều bằng chứng chứng tỏ như vậy. Sau đây là một thí dụ:
Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ, một tín đồ Ca-Tô trong khoảng 30 năm hồi thiếu thời, viết trong bài nghiên cứu rất đặc sắc "Ít Nhiều Nhận Định về Thiên Chúa Giáo", đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tập I, trang 18:
Ngày nay các học giả đã chứng minh được rằng: Ngũ Kinh (Genesis, Exodus, Numbers, Deuteronomy, Leviticus) là do nhiều môn phái, nhiều người sống trong nhiều thế kỷ khác nhau viết. Những môn phái đó là:
- Phái Yahwistic (viết tắt là J - J là đầu chữ Jehovah),
vì gọi Chúa là Yahweh hay Jehovah, viết vào khoảng thế kỷ IX trước kỷ nguyên.
- Phái Elohistic (viết tắt là E) vì gọi Chúa là Elohim, viết ít lâu sau trường phái trên...
- Phái Deuteronomic (viết tắt là D) viết vào khoảng 622 đời Josiah.
- Phái Priestly (viết tắt là P) viết sau khi dân Do Thái đi lưu đày, tức là sau 500.
Như vậy Moses sống vào khoảng 1250 (TTL), người mà ta vẫn được dạy dỗ là tác giả Ngũ Kinh - ngay Chúa Giêsu cũng tin vậy (John 5:46 - Luke 24:27 - Luke 16:31) - thực ra lại không phải là tác giả, mà tác giả lại là vô số người viết, cách nhau nhiều thế kỷ, bộ Ngũ Kinh như vậy đã được viết ra trong vòng 400 năm.
Cũng vì vậy mà Rubem Alves đã đặt vấn đề trong cuốn Protestantism and Repression:
Ai viết Ngũ Kinh? Câu trả lời của giáo hội Ki Tô lịch sử cho câu hỏi trên là khẳng định: "Moses viết". Nếu Moses không hề viết Ngũ Kinh (theo những kết quả nghiên cứu của các học giả mà Bác Sĩ Nguyễn Văn Thọ đã trình bày ở trên. TCN) thì các tông đồ (Paul và John) đã sai lầm khi họ nói rằng Moses viết. Nếu họ sai lầm trong vấn đề này thì làm sao chúng ta có thể tin họ khi họ nói về những vấn đề như thiên đường và đời sau? Nếu Moses không viết Ngũ Kinh thì Giê-su đã nói láo hay sai lầm khi ông ta nói rằng Moses viết. (John 5:46 - Luke 24:27 - Luke 16:31). Nếu Giê-su thực sự không biết ai viết, tuy rằng ông ta nói rằng ông ta biết, làm sao chúng ta có thể tin ông ta được khi ông ta nói những chuyện trên trời? 39
Vài tài liệu trên cũng đủ để chứng minh rằng trí tuệ của Giê-su cũng không có gì đặc biệt, khác thường, không thể so sánh với trí tuệ của các học giả ngày nay, những người khám phá ra rằng Ngũ Kinh không phải do Moses viết, và lẽ dĩ nhiên không thể là trí tuệ của một vị Thần toàn trí, nghĩa là cái gì cũng biết, kể cả quá khứ vị lai.
Nhưng vấn đề không phải là trí tuệ của Giê-su kém cỏi, mà nhận xét phân tích Thánh Kinh
-- Tạm kết Giêsu là ai?
Để kết luận chương này, phần trích dẫn sau đây từ một bài dài có tính cách tổng hợp của Robert G. Ingersoll có thể dùng để giải đáp cho những câu hỏi như Giê-su là ai, là người như thế nào, và ảnh hưởng của ông ta đối với nhân loại ra sao:
Ki Tô Giáo không thể sống hòa bình với bất cứ tín ngưỡng nào khác. Nếu tôn giáo này đúng thì chỉ có một đấng cứu thế, một cuốn sách do Thiên Chúa Ki-Tô (Christian god) truyền cảm, và chỉ là một con đường cỏ nhỏ hẹp dẫn tới thiên đường.
Tại sao Giê-su không trở lại đền thờ để chấm dứt những cuộc tranh luận cũ kỹ? Tại sao Giê-su không đối diện với những người lính La Mã đã nhận tiền để thề rằng xác ông ta đã bị các đồng bạn đánh cắp? Tại sao ông ta không chiến thắng đi vào thành Jerusalem lần thứ hai? Tại sao ông ta không nói trước quần chúng: "Đây là những vết thương ở chân, tay, và cạnh sườn ta. Ta là người các ngươi muốn giết, nhưng thần chết chỉ là nô lệ của ta."? Thật là đơn giản, sự sống lại của Giê-su chỉ là một huyền thoại. Tôi không tin và không thể nào tin cái phép lạ về sự sống lại.
Chúng ta không biết gì chắc chắn về Giê-su. Chúng ta không biết gì về thời ông ta còn là đứa con nít, thời niên thiếu của ông ta, và chúng ta cũng không chắc là một người như vậy đã hiện hữu.
Rất có thể có một người như vậy tên là Giê-su. Ông ta đã có thể sống ở Jerusalem. Ông ta có thể đã bị đóng đinh trên giá gỗ hình chữ thập, nhưng những điều như ông ta là con của Thiên Chúa, chết rồi sống lại và thân thể bay lên thiên đường thì, trong bản chất của mọi vật, chưa bao giờ và không bao giờ có thể chứng minh được.
Trong nhiều thế kỷ, cái tên nhà quê đặc ở Palestine này (Giê-su) đã được người ta thờ phụng như là Thiên Chúa. Hàng triệu người đã hiến thân để phục vụ hắn. Của cải thế gian được đổ vào những đền thờ hắn. Tên hắn đã mang sự an ủi đến cho những kẻ bệnh hoạn và sắp chết. Tên hắn đã mang sự can đảm đến cho những kẻ cuồng tín chết vì đạo.. Những kẻ sống ngoài lề xã hội, bị xã hội ruồng bỏ, thất bại, cảm thấy rằng hắn biết đến và thương hại những sự đau khổ của họ.
Đúng là có tất cả những điều trên, và nếu đó là tất cả thì đẹp đẽ biết bao, cảm động biết bao, và vinh quang biết bao. Nhưng đó không phải là tất cả. Nó còn một mặt khác.
Nhân danh hắn hàng triệu nam nữ đã bị tù đầy, tra tấn và giết hại, hàng triệu người đã bị làm nô lệ. Nhân danh hắn những tư tưởng gia, khảo cứu gia, bị coi như là những kẻ tội phạm, và những tín đồ theo hắn đã làm đổ máu của những người thông thái nhất, giỏi nhất.
Nhân danh hắn sự tiến bộ của nhiều quốc gia bị chặn đứng cả ngàn năm. Trong Kinh hắn giảng chúng ta thấy cái tín lý về sự đau đớn vĩnh viễn (đọa hỏa ngục. TCN), và những lời của hắn đã gia thêm sự kinh khủng vô tận vào sự chết. Kinh hắn giảng chất đầy thế giới với thù hận và trả thù, coi sự lương thiện trí thức như một tội ác, hạnh phúc trên cõi đời là con đường dẫn xuống địa ngục, tố cáo tình thương yêu như là thấp hèn và như súc vật, thánh hóa sự nhẹ dạ cả tin, tôn vinh sự mù quáng và tiêu diệt tự do của con người. Nhân loại sẽ tốt hơn nhiều nếu cuốn Tân Ước chưa từng được viết ra - Chúa Ki Tô theo quan niệm thần học cũng chưa từng được sinh ra." Nếu những người viết Tân Ước được coi như không phải là do Thiên Chúa gây cho cảm hứng, nếu Giê-su chỉ được coi như là một người thường, nếu những điều tốt đẹp được thu nhận và vứt bỏ đi những điều vô nghĩa, không thể xảy ra, sự trả thù, thì nhân loại sẽ tránh được chiến tranh, những sự tra tấn, máy chém, ngục tối, sự hấp hối và nước mắt, những tội ác và đau khổ trong một ngàn năm.
Trước hết Giê-su là một con người - không gì hơn một con người. Mary là mẹ ông ta. Joseph là cha ông ta. Gia phả của cha ông ta, Joseph, được viết để chứng tỏ rằng thuộc dòng dõi David.
Rồi người ta tuyên bố rằng Giê-su là con của Thượng Đế, rằng mẹ ông ta là một nữ trinh và tiếp tục đồng trinh cho đến khi chết.
Người ta tuyên bố rằng Giê-su sống lại và thân thể bay lên trời.
Phải mất rất nhiều năm những điều vô nghĩa này mới cấy được vào đầu óc con người.
Nếu thực sự ông ta thăng thiên, tại sao ông ta không làm việc này trước công chúng, trước những người đã bạo hành ông? Tại sao cái phép lạ vĩ đại nhất trong các phép lạ này lại phải thực hiện trong bí mật, trong một xó xỉnh?...
Nhưng sau cùng, khi đối diện thần chết, Giê-su mới nhận ra là mình sai lầm và than khóc: "Chúa ơi! Chúa ơi! Sao Ngài lại ruồng bỏ tôi?"
Tại sao chúng ta phải đặt Giê-su lên tột đỉnh của nhân loại? Ông ta có từ ái hơn, dễ tha thứ hơn, hay hi sinh bản thân hơn đức Phật hay không? Ông ta có thông thái hơn, đối diện với cái chết một cách bình tĩnh toàn hảo hơn là Socrates không? Ông ta có kiên nhẫn, nhân từ hơn là Epictetus không? Ông ta có là một triết gia lớn hơn, một tư tưởng gia sâu sắc hơn là Epicurus hay không? Về phương diện nào ông ta đứng trên Zoroaster? Ông ta có hòa ái hơn Lão Tử hay phổ quát hơn Khổng tử không? Những ý tưởng về nhân quyền và bổn phận con người của ông có cao hơn của Zeno không? Ông ta có đưa ra những chân lý cao hơn của Cicero không? Đầu óc ông ta có tinh tế hơn Spinoza không? Đầu óc ông ta có sánh bằng đầu óc của Kepler và Newton không? Trong sự thông minh, trong cách diễn đạt, trong sự sâu rộng của tư tưởng, trong sự phong phú của cách minh họa, trong khả năng so sánh, trong sự hiểu biết về tâm trí, sự đam mê và sợ hãi của con người, ông ta có hơn được Shakespeare không?
Nếu Giê-su thực sự là Thiên Chúa, ông ta phải biết mọi việc trong tương lai. Ông ta phải thấy rõ lịch sử sẽ xảy ra. Ông ta phải biết người ta sẽ diễn giải những lời ông nói như thế nào. Ông ta phải biết những tội ác nào, những sự khủng khiếp nào, những sự ô nhục nào mà người ta sẽ phạm phải nhân danh ông. Ông ta phải biết đến những ngọn lửa bạo hành bốc lên xung quanh chân tay những kẻ bị thiêu sống vì không có cùng niềm tin như những tín đồ Ki Tô Giáo. Ông ta phải biết đến hàng ngàn người, đàn ông cũng như đàn bà, đau đớn mòn mỏi trong ngục tù tối tăm. Ông ta phải biết cái giáo hội của ông ta sẽ phát minh ra những dụng cụ tra tấn; những tín đồ của ông sẽ dùng đến roi vọt và bó củi, xiềng xích và giá căng (banh) người. Ông ta phải thấy chân trời tương lai sáng rực với những ngọn lửa thiêu sống con người trong những cuộc lễ auto da fe. Ông ta phải biết những tín lý, giáo điều sẽ mọc lên như nấm độc trong mọi cuốn sách bổn của giáo hội. Ông ta phải thấy những phe phái Ki Tô ngu đần gây chiến với nhau. Ông ta phải thấy hàng ngàn con người, theo lệnh của các linh mục, xây những nhà tù cho đồng loại. Ông ta phải thấy hàng ngàn máy chém đẫm máu của những người tốt nhất và dũng cảm nhất. Ông ta phải thấy những tín đồ của ông ta sử dụng những dụng cụ tra tấn gây đau đớn cho con người. Ông ta phải biết những diễn giảng về lời ông nói sẽ được viết bằng gươm giáo, và đọc trong ánh sáng của những bó củi thiêu sống người. Ông ta phải biết những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo sẽ được thiết lập theo những lời giảng dạy của ông.
Ông ta phải thấy những sự ngụy tạo và suy diễn lệch lạc mà những kẻ đạo đức giả viết ra và nói cho quần chúng. Ông ta phải thấy những cuộc chiến tranh sẽ được gây ra, và ông ta phải biết là trên những cánh đồng chết chóc đó, những ngục tù tăm tối đó, những giá căng người đó, những cuộc thiêu sống người đó, những cuộc hành quyết đó, trong cả ngàn năm, ngọn cờ của cây thập giá đẫm máu đã tung bay.
Ông ta phải biết người ta sẽ khoác áo thánh thiện và đội vương miện cho sự đạo đức giả - sự độc ác và nhẹ dạ cả tin sẽ ngự trị thế giới; phải biết sự tự do của con người sẽ mai một trên thế giới (dưới quyền lực của giáo hội); phải biết rằng nhân danh ông các giáo hoàng và vua chúa sẽ nô lệ hóa hồn xác con người; phải biết rằng họ sẽ bạo hành và tiêu diệt mọi nhà khảo cứu, nhà tư tưởng và nhà phát minh; phải biết là giáo hội của ông ta sẽ dập tắt ánh sáng thánh thiện của lý trí và giữ thế giới trong tăm tối.
Ông ta phải thấy những người theo ông sẽ chọc mù mắt con người, róc thịt, cắt lưỡi họ, tìm những chỗ nào đau đớn nhất trên thân thể con người để mà hành hạ.
Tuy nhiên ông ta đã chết đi với bờ môi khép kín.
Tại sao ông ta không nói lên, không dạy các tông đồ và xuyên qua họ, dạy thế giới: "Các ngươi không được thiêu sống, tù đầy và tra tấn con người nhân danh ta. Các ngươi không được bạo hành đồng loại.
Tại sao ông ta đi đến cõi chết một cách ngu đần, để lại thế giới cho sự đau khổ và nghi ngờ?
Tôi sẽ nói cho các người biết. Vì Giê-su chỉ là một người thường, ông ta chẳng biết gì đến những điều trên. 40
Qua 40 trích dẫn từ những tài liệu nghiên cứu sâu rộng về nhân vật Giê-su của các học giả, chuyên gia v.. v.. mà hầu hết đang sống trong truyền thống Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo Rô-ma nói riêng, chúng ta đã thấy phần nào chính xác con người thực của Giê-su lịch sử khác với Giê-su mà nền thần học Ki Tô đôn lên như thế nào. Nền thần học Ki Tô đã đưa Giê-su lên địa vị giáo chủ của giáo hội Ca-tô Rô-ma với những thuộc tính thần thánh qua nhiều huyền thoại mà ngày nay đã không còn giá trị. Tuy nhiên, giả thử chúng ta chấp nhận những luận cứ thần học về nhân vật Giê-su với danh nghĩa là giáo chủ lập giáo Ca-Tô Giáo Rô-ma thì có lẽ chúng ta cũng nên biết đến giáo lý của vị giáo chủ này. Vậy thì Giê-su đã giảng dạy những gì, đã giúp cho con người về vấn đề tu tập, đạo đức hay mở mang trí tuệ như thế nào? Đây chính là những chủ đề mà tôi sẽ bàn tới trong chương sau.
Chú Thích - Chương I:
1. Shorto, Russell, Gospel Truth, Riverhead Books, New York, 1997, Front Cover. The Last Supper, the Virgin Birth, the Resurrection: one by one the great beams of Christianity are being tested. Biblical scholars – once the guardians of Christian theology – are now using the tools of archaeology, anthropology, linguistics, computer science, and even particle physics to probe the question “Who was Jesus?” The result is a radical revision of the Gospel story that is both surprisingly vivid and to some people, deeply shocking... Most important, the author tells of the impact the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth.
2. Shorto, Russell, Ibid., p. 14.: ..The work of the Jesus Seminar, and of all contemporary Jesus researchers, in Funk’s view, represents a shift on the part of biblical scholars away from the tyranny of the church and toward cultural honesty. As far as Funk is concerned, scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.
3. Cross, Colin, Who Was Jesus?, Barnes & Nobles Books, New York, 1993, Introduction: Viewed from a distance and considered as a whole, Jesus of Nazareth is a reasonably tangible historical figure. But too close an examination of any individual detail of him causes him to blur...The reason for uncertainty about Jesus is the simplest possible. It is just that there is no record at all, of any kind, about the greater part of his life. He wrote no book. Even what he looked like is unknown. There is not a word of independent proof that he ever even existed. The records that do exist, the gospels, cover only a fraction of Jesus' life and are written from a cultic and ritualistic point of view and not as ordinary history. There are the gravest inconsistencies in the gospel accounts and also many blatant improbabilities.
4. Ernie Bringas, Going By The Book: Past And Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads Pub., Co. VA., 1996, p. 191: The consensus today is that the historical Jesus - the words and actions of Jesus and the real events surrounding his life - cannot be determined with precision. While we know how the author of a Gospel regarded Jesus by what he reported (and how he reported it), it is not always possible to penetrate beyond the Gospel portrayals of Jesus to Jesus himself. We cannot determine with certainty what Gospel statements about his life and career are genuine.
5. Ranke-Heinemann, Uta, Putting Away Childish Things, Harper-Collins., San Francisco, 1995, p. 2: We encounter this truth in the person of Jesus. We know neither when and where he was born, nor when he died: He is a man without a biography. We don’t know how long his public activity as a peacher lasted or where exactly it took place. Strictly speaking, we don’t know a whole lot more than that he was born, that there were people who followed him as his disciples, and that he was executed on the cross – the Roman version of the gallows – and thus came the wretched end... This Jesus lies burried not only in Jerusalem, but also beneath a mountain of kitsch, tall tales, and church phraseology.
6. Harvey, Andrew, Son of Man: The Mystical Path to Christ, Jeremy P. Tarcher / Putnam,New York, 1998, p. 4.: Historical criticism has proved, conclusively, that the Gospels are to be read not as Spirit-inspired, faithful eye-witness accounts of Jesus’ life but as carefully sculpted versions of that life, arranged to suit or promote different spiritual interests, personalities, and factions within the dramatic years of early Christianity. The Gospels are neither directly inspired divine documents nor straight-forward historical records; neither divine revelations directly inspired by God nor eye-witness accounts written by people who had known Jesus and wanted to report clearly what they had experienced with him. Written in the last third of the first century, they express and condense the traditions of different early Cristian communities and were put into their current form slowly over a period of three hundred years.
7. Spong, John Shelby, Born of a Woman: A Bishop Rethinks The Birth of Jesus, Harper, San Francisco, 1992, p. 35. Jesus was interpreted by the early Christians in terms of their assumed and unquestioned concepts of God, modeled after the image of a heavenly king. The focus was on the exalted Jesus seated at the right hand of the heavenly throne. The image reflected the popular mythic understanding of the universe as a kingdom.. But he was “born of a woman”.. His origins were equally as scandalous as his means of death. He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemed to know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition.
8. Spong, John Shelby, Ibid., p. 41. ... Once again the interpretive task went to work. He was not an illegitimate child, God was his father; he was born of the Holy Spitit. He was not a native of Nazareth, he was born in Bethlehem, the city of David. That Bethlehem birth had been foretold by the prophet Micah. He was not a nobody, he was of the royal house of David...
9. Gruber, Elmar R. & Kersten, Holger, The Original Jesus: The Buddhist Sources of Christianity, Element Books, Inc., Rockport, MA, 1995, pp. 3-4.: Hardly any other theme has caused such a stir in the Western world as the person of “Jesus of Nazareth”; hardly any other theme has led to the writing of so many books, or such animated and passionate discussions. And yet the personality of the historical Jesus is veiled in profound darkness. For a millennium and a half there were only accounts depicting Jesus in accordance with official Church theology, written with the objective of strengthening Christians’ faith or inducing other to turn to Christianity... During the nineteenth century the New Testament was subjected to scholarly investigation for the first time. It was the beginning of systematic research into the life of Jesus.. In 1835 David Friedrich Strauss published his influential book The Life of Jesus (Das Leben Jesu). Armed with uncompromisingly critical rational views, he bluntly rejected the historical factuality of the Gospels. For Strauss they were nothing but legends and pious stories about the figure of Jesus, inspired by the Old Testament. Such opposition went further at the mid-nineteenth century. Bruno Bauer completely banned the figure of Jesus from historical research, simply declaring that the central figure in the New Testament was a mythical invention. Jesus and Paul were said to be nothing but literary fictions; and Christianity was seen as having been created by a fanatical group which concocted the faith around those two invented figures out of Jewish, Greek, and Roman religious traditions... Today there are well over 80000 monographs on Jesus, but their impact in terms of illuminating the historical figure is modest in the extreme. Who was Jesus? When he was born? What did he look like? When he was crucified? When how, and where did he died? Finding answers to those questions soon turned out to be an insoluble problem. In the books written during the first two centuries AD there is hardly any mention of Jesus as a real human being. The later sources are almost exclusively theological writings, which take for granted a belief in Jesus Christ as the Messiah and Son of God. So truly impartial written testimony is practically non-existent, and scholarship in thus not in a position, even today, to say in which year Jesus was born... Hardly any attention is paid in the canonical Gospels of Jesus’ childhood and youth, a phase of life of such importance for the formation of a person’s character. Even in the accounts of the brief period of his public impact there is only very sparse biographical information about him. It seems as if he was almost completely unknown to the historians of his time, or at least not worth mentioning. How is it possible that they paid no attention to the amazing miracles and extraordinary events recorded in the Gospels.
10. Martin, Michael, The Case Against Christianity, Temple University Press, Philadelphia, 1991, p. 37: Modern critical methods of biblical scholarship have called into question the historical accuracy of the Bible and, in particular, the New Testament. In the light of this critical approach to the New Testament many theologians have argued that not much is known about Jesus. For example, W. Trilling argues that “not a single date of his life” can be established with certainty and J. Kahl maintains that the only thing that is known about him is that he “existed at a date and place which can be established approximately”. Other scholars argue that the quest for the historical Jesus is hopeless...The most respected contemporary critic of the historicity of Jesus is G. A. Wells... Wells stresses that his skepticism concerning the historicity of Jesus is based in large part on the views of Christian theologians and biblical scholars who admit that the canonical Gospels were written by unknown authors not personally acquainted with Jesus, between 40 and 80 years after Jesus’ supposed lifetime. According to Wells they also admit that there is much in these accounts that is legend and that the Gospel stories are shaped by the writers’ theological motives. Furthermore, the evidence provided by the Gospels is exclusively Christian..
11. Foner, Philip S., Editor, The Life and Major Writings of Thomas Paine: “The Age of Reason”, A Citadel Press Book, New York, 1993, pp. 571-572: The history of Jesus Christ is contained in the four books ascribed to Matthew, Mark, Luke, and John. The first chapter of Matthew begins with giving a genealogy of Jesus Christ; and in the third chapter of Luke there is also given a genealogy of Jesus Christ. Did those two agree, it would not prove the genealogy to be true, because it might, nevertheless, be a fabrication; but as they contradict each other in every particular, it proves falsehood absolutely. If Matthew speaks truth, Luke speaks falsehood, and if Luke speaks truth, Matthew speaks falsehood; and as there is no authority for believing one more than the other, there is no authority for believing either; and if they cannot be believed even in the very first thing they say and set out to prove, they are not entitled to be believed in anything they say afterward...If they cannot be believed in their account of Jesus' genealogy, how are we to believe them when they tell us strange things such as Jesus was the Son of God begotten by a ghost, and that an angel announced this in secret to his mother?..
12. Shorto, Russell, Ibid., pp. 36-41: From the early second century, Jewish writers observing the rapidly spreading Christian religion noted with a sneer that the supposed divinely inspired figure at its center was in fact a bastard. Swirling around the gospel stories, according to some scholars, are whispered cries of “illegitimate”... Technically, even by the traditional rewading, this charge is true, for according to the accepted interpretation, Joseph, Mary’s betrothed, is not the actual father of the child. But a careful reading of Matthew’s account may suggest a more mundane kind of illegitimacy..and that Matthew constructed an elaborate theological architecture to try to transform that nasty reality into a myth he could build a tradition on... One thing about the genealogy that has bothered theologians for centuries is the mention of several women among the men who, in the ancient view, carry the bloodline. Why we are told that “Abraham was the father of Isaac, and Isaac the father of Jacob”, and so on, with no mention of the women involved, but then learn that Judah was the father of Perez and Zerah “by Tamar”, and Salmon the father of Boaz b”by Rahab”, and Boaz the father of Obed “by Ruth”, and that David was the father of Solomon “by the wife od Uriah”..? A solution to the puzzle has been worked up over the two past decades by a group of scholars who realized that all of the women mentioned are associated with scandalous sexual behavior. In other word, Matthew is softening the blow of Jesus’ questionable legitimacy by indicating that in several previous instances it was necessary for the royal bloodline of Israel to be passed on via less-than-ordinary means. Bastardy, it may even be suggested, was a badge of honor...
13. Foner, Philip S., Ibid., p. 539: Could we permit ourselves to suppose that the Almighty would distinguish any nation of people by the name of His Chosen People we must suppose that people to have been an example to all the rest of the world of the purest piety and humanity, and not such a nation of ruffians and cut-throats as the ancient Jews were; a people who, corrupted by the copying after such monsters and impostors as Moses and Aaron, Joshua, Samuel and David, had distinguished themselves above all others on the face of the known earth for barbarity and wiskedness.
14. Lockhart, Douglas, The Dark Side of God, Elements Books, Inc., Boston, MA., 1999, p. 47: With the ability to invent history through the forging of imposing-looking documents complete with papal seals, and with the added ability to instantly insert such fabrications into Canon Law, the Catholic Church systematically recreated its past and ended up believing its own lies.
15. Ellerbe, Helen, The Dark Side of Christian History, Morningstar & Lark, Orlando, FL., 1999, p.17: The Catholic Encyclopedia concedes that “In all departments forgery and interpolation as well as ignorance had wrought mischief on a grand scale.” Despite Church prohibitions against any further research into the origins of the Gospels, scholars have shown that all four canonized Gospels have been doctored and revised. While the Church claimed that truth was static in nature and had been revealed only once, it continually found cause for changing that truth.
16. Lockhart, Douglas, Ibid., p 46: In his book, The Decline of Rome, the historian Joseph Vogt draws our attention to The Donation of Constantine, a document dated 30 March, 315, but actually composed during the papacy of Stephen III (752-7) to convince Pepin, king of the Franks, that he should defend the Church against the Lombards. A forgery through and through, The Donation claimed that Constantine, suffering from leprosy, had had a vision in which Saints Peter and Paul had told him to contact Pope Sylvester. Healed as a result of obeying this heavenly command, Constantine had in gratitude handed over his palace to Pope Sylvester and made the entire Western Empire subservient to the Holy See. The Sacred See of Blessed Peter was to be exalted above the Empire and the Emperor’s throne, and Sylvester made ruler of Antioch, Alexandria, Jerusalem, Constantinople and all the churches of the world...This document was accepted without a quibble until 1440, when Lorenzo Valla, a papal aide, proved beyong all doubt the The Donation was a fraud. Valla’s book was published in 1517..and in spite of all independent scholars agreeing with Valla, the Papacy continued to deny any skulduggery for the next few centuries... King Pepin, however, was very impressed when he read The Donation; for it appeared to prove beyond doubt that the Pope was successor to both Peter and Constantine. All power on earth, indeed; and behind the scenes the power of heaven to back it up. Routing the Lombards, Pepin dutifully handed over the lands mentioned in The Donation, thus making the Holy See all-powerful at a single stroke.
17. Uta Ranke-Heinemann, Ibid., p. 212: One very special lightning bolt from the Spirit was the so –called Donation of Constantine. In it Emperor Constantine (d. 337) showed great generosity toward the Church: “We have transferred our [Lateran] palace and all the provinces, places, and towns belonging to the city of Rome, to Italy, and to the West to the most blessed supreme pontiff, our father Sylvester, the universal pope, and to his – or his successors’ – power and sway.” The date, official seal, and signature authenticated this donation. Constantine, the absolute monarch thus gave to the pope all of Western Roman Empire; and the popes became successors of the Roman Emperors in the West. Constantine himself was content with the East, “because the earthly emperor should not have authority where the head of the Christian religion [the pope] has been appointed by the heavenly emperor [Jesus].” Yet it was all a swindle, a hand-made-homemade inside job, an ecclesiastical forgery. From it, of course, the Church got inestimable advantages in power and possessions, and that for centuries. The forgery had been cooked up in the papal chanceries around the middle of the 8th century; it was not exposed until the 15th century. The detective was a humanist, critic of the papacy, and high official of the Roman Curia, Lorenzo Valla (chết năm 1457). But his work exposing the fraud wasn’t published until 1517 by Ulrich von Hutten at the beginning of the Reformation. The Catholic side did not admit the whole deception until much later. The Lexikon fur Theologie und Kirche writes, “since the middle of the 19th century..the contents of the Donation of Constantine have been considered a forgery from the Catholic standpoint” ([1961] VI, 484).
18. Lockhart, Douglas, Ibid., p. 47: By 1187 the forging of documents had become a profitable business, with a whole school of forgers toiling to produce ratification of Gregory III’s ambititions; there were even a policy of making old documents say the reverse of what they actually said. Amusingly, de Rosa points out that some these earlier documents were forgeries in their own right, and states that this school of forgers “...treated all papers, forged or genuine, with a completely impartial dishonesty”. De Rosa is rightfully merciless when dealing with this extraordinary situation, and reveals that during the mid-twelfth century, the Decretum, or Code of Canon Laws, was “..peppered with three centuries of forgeries and the conclusions drawn from them”. One such conclusion was that the pope was superior to, and the “source” of, all laws without qualification; a fact noted by de Rosa as suggesting that he was by definition equal to the Son of God. Here then was the Church we had to have, the institution created by God through Constantine to shed light on a darkened world.
19. Graham, Lloyd, Deceptions & Myths of the Bible, The Citadel Press Book, New York, 1995, p. 454: ...He (Constantine) killed with his own hands two of hid brothers-in-law, had his wife, his son Crispus and two nephews murdered, bled to death his political rivals, threw the unbelieving into a well, and caused uncounted thousands to die on the battle field.
20. Graham, Lloyd, Ibid., p. 454: For nearly 2000 years Christianity has been trying to save us instead of civilizing us and it has ended in a century of savagery, an era in which 250 million Christians died in Christian wars... Such is Christianity, a religion based on a fraud, founded by “fools” and confirmed by an assassin – Constantine the Great.
21. Graham, Lloyd, Ibid., p.: 438: Thus the Catholic Church is founded on Peter whom, four verses later, Jesus openly calls Satan. Thus if the Catholic Church is founded on Peter, it is founded on Satan – a fact we have long expected. Peter’s story is the veriest nonsense – one mortal man endowed with the power over all humanity for all eternity. In things religious, Catholics are indeed credulous but can they be so credulous as to believe that pre-Christian sages like Pythagoras, Plato, Socrates...require this ignorant Jewish fisherman to bind and loose theirs souls? No, and neither are we.
22. Daleiden, Joseph, The Final Superstition: A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy, Prometheus Books, New York, 1994, p. 83: It is not surprising, therefore, to learn that many biblical scholars believe the evidence indicates that this reference to Peter, like many other New Testament passages, was inserted at a later date.
23. Kung, Hans, Christ Sein (1976), p.338-339: The historical Jesus.. counted on the world’s coming to an end in his own lifetime. And for this coming of God’s kingdom he doubtless did not want to found a special community distinct from Israel, with its own creed, its own cult, its own constitution, its own office...All this means that in his own lifetime Jesus never found any church. He had no idea of founding and organizing a large-scale religious operation that would have to be created...
24. Uta Ranke-Heinemann, Ibid., p. 217: The Church has turned Jesus into its propagandist. For this reason we take everything that presupposes or dicusses or promotes the existence of a Church as interpolation by the authors of the Gospels into Jesus’ original sayings. That includes Jesus’ hailing Peter as the rock on which he will build his church (Matt. 16:18), since Jesus never meant to found a church... It’s not Jesus who’s speaking here; it’s the early church, which was interested in having such a leadership position and authority figure because of its growing hierarchical structure. In the inauthentic chapter 21 of John – that is, in a later addition to the actual gospel – the idea of a deputy is already clearly developed. Peter becomes the shepherd of the flock of Christ. He takes over the functions of Jesus, the former and actual shepherd, as his representative. Shortly afterward, the Church began to think that the important thing was not the person of Peter. The Church decided that the office Peter held was the bedrock foundation of the Church, and that Jesus established it permanently. With this concept we have the popes as Peter’s successors and Christ’s deputies, and the papacy as the foundation of the Church.
25. Uta Ranke-Heinemann, Ibid., p. 215: Jesus has no intention of founding a “church” and certainly not a “church universal.” For an authentic example of Jesus’ view, consider Matt 10:5-6, which expresses the exact opposite of a universal commission: “These twelve Jesus sent out, charging them, “Go nowhere among the Gentiles, and enter no town of the Samaritans, but go rather to the lost sheep of the house of Israel.” Two further authentic passages are Matt 15:24, “I was sent only to the lost sheep of the house of Israel,” and Matt. 10:23, “You will not have gone through all the towns of Israel, before the Son of Man comes.” ...Jesus himself – and all theologians have by now acknowleged this – believed that the Kingdom of God would be coming soon. But that is the opposite of a world mission in the grand style.
26. Maureen Fiedler and Linda Rabben, Rome Has Spoken, p. 82: Nicholas V, Dum Diversas, 1452/54: We grant to you (Kings of Spain and Portugal) by these present documents, with our Apostolic Authority, full and free permission to invade, search out, capture, and subjugate the Sacarens and pagans and any other unbelievers and enemies of Christ wherever they may be, as well as their kingdoms, duchies, counties, principalities, and other property..and to reduce their persons into perpetual slavery.
27. Pettifer, Julian & Bradley, Richard, Missionaries, BBC Books, London, 1990, p. 132-133: By the end of the 15th century, (1493), Pope Alexander VI created two spheres of influence; he determined that the whole of the Americas with the exception of Brazil, should belong to Spain, while Portugal would take Brazil and whatever could be seized in Asia and Africa. It was decreed that along with territorial gains whould go the duty to incorporate any native peoples into the Catholic Church..With the invading armies came priests and friars whose presence justified the subjugation of the people and the use of whatever coercion was judged necessary to bring them to the faith.
28. Huntington, Samuel P., The Clash of Civilizations and the Remaking of World Order, Simon & Schuster, New York, 1996, p. 70: ..and it was for God as well as for gold that Westerners went out to
conquer the world in the sixteenth century.
29. Wilson, A.N., Jesus, W.W. Norton & Company, New York, 1992, p. vii: The Jesus of history and the Christ of faith are two separate beings, with very different stories. It is difficult enough to reconstruct the first, and in the attempt we are likely to do irreparable harm to the second..
30. Lockhart, Douglas, The Dark Side of God, p.275: In Chapter 14 we considered the humanity of Jesus and concluded that he had been a man like any other. He was subject to anger, pain, thirst, weariness, sadness, fear and death. And he was capable of making mistakes; which is to say that his knowledge was human knowledge, his belief system a reflection of the culture and time into which he was born. He had no knowledge of modern physics. He was not aware of virus or germs or the possibility of antiseptics, knew nothing of the combustion engine, and could not have told you that Mars followed an elliptic orbit. All in all, a diminution of what has been said about him by others. But not a dismissal. Not easily dismissed, this highly unusual man whose unique sense of God separated him from his religious peers. He was unusual, yes, unique certainly, but not by any stretch of the imagination either perfect or all-knowing in the sense eventually suggested by Catholic thinkers.
31. Schonfield, Hugh J., Those Incredible Christians, p. xi: In The Passover Plot, I rejected after protracted and thorough research the traditional portrayal of Jesus and revealed him as a Jew, who at a psychological moment in Jewish history courageously, steadfastly and with deep insight acted on the conviction that he was the Messiah his afflicted people were awaiting. I showed him to have been a man of faith, but no more than man, who employed his natural intelligence to bring to fruition the predictions which in the manner of his time he believed must be accomplished.
32. Schweitzer, Albert, The Psychiatric Study of Jesus, p. 35: In the last decade historical research has more and more clearly perceived that the expectation of the second coming of the Messiah is at the center of Jesus' thought, and that it dominates his feeling, his will and his action far more rigorously than we had previously supposed... Jesus considered himself to be the Messiah and expected his majestic return on the clouds of heaven.
33. Schweitzer, Albert, Ibid., p. 37: Jesus is evidently a hybrid, tainted from birth by heredity, who even in his early youth as a born degenerate attracted attention by an extremely exaggerated self-consciousness combined with high intelligence and a very slightly developed sense of family and sex. His self-consciousness slowly unfolded until it rose to a fixed delusional system, the pecularities of which were determined by the intensive religious tendencies of the time and his one-sided preoccupation with the writings of the Old Testament. Jesus was moved to express his ideas by the appearance of John the Baptist. Proceeding step by step Jesus finally arrived at the point of relating to himself all the Scriptural promises, which had become vital again through national misfortune, and for whose ultimate glorious fuldilment all hearts hoped. Jesus regards himself as a completely supernatural being. For only so and not otherwise can man understand his behavior when he arrogated to himself divine rights like the forgiveness of sins. (Matt. 9:2; Mark 2:5-12; Luke 5:20, 7:48)
34. Schweitzer, Albert, Ibid., p.40: We find a boy with unusual mental talents who is, nevertheless, predisposed to psychic disturbances, and within whom delusions gradually form. He spent his whole leisure in the study of the Holy Scriptures, the reading of which certainly contributed to his mental illness. When at the age of thirty he first made a public appearance, his paranoia was completely established. It is apparently one of those cases, where formless and indistinct psychotic ideas are, indeed, present, but where, nonetheless, they need an external shock and a strong emotion, in order to form a typical systematic structure of paranoia. This shock was provided for Jesus by another paranoid, no other than John the Baptist. Meantime Jesus' delusions attained their most complete maturity, and when he heard of the "forerunner of the Messiah", who was baptizing sinful people in the river Jordan, he betook himself there in order to receive baptism himself. After the baptism Jesus went into the wilderness for forty days. This sojourn is for us of the greater interest for these forty days lie between two sharply differentiated sections of his life. The delusions which up to that time were isolated and unrelated to each other henceforth merged into a great systematic structure of delusions; doubtless Jesus had at that time repeated conversations with God the Father who had commissioned him and whose doctrine he preached. Such a development of his illness, a transition from the latent to the active stage of paranoia, is quite characteristic of this psychosis. In the great drama of the public ministry of Jesus stretching over three years, the megalomania, which mounted ceaselessly and immeasurably, formed the center around which everything else turned. All his sayings, his teachings, his sermons culminated in a single word: "I" (John 6:29, 35, 38, 40, 47-58; 8:12; 11:25ff; 14:6, 13 etc..)
35. Schweitzer, Albert, Ibid., p. 43: Through the suggestive power of various incidents, through John the Baptist...and through the enthusiasm of the disciples, Jesus is brought to the point of believing himself to be the Messiah, the King of the Jews, the Son of God, God's interpreter, God's witness, and finally identifying himself with God. Threats of the fanatical Pharisees and Scribes also awakened in him the notion that he was the sacrificial lamb which by its death was to take away the sins of Israel, and that after his resurrection he would ascend into the heavens, there to be revealed in his complete glory... Binet-Sanglé finds seven hallucinations in all the account, two purely optical and five which are described as both optical and auditory-verbal.
36. Russel, Bertrand, Why I Am Not A Christian, p. 19: I cannot myself feel that either in the matter of wisdom or in the manner of virtue Christ stands quite as high as some other people known to history. I think I should put Buddha and Socrates above Him in those respects.
37. Spong, John Shelby, Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 21: There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical.
38. Spong, John Shelby, Ibid., pp. 21,24: Are we drawn to a Lord who would destroy a herd of pigs in order to exorcise a demon? Are we impressed when the one we call Lord curses a fig tree because it did not bear fruit out of season?... A literal Bible presents me with far more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less worship.
39. Alves, Rubem, Protestantism And Repression, p. 63: Who wrote the Pentateuch? The response of the historical Christian Church to that question is definite: “Moses wrote them”. If Moses did not write the Pentateuch, then the apostles (e.g., Paul and John) made a mistake when they said that he did. If they erred on this matter, how can we believe them when they deal with truths concerning heaven and the future life? If Moses did not write the Pentateuch, then Jesus lied or erred when he said Moses did. If Jesus did not know this, though he said he did know, how can we believe him when he talks about the thing of heaven?
40. Lewis, Joseph, Editor: Ingersoll: The Magnificent , p. 117-122:
Christianity cannot live in peace with any other form of faith. If that religion be true, there is but one savior, one inspired book, and but one little narrow grass-grown path that leads to heaven.
Why did Jesus not again enter the temple and end the old dispute with demonstration? Why did he not confront the Roman soldiers who had taken money to falsely swear that his body had been stolen by his friends? Why did he not make another triumphal entry into Jerusalem? Why did he not say to the multitude: "Here are the wounds in my feet, and in my hands, and in my side. I am the one you endeavored to kill, but death is my slave? Simply because resurrection is a myth. The miracle of the resurrection I do not and cannot believe.
We know nothing certainly of Jesus Christ. We know nothing of his infancy, nothing of his youth, and we are not sure that such a person ever existed.
There was in all probability such a man as Jesus Christ. He may have lived in Jerusalem. He may have been crucified; but that he was the son of god, or that he was raised from the dead, and ascended bodily to heaven, has never been, and, in the nature of things, can never be, substantiated.
For many centuries this Peasant of Palestine has been worshiped as god.
Millions and millions have given their lives to his service. The wealth of the world was lavished on his shrines. His name carried consolation to the diseased and dying... His name gave courage to the martyr..., The outcasts, the deserted, the fallen, felt that Christ was their friend, felt that he knew their sorrows and pitied their sufferings.
All this is true, and if it were all, how beautiful, how touching, how glorious it would be. But it is not all. There is another side.
In his name millions and millions of men and women have been imprisoned, tortured and killed. In his name millions and millions have been enslaved. In his name the thinkers, the investigators, have branded as criminals, and his followers have shed the blood of the wisest and best. In his name the progress of many nations was stayed for a thousand years. In his gospel was found the dogma of eternal pain, and his words added an infinite horror to death. His gospel filled the world with hatred and revenge; made intellectual honesty a crime; made happiness here the road to hell, denounce love as base and bestial, canonized credulity, crowned bigotry and destroyed the liberty of man.
It would have been far better had the NT never been written - far better had the theological Christ never lived. Had the writers of the NT been regarde as uninspired, had Christ been thought of only a man, had the good been accepted and the absurd, the impossible, and the revengeful thrown away, mankind would have escaped the wars, the crimes and sorrows of a thousand years.
At first Christ was a man - nothing more. Mary was his mother, Joseph his father. The genealogy of his father, Joseph, was given to show that he was of the blood of David.
Then the claim was made that he was the son of god, and that his mother was a virgin, and that she remained virgin until her death.
The claim was made that Christ rose from the dead and ascended bodily to heaven.
It required many years for these absurdities to take possession of the minds of men.
If he really ascended, why did he not do so in public, in the presence of his persecutors? Why should this, the greatest of miracles, be done in secret, in a corner?
At last, in the dusk of death, Christ, finding that he was mistaken, cried out: "My God, my God! Why hast thou forsaken me?"
Why should we place Christ at the top and summit of the human race? Was he kinder, more forgiving, more self-sacrificing than Buddha? Was he wiser, did he meet death with more perfect calmness, than Socrates? Was he more patient, more charitable, than Epictetus? Was he a greater philosopher, a deeper thinker, than Epicurus? In what respect was he the superior of Zoroaster? Was he gentler than Lao Tsze, more universal than Confucius? Were his ideas of human rights and duties superior to those of Zeno? Did he express grander truths than Cicero? Was his mind subtler than Spinoza's? Was his brain equal to Kepler's or Newton's? Was he grander in death - a sublimer martyr than Bruno? Was he in intelligence, in the force and beauty of expression, in breadth and scope of thought, in wealth of illustration, in aptness of comparison, in knowledge of the human brain and heart, of all passions, hopes and fears, the equal of Shakespeare, the greatest of human race?
If Christ was in fact god, he knew all the future. Before him like a paronama moved the history yet to be. He knew how his words would be interpreted. He knew what crimes, what horrors, what infamies, would be committed in his name. He knew that the hungry flames of persecution would climb around the limbs of countless martyrs. He knew that thousands and thousands of brave men and women would languish in dungeons in darkness, filled with pain. He knew that his church would invent and use instruments of torture; that his followers would appeal to whip and fagot, to chain and rack. He saw the horizon of the future lurid with the flames of the auto da fé. He knew what creeds would spring like poisonous fungi from every text. He saw the ignorant sects waging war against each other. He saw thousands of men, under the order of priests, building prisons for their fellow-men. He saw thousands of scaffolds dripping with the best and bravest blood. He saw his followers using the instruments of pain. He heard the groans - saw the faces white with agony. He heard the shrieks and sobs and cries of all the moaning, martyred multitudes. He knew that commentaries would be written on his words with swords, to be read by the light of fagots. He knew that the Inquisition would be born of the teachings attributed to him.
He saw the interpolations and falsehoods that hypocrisy would write and tell. He saw all wars that would be waged, and he knew that above these fields of death, these dungeons, these racking, these burnings, the executions, for a thousand years would float the dripping banner of the cross.
He knew that hypocrisy would be robed and crowned - that cruelty and credulity would rule the world; knew that liberty would perish from the earth; knew that popes and kings in his name would enslave the souls and bodies of men; knew that they would persecute and destroy the discoverers, thinkers and inventors; knew that his church would extinguish reason's holy light and leave the world without a star.
He saw his disciples extinguishing the eyes of men, flaying them alive, cutting out their tongues, searching for all the nerves of pain...
And yet he died with voiceless lips.
Why did he fail to speak? Why did he not tell his disciples, and through them the world: "You shall not burn, imprison and torture in my name. You shall not persecute your fellow-men."..
Why did he go dumbly to his death, leaving the world to misery and to doubt?
I will tell you why. He was a man, and did not know.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét