Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014
6. BẦY QUẠ TRÊN THÂN XÁC NGƯỜI ĐÀN BÀ DO THÁI
19:39
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tại Việt Nam
chỉ có một dòng tu Công Giáo duy nhất do người
Việt Nam
sáng lập là Dòng Đồng Công. Danh hiệu
"Đồng Công" là chữ tắt của danh
hiệu "Đức Mẹ Đồng Công Cứu
Chuộc" (The Co-Redemptrix). Dòng này do LM Trần Đình
Thủ sáng lập vào cuối thập niên 1940 do lệnh
của Giáo Hoàng PIO XII. Thoạt tiên, trụ sở dòng
đặt tại làng Liên Thủy (gần với làng Hành
Thiện - Nam
Định). Sau 1954, dòng dời về xã Tam Hà - Thủ
Đức. Sau 1975, một số thầy tu Dòng Đồng
Công tới định cư ở Missouri lập nghiệp
từ hai bàn tay trắng. Ngày nay, chi nhánh Dòng Đồng Công
hải ngoại này đã trở thành một đại công
ty kinh doanh lòng sùng kính Đức Mẹ với những
cơ sở hết sức lớn lao rải rác khắp
nơi. Trụ sở chính đặt tại
Carthage
Missouri MO. 64836,USA
với những công trình kiến trúc vĩ đại.
Với số giáo dân hải ngoại vừa đông
đảo vừa khá giả, thêm vào đó là tài kinh doanh
vượt bực của các thầy tu, Dòng Đồng Công
ngày càng làm ăn khấm khá phát tài, tiền vô như
nước! Tôi rất tiếc chưa có dịp đi hành
hương "Đất Thánh" Missouri của Công Giáo
Việt Nam hải ngoại, nhưng đã được
coi mấy cuốn băng video của cơ sở ngoại
vi của Dòng Đồng Công là Câu Lạc Bộ Văn Hóa
Tố Như (Box 66, Vienna – VA 22183 – Fax (702) 319-9489) cũng
đủ thấy sự khai thác thương mại
đại qui mô của dòng tu Việt Nam này. Tôi thật kinh
ngạc phục tài thao lược "tay trắng làm
nên" và tài mê hoặc quần chúng của những chuyên
gia Thánh Mẫu Học Việt Nam
(Vietnamese Mariologists).
Trong thời gian gần đây, CLBVH Tố
Như mới cho ra lò một bộ băng video "Ave
Maria, Mẹ yêu Dấu" gồm 4 cuốn:
1. FATIMA – Mẹ là niềm hy
vọng
2. LỘ ĐỨC – Mẹ là nguồn yêu
thương
3. LA VANG – Mẹ củng cố đức tin
son sắt
4. GUADELOUP – Chứng tích mẹ yêu dấu
Thông điệp chính yếu trong những
lần "Đức Mẹ hiện ra", nếu có
thật, là khuyến cáo các tu sĩ, nhất là các linh
mục, phải cải thiện đời sống
để cứu nguy giáo hội Công Giáo đang bên bờ
diệt vong. Nhưng các tu sĩ hoàn toàn làm ngơ
trước những khuyến cáo này của Đức
Mẹ. Trái lại, họ chỉ biết chú tâm vào việc
khai thác thương mại lòng sùng kính ngây thơ của
giáo dân dành cho Đức Mẹ, hiện thân của tình
mẫu tử theo nhân tính tự nhiên. Nếu Đức
Mẹ là Đấng Hiển Linh như niềm tin của
họ thì Đức mẹ đang hiện diện khắp
mọi nơi, cần gì phải tổ chức những
cuộc hành hương rềnh rang tốn phí mà chỉ
những kẻ nhiều tiền lắm bạc mới kham
nổi. Từ nhiều năm qua, Dòng Đồng Công đã
tổ chức nhiều cuộc hành hương tới
những địa danh nổi tiếng về phép lạ
của Đức Mẹ như Fatima
ở Bồ Đào Nha, Lộ Đức (Lourdes)
ở Pháp, Núi Mẹ Sầu Bi tại Oregon.
Hàng năm, Dòng Đồng Công tổ chức
"Đại Hội Thánh Mẫu" thu hút năm, sáu
chục ngàn người từ khắp nơi qui tụ
về "Thánh địa" Carthage – Missouri.
Đây là dịp cho các nhà thần học hoang
tưởng về khoa học "Thánh Mẫu Học"
(Mariology) trổ tài hùng biện thuyết giảng về các
phép lạ của Đức Mẹ để thỏa mãn
nhu cầu ham chuộng phép lạ vô bờ bến của
giáo dân Việt Nam. Trong số các chuyên gia về Thánh Mẫu
Học nổi tiếng, chúng ta phải kể đến
"nhà văn" Phạm Đình Khiêm, tác giả cuốn
"Đức Mẹ La Vang Là Nữ Vương Chiến
Thắng". Linh Mục Barnabê Nguyễn Đức
Thiệp, cựu Giám Tỉnh Dòng Đồng Công tại Hoa
Kỳ, "nhà khảo cứu" Nguyễn Đức
Tuyên, Giáo sư Trần Ngọc Vân tức "nhà
văn" Trần Phong Vũ. Trần Ngọc Vân là người
đã đặt tên cho cuốn sách mới toanh về
Đức Mẹ là cuốn "Mẹ Maria Trong Ánh Sáng
Đức Tin" 285 trang, giá 10 đô, của tác giả
Ngưỡng Nhân Lưu Âu Nhi, xuất bản tại Hòa
Kỳ tháng 10.2000. Nếu coi băng video của Câu lạc
bộ Văn hóa Tố Như, chúng ta sẽ được
nghe nhà thần học hoang tưởng trẻ măng là
Linh Mục Phan Hữu Ngọc, tiến sĩ Thánh Mẫu
Học thuộc dòng Đồng Công thuyết giảng.
Cơ quan tuyên truyền chính yếu của
dòng Đồng Công là Nguyệt San Trái Tim Đức Mẹ.
P.O Box 836, Carthage – MO 64836,
phone (417) 358-8296. Cũng theo báo này thì từ xưa
đến nay, Đức Mẹ đã hiện ra khắp
nơi trên thế giới hơn 30.000 lần. Mỗi
lần Người hiện ra đều có những phép
lạ khác nhau và mặc sắc phục khác nhau. Chắc là
Đức Mẹ có khả năng nói thông thạo mọi
ngôn ngữ trên thế giới nên Người mới có
thể trực tiếp truyền đạt mệnh
lệnh của Người tới đàn con của Mẹ
thuộc mọi chủng tộc. Hay mỗi lần
Đức Mẹ hiện ra lại cần phải có thông
dịch viên? Tôi vẫn thắc mắc không biết khi
Đức Mẹ "hiện ra" ở La Vang trên 200
năm trước đây với giáo dân Quảng Trị, Người
có mặc váy và quấn khăn mỏ quạ không?
Người có biết ăn trầu bỏm bẻm không? Và
Người nói chuyện với giáo dân La Vang Quảng
Trị bằng giọng Bắc kỳ, Nam
kỳ hay bằng giọng rặc Quảng Trị? Phải
chăng Đức Mẹ đã phát âm theo kiểu
"Nược cô còn nọng hay là nguồi"? Xin các nhà
thần học Công Giáo thông thái làm ơn giải thích dùm,
nếu không thì đồng bào có quyền nghĩ rằng
những chuyện Đức Mẹ hiện ra chỉ là
những chuyện bịp và quý vị Thánh Mẫu Học
chỉ là hạng lưu manh ngụy trí thức chuyên
nghề lừa gạt đám tín đồ khờ dại
để hành nghề bất lương với mục
đích kiếm tiền một cách đốn mạt hèn
hạ mà thôi.
Tôi không xa lạ gì với Dòng Đồng
Công. Tôi đã đến thăm nhà dòng từ buổi sơ
khai vào tháng 7.1950 tại nhà xứ Liên Thủy Bùi Chu, lúc
đó tôi là cậu học trò 13 tuổi. Thầy giáo dạy
tôi tiểu học lúc đó dẫn tôi và mấy đứa
cùng trạc tuổi.
A. Về phương diện tổng quát:
Giáo hội Công Giáo luôn khuyến khích tín
đồ thường xuyên đọc kinh vì đó là cách
tốt nhất để nhồi sọ giáo dân các tín
điều nhảm nhí và làm tê liệt óc phán đoán của
giáo dân khiến cho họ không còn biết suy xét gì khác hơn
là ngoan ngoản cúi đầu tuân phục mọi mệnh
lệnh của Vatican. Các sách Kinh Nguyện đã
được các chuyên gia của giáo hội soạn
sẵn và đã được nghiên cứu chắt lọc
hết công phu qua nhiều thời đại nên các sách kinh
này đã trở thành những công cụ chiến tranh tâm lý
cực kỳ tinh vi của bọn đế quốc nham
hiểm. Do đó hậu quả tâm lý của sự tự
kỷ ám thị và sự lập lại nhiều lần,
tất cả những giáo điều dù vô lý đến
đâu cũng đều trở thành những chân lý
tuyệt đối trong đầu óc của những
kẻ có thói quen đọc kinh cầu nguyện hằng
ngày. Bằng các sách Kinh Nguyện, Vatican
đã đào luyện nên những tập thể giáo dân
tuyệt đối trung thành với chúng trong hầu
hết các quốc gia trên khắp thế giới. Những
tập thể giáo dân cuồng tín này luôn luôn sẵn sàng
phạm mọi tội ác phản bội đồng bào và
dân tộc để thực hiện mọi âm mưu phá
hoại của đế quốc. Hầu hết các chính
quyền gặp phải hoàn cảnh này đều không
đám thẳng tay đàn áp vì sợ gây "thánh
chiến" và sợ bị dư luận gán cho tội vi
phạm nhân quyền, vi phạm quyền tự do tôn giáo.
Nhờ đó, Vatican đã trở thành tên
đầu sỏ của chủ nghĩa đế quốc
tinh thần (spiritual imperialism).
Muốn chận đứng những tác
hại của cuốn sách kinh, trước hết chúng ta
hãy cố gắng giải thích cho đồng bào của
chúng ta nắm được những sự thật
về đạo Công Giáo và hiểu rõ bộ mặt
thực rất đểu cán của nó. Sự thật
lịch sử chứng tỏ Công Giáo La Mã không phải là
một tôn giáo mà chỉ là một âm mưu vô cùng thâm
độc của đế quốc La Mã được
ngụy trang dưới lớp vỏ tôn giáo giả
tạo mà thôi. Nhiều công trình nghiên cứu đa diện
của giới học giả Tây phương cận
đại chứng minh rằng hầu hết những
kẻ đứng đầu giáo hội ở Vatican
là những kẻ vô thần, vô đạo đức và
độc ác (Godless, immoral and wicked). Chúng chỉ giả
vờ là những kẻ đạo đức mà thôi.
Bọn đầu não "Công Giáo La Mã ở Vatican
là một tổ chức tội ác hình sự cao
cấp". Chỉ vì kỹ thuật phạm tội
của chúng đạt tới mức tinh vi siêu đẳng
vượt thời đại nên ít ai nhận ra
được bản chất vô cùng độc ác và nham
hiểm của chúng mà vẫn cứ lầm tưởng
chúng là những người thánh thiện. Tu sĩ
được giáo dân xưng tụng là "các đấng
chủ chăn" thực chất chỉ là quỉ mang
mặt người. Vatican là sào huyệt của Mafia
đội lốt tôn giáo lưu manh nguy hiểm nhất
thế giới vì chúng là những kẻ sát nhân ác
độc nhưng lại được đám đông tín
đồ khờ dại cuồng tín kính trọng và vâng
lời chúng tuyệt đối. Đó là lý do tại sao
trong gần 17 thế kỷ qua chúng đã gây ra biết bao
thứ tội ác trên khắp thế giới mà bóng ma
của chúng vẫn cứ tiếp tục bao trùm cả nhân
loại.
Thực chất Công Giáo cũng không phải
là Ki-tô Giáo (Christianity) vì đế quốc La Mã đã ra
sức tiêu diệt Ki-tô Giáo rất ác liệt trong hơn 3
thế kỷ đầu Công Nguyên. Từ năm 325
đến cuối thế kỷ 4, đế quốc La Mã
lập ra đạo mới là đạo Công Giáo (Catholicism)
trên xác chết của Ki-tô Giáo nguyên thủy bằng cách tiêu
diệt các giáo phái Ki-tô còn sót lại dám chống Công Giáo.
Đồng thời chúng hủy diệt các dấu tích
thật về Chúa Jesus còn sót lại ở Jerusalem, ngụy
tạo Thánh Kinh, xuyên tạc lịch sử, đốt phá
các thư viện và đốt các sách thuộc văn minh
nhân bản Hy Lạp. Sỡ dĩ đế quốc La Mã
phải diệt nền văn hóa nhân bản Hy Lạp vì
nền văn hóa này hoàn toàn đi ngược lại
bản chất phi nhân bản (inhumanity) của Công Giáo La Mã
do chúng mới thành lập. Tội ác tiêu diệt văn hóa
Hy Lạp của đế quốc La Mã đã làm cho nền
văn minh của nhân loại bị chậm lại cả
ngàn năm. Từ năm 325 trở đi, đế
quốc La Mã không hề ngược đãi Công Giáo mà
chỉ lo củng cố và bành trướng tôn giáo này mà thôi
vì Công Giáo là con đẻ của đế quốc.
Đến thế kỷ 5, sự tiêu diệt nền
văn hóa nhân bản cổ xưa của Hy Lạp gần
như hoàn toàn đến nỗi tổng Giám mục Chrysotom
phải khoe rằng: "Mọi dấu vết về
triết học và văn chương của thế
giới cổ đã bị xóa sạch khỏi mặt
đất" (Every trace of the old philosophy and literature of the ancient
world has vanished from the face of the earth – Bible Myths by Doane p. 436).
Tiến sĩ Rivera đã rất có lý khi ông
viết như sau: "Tổ chức Công Giáo La Mã không
phải và chưa bao giờ là một giáo hội Ki-tô. Nó là
con điếm đã được tiên tri mô tả trong sách
Khải Huyền (cuốn sách cuối cùng trong bộ Thánh
Kinh Tân Ước). Đám tín đồ Công Giáo khốn
khổ đã bị nó phản bội và đang phải
đối phó với thảm họa về tinh thần.
Bọn người nguy hiểm nhất là những kẻ
bề ngoài rất sùng đạo, đặc biệt nguy
hiểm khi chúng qui tụ lại thành tổ chức và
nắm những vị trí chính quyền. Bọn chúng
được kính trọng sâu xa bởi những kẻ ngu
dốt không biết gì về những động lực
của bọn chúng ở phía sau sân khấu là hoàn toàn có tính
cách vô thần và chỉ để nhắm đến
quyền lực. (The Roman Catholic institution is not a Christian
Church and never was. Prophetically she is the whore of Revelation. The poor
Roman Catholic people have been betrayed by her and are facing spiritual
disaster. The most dangerous men are those who appear very religious, especially
when they are ignorant of their ungodly push for power behind the scene).
Kẻ gia nô văn hóa số một của
Vatican ở Việt Nam là Linh Mục Phan Phát Huồn,
thuộc dòng Chúa Cứu Thế, tác giả cuốn Việt
Nam Giáo Sử (hai tập), xuất bản lần
đầu vào năm 1962. Từ đó đến nay,
cuốn sách này được giới "trí thức"
Công Giáo thường xuyên sử dụng như một tài
liệu tham khảo sử học chân chính. Tôi chưa
cần đề cập đến phần nội dung
của cuốn giáo sử này, chỉ riêng một
đoạn Linh Mục Huồn viết trong bài tựa (trang
20) cũng đã phạm phải hai điều sai lầm
nghiêm trọng về lịch sử: "Máu (tử
đạo) đã nhuộm đỏ đất
nước Việt Nam
yêu quí làm cho đất phì nhiêu tươi tốt. Lấy võ
lực đàn áp Công Giáo để tiêu diệt người
Công Giáo thì chẳng những người Công Giáo không bị
tiêu diệt mà còn sinh sản đông đúc thêm... Các hoàng
đế Roma muốn tiêu diệt người Công Giáo thì
ngày nay trên thủ đô Roma phất phới trước gió
cách oai hùng quốc kỳ Vatican tượng trưng cho giáo
quyền của giáo hội".
Sai lầm thứ nhất của Linh Mục
Huồn là đã ngộ nhận Ki-tô Giáo nguyên thủy (the
Early Chistianity) với Công Giáo La Mã (Roman Catholics). Lịch
sử thế giới đã chứng minh: Trong 3 thế
kỷ đầu Công Nguyên, Ki-tô Giáo không có nhà thờ mà chỉ
có phòng hội (synagogue), không biết Thiên Chúa Ba Ngôi là gì,
không thờ ảnh tượng, không tin và không thờ bà
Maria đồng trinh. Thậm chí họ cũng không thờ
Jesus mà chỉ coi ngài như một bậc thầy khôn ngoan
mà thôi, do đó không có thánh lễ Misa, không có phép Mình Thánh
Chúa.. Cuối thế kỷ 3, vị giám mục nổi
tiếng nhất thời đó là Arius, người Hy
Lạp, đã sáng tác ra những bài thơ tóm tắt giáo lý
của Ki-tô Giáo nguyên thủy: "Thiên Chúa là đấng duy
nhất không được sinh ra bởi ai, đấng duy
nhất vĩnh cửu, duy nhất thật, duy nhất khôn
ngoan. Jesus là một tạo vật giống như chúng
ta". Năm 325, Arius cũng được Constantine
mời họp công đồng Nicaea
cùng với các giám mục Ki-tô khác như Athanasus và Marcellus.
Các vị giám mục này giữ vững niềm tin Ki-tô
nguyên thủy nên không chịu ký tên công nhận kinh Tin Kính
của Constantine. Kết
quả là Arius bị Constantine
giết chết năm 336, Athanasus và Marcellus bị bắt
đưa đi đày. Hàng ngàn tín đồ Ki-tô bị
đế quốc sát hại. Mười bốn năm sau,
Marcellus được thả ra. Ông viết sách lên án Công
Giáo là tà đạo "Tritheism" có nghĩa là đạo
thờ ba Thiên Chúa ám chỉ là một thứ Đa thần
giáo (Paganism) với những tín điều bịa
đặt và hoàn toàn trái ngược với Ki-tô Giáo nguyên
thủy là một độc thần giáo chân chính (The Real
Monotheism). Năm 340, đế quốc La Mã chính thức
đưa tôn giáo do chúng thành lập lên thành đạo chính
thức của toàn đế quốc và đặt tên cho nó
là Công Giáo (Cattolica). Tất cả những gì là đặc
trưng của Công Giáo ngày nay đều do đế
quốc La Mã bày đặt ra sau năm 325. Từ đó
chẳng có hoàng đế La Mã nào muốn tiêu diệt
người Công Giáo vì Công Giáo và đế quốc La Mã là
một. Những nhận định của Linh Mục
Huồn là hoàn toàn sai trái vì những điều đó, trái
ngược với lịch sử đã được các
yếu tố khách quan xác nhận.
Chúng ta không nên quên một điều rất
thực tế là trong các loại sách Công Giáo, không có sách nào
quan trọng cho bằng các sách Kinh- Nguyện. Đại
đa số các gia đình giáo dân không có sách Thánh kinh nhưng
gia đình nào cũng có ít nhất một cuốn sách Kinh
Nguyện. Đại đa số giáo dân không đọc
Thánh Kinh (Bible) nhưng đã là giáo dân thì nếu không
thuộc nhiều cũng phải thuộc một số Kinh
Nguyện cần thiết. Các bài kinh nguyện là chủ
chốt hình thành tư tưởng của tập thể
tín đồ chứ không phải là Thánh kinh hay một
thứ sách nào khác.
Từ đầu thập niên 1990 đến
nay, khắp thế giới bùng lên phong trào giải trừ
Ki-tô Giáo với hàng trăm cuốn sách và hàng ngàn bài báo giá
trị, tấn công mọi mặt khiến cho tôn giáo này
đã bị lung lay tận nền tảng của nó.
Điều đáng chú ý là hầu hết các tác giả của
các sách báo này đều là những người Ki-tô Giáo
tỉnh ngộ (recovering christians) trong thế giới Tây
phương, trong số đó đặc biệt có
nhiều tác giả nguyên là những tu sĩ cao cấp
(đáng chú ý là những tu sĩ thuộc Dòng Tên) hoặc là
những giáo sư chuyên khoa tôn-giáo-học tại các
trường đại học danh tiếng trên thế
giới. Cũng trong thời gian đó, tại
hải ngoại chúng ta thấy xuất hiện khá nhiều
sách báo Việt ngữ có nội dung lên án đạo Công Giáo
và đặc biệt tố giác tính cách phản dân tộc
của Công Giáo Việt Nam. Nhưng hầu hết các sách báo
Việt ngữ này đều là sản phẩm của quý
vị Việt kiều trí thức ngoài Công Giáo, khác với những
sách chống Công Giáo ác liệt nhất ở các nước
Âu Mỹ hầu như đều là sản phẩm tinh
thần của những người Công Giáo tỉnh
ngộ.
Trước 1975, tại miền Nam Việt Nam,
hầu như không một ai dám viết sách báo bằng
Việt ngữ để công khai và trực diện đã
kích Công Giáo. Điều đó dễ hiểu vì miền Nam
Việt Nam
dưới hai thời Đệ nhất và Đệ
nhị Cộng Hòa, áp lực chính trị của Công Giáo quá
mạnh. Bọn mật vụ Cần lao, bọn chính
trị hoạt đầu Công Giáo cũng như bọn cha
cố Mafia không từ bỏ một thủ đoạn ác
độc đê tiện nào mà không dám làm để
triệt hạ những người dám lên tiếng
chống bọn chúng. Tập san "Tiếng Loa Cảnh
Báo" của nhóm Công Giáo cực đoan do cựu nghị
sĩ Trương Tiến Đạt chủ biên, xuất
bản tại San Jose tháng 11.1998 đã viết: "Cộng
Sản chiếm chính quyền và quyết tâm diệt
đạo nhưng chỉ phá được cảnh yên vui
sống đạo, phá nhà thờ, nhà trường, các
hội đoàn và cản trở các hoạt động tôn
giáo nhưng đã không phá được đức tin và
lòng mộ đạo. Hơn nữa, số người
mới theo đạo Công Giáo lại còn nhiều hơn
thời trước. Rõ ràng Cộng Sản Việt nam
chỉ biết phá đạo cách vụng về và đã
thất bại (trang 39). Lối phá đạo của
Cộng Sản không nguy hiểm vì đó là sự tấn
công từ bên ngoài và dùng sự cưỡng bách là chính (tr.
40). Công Giáo sợ nhất là sự phá đạo từ
trong phá ra!
Thứ đến, Công Giáo rất sợ
sự giáo dục và tự do tư tưởng vì đó là
những thứ vũ khí hữu hiệu nhất để
tiêu diệt mê tín chẳng khác nào dùng ánh sáng để tiêu
diệt bóng tối. Căn bản của lòng cuồng tín
tôn giáo là sự ngu dốt. Giáo dục và tự do tư
tưởng soi rọi ánh sáng vào những vùng tối tâm linh
thì sự mê muội tôn giáo phải đội nón ra đi.
Chính nhờ kết quả của giáo dục và tự do
tư tưởng tại các nước dân chủ tự
do Âu Mỹ mà Công Giáo La Mã đang lâm nguy dẫy chết. Dùng
cưỡng bách và đàn áp để diệt đạo là
hạ sách vì Công Giáo chẳng khác nào cỏ dại, nếu
ta càng dập nó mạnh bao nhiêu thì bông cỏ dại càng
văng xa tung tóe và lan rộng thêm bấy nhiêu!. Do những
nhận định trên, tôi không tin tưởng vào khả năng
diệt đạo của chính quyền Việt Nam
ở quê nhà mà đặt nhiều hy vọng vào khả
năng giáo dục và bài trừ mê tín nơi quý vị trí
thức ngoại giáo tại hải ngoại. Những
cố gắng của qúy vị trong những năm qua
chắc chắc đã soi sáng tâm linh cho một số giáo dân
cuồng tín tại hải ngoại cũng như ở
trong nước. Đây là một công tác giáo dục hết
sức chính đáng và cần thiết để cứu nguy
dân tộc và góp phần bảo tồn truyền thống
văn hóa nước nhà.
Tuy nhiên, những cố gắng của quý
vị đã bị hạn chế rất nhiều bởi
những nguyên nhân sẽ được trình bày sau đây mà
theo thiển ý của tôi, quý vị có thể đã không
biết hoặc không để ý tới vì lý do quý vị
không phải là những người trong cuộc.
Nguyên nhân 1. Trước hết, mỗi khi
phát hiện có sách báo chống đạo, các cha cố
thường giảng tại nhà thờ lưu ý giáo dân
về những sách báo đó và công khai ngăn cấm giáo dân
đọc. Phần đông giáo dân ngây thơ răm rắp
tuân lệnh các cha cố nên họ đã không đọc và
không hề biết nội dung của những sách báo
chống đạo nói gì. Bằng phương cách đơn
giản này, các cha cố đã dễ dàng vô hiệu hóa tác
dụng giáo dục của quý vị. Do vậy, cái não
trạng của đa số giáo dân vẫn như xưa và
chẳng có gì thay đổi. Nói lên điều này, tôi
muốn lưu ý quý vị một sư thật: muốn cho
công cuộc giáo dục bài trừ mê tín đạt kết quả
tốt, việc trước hết là phải bằng
mọi cách loại trừ toàn bộ hệ thống tu
sĩ Công Giáo vì họ là một bức tường kiên
cố ngăn cản ánh sáng giáo dục khiến nó không
thể soi tới vùng bóng tối tâm linh của tập
thể giáo dân. Nói cách khác, chừng nào còn hệ thống tu
sĩ Công Giáo thì chừng đó công cuộc giáo dục bài
trừ mê tín sẽ không thành công.
Nguyên nhân 2. Khi viết sách báo chống Công
Giáo, quí vị thường quá chú trọng đến
những điều sai trái trong Thánh Kinh như thuyết
Tạo Dựng (Creation) hay thuyết Cứu Rỗi
(Salvation) và quý vị chủ quan tin rằng quý vị đã
nắm chắc phần thắng trong việc tấn công
những điều sai trái này, quý vị tưởng
rằng cứ tấn công vào những điều căn
bản đó thì đạo Công Giáo sẽ sụp
đổ. Nhưng thưa quí vị, đây thật sự
là một ảo tưởng! Bởi lẽ, dưới
sự lãnh đạo vô cùng xảo quyệt của Vatican,
các cha cố đã có sẵn trong tay vô số những
lập luận lươn lẹo để giải thích
cho giáo dân. Hầu hết giáo dân có trình độ hiểu
biết thấp kém nên khi nghe cha cố giải thích
đều thấy xuôi tai, không thắc mắc gì thêm và
vẫn tiếp tục sùng đạo như xưa.
Muốn biết nghệ thuật giải thích lươn
lẹo rất tài tình của bộ tham mưu thần
học Vatican ra sao, xin quý vị hãy tìm
đọc cuốn "Giáo Lý Mới Thời Đại
Mới", 517 trang, do Đất Mẹ phát hành tại
Houston
– Texas 1996. Thí dụ: Thánh
Kinh dạy rằng Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ
trong 7 ngày. Sách Giáo Lý Mới giải thích nên hiểu chữ
"ngày" ở đây là "thời đại" và
mỗi thời đại có thể kéo dài qua nhiều
triệu năm! [Nhưng không có ai luận rằng nếu
ngày có nghĩa là thời đại thì làm sao cây cỏ, thảo
mộc sống được vì theo Thánh Kinh, Chúa sinh cây
cỏ trước mặt trời.]
Về trường hợp thánh tổ Abraham
lấy em gái làm vợ và toan giết con để tế
thần, sách Giáo Lý Mới giải thích: "Chúng ta không
được mời gọi để bắt
chước những việc Abraham làm, nhưng cốt
để chú ý đến thái độ trung thành của ông
đối với Thiên Chúa (tr.54).
Nguyên nhân 3. Có một điều quý vị trí
thức ngoại giáo không thể ngờ tới: đó là
sự uyển chuyển linh động và co dãn như cao su
của đức tin Công Giáo (the resilience of the Catholic faith).
Đây là một khám phá của giới học giả Tây
phương trong thời gian gần đây. Vào đầu
thập niên 1970, tiến sĩ sử học Tim Dooley đã
qui tụ 70 giáo sư chuyên khoa về các môn sử học,
khảo cổ học, tôn giáo học, triết học và
thần học thuộc các trường đại học
danh tiếng Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản vác các
nước Âu Châu. Họ đã cùng nhau làm việc trong 7
năm để hoàn thành một công trình nghiên cứu
về Ki-tô Giáo. Họ đã đúc kết công trình nghiên
cứu của họ trong hai tác phẩm đồ sộ
mang tên "Eerdmans Handbook of the Bible" và "Eerdmans Handbook
of Christianity", mỗi bộ sách này dày trên 700 trang
giấy khổ lớn, do Eerdmans Publishing Co. xuất bản
lần đầu tại Anh và Mỹ năm 1977, tái bản
năm 1987, mỗi lần in mỗi đầu sách 750.000
cuốn.
Trong khi cùng làm việc với nhau, họ
cố gắng tìm hiểu nguyên nhân tại sao Ki-tô Giáo
(đặc biệt là Công Giáo La Mã) vẫn có khả năng
vượt thoát mọi đình đốn và vẫn tồn
tại sau biết bao đợt tấn công dữ dội
của các giới trí thức Âu Châu như phong trào
Enlightenment trong thế kỷ 18 và của các giới khoa
học trong thế kỷ 19-20. Phần đông chúng ta
đều nghĩ rằng Đức Tin là những
điều căn bản cố định và không một
ai có tư cách để sửa đổi. Trong thực
tế không phải vậy! Ki-tô Giáo nói chung và Công Giáo La Mã
nói riêng có khả năng đáng kinh ngạc trong việc
tự điều chỉnh và canh tân đức tin của
mình, đó là một khả năng đặc biệt
đã giúp Ki-tô Giáo vượt thắng mọi đợt
tấn công để tiếp tục tồn tại và phát
triển như ngày nay.
Một thí dụ điển hình cho việc
tự điều chỉnh đức tin là vụ Vatican
sửa đổi Kinh Tin Kính. Chúng ta đã biết Kinh Tin
Kính đã được hình thành trong Công đồng
Nicaea
năm 325 để trở thành một bản tóm
lược tín điều căn bản của đạo
Công Giáo trong 16 thế kỷ qua. Vậy mà Vatican
đã dám sửa đổi một số điều quan
trọng để bài kinh này có thể phù hợp với
thời đại ngày nay:
- Kinh Tin Kính cũ có câu: "(Chúa Jesus)
chết và táng xác, xuống ngục tổ tông, ngày thứ ba
bởi trong kẻ chết mà sống lại..."
- Kinh Tin Kính mới sửa lại: "(Chúa
Jesus) chịu khổ hình và mai táng đời Phong-xi-ô
Phila-tô, ngày thứ ba sống lại như lời Thánh
Kinh" (Giáo Lý Mới Thời Đại Mới, tr.160).
Như vậy ta thấy qua bài kinh Tin Kính mới, Vatican
không xác nhận Jesus đã chết trên thập giá mà chỉ
nói trống là Jesus chịu khổ hình mà thôi. Chúng ta
được biết qua vụ khám nghiệm thánh tích
Tấm Vải Liệm Turin vào tháng 10 năm 1978, giới
khoa học quốc tế đã xác nhận tấm vải
liệm Turin là thật và các dấu vết trên tấm vải
liệm này chứng tỏ Jesus đã thoát chết sau
khổ hình đóng đinh trên núi Sọ. Sau cơn hôn mê,
Jesus đã tỉnh dậy chứ không phải từ kẻ
chết sống lại. Xin đọc bài Tấm Vải
Liệm Xác Chúa của Charlie Nguyễn trong cuốn "Kitô
Giáo Từ Thực Chất Đến Huyền
Thoại" tr. 267-281, hoặc trong cuốn Petrus
Trương Vĩnh Ký Tuyển Tập tr. 157-165). Do đó, Vatican
đã sửa lại kinh Tin Kính bằng cách không xác nhận
Jesus đã từ kẻ chết sống lại và chỉ
nói trống là Jesus đã sống lại... "như
lời Thánh Kinh".
Vatican cũng loại bỏ
việc Chúa xuống ngục tổ tông (tức Luyện
Ngục – The Purgatory) vì ngục tổ tông là một vấn
đề gây tranh cãi sôi nổi tại các nước Tây
phương đã dồn Vatican vào thế
bí. Cuối cùng, Vatican đã bỏ luôn câu
này khỏi kinh Tin Kính.
d. Muốn giáo dục tập thể giáo dân có
hiệu quả, quý vị cần xử dụng văn phong
rõ ràng mạch lạc (để soi sáng vấn đề và
phải dùng những từ ngữ thông dụng để
họ có thể hiểu được. Thí dụ: Khi nói
đến Holy Spirit hay Jean Baptist, xin quý vị cần
xử dụng những danh từ mà người Công Giáo
quen dùng là Đức Chúa Thánh Thần và Thánh Gio-an-Bao-ti-xi-ta
thì họ sẽ hiểu ngay. Nếu quý vị gọi Holy
Spririt là Con Ma Thánh và gọi Jean Baptist là Giăng Rửa
Tội thì mọi người Công Giáo sẽ không hiểu
quý vị nói cái gì. Khi quý vị viết sách mà người
đọc không hiểu được thì mọi cố
gắng giáo dục của quý vị sẽ thành vô hiệu.
B. Về một số từ ngữ tôn giáo.
Tôi đề nghị quí vị tác giả
ngoại giáo không nên gọi đạo Công Giáo là đạo
Gia-tô vì danh từ này không chính xác. Chúng ta đã biết trong
các Kinh Nguyện được viết bằng Hán tự,
Chúa Jesus được gọi là "Thần Chúa
Gia-tô". Chẳng hạn như trong Kinh Phục Dĩ có
câu: Thần Chúa Gia-tô thục tội thi ân chi đại, có
nghĩa là Chúa Jesus chuộc tội và ban ơn rất
lớn. Như vậy, "Gia-tô" là tiếng Hán tự
phiên âm tên Chúa Jesus chứ không phải là tiếng phiên âm
chữ Catholic. Trong tác phẩm Phá Ngục Tù, nơi trang 283,
tác giả Trần Văn Kha đã lầm lẫn viết
rằng: "Gia-tô là tiếng phiên âm từ chữ Catholic".
Thật ra, đạo Công Giáo đã được
truyền vào Việt nam từ năm 1533, đến nay
đã gần 5 thế kỷ. Chữ quốc ngữ
mới được phổ biến tại Việt Nam
trong đầu thế kỷ 20. Từ đầu thế
kỷ 16 đến đầu thế kỷ 20, các sách kinh
cũng như các tài liệu truyền giáo đều
được viết bằng chữ Hán hoặc chữ
Nôm. Sở dĩ người Việt thời xưa quen
gọi Đạo Công Giáo là đạo Gia-tô vì các cụ
đồ nho thấy đạo này thờ Chúa Giê-su mà
chữ Hán gọi là Gia-tô, nên gọi đạo này là
đạo Gia-tô. Về điểm này, ông Trần Quý đã
viết rất đúng: "Người Việt ta
thường gọi đạo Giê-su là đạo Gia-tô;
nguyên nhân vì người Trung Hoa phiên dịch chữ Giê-su
sang chữ Hán, người Việt đọc chữ hán
theo âm ngữ Nho thành Gia-tô" (Phần mở đầu
tác phẩm Lòng Tin Âu Mỹ Đấy – Đồng Thanh
xuất bản, 1996).
Tuy nhiên, chúng ta không thể gọi đạo
Công Giáo là đạo Gia-tô được vì trên thế
giới không có đạo nào được gọi là
đạo Giê-su hay đạo Gia-tô cả. Người ta
gọi các đạo thờ Chúa Giê-su (Chúa Gia-tô) là
CHRISTIANITY tức Cơ-đốc-giáo theo phiên âm Hán tự,
hoặc Ki-tô Giáo theo phiên âm Việt Nam.
Các tín đồ thờ Chúa Giê-su đều tin rằng ngài
chính là Đấng Cứu Thế (Christ). Christ là tiếng
Anh và Pháp phiên âm tiếng Hy Lạp CHRISTOS. Người Hán
phiên âm Christos là Cơ-Đốc. Trước Công
Đồng Vatican II, các sách Kinh Nguyện Công Giáo Việt Nam
phiên âm Christos là Ki-ri-xi-tô, sau 1965, danh từ Ki-ri-xi-tô
được rút ngắn lại thành Ki-tô. Nếu ta dùng danh
từ Gia-tô để gọi đạo Công Giáo thì
chẳng hóa ra Công Giáo là đạo duy nhất thờ Chúa
Giê-su hay sao?. Ngoài Công Giáo ra còn có nhiều đạo khác
cũng thờ Chúa Giê-su như Chính Thống Giáo, Anh Giáo và
trên hai trăm giáo phái Tin Lành.. Tất cả các tín
đồ của các tôn giáo này đều được
gọi chung là các Ki-tô-hữu (Chritians) vì mặc dù họ
thuô những giáo hội khác nhau nhưng họ có chung
một niềm tin Chúa Giê-su là đấng Christ (Kitô). Công
Giáo La Mã chỉ là một trong những giáo phái của Ki-tô
Giáo và không phải là đạo duy nhất tôn thờ Chúa
Jesus (thần Chúa Gia-tô) nên không thể gọi đạo này
là đạo Gia-tô được.
Thiết tưởng chúng ta cần phân
biệt rõ rệt giữa nhân vật Giê-su và huyền
thoại Ki-tô. Giê-su (Gia-tô) là một nhân vật có thật
trong lịch sử, tên thật theo ngôn ngữ Hebrew do cha
nuôi Joseph đặt cho lúc mới sinh là Yeshua, tiếng Hy
Lạp phiên âm thành Iesous, tiếng La Tinh cũng như
tiếng Anh và Pháp đều phiên âm là Jesus. Theo các cuộc
nghiên cứu Thánh Kinh và lịch sử trong những thế
kỷ gần đây thì Jesus sinh khoảng năm thứ 4
trước Công Nguyên. Bị đế quốc La Mã đóng
đinh trên thập giá năm 29, lúc đó Jesus 33 tuổi.
Theo kết quả giảo nghiệm tấm vải liệm
xác Jesus của phái đoàn khoa học quốc tế tại
Turin nước Ý vào tháng 10 năm 1978, căn cứ vào
những vết máu, mồ hôi và chất nhờn da thịt
(skin oil) của Jesus hiện còn dính trên tấm vải
liệm, các nhà khoa học đã ước đoán Jesus cao 1
mét 82 và cân nặng 79 kí.
Tôi đã trình bày hơi dài dòng về vấn
đề này không ngoài mục đích để xác nhận
Jesus là một nhân vật có thật trong lịch sử. Trái
lại, Ki-tô là một huyền thoại chứ không
phải là một nhân vật có thật. Huyền thoại
Ki-tô đã phát sinh từ Babylon vào khoảng 4000 năm
trước Công Nguyên và huyền thoại này đã xâm
nhập vào Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái vào khoảng
thế kỷ 10 trước Công Nguyên. Cho tới nay,
những người theo đạo Do Thái vẫn tin
rằng Chúa Ki-tô chưa ra đời. Họ phủ
nhận Jesus là Ki-tô. Đối với họ, Jesus đã chết
không phải với tư cách của một Đấng
Cứu Thế (Ki-tô/Cơ đốc/Messiah) nhưng với
tư cách là một công dân Do Thái chống đế quốc
La Mã. Bọn đế quốc đã thần thánh hóa Jesus
bằng huyền thoại Ki-tô. Nói cách khác, Jesus đã
được chúng Ki-tô hóa để trở thành Thiên Chúa
(JESUS WAS CHRISTED) nhằm mục đích biến Jesus thành cái
Boomerang quay ngược trở lại tàn sát dân tộc Do
Thái để trả thù.
Tôi cũng đề nghị quý vị không
nên gọi Công Giáo là Thiên Chúa Giáo vì trên thế giới,
người ta gọi các dạo thờ chung Một Thiên
Chúa (one-God religions) là Monotheism tức Nhất Thần Giáo
hoặc Độc Thần Giáo chứ không có đạo nào
được gọi là Thiên Chúa Giáo cả. Monotheism
gồm có ba tôn giáo là Do Thái Giáo, Ki-tô Giáo và Hồi Giáo. Công
Giáo chỉ là một giáo phái của Ki-tô Giáo và Ki-tô Giáo
chỉ là một trong ba tôn giáo thuộc hệ thống Nhất
thần giáo mà thôi. Chúng ta đã biết rằng các
đạo thờ Chúa là sản phẩm của Tây
phương, bao gồm các nước Âu Mỹ và các
nước Do Thái Ả Rập, do đó chúng ta nên hiểu
tôn giáo này theo định nghĩa của họ. Đối
với người Tây phương, nếu nói tới
Monotheism là người ta nghĩ ngay đến những tôn
giáo bắt nguồn từ Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái
gồm có đạo Do Thái (Judaism) đạo Ki-tô
(Christianity) và đạo Hồi (Islam). Tất cả
mọi người ngoài ba tôn giáo này đều
được gọi là người ngoại giáo (heathen:
One who adheres to a religion that does not acknowledge the God of Judaism,
Christianity or Islam).
Chúng ta cũng không nên gọi Công Giáo La Mã là
Ca-tô Rôma. Theo tôi hiểu, quý vị muốn tránh dùng danh
từ Công Giáo vì quý vị cho rằng danh từ này ám
chỉ Công Giáo là quốc giáo (state religion/official religion of
state/public religion). Thật ra,nếu chúng ta hiểu chữ
Catholic là state religion hay public religion là chúng ta đã đánh
giá quá thấp ý đồ thâm độc của đế
quốc La Mã. Trong ba thế kỷ đầu Công Nguyên, không
có đạo Công Giáo mà chỉ có đạo Ki-tô với
rất nhiều giáo phái khác nhau. Năm 325, đế quốc
La Mã thống nhất các giáo phái Ki-tô bằng võ lực.
Năm 340, đế quốc La Mã đổi tên Ki-tô Giáo
thành Công Giáo, tiếng La Tinh "Catholica" có nghĩa là
toàn cầu (universal). Kẻ chủ mưu là hoàng đế
Constantine
không tin đạo Công Giáo nhưng đã cố tình biến
đạo này thành một công cụ chính trị giúp y
thực hiện mộng bá chủ toàn cầu dưới
chiêu bài tôn giáo. Y nêu ra khẩu hiệu "In Hoc Signo
Vinces" có nghĩa là "Với dấu hiệu Thánh giá,
ta sẽ chiến thắng thế giới". Tự
điển Bách Khoa Công Giáo đã viết rõ về
điều này như sau: "Constantine
favored Christianity merely from political motives and he has been regarded as
an enlightened despot who made use of religion only to advance his policy – The
Catholic Encyclopedia Volume 4, p.300). Thực chất Công Giáo La Mã
là mộ đạo do đế quốc La Mã lập nên trên
nấm mồ của Ki-tô Giáo nguyên thủy và đi
ngược lại giáo lý của đạo Ki-tô lúc ban
đầu chỉ thờ Một Thiên Chúa chứ không
thờ Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì đạo Ki-tô đã
được Đế quốc La Mã biến đổi
thành Công Giáo và Công Giáo đã thống trị tâm linh Âu Mỹ
nhiều thế kỷ nên ngưởi ta quen gọi Công Giáo
là Ki-tô Giáo. Cũng do đó, người ta đã gọi
Thiên Chúa Ba Ngôi là Thiên Chúa của Ki-tô Giáo (Xin đọc
chương 4, tác phẩm bestseller A HISTORY OF GOD của
cựu nữ tu sĩ Công Giáo Anh quốc Karen Armstrong, tác
giả trình bày vấn đề này hết sức rõ ràng
dưới tiểu đề "Trinity: The Christian God"
, tr. 107-131). Một số vị trí thức ngoài Công Giáo
đã lầm lẫn dịch chữ "Christian God: là
"Thần Gia-tô". Thật ra, Christian God có nghĩa là
"Thiên Chúa theo quan niệm của Ki-tô Giáo", tức
quan niệm về Thiên Chúa Ba Ngôi. Trong các Kinh Nguyện
bằng chữ Hán thì danh từ "Thần Chúa Gia-tô"
có nghĩa là "Đức Chúa Giê-su". Như vậy
Gia-tô là tiếng phiên âm chữ Hán để gọi tên
Giê-su. Còn chữ Christianity là Ki-tô Giáo theo phiên âm Việt Nam,
người Hán phiên âm là Cơ đốc giáo (bắt
nguồn từ chỗ phiên âm tiếng Hy Lạp Christos là
Cơ đốc). Tiến sĩ Lý Khôi Việt dịch
chữ "Christian God" là "Thần Gia tô" theo tôi
nghĩ là không đúng nghĩa (sách "Phật Giáo &
Quốc Đại Việt Nam" của tác giả Lý Khôi
Việt, Viện Tư Tưởng Việt-Phật
xuất bản năm 2000, trang 378). Giáo sư Trần Chung
Ngọc lầm lẫn Christian God với Thiên Chúa Jehovah (còn
gọi là Elohim tức con bò thần El) của đạo Do
Thái. Ông viết: "Theo Thánh Kinh Thần Ki tô đã dạy
dân mà Ngài chọn".
Nếu chúng ta thấu hiểu âm mưu vô cùng
thâm độc của đế quốc La Mã khi chúng
lập ra đạo Công Giáo (có nghĩa là tôn giáo toàn
cầu) vào năm 325, thì chúng ta sẽ cố gắng làm cho
đồng bào của chúng ta hiểu rõ ý nghĩa xâm
lược toàn cầu của chúng qua chiêu bài tôn giáo bịp
bợm hơn là phiên âm thành "Ca-tô-Rô-ma" vì tiếng
phiên âm này đã làm mất đi chữ CÔNG với ý
nghĩa nguyên thủy là tham vọng toàn cầu (universal)
của bọn đế quốc. Ngoài ra, cũng xin nói thêm
là sở dĩ người ta dùng danh từ Công Giáo La Mã (Roman
Catholic) cốt để phân biệt với nhiều giáo
phái Công Giáo khác như Công Giáo Ai Cập (Coptic), Công Giáo Hy
Lạp (Greek Catholic), Công Giáo Anh tức Anh Giáo (Anglicanism). Tôi
sẽ cố gắng trở lại vấn đề nêu
trên với đầy đủ chi tiết trong một bài
viết riêng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét