3.2. Bí Tích Rửa Tội
3.3. Bí Tích Thêm Sức
3.4 Bí Tích Mình Thánh Chúa
3.5. Bí tích Xưng Tội
3.6. Bí Tích Hôn Phối
3.7. Bí Tích Xức Dầu
Vài Lời Kết:
Khi trí tuệ nhân loại chưa mở mang thì những cái gọi là "bí tích" đó được tín đồ tin theo, không bàn cãi. Nhưng tiến hóa là một định luật của vũ trụ trong đó có con người, cho nên, với trình độ hiểu biết của con người ngày nay, những niềm tin mù quáng, vô căn cứ, hoang đường, phi lôgic, phản lý trí, phản khoa học v..v.. vào những "bí tích" trong Ca-Tô Giáo không còn chỗ đứng nữa, ít ra là trong giới có học, trí thức và khoa học, ở trong cũng như ở ngoài giáo hội. Trong những xã hội Âu Mỹ, số người đi lễ nhà thờ giảm sút một cách rõ rệt. Điều này chứng tỏ những "bí tích" không còn hấp dẫn đối với những tín đồ có trình độ hiểu biết cao. Hiện tượng nhà thờ vắng khách ở Âu Châu là một sự kiện không ai có thể phủ nhận. Trong khi đó, tại những nước chậm tiến như Phi Châu, Nam Mỹ, Mễ Tây Cơ, Phi Luật Tân và một số ốc đảo ngu dốt ở Việt Nam (từ của Linh Mục Trần Tam Tĩnh) cũng như trong những cộng đồng đông đảo người Việt di cư, trình độ dân trí còn thấp, cho nên tín đồ Ca-Tô vẫn còn đi lễ nhà thờ đông đảo và tin vào những cái gọi là "bí tích" mà Giáo hội dạy là do Chúa đặt ra, nhưng thực ra chỉ là Giáo hội đặt ra để tạo quyền lực tự ban cho giới chăn chiên trong việc kiểm soát và nắm giữ đầu óc tín đồ. Tuy nhiên, ngày nay có nhiều dấu hiệu cho thấy các quốc gia Phi Châu, Nam Mỹ và ngay cả trong những ốc đảo Ca-Tô ở Việt Nam, con người đã bắt đầu thức tỉnh, song song với sự mở mang dân trí trong những quốc gia này.
Trong Ca-Tô Giáo, có 7 "bí tích" chính, qua những lễ tiết và nghi thức đượm màu mê tín như: rửa tội, thêm sức, xưng tội và giải tội, ban thánh thể, truyền chức linh mục, hôn phối, và xức dầu. "Bí tích” Truyền Chức Linh Mục đột nhiên biến một người học nghề linh mục trong vài năm thành một người có quyền thay Chúa, tự nhận là “Chúa thứ hai” (Alter Christus) để thực hiện những phép lạ trong 6 "bí tích" còn lại. Với quyền năng tự tạo này của giới chăn chiên như linh mục, giám mục v..v.. , giáo hội có thể dùng 6 bí tích kia để ngự trị, kiểm soát, và mê hoặc tín đồ từ ngày sinh, bắt đầu bằng bí tích rửa tội, cho đến ngày chết, bằng bí tích xức dầu, dù rằng trong số các “Chúa thứ hai” này không thiếu gì các vị đi hiếp dâm chị em nữ tu của mình trên 27 quốc gia, và cưỡng dâm cả ngàn trẻ em ngây thơ vô tội đã được họ nhét Chúa vào trong đầu..
Sau đây tôi sẽ đi vào phần phân tích những bí tích trên, dựa trên tài liệu của những giới chức trong Ca Tô Giáo như giám mục, linh mục v..v.., những vị đã hành nghề chăn dắt tín đồ trong nhiều năm, đã thực sự làm chủ lễ những lễ tiết này nhiều lần, và do đó đã hiểu rõ và thấy rõ sự thực về những bí tích này hơn ai hết.
Trước hết là bí tích "Truyền Chức Linh Mục", vì bí tích này có thể nói là then chốt trong thủ đoạn ngụy biện, tạo ra những thần quyền cho giới lãnh đạo Ca-Tô mà mục đích chính là để nhốt những con cừu nhẹ dạ, cả tin, vào trong khuôn phép của giáo hội.
Linh Mục Joseph McCabe mô tả về sự đào tạo linh mục vào khoảng giữa thế kỷ 20 trong cuốn Sự Thực về Giáo Hội Ca Tô như sau:
Điều này đặt cái gánh nặng đào tạo họ hầu như hoàn toàn vào trong tay giáo hội, và sở học của họ thường rất nghèo nàn. Rất ít linh mục đọc được những tác phẩm của những tác giả viết bằng tiếng La Tinh (trừ Ceasar), hay là hiểu Horace, Tacitus, hay Juvenal. Về tiếng Hi Lạp, như là một quy luật, họ chỉ có một kiến thức sơ đẳng mà họ thường quên ngay. Về khoa học, lịch sử, và triết lý, theo cái nghĩa hiện đại, như là một quy luật, họ không có một kiến thức nào.
Khoa học được dạy trong một số rất ít các trường huấn luyện Linh mục và cũng chỉ ở trình độ sơ đẳng và trong một thời gian ngắn. Sử học được trình bày trong vài bài về lịch sử Ca- Tô, do các tác giả Ca-Tô viết.
Về khoa học và sử học, tôi không được học một bài nào trong suốt thời gian đào tạo, và, như tôi đã nói, cái "triết học" mà tôi học được chỉ liên hệ đến triết học hiện đại một cách ít ỏi như là sự liên hệ của khoa chiêm tinh học với thiên văn học.
Cái nền giáo dục mà giáo hội ban cho tôi đã được chứng tỏ rõ ràng khi tôi "trở lại đời". Tôi không thể kiếm được một chân dạy học với đồng lương 10 đô la một tuần. Ông Forbes, bạn tôi, sau khi khảo sát kiến thức của tôi, rất tiếc mà bảo tôi rằng, sở học của tôi thật là vô dụng. 3 Linh mục đồng nghiệp của tôi lặng lẽ bỏ giáo hội ra kiếm sống ở ngoài đời. Cả 3 đều thất bại và phải quay trở lại giáo hội. Giáo hội chắc chắn là có nhiều linh mục như vậy." [1]
Thí dụ như, trong môn triết học, chúng tôi học qua Berkeley, Hume, và Kant chỉ trong vòng 1 tuần lễ..Chúng tôi phải học thuộc lòng từng mỗi đề luận và định nghĩa và chứng minh rằng "lý trí" chỉ có thể dẫn một người lương thiện đến niềm tin. Chúng tôi là những người chân thật duy nhất vì chúng tôi đã bênh vực bằng "lý trí" tất cả những giáo lý về đạo đức của giáo hội. Giáo hội Ca-Tô chống ly dị và kiểm soát sinh đẻ, chống tự do ngôn luận và tự do tư tưởng, chống sự giải thoát con người khỏi những cơn đau đớn, chống ngoại tình, tất cả đều là những kết luận hiển nhiên của một "lý trí" không bị che mờ bởi ham muốn và lòng kiêu hãnh. Sự hiện hữu của hàng triệu người "không có lý trí" có vẻ như là không quan trọng đối với giáo hội... Đó là một nền giáo dục không có sự đồng tình, một sự huấn luyện không có sự giúp đỡ. Tôi nghe những gì họ muốn tôi nghe, và nói những gì ban giám đốc mong muốn tôi nói như vậy. Người nào chống đối thì bị gạt ra ngoài. Chỉ có những người phục tùng luật lệ, hay những kẻ ngây thơ, tiêu cực mới tồn tại. Sáng kiến không được khuyến khích trừ phi đi theo đường lối đã được chấp nhận. "Tà đạo" là danh từ để chấm dứt mọi luận cứ, và "Giáo hội dạy rằng" là nghị trình nhỏ hẹp của mọi tranh luận. Tôi không được giáo dục mà được nặn thành. Tôi không được khuyến khích suy nghĩ mà chỉ được huấn luyện để bênh vực giáo hội. Người ta không muốn tôi suy tư mà chỉ muốn tôi học thuộc lòng.
Chúa ơi! Tôi đã trở thành cái gì? Người đòi hỏi tôi dẫn dắt con chiên với sự yếu kém của xác thịt tôi, phục vụ những người đang vật lộn với tội lỗi, và tôi đã trở nên một người cứng rắn và thoải mái trong sự phục vụ chính mình. Tôi không phải là "một đấng Ki Tô khác", (Giáo lý Ca-Tô nhét vào đầu những tín đồ có đầu mà không có óc cái giáo lý giáo hội bịa ra để ngự trị trên đám tín đồ là: "Cha cũng như Chúa". Chẳng thế mà gần đây ở trong nước, trước những lời than phiền của giáo dân về sự bê bối của các Cha thì có ông Giám mục răn rằng: "Các con đừng có nói hành các Cha mà mắc tội với Chúa." (xin đọc bức thư ngỏ của LM Nguyễn Hữu Trọng gửi Giáo Hoàng và Hồng Y Phan Đình Tụng, đăng trong cuốn Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tập 2; TCN)) và tôi cũng không hẳn là một con người. Tôi chỉ là một tù nhân, một mẫu mực được tổng hợp, một kẻ bênh vực cho một quá khứ mệt mỏi.
Chúa ơi! Nếu tôi sẽ trở thành một linh mục thì trước hết hãy để cho tôi làm một con người đã. Đừng bắt tôi phải trốn đằng sau cái cổ áo thày tu, chức tước, cái bề ngoài giả dối của tôi. Đừng bắt tôi phải đưa ra những câu trả lời mà chính tôi không còn tin, hoặc bắt tôi phải đúc nặn giáo dân thành những người không có nhân tính và những người đần độn chỉ biết tuân phục. Hãy để cho họ biết đến những nghi vấn do chính miệng tôi nói ra, và hãy để cho họ nói ra những nghi vấn của họ một cách thật thà. Đừng để cho tôi trói buộc họ vào giáo luật và địa ngục, hoặc làm họ sợ hãi với những câu chuyện về cái chết bất ngờ..." [2]
Nói ngắn gọn - tôi không được giáo dục - tôi chỉ bị tẩy não. Tôi đã đạt đến trình độ khô cứng của sự hiểu biết trí thức xoàng xĩnh. Tôi đã trở nên một người máy, một linh mục với những lễ nghi thiêng liêng không rõ ràng, vô nghĩa ở sự hiệu quả của chúng cũng như là những bài ca của các thầy Pháp Haiti. Tôi là một kỹ thuật viên của giáo hội được huấn luyện để đúc nặn những bộ óc trẻ, dễ uốn nắn..." [3]
Từ những tài liệu trên, viết bởi các linh mục, chúng ta thấy rằng, trình độ kiến thức của các linh mục không có gì đặc biệt, và mục đích đào tạo các linh mục là biến họ thành những cái loa phóng thanh của Tòa Thánh Vatican, chứ không phải để mở mang đầu óc con người, mà trái lại để tẩy não, gò bó đầu óc con người theo một chiều hướng nhất định và do đó, những linh mục sau khi tốt nghiệp cũng giống như những con ngựa bị che mắt, chỉ biết đi theo một hướng nhất định. Cái hướng nhất định này là dùng mọi thủ đoạn để thu nhặt tín đồ, vơ vét của cải thế gian, ngự trị trên đám tín đồ thấp kém, và bảo vệ những tín lý đã lỗi thời của Ca-Tô Giáo qua những luận cứ Thần học mập mờ, ngoài khả năng phán đoán của đa số tín đồ ít học. Đọc những bài của các linh mục Việt Nam trên Internet chúng ta thấy rõ họ không làm gì hơn là tiếp tục nhồi nhét vào đầu tín đồ những điều mê tín đã không còn chỗ đứng trong thế giới ngày nay.
Vậy, chúng ta có thể tin được rằng, một người học vài năm trong trường Dòng để thành linh mục với một kiến thức thuộc loại một chiều như được mô tả trong các tài liệu trích dẫn ở trên, khi tốt nghiệp là được Chúa ban cho quyền thay Chúa để có thể làm một số những chuyện thuộc loại phù phép trong các bí tích hay không? Mà Chúa ở đâu mà ban quyền, Thánh Linh ở đâu mà linh mục nhận lãnh? Tất cả chỉ là một mớ luận điệu thần học mê tín, huyễn hoặc, hoàn toàn không có một căn bản hay bằng chứng thuyết phục nào, của giáo hội phát minh ra và nhét vào đầu tín đồ từ khi còn nhỏ. Vì bị nhồi sọ từ nhỏ nên các tín đồ đặt tất cả những niềm tin của mình vào những lời có tính cách lừa dối của giới chăn chiên mà không hề nhận ra những sự vô lý và mâu thuẫn cùng cực trong những nghi thức lễ tiết này như sẽ được chứng minh trong phần phân tích sau đây.
Thật vậy, nghi thức đầu tiên trong “bí tích” truyền chức linh mục là “đức giám mục im lặng đặt tay trên đầu mỗi vị phụ tế (nghĩa là những người sắp được phong làm linh mục) và cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ.”
Một câu hỏi được đặt ra là, lời cầu xin của giám mục có thể thành sự thật được không, cái gì chứng tỏ lời cầu xin đó được Chúa Thánh Thần chấp thuận, giả thử thực sự có cái gọi là Chúa Thánh Thần. Nếu giám mục cầu xin Chúa Thánh Thần cái gì cũng được thì bây giờ cả thế giới đã thành tín đồ Ca-Tô hết rồi, bởi vì chúng ta đã biết giám mục là những người mong ước, cầu nguyện, và hăng hái nhất trong việc sử dụng mọi thủ đoạn bất chính để Ca-Tô hóa thế giới hơn ai hết. Chúng ta cũng biết: “Mỗi năm vào tháng Giêng thường lịch, trong nhiều thập niên, các tín đồ Ca-Tô Rô-Ma (nghĩa là gồm giáo hoàng, hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục và con chiên), đã để ra 8 ngày để cầu nguyện (nghĩa là cầu xin Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần chấp thuận) cho sự thống nhất của giáo hội. Ý tưởng chính trong những ngày đó, từ 18 đến 25 tháng 1, là hi vọng giáo dân Tin Lành sẽ “trở lại” giáo hội chân thật duy nhất (nghĩa là Ca-Tô Giáo Rô-Ma) và Chính Thống Giáo Ki-Tô sẽ dẹp tiệm” (Xin đọc cuốn The Documents of Vatican II With Notes and Comments by Catholic, Protestant and Orthodox authorities: Each year in January, for many decades, Roman Catholics have offered eight days of prayer for church unity..The general idea behind those days of prayer, January 18-25, was the hope that the Protestants would “return” to the one true church, and the Orthodox schism would end).
Những lời cầu xin của cả tập thể Ca-Tô có kết quả gì hay không? Cầu xin làm sao mà ở Nam Mỹ mỗi ngày có tới 8000 tín đồ Ca-Tô bỏ đạo đi theo Tin Lành đến nỗi giáo hoàng John Paul II quá lo sợ trước sự hao hụt tín đồ, không kiềm chế được, phải thốt ra những lời thiếu đạo đức, phê bình các nhà truyền giáo Tin Lành là những “con chó sói đói mồi” (ravenous wolves) đến cướp đi tín đồ của Ca-Tô giáo? (Newsweek, Feb. 12, 1996). Nhưng trong “Tông Huấn Á Châu” ông ta lại khuyến khích những con chó sói đói mồi của ông ta đi kiếm mồi ở Á Châu để bù đắp lại sự hao hụt trầm trọng mồi của ông ta ở phương trời Âu, Mỹ. Đó là đạo đức của người mà giáo dân Việt Nam vẫn gọi là “đức Thánh cha”. Linh mục dòng đô-mi-nic David Rice đã viết về sự kiện Linh mục bỏ đạo trong cuốn Lời Nguyện Bị Tan Vỡ: Những Linh Mục Bỏ Đạo (Shattered vows: Priest Who Leave): “100,000 linh mục Ca-Tô Rô-Ma đã rời bỏ giáo hội trong 20 năm qua - cứ mỗi 2 giờ đồng hồ lại có hơn 1 linh mục bỏ ra đi” (100,000 Roman Catholic priests have walked out in the last 20 years - more than one every two hours)?
Nếu tin rằng lời giám mục cầu xin Chúa Thánh Thần xuống ngự trong những người sắp được phong linh mục biến thành sự thực thì chẳng lẽ khi linh mục bỏ đạo ra đi thì Chúa Thánh Thần cũng bỏ ra đi theo hay sao? Còn nữa, trong cuốn Xin Đừng Cám Dỗ Chúng Tôi: Linh Mục Ca-Tô và Vấn Đề Cưỡng Bách Tình Dục Các Em Nhỏ (Lead Us Not to Temptation: Catholic Priests and the Sexual Abuse of Children), học giả Ca-Tô Jason Berry đã đưa ra kết quả nghiên cứu: “Ở Bắc Mỹ, từ 1984 tới 1992, 400 linh mục Ca-Tô bị tố cáo là cưỡng bách tình dục trẻ em. [Tổng số linh mục loạn dâm bị truy tố ngày nay đã lên tới trên 5000] Cho tới nay, Berry ước tính, giáo hội đã bỏ ra hơn 400 triệu đô-la để giải quyết những vụ trên. Một nguồn nghiên cứu dự phóng là giáo hội sẽ phải tiêu tới 1 tỷ đô-la trước khi thế kỷ này chấm dứt. [Nay là trên 2 tỷ]” (In fact, between 1984 and 1992, 400 Catholic priests in North America have been reported for molesting children. To date, Berry estimates, $400 million has been paid by the church to resolve these cases. One source projects that $1 billion may be paid by century’s end.) Vậy nếu tin vào bí tích truyền chức linh mục thì Chúa Thánh Thần đã ngự trong các linh mục có trách nhiệm gì về những hành động vô đạo đức của các linh mục này không? Và khi linh mục vào tù vì những tội này thì Chúa Thánh Thần có theo họ vào tù hay không? Chúng ta cũng nên nhớ, khi được phong chức Linh mục thì các linh mục đã trở thành “Chúa thứ hai” rồi.
Vài tài liệu nêu trên kể cũng đủ để chứng minh rằng lời cầu xin Chúa Thánh Thần xuống ngự trong người sắp được phong chức linh mục tuyệt đối không có một giá trị cụ thể nào. Tất cả chỉ là những luận điệu thần học bày đặt ra để mê hoặc con nít và đám tín đồ thấp kém ngõ hầu tạo quyền lực hoang đường cho giới linh mục để họ có thể kiểm soát, thống trị con chiên. Những tài liệu này cũng cho thấy câu sau cùng trong nghi thức truyền chức linh mục: “Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần, chúng con tha tội cho ai thì họ được tha, cầm giữ ai thì họ bị cầm giữ” thật là láo lếu, phách lối, lừa bịp và hoang đường. Câu này mạ lỵ đầu óc con người và xúc phạm nặng nề những người không phải là tín đồ Ca-Tô. Những linh mục vô đạo đức như trên có thể tha tội cho ai khi chính mình đã phạm những tội mà người thường chẳng có mấy ai làm. Như trên tôi đã chứng minh, lời cầu xin của giám mục là vô giá trị, vậy Chúa Thánh Thần ở đâu mà nhận. Và Chúa Thánh Thần trao quyền tha tội và cầm giữ tội cho linh mục như thế nào? Qua vài lời hoang đường thuộc thời bán khai của ông giám mục? Thực chất của bí tích truyền chức linh mục ra sao? Không ai biết rõ hơn linh mục Joseph McCabe, một người đã hành nghề linh mục hơn 20 năm, khi ông viết:
Nó đúng là như vậy trong bí tích “dòng thánh” hay là phong chức linh mục.. Nghi thức truyền chức linh mục chỉ là một tập hợp những hành động huyền bí với những lời cầu nguyện cổ lỗ có tính cách rối răm, mê hoặc và lạ lùng đối với khán giả bên ngoài. Người ta cho là nó có hiệu lực đến độ sau đó ông linh mục có thể ra lệnh cho quỷ đi đâu thì đi, tha tội, và biến mẩu bánh thánh Chúa Ki-Tô. Đó là điều người láng giềng Ca-Tô của bạn tin thật như vậy. [4]
Cha, Người đỡ đầu (NĐĐ): xưng tên thánh đứa trẻ...
LM: Con xin gì cùng giáo hội Chúa?
NĐĐ: Con xin đức tin.
NĐĐ: Sinh sự sống đời đời.
Nhưng điều đáng nói nhất ở đây là, trong Thánh Kinh đã viết rõ là Chúa Giê-su đã chiến thắng Satan, vậy Satan còn ở đâu nữa mà đuổi. Thật vậy, Colossians 2: 15: Thượng đế đã tước hết uy quyền thống trị của Satan, công khai phô bày cho mọi người biết Chúa Cứu Thế đã chiến thắng nó tại cây thập tự; và John 12: 31: Đã đến lúc thế gian bị xét xử, và Satan, kẻ thống trị thế gian bị trục xuất. Vậy, Chúa đã chiến thắng Satan rồi, giáo hội lại phục hồi quyền lực của nó, cho nó cái quyền khuấy khuất thiên hạ, nhét nó vào trong những đứa trẻ chưa biết gì, và dạy rằng linh mục có khả năng đuổi Satan ra khỏi đứa bé trong cái bí tích gọi là rửa tội. Thật là một sự lừa bịp trắng trợn đối với giới hiểu biết, nhưng lại rất hữu hiệu đối với những người không có đầu óc suy nghĩ, không đọc Thánh Kinh, và không hề thấy sự mâu thuẫn trong những lời giải thích quanh quẩn của giáo hội về vai trò của Satan)
Ở Giếng Rửa Tội:
- LM đổ nước ba lần thành hình thánh giá trên đầu kẻ chịu phép rửa tội, vừa đổ vừa đọc lời rửa tội.
- LM lại xức dầu thánh trên đỉnh đầu đứa nhỏ đã trở nên giáo hữu được dự phần con cái trong gia đình Chúa Kitô.
- LM trao áo trắng cho đứa nhỏ mà nói rằng: Con hãy nhận lấy áo trắng này. Ước gì con sẽ giữ mãi cho tinh truyền, tới ngày ra trước tòa Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta mà lĩnh sự sống đời đời.
Con hãy nhận lấy ngọn nến sáng này. Hãy giữ luật Chúa, bảo vệ ân sủng đã nhận khi chịu phép rửa tội. Như vậy, tới ngày Chúa đến ban tiệc cưới đời đời, con sẽ có thể cùng các thánh ra đón rước Người, đi vào triều đình thiên quốc, hưởng phúc đời đời.
Đoạn LM chúc lành bình an cho đứa nhỏ.
Bản văn của nghi thức rửa tội đã chứng minh rằng “bí tích” rửa tội vô giá trị vì không có gì chứng tỏ là cái "tội tổ tông" hoang đường, nếu có, đã được rửa sạch, quyền lực của Linh mục chỉ là giả tạo để lừa dối tín đồ vì không có gì bảo đảm là Sa Tăng đã rút lui nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần trừ phi chúng ta hiểu rằng Sa Tăng và Chúa Thánh Thần tuy hai mà là một, theo như tinh thần bản văn và những thực tế ở ngoài đời. Thật vậy, sách Giáo Lý Công Giáo viết, trang 153:
Sau đây chúng ta hãy đọc linh Mục Joseph McCabe viết về lễ rửa tội. Linh mục đã làm lễ này cho tín đồ trong 25 năm. Sau cùng ông đã viết sách trình bày những điều ông nhận xét về Ca-Tô Giáo Rô-Ma. Ông viết rất nhiều, về đủ mọi khía cạnh của Ca-Tô Giáo. Ngoài ra, ông còn viết một bộ Sử Thế Giới, bộ Sử này đã được nhiều đại học Mỹ dùng làm sách giáo khoa trong nhiều năm. Đoạn sau đây là trích từ cuốn Sự Thực Về Giáo Hội Ca-Tô:
Do đó, đứa trẻ được mang vội tới nhà thờ chiều ngày Chủ Nhật ngay sau khi sanh. Nếu nó bị cảm lạnh và chết thì cha mẹ không được than khóc. Nó đã đi thẳng lên thiên đường, nơi tuyệt đối không có tì vết nào...Tuy nhiên, ngày nay nước rửa tội đã được làm ấm, và rồi cái lễ kỳ quặc bắt đầu..."
Thật khó mà có thể thảo luận bí tích số 1 này một cách nghiêm túc. Nhổ nước bọt và quỷ, dầu thánh và nước thánh, đèn cầy thắp sáng và hộp thu tiền, đã đủ hoang đường rồi, nhưng cái nguyên lý chủ yếu của lễ rửa tội này thật là không thể chịu được. Ngay cả ý tưởng đọa đầy tương đối nhẹ những đứa trẻ không rửa tội (vào một nơi u ám, cánh tay nối dài của hỏa ngục như đã viết ở đoạn trên. TCN), với tất cả sự thích hợp với thời đại mới, cũng quá ngu xuẩn để có thể viết lên thành lời. Ngày nay có những học giả Gia Tô coi chuyện Adam và vườn Eden như là "một huyền thoại thích thú." Tuy vậy, bí tích này vẫn là giáo điều xác định rõ ràng và bắt buộc của giáo hội, rằng đứa trẻ nào sinh ra đời, (trừ Mary - đây chính là nghĩa thực của "thụ thai vô nhiễm") đều phải mang "cái tội của Adam", và phải trải qua những nghi thức kỳ lạ tôi đã mô tả." [5]
.. Cái giáo hội mà ngày nay đang suy sụp , bị ngự trị bởi một giáo hoàng thuộc thời Trung Cổ (John Paul II), và theo ý tôi, dù ông ta có thay đổi kỹ thuật (để lừa dối tín đồ) đi chăng nữa, cũng không thể làm gì được để ngăn chặn sự tàn lụi một cách dứt khoát và mau chóng trong thiên niên kỷ thứ ba, ít ra là dưới cái dạng thái Rô-Ma của nó, một giáo hội phải dùng đến ảo thuật để thực hiện hai "bí tích chính" của mình. Mới đầu, với một chút nước và vài câu đối thoại khôi hài, Giáo hội giật đứa trẻ sơ sinh ra khỏi móng vuốt của con quỷ giam cầm đứa trẻ trong cái "tội tổ tông" (tác giả muốn nói đến bí tích "rửa tội". TCN), rồi, bằng vài lời lẩm bẩm, giáo hội gài vào trong một mẩu bánh thân thể, thân thể thực sự bằng xương bắng thịt của Giê-su Ki Tô để cho tín đồ dùng qua đường ăn uống (tác giả muốn nói đến bí tích "ban thánh thể". TCN). [6]
Một là tin vào hiệu năng của bí tích rửa tội qua quyền phép ảo thuật của linh mục hay giám mục mô tả trong nghi thức rửa tội. Vậy thì tất cả những tội lỗi của Ca-Tô Giáo đối với nhân loại là tội của Chúa Ba Ngôi, vì sau khi rửa tội, Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần đã thay SaTăng tới ngự trong tâm hồn của các tín hữu Ca-Tô. Người giáo hữu đã trở nên đền thờ nơi Chúa ngự. Những hành động của các tín đồ Ca-Tô, do đó, đều không phải là do Sa Tăng có quyền khuấy khuất, vì Sa Tăng đâu có còn trong người nữa, mà chính là do sự hướng dẫn tâm linh của Chúa Thánh Thần. Vả chăng, giáo hội thường dạy các con chiên: Giáo hoàng là do sự mạc khải linh ứng của Chúa Thánh Thần cho các hồng y trong việc tuyển lựa giáo hoàng, giáo hoàng được Thánh linh chỉ đạo, không thể sai lầm về đức tin hay đạo đức, và giáo hội là nhiệm thể của Chúa Ki Tô cho nên không thể sai lầm. Nhưng nay giáo hoàng đã chính thức xưng thú 7 núi tội ác mà giáo hội đã phạm đối với nhân loại và xin được tha thứ. Và chúng ta cũng đã biết đạo đức của một số Giáo hoàng trong lịch sử giáo hội là như thế nào. Vậy, đúng ra điều này phải được giải thích là chính Chúa Thánh Thần ngự trong các giáo hoàng, trong các tín đồ Ca-Tô, trong giáo hội, đã là nguồn gốc của mọi tội lỗi mà giáo hội cũng như những cá nhân trong giáo hội gây ra.
Hai là tin rằng tất cả những tội lỗi của giáo hội Ca- Tô đối với nhân loại không phải do Chúa chủ mưu, mà chính là do Sa Tăng khuấy khuất. Điều này đưa đến sự vô hiệu của bí tích rửa tội. Quyền năng đuổi bỏ Sa Tăng của linh mục là quyền giả tạo, vì đã năm lần bảy lượt đuổi Sa Tăng ra khỏi đứa trẻ để nhường chỗ cho Chúa Thánh Thần mà sau cùng Chúa Thánh Thần vẫn bị đánh bạt ra khỏi người đứa trẻ. Nói tóm lại, dù trong lễ rửa tội, linh mục đã làm đủ mọi cách, sử dụng mọi quyền phép Chúa ban cho, theo như những lời "giáo hội dạy rằng" mà thực chất là để ngự trị đám tín đồ thấp kém, tội tổ tông vẫn không rửa được, Chúa vẫn thua Sa Tăng, đứa trẻ khi lớn lên vẫn không đủ sức chống nổi Sa Tăng, tâm hồn người đã rửa tội vẫn không có Chúa ngự. Những ân sủng mà linh mục thay Chúa ban cho người chịu phép rửa tội chỉ là những bánh vẽ ở trên trời, và lẽ dĩ nhiên, chẳng làm gì có sự sống đời đời, cứu cánh chung cùng của "bí tích" rửa tội, như các ông linh mục thường hứa hẹn khi làm lễ.
Cũng vì nhận rõ được tính chất hoang đường và lỗi thời của "bí tích rửa tội", của vai trò "chuộc tội" và "cứu rỗi" của Giê-su, mà trong cuốn Tại Sao Ki Tô Giáo Phải Thay Đổi Không Thì Chết, Giám mục John Shelby Spong đã dành riêng chương 6 để viết về đề tài Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ (Jesus as Rescuer: An Image That Has To Go). Trong chương này, Giám Mục Spong viết như sau:
Cũng vì vậy mà Giáo sư Thần Học Uta Ranke-Heinemann đã nhận ra những điều hoang đường về vai trò của Chúa Thánh Thần ngự trong giáo hội cùng hiện diện trong các “bí tích” và viết:
Trên đây, tôi đã phân tích và trình bày tất cả những sự hoang đường phi lý và mâu thuẫn trong những bí tích truyền chức linh mục và rửa tội. Tất cả những bí tích khác trong Ca-Tô Giáo Rô Ma đại loại đều như vậy cả. Tuy nhiên, để cho vấn đề phân tích các bí tích được đầy đủ, sau đây tôi sẽ bàn qua đến 5 bí tích còn lại. Trước hết là “bí tích” thêm sức.
Bản chất của sự cứu rỗi này chỉ là một cái “bánh vẽ trên trời”, theo như nhận định của mục sư Ernie Bringas, nhưng lại rất hấp dẫn đối với những người đầu óc yếu kém, cần đến một cặp nạng để giúp cho mình lê lết trên cuộc đời. Một khi ăn phải cái bả “cứu rỗi” rồi thì tín đồ không còn có thể suy nghĩ gì khác, tất cả đều phải nghe theo mọi giải thích của giáo hội, bất kể những giải thích này phi lý đến đâu, nếu muốn được lên thiên đường cùng Chúa. Cho nên, khi “giáo hội dạy rằng”, Chúa hoặc “đức thánh cha” đã ban cái quyền “làm phép” cho các giám mục, linh mục trong mọi nghi thức thực hành các nhiệm tích, thì tín đồ chỉ có việc nghe theo và bắt buộc phải tin. Không tin thì bị giáo hội khai trừ ra ngoài “hội thánh”, nghĩa là giáo hội đã cấm Chúa, không cho phép Chúa được cứu rỗi những người này. Những điều phi lý có tính cách mê tín, trịch thượng, cướp quyền Chúa này vẫn còn nhiều triệu người trên thế giới tin. Tuy nhiên cũng đã có cả triệu người gồm đủ các giới trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma, từ hồng y trở xuống, không còn tin nữa, và họ đã hoặc bỏ đạo, hoặc viết sách vạch trần những sự lừa dối trong nền thần học Ki Tô Giáo. Tuyệt đại đa số những cuốn sách thuộc loại này là do những tác giả và giới lãnh đạo trong Ki-Tô giáo viết chứ không phải do những người “ngoại đạo” viết.
Bây giờ chúng ta hãy trở lại nhiệm tích Thêm Sức. Tôi xin nhắc để chúng ta cùng nhớ rằng, trong nhiệm tích “Rửa Tội”, vị linh mục làm lễ đã năm lần bảy lượt làm phép đuổi Sa-Tăng ra khỏi đứa con nít, nhường chỗ cho đức Chúa Thánh Thần ngự vào, và sách Giáo Lý Công Giáo cũng khẳng định là: "Khi chịu phép rửa tội rồi, ta được Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần tới ngự trong tâm hồn. Người giáo hữu trở nên đền thờ Chúa ngự."
Nhưng đoạn mà sách Giáo Lý Công Giáo trích dẫn từ Thánh Kinh ở trên lại cho chúng ta biết vì lý do nào mà tín đồ phải chịu làm lễ Thêm Sức: “Bởi vì Chúa Thánh Thần chưa ngự xuống trong lòng một người nào cả; họ chỉ mới chịu phép rửa tội nhân danh Chúa Giêsu mà thôi.”
Điều này chứng tỏ là trong lễ rửa tội, Chúa Thánh Thần chưa tới ngự trong tín đồ. Kết luận? Những chuyện làm phép của giới linh mục trong lễ rửa tội là do giáo hội bày đặt ra để lừa dối đám tín đồ với mục đích chính là tạo những quyền lực thần thánh giả tưởng cho giới chăn chiên. Còn nữa, đoạn mô tả nghi thức làm lễ Thêm Sức viết: Ngài (đức Giám Mục) giơ hai tay trên đầu họ để cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống tâm hồn họ. Như vậy là trong tâm hồn của đứa trẻ đã rửa tội không hề có Chúa Thánh Thần nên đến khi mười lăm, mười sáu tuổi, lúc làm lễ Thêm Sức, nó mới được đức Giám Mục cầu xin (nghĩa là sai khiến) đức Chúa Thánh Thần xuống ngự trong tâm hồn nó.
Vậy, lễ Rửa Tội hoàn toàn vô ích, và những điều giáo hội dạy về lễ rửa tội là không thực. Nếu lễ Rửa Tội đã là vô ích, thì có gì bảo đảm là lễ Thêm Sức có ích, và có gì bảo đảm là Chúa Thánh Thần chịu nghe theo lời sai khiến của ông giám mục xuống ngự trong tâm hồn đứa trẻ? Không có gì bảo đảm cả, trái lại, đó cũng chỉ là một luận điệu thần học lừa dối những đầu óc thấp kém, vì chúng ta cũng đã biết trong nghi thức truyền chức linh mục, khi mà đứa trẻ, sau khi chịu lễ rửa tội, rồi lễ thêm sức, lớn lên muốn làm linh mục, thì lại có cảnh “đức giám mục im lặng đặt tay trên đầu mỗi người sắp được phong làm linh mục và cầu xin Chúa Thánh Thần ngự xuống trên họ.” Điều này chứng tỏ một cách rõ ràng là trong lễ rửa tội và lễ thêm sức, Chúa Thánh Thần không hề nghe lời sai khiến của ông Giám mục xuống ngự trong những đứa con nít và những đứa trẻ đến tuổi dậy thì.
Giả thử chúng ta tin vào cái chuyện hoang đường là có Chúa Thánh Thần thật và Người xuống ngự trong những tín đồ thật, thi hành lệnh “cầu xin” của các ông giám mục hay linh mục, trong những lễ tiết như rửa tội, thêm sức, và truyền chức linh mục, thì những điều tôi vừa phân tích ở trên đã chứng tỏ rằng sau mỗi lễ tiết, Chúa Thánh Thần lại bỏ các tín đồ đi chơi chỗ khác, thăm người tình cũ là Mary chẳng hạn, đến khi cần thì lại được mấy ông giám mục, linh mục gọi về. Về trong vài phút rồi lại bỏ đi. Cuối cùng, trong người tín đồ cũng chẳng bao giờ có Chúa Thánh Thần ngự cả. Đây là điều hiển nhiên nhất.
Linh mục Joseph McCabe đã nhận ra sự hoang đường trong nhiệm tích Thêm Sức nên đã viết trong cuốn Sự Thực Về Giáo Hội Ca-Tô như sau:
Đó là tôi dùng lý trí để đưa ra một kết luận, dựa vào những điều tôi biết về bộ máy tiêu hóa của con người mà tôi đã học ở những lớp Trung học. Nhưng Linh mục Joseph McCabe lại có cái nhìn khác về lễ ban Thánh Thể vì ông ta đã làm lễ này không biết bao nhiêu lần trong các nhà thờ. Trong cuốn Sự Thực Về Giáo Hội La Mã ông viết như sau:
Giáo điều về lễ ban Thánh Thể của Giáo Hội thường không được rõ ràng. Không phải vì Giáo hội trình bày sai nhưng vì sự kiện là: một người ngoại đạo không tin được rằng bất cứ một con người hiện đại có học thức nào lại có thể tin được những điều như vậy. Họ biết Giáo hội dạy rằng có sự hiện diện đích thực của Thần Ki-Tô trong bí tích ban Thánh Thể. Đã quen thuộc với niềm tin rằng Thần Ki-Tô ở khắp mọi nơi, họ không thấy một ý nghĩa trí thức to lớn nào trong bí tích này. Họ không biết, và không thể bị thuyết phục, rằng những tín đồ Ca-Tô tin, và giáo hội của họ đoan chắc một cách giáo điều rằng, cái ở trước mắt họ rõ ràng là bánh và rượu, sau vài lời Thánh hóa, lại không phải là bánh và rượu, mà là chính nhục thân sống của Giê-su Ki-Tô, từ đầu tới chân.
Trong buổi đầu của thời Trung Cổ, cũng như trong nhiều triệu tín đồ Ca-Tô vô học ngày nay, giáo hội không cần tới một sự giải thích nào về sự biểu hiện của bánh và rượu, cũng như không cần tới một toan tính giải thích nào về tại sao nhục thân của Chúa Ki Tô cùng lúc ở trên thiên đường và hàng triệu nơi khác trên trái đất. Đối với những đầu óc như vậy, họ có thể tin bất cứ điều gì. Mọi giải thích cũng rườm rà như mọi lý luận.
Thật là rất thuận tiện. Bằng một hoạt động siêu nhiên, trong buổi lễ, cái "thể" vô hình của bánh và rượu được thay thế bằng cái "thể" của nhục thân thực, sống động của Chúa Ki Tô. Còn về tại sao nhục thân của Chúa Ki Tô có thể cùng lúc ở hàng triệu nơi khác nhau, và toàn bộ nhục thân này hiện hữu trong một mẩu bánh, thì câu trả lời là - hãy cúi đầu tuân phục bí nhiệm của sự "biến thể". [10]
Học giả Henri Guillemin cho bí tích này là một trò ảo thuật của giáo hội bày đặt ra và viết trong cuốn Cái Giáo Hội Khốn Nạn (Malheureuse Église, 1992) như sau:
Thật là hiển nhiên, bí tích này cũng như bí tích hôn phối, được tạo ra với mục đích chính là để kiểm soát hoàn toàn con chiên.
Sau vài lời cổ võ, tôi làm dấu chữ thập với tính cách ma thuật, và nhắc lại cái công thức trang nghiêm tha tội: không phải là "Chúa tha tội cho con", mà là "Ta tha tội cho con".
Bí tích thú tội chắc sẽ giúp một số người, nhưng đại để hạ thấp những người khác; nó chỉ là một sự cần thiết đau khổ, vô thưởng vô phạt đối với tuyệt đại đa số. Cái tính chất tai hại của nó là sự ngu đần khó tin được. Nó được chính thức bày đặt ra trong thế kỷ 13, như là một giáo điều bắt buộc bởi các linh mục muốn kiểm soát hoàn toàn Âu Châu, mà tín đồ Ca-Tô tin như là Chúa đặt ra. Cái ý nghĩa chủ yếu của nó - quyền tha tội của một linh mục trẻ tay đã được thoa dầu - thật là thô thiển. Nó chẳng phải là, như một số người ngoại đạo nhiều tình cảm đôi khi tưởng, một phương cách tốt để cổ súy đạo đức. [11]
Mặc dù những lời long trọng tuyên bố, cam đoan của Giáo hội Ca-Tô, rằng giáo hội là giáo hội duy nhất do Chúa thành lập, rằng giáo hội là hội thánh, có thể và đích thực tạo sự thánh thiện trong những tín đồ, giáo hội Ca-Tô Rô-Ma trong quá khứ đã thất bại trong việc nâng cao trên đầu ngọn cờ đạo đức. Và trong thời đại này của chúng ta, giáo hội tiếp tục chứa chấp, che dấu nhiều người phạm trọng tội và nhiều kẻ tội lỗi hơn các giáo hội khác, hơn cả đám người không theo tôn giáo nào..
Một sự giải thích có ý nghĩa về phần lớn những sự phạm tội của tín đồ Ca-Tô Rô-Ma nằm ngay trong cấu trúc của đạo Ca-Tô. Qui tắc ứng xử của giáo hội được xây dựng trên những lễ tiết và sự mê tín hơn là trên ý niệm tôn giáo chân thật, đạo đức theo lý trí, tự học, và tự kiểm.
Cái lễ tiết quan trọng nhất để kiểm soát và phục hồi cách ứng xử của tín đồ là lễ xưng tội, còn được gọi là nhiệm tích thống hối. Nó là tột đỉnh của sự mê tín trong cái túi chứa những đồ lừa bịp và bùa phép của giáo hội từ nhiều thế kỷ.
Lễ tiết xưng tội là một sự mê tín mà tự điển Webster đã định nghĩa như sau:
Một thái độ phi lý khốn cùng của đầu óc hướng về siêu nhiên, thiên nhiên hoặc Thiên Chúa bắt nguồn từ vô minh, từ sự sợ hãi phi lý cái mình không biết hay không hiểu, một sự thận trọng bệnh hoạn, một niềm tin vào ảo thuật hoặc may mắn, vào sự hướng dẫn hoặc dẫn giải về thiên nhiên sai lầm của tôn giáo vô ngộ (unenlightened); ..bất cứ niềm tin, quan niệm, hành động hay sự thực hành nào phát xuất từ một tâm cảnh như trên..một ý tưởng phi lý cố định.. một khái niệm được duy trì mặc dù có những bằng chứng đối ngược.
Thật là bất hạnh cho những tín đồ Ca-Tô sùng tín vì định nghĩa này áp dụng quá đúng cho cái mà chúng ta được dạy là một bí tích được Chúa Ki-Tô thành lập để làm sạch hoàn toàn những linh hồn tội lỗi và khôi phục chúng về “trạng thái được ân huệ”. [12]
Chúng ta cũng nên nhớ, trong những thế kỷ 18, 19, khi mà giáo hội Ca-Tô đồng hành với các thế lực thực dân để đi truyền đạo trong những nước yếu kém bị thực dân xâm chiếm, thì nhiệm tích xưng tội là phương tiện hữu hiệu nhất để các giám mục, linh mục khai thác lòng mê muội của đám tín đồ cùng dân làm công tác tình báo. Chuyện này rõ ràng nhất ở Việt Nam. Lý do chính mà Tôn Thất Thuyết ra đạo luật chống Ca-Tô Giáo năm 1885 là vì “chính cái nhiệm vụ lấy tin tức tình báo của những cộng đồng Ca-Tô mới thật đáng sợ” (Xin đọc Trần Lục: Thực Chất Con Người và Sự Nghiệp của Bùi Kha và Trần Chung Ngọc, trang 121).
Trong phép hôn phối Chúa nối kết đôi dự hôn lại thành một cuộc phối hợp thánh và không chia lìa được..
Ai muốn lập gia đình với ai thì lập. Chúa không có việc gì làm khác hay sao, chẳng hạn như tạo chỉ một ngày trên thế giới không có chiến tranh bắn giết lẫn nhau, mà lại đi quan tâm đến việc hai người sắp sửa được ngủ với nhau? Hơn nữa, mỗi ngày, mỗi phút, trên thế giới có biết bao nhiêu tín đồ Ki-Tô lập gia đình, Chúa ở đâu mà đi khắp nơi để mà kết hợp cùng lúc bao nhiêu cặp để cho “thành một sự phối hợp thánh và không thể chia lìa được”? Linh mục Joseph McCabe viết về bí tích hôn phối như sau trong cuốn Sự Thực về Giáo Hội Ca-Tô:
Thánh Giacôbê tông đồ viết: “Nếu ai trong anh em bị đau yếu thì phải lo mời các linh mục trong giáo hội tới, để các ngài xức dầu nhân danh Chúa Ki Tô và cầu nguyện cho bệnh nhân. Kinh nguyện đức tin sẽ cứu thoát bệnh nhân và Chúa sẽ nâng đỡ họ. Nếu họ có tội thì cũng được tha thứ”.
Lời thánh Giacôbê tông đồ chứng tỏ ngay từ thời các tông đồ đã có làm phép xức dầu bệnh nhân. Mà các ngài chỉ định làm như vậy là bởi Chúa đã lập phép này.
Chúng ta đã biết, thời các tông đồ không làm gì có giáo hội và linh mục. Thời đó, Giê-su chỉ có 12 tông đồ, và tất cả đều bỏ trốn trong ngày Chúa bị đóng đinh trên thập giá vì sợ vạ lây. Vậy giáo hội ở đâu ra, và linh mục ở đâu ra? Hơn nữa, thánh kinh đã viết rõ, Giê-su tin rằng ngày tận thế gần kề, sẽ xảy ra ngay trong thế hệ của ông, vậy chuyện truyền cho Phê-rô lập giáo hội là chuyện giáo hội bịa đặt ra về sau để cho giáo hoàng chiếm ngôi vị kế vị Phê-rô, nghĩa là kế vị Chúa. Cũng vì vậy mà David Voas, giáo sư đại học New Mexico State, đã cho rằng thư của tông đồ James (Giacôbê) là ngụy tạo (The epistle is a forgery). Phân tích câu của Giacôbê ở trên chúng ta thấy rằng đó là niềm tin cổ xưa của người Do Thái, tin rằng bệnh tật là do tội lỗi sinh ra hoặc do quỷ ám, và những lời cầu nguyện không được đáp ứng là vì không đủ đức tin. (It would be dreadful for anyone to think that illness is caused by sin, or that prayers fail for lack of faith).
Tôi nghĩ rằng, ngày nay chẳng có mấy người theo lời “thánh tông đồ” Giacôbê kia. (Tôi không hiểu tại sao sách Giáo lý Công Giáo do tiến sĩ thần học Nguyễn Khắc Xuyên dịch mà lại dịch James là Giacôbê, trong khi những bản kinh thánh bằng tiếng Việt dịch là Gia-Cơ). Khi đau yếu, tôi tin rằng tín đồ đi tới bác-sĩ hay thầy lang để chẩn bệnh chứ chẳng có ai gọi “linh mục trong giáo hội” đến xức “dầu thánh” và cầu nguyện để Chúa làm cho họ khỏi bệnh. Có lẽ chỉ khi sắp chết mới mời linh mục đến xức dầu để được Chúa xá hết tội lỗi và cho lên “thiên đường” sống đời đời cùng Chúa. Niềm tin này vô hại, vì nó không đụng chạm tới ai, trừ phi nó được biểu thị qua hành động bán khai của một số người trong trường hợp liên hệ tới họa sĩ Trần Đại Lộc: thừa khi người nhà đi vắng, kéo đến làm càn và “ban cho” họa sĩ những hai tên “thánh”, chẳng biết là thánh loại nào, thánh hoang dâm như David hay thánh Việt gian, Tàu gian v..v.., không cần biết ông ta có muốn hay không.
Linh mục Georges Las Vergnas có bàn về các bí tích trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma trong cuốn Tại Sao Tôi Bỏ Giáo Hội Rô-Ma. Sau đây là một đoạn điển hình:
Những bí tích không những chỉ vô lý mà còn có tính cách phỉ báng. Rabelais đã chẳng nói: Tôi gọi đó là “nhạo báng Gót”.
Tôi còn cho rằng tất cả “lòng mộ đạo” Ca-Tô chỉ là tập hợp những trò lừa bịp và cách thức để biến đổi linh mục thành một tên “lang băm” và tín đồ thành kẻ đần độn.
Linh mục biết rõ sự đần độn của con người là vô tận: họ khai thác điểm này. [14]
Sau cùng, tôi đã bị lừa bởi trò bịp trong môn nghĩa ngữ học rất thịnh hành trong bộ môn giả khoa học là siêu hình học. Từ “biến thể” (trong lễ ban thánh thể, cho rằng bánh và rượu sẽ biến thành thịt và máu Chúa do sự phù phép của linh mục. TCN) gây nên sự khá kinh sợ cho những đầu óc chất phác. Khi từ này lại do một người có thẩm quyền như một linh mục, mô tả tại sao bánh và rượu có thể đổi cái “thể” mà không đổi “tính chất” thì rất dễ làm cho người ta tin. Hơn nũa, ai mà chẳng thích trò ảo thuật. Nó chắc chắn là hấp dẫn hơn là đi đào sâu vào triết lý thực nghiệm của David Hume hay sự phân tích sắc xảo của Ludwig Feuerbach. Chính hai người này đã là những người đầu tiên vạch rõ điều hiển nhiên như sau: cho rằng một vật (thể) hiện hữu mà không có thuộc tính (tính chất) thì cũng ngớ ngẩn như là cho rằng ngược lại, nghĩa là có “tính chất” mà không có “thể”. (hãy chỉ cho tôi một cái “không có gì (nothing) mà lại dài”, hoặc “không có gì mà lại xanh hay cứng). Do đó, không có những vật thể hiện hữu riêng biệt nào có thể “biến thể” một cách có tính cách ảo thuật. (Tác giả viết đoạn này quá ngắn gọn nên hơi khó hiểu. Vấn đề tác giả muốn nói là: bánh và rượu có những tính chất riêng của nó, thí dụ như bánh thánh thì có vị của bột, và rượu thì có vị ngọt hoặc hơi chát của rượu. Tín đồ ăn bánh và uống rượu chỉ thấy vị (tính chất) của bánh và rượu, chứ không thấy vị của thịt và máu Chúa, cho nên chuyện “biến thể” là chuyện không tưởng. TCN). Một lần nữa, các nhà thần học đã thành công trong việc làm mê mẩn đầu óc con người bằng những từ vô nghĩa. Tất cả những bí tích, giống như những ngày lễ, biểu tượng của Ki Tô Giáo, chỉ là những toan tính đơn giản để thích nghi với những tín ngưỡng dân gian. Đối với những người không có thiên kiến, có đầu óc suy lý, thì chúng ta có tràn ngập những bằng chứng để đi tới kết luận này. [15]
Chú Thích:
[1]. Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, pp. 89-90: Recruits are now sought at a very early age, and usually from the less educated class...The Church now, in all countries, has a difficulty in securing the proper type of recruits, and the theoretical qualifications have to be considerably lowered. As a rule, the priesthood is recruited by the adoption of young boys to whom ordination means promotion to a position and prestige which their personal merits would not otherwise obtain for them.
This casts the burden of their training almost entirely upon the Church, and their education is generally very poor. Very few priests could read any Latin author (except Ceasar) at sight, or make much sense of Horace, Tacitus, or Juvenal. Of Greek they have, as a rule, received only an elementary knowledge, which they soon forget. Of science, history, and philosophy, in the modern sense, they, as a rule, know nothing.
Science is taught in very few training-colleges for the clergy, and then only in the most elementary form and for a very short time. History is represented only by a few lessons, from Catholic writers, on Church history...
In science and history I did not receive one single lesson in the whole course of my training; and, as I said, my "philosophy" had as little relation to modern philosophy as astrology has to astronomy.
The value of the education given to me in the Church was made plain the moment I returned to "the world"...I could not get a position as a teacher at ten dollars a week. My friend Mr. Forbes, regretfully told me, after a short examination, that my "education" was quite useless...Three of my colleagues secretly left the Church and tried to earn their living. Each failed, and had to return..The Church must have a high proportion of such men.
[2]. James Kavanaugh, A Modern Priest Looks at His Outdated Church, pp. 20-21: I studied four years after college until I was declared ready to be a priest. My studies spoke seldom of doubts or opinions and most frequently of blacks and whites.. In philosophy, for example, we could handle Berkeley, Hume, and Kant in a single week... We memorized each thesis and definition and proved that "reason" could only lead an honest man to faith. We were the only honest men as we defended by "reason" all the moral teachings of the Church. Catholic opposition to divorce and birth control, to freedom of speech and thought, to mercy killing and adultery were all the obvious conclusions of a "reason" unclouded by passion and pride. It did not seem important that there were millions of "unreasonable" men...It was an education without sympathy, a training without recourse. I heard what I was supposed to hear, and said what the administration expected me to say. Rebels were weeded out. Only the strong and legal-minded, or the naive and passive, could last. Creativity was discouraged unless it pursued the accepted patterns wich cautious minds approved. "heresy" was a word which ended every argument, and "the Church teaches" was the narrow outline of every debate. I was not educated, I was formed. I was not encouraged to think, but trained to defend. I was not asked to reflect, but to memorize.
...My God! What have I become? You asked me to minister with the weakness of my flesh, to serve the struggling sinner, and I have grown rigid and comfortable in the service of myself. I am not "another Christ," I am not even a man, I am only a prisoner, a synthetic paragon, a defender of the tired past.
God! If I am to be a priest, first lat me be a man. Do not let me hide behind my collar, my titles, my false front. Do not make me give answers I do not believe, nor mold men into impersonal and uncomplaining dolts. Let them know my doubts from my own lips, and let them tell me honestly of theirs. Let me not bind them with law and hell, nor frigten them with tales of unexpected death...
[3]. Emmett McLoughlin, American Culture and Catholic Schools, pp. 36 -37: I did not learn to think. As the years of childhood slipped through a frustrated adolescence (in the seminary) into the days that were supposed to be those of manhood, my mind was molded in an intellectual pattern as effectively as though it had been cast in concrete.
The closest approach to science that I experienced in those 21 years was that a non-laboratory course in elemental physics...Of the world's really great literature, in 12 years I learned practically nothing. Its greatest lights were locked in the prison of the Index of Forbidden Books.
In short, I was not educated. I was merely endoctrinated. I had achieved the level of the rigor mortis of intellectual mediocrity.
I had become an automaton, a priest of sacred, half known rites as meaningless in the efficacy as the chants of a Puerto Rican woodoo priest.
I was an ecclesiastical technician trained to mold other young, pliable minds...
[4]. Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, p.70: The “sacrament” is, of course, merely a part of the system which raises a priestly caste, to their great advantage, above the common crowd. So it is with the sacrament of “holy orders” or the ordination of the clergy. The ritual is a maze, a stupendous collection of archaic prayers and mysic actions, to the onlooker. It is supposed to be so potent that henceforward the priest can order devils about, forgive sins, and turn bread into Christ. This your Catholic neighbor literally believes.
[5]. Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, pp. 64-65: The sacrament of baptism is for infants... For a very serious reason. Every child of Adam has incurred the sin of Adam, and must pay the penalty. At first it was drastically held that every man, woman, or child who had not this stain "washed away" in the waters of baptism would burn in hell for ever. That was too much even for medieval human nature, and the theologians made a compromise...The unbaptized cannot enter heaven. The Church sticks to that. But the innocent babes do not go to hell. They go into a sort of dim modern extension of the underworld, and may even be happy there; but they will never "see God", or see their parents again.
So the babe is rushed to the church on the first Sunday afternoon after its birth. If it caches a fatal cold, the parent must not grieve. It has gone straight to heaven, absolutely spotless. The church, and often the water, are, however, now warmed, and the weird ceremony proceeds...
You spit on your finger, and daub the babe's mouth and eyes, and say to it "Ephetha". You put some salt into its mouth; which it generally resents in the usual manner and tone. You talk very severely, in bad Latin, to whatever devils there may be in the pink morsel, and bid them to go - to Protestants or anywhere. Then you pour a shell of water, very highly exorcized and blessed, over its head (taking extreme care that it touches the skin, not merely the hair, or the babe will never go to heaven); and the dreadful sentence which overhung it, because a legendary being named Adam ate a legendary apple in a legendary garden in the reign of King Khammurabi of Babylon, is mercifully cancelled.
It is difficult to discuss sacrament No. 1 seriouly. Spittle and devils, holy oils and holy water, lighted candles and collecting boxes, are bad enough, but the essential principle of the thing is intolerable. Even the comparative damnation of the unbaptized, with "every modern convenience", is too stupid for words. There are Catholic scholars now who regard Adam and Eden as "a beautiful legend"...Yet it is still the emphatic and obligatory teaching of the Church that every child born (except Mary - that is the real meaning of the "Immaculate Conception") shares "the sin of Adam". and must be put through the extraordinary performance I have described.)
[6]. Henri Guillemin, Malheureuse Église: Qui dit "Rome" aujourd'hui désigne le Vatican, le Saint-Siège, l'Église catholique dans son centre et son gouvernement... Rome, pour les prophètes, c'est le symbole même des vices et des infamies, et l'Apocalypse fait de la ville des Césars la "Bête" immonde, "aux sept têtes et dix cornes", la "prostituée fameuse", "la mère des abominations".
Cette Église, qui aujourd'hui s'effondre, est régie par un pontife de type médiéval qui, même s'il amendait sa technique, ne peut plus rien, à mon sens, pour empêcher de disparaitre, pratiquement et assez vite, au cours du troisième millénaire, du moins sous sa forme "romaine", une Église qui, pour ses deux "grands sacrements", recourt à la magie. Elle arrache d'abord, avec un peu d'eau et la comédie d'un dialogue, le nouveau-né aux griffes du Démon refermées sur lui par le "péché originel", puis, au moyen de quelques syllabes, elle insère, dans un fragment de pain, le corps, le corps physique de Jésus-Christ voué à une consommation buccale et stomacale...
[7]. John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, pp. 98-99: We human beings do not live in sin. We are not born in sin. We do not need to have the stain of our original sin washed away in baptism. We are not fallen creatures who will lose salvation if we are not baptized... A savior who restores us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian superstition and post-Darwinian nonsense.
[8]. Uta Ranke-Heineman, Putting Away Childish Things, p. 212: But this Spirit is no Spirit to be possessed, because it blows where it wills and not where the Church or anyone else wants it to. We can assume, therefore, that the Church is merely a product of its own spirit.
[9]. Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, pp. 69-70: The sacrament of “confirmation” proceeds on the admirable theory that when young folk attain, or approach, the age of puberty they need “confirming” - that is to say, strengthening. It may seem ungracious to cavil, but one wonders why the Almighty grants this stregth only through a bishop, and as part of a very antique and - to the young folk - totally unintelligible ritual. The “sacrament” is, of course, merely a part of the system which raises a priestly caste, to their great advantage, above the common crowd.
[10]. Ibid., pp. 66-68: The sacrament of the Eucharist - that is, the doctrine of the "real presence" of Christ in the consecrated bread and wine - is quite the central belief of the Catholic Church...It is on this priceless possession of a real live god in their midst, and on the miraculous nature of their papacy, that Catholics affect their amusing air of superiority to all the rest of mankind. And it is one of the most childish and foolish beliefs that was ever preserved in a civilized religion.
The doctrine of the Church is not generally understood. This is not due to "misrepresentation" but to the fact that a non-Catholic does not find it credible that any educated modern man or woman should believe such things... He is aware that Catholics profess the "real presence" of God in the Eucharist. Being accustomed to the belief that God is everywhere, he sees no intellectual enormity in this. He does not know, and can hardly convinced, that Catholics believe, and their Church sternly and dogmatically insists, that in what seems to the eye to be bread and wine, there is, after the words of consecration, no bread and wine at all, but the living body of Jesus Christ down to the last eye-lash and toe-nail.
In the earlier Middle Ages, as among the uneducated Catholic millions today, no explanation of the appearance of bread and wine was needed; nor was it necessary to attempt any explanation how the human body of Christ could be simultaneously in heaven and in a million places on the earth. To such minds anything is possible. Explanation is as superfluous as argument.
This was very convenient. By a supernatural operation, in the mass, the invisible "substance" of the bread and wine is replaced by the "substance" of the real, living body of Christ...As to how the body of Christ could be in a million places at once, and could exist in its full proportions in a crumb of bread, the answer was - bow to the mystery of "transubstantiation.".
[11]. Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, pp. 71-74: The whole performance of "the sacrament of penance", and others call the practice of confession, is useless and stupid in the case of children. It merely "breaks them in". From that moment they must at least once a year, under pain of eternal damnation, kneel at the feet of a priest and confess their sins.
It is quite obvious that, like the sacrament of marriage, this also was, in the main, instituted in order to bring the laity under more perfect control.
After a few words of exhortation, I made the magic sign of the cross in the air, and repeated the solemn formula of absolution: not "God absolves thee," but "I absolve thee from thy sins".
The sacrament of penance no doubt helps some people; it rather debases others; it is just a painful necessity, doing neither good nor harm, to the great majority. Its essential evil is its almost incredible stupidity. It was quite openly instituted in the thirteenth century, as an obligatory practice, by priests who wanted to bring all Europe under absolute control; yet the Catholic persuades himself that Christ founded it. It central idea - the forgiveness of sin by a youth whose hands have been oiled - is grotesque. It is not even, as sentimental people outside the Church sometimes imagine, a good human device for promoting morality...
[12]. Emmett McLoughlin, Crime and Immorality in The Catholic Church, chapter 14, p. 215:
Confession - The First Step in Mental Enslavement:
In spite of her protestations that she is the only divinely founded church, that she is holy, that she can and does produce holiness in her members, the Roman Catholic Church has failed in the past to hold aloft the banner of morality. And in our time, she continues to harbor more criminals and sinners than other churches, more even than among people who renounce all religion..
A significant explanation for much of Roman Catholic lawlessness lies in the structure of Catholicism. Its code of behavior is built upon ritual and superstition rather than upon true religion, reasoned ethics, self-education and self-control.
The most important ritual for the control and rehabilitation of the behavior of Roman Catholics is the ceremony of Confession, also called the Sacrament of Penance. It is the epitome of superstition in the Church's centuries-old bag of magic tricks and amulets.
For the ritual of confession is a superstition, a word that Webster defines as follows:
An irrational abject attitude of mind toward the supernatural, nature or God proceeding from ignorance, unreasoning fear of the unknown or mysterious, morbid scrupulosity, a belief in magic or chance or the like, misdirected or unenlightened religion or interpretation of nature;...any belief, conception, act or practice resulting from such a state of mind...a fixed irrational idea...a notion maintained in spite of evidence to the contrary.
It is unfortunate for devout Catholics that this definition applies so exactly to what all of us were taught to be a sacrament established by Christ himself for the complete cleansing of souls fouled by sin and their restoration to a "state of grace".
[13]. Joseph McCabe, The Truth Abaut The Catholic Church, p. 70: The sacrament of “matrimony” requires little discussion. For at least six centuries after the establishment of Christianity the laity obstinately refused to submit their marriages to the clergy, and they freely used the right to divorce. The notion of a divine institution of this sacrament is a wonderful piece of audacity. It was men like Hildebrand, completing the enslavement of the people to the priests, who at last secured for the church complete control of marriage. As a “sacrament” the new type of marriage was indissoluble; and the morality of countries where the church still resists the right to dissolve unhappy marriages tells its own history. The whole thing is part of the determination of the priests to rule and exact fees.
[14]. Georges Las Vergnas, Pourquoi J’ai Quitté L’Église Romaine, p. 51: Ce qui importe, c’est de prononcer sans erreur. Un prêtre peut dire la formule sacramentelle sans la comprendre, et même sans y croire, mais pour que la magie opère, it doit vouloir faire ce que fait l’Eglise. Mais s’il change une syllable rien ne va plus. Le “Sesame ouvre-toi” est, en principle, invariable..
Les sacrements ne sont pas seulement absurdes mais blasphématoires; j’appelle ca “moque-Dieu” dirait Rabelais.
J’en dis d’ailleurs autant de toute la “piété” catholique, assemblage de trucs et de recettes qui transforment le prêtre en charlatan et le fidèle en imbécile..
Le prêtre sait que la bêtise humaine est inepuisable: il en profite.
[15]. Joseph L. Daleiden, The Final Superstition, p. 131: I once believe in that primitive custom of which Cicero wrote in the first century B.C.E (long before Christianity adopted the practice): “How can a man be so stupid as to imagine that which he eats to be a god?” My only excuse is that it was before I had developed what slight powers of critical reasoning I now possess. Also, I had no way of knowing that anthropologists and historians had traced the practice of the ritualistic eating of a god to the primitive belief that we acquire the powers of the creatures we eat.
Finally, I was fooled by the semantic trick so prevalent in the pseudoscience of metaphysics: the confusion of words with things. The word “transubstantiation” is pretty awe-inspiring to an unsophisticated mind. When it is backed by the weight of an authority figure, such as a priest who describes how the “substance” of the bread and wine can change without a change in “properties”, it is easy to be taken in. Besides, everyone likes a magic show. It is certainly more entertaining than plowing through the empiricist philisophy of David Hume or the critical analysis of Ludwig Feuerbach. It was these two men who first pointed out the obvious: for a thing (substance) to exist without its attributes (properties) is as silly an idea as the opposite notion - a property without a thing. (Show me along nothing, or a hard, green nothing.) Therefore, there are no separately existing substances that could undergo a magical transubstantiation. Once again theologians successfully bewitched minds with meaningless words. All the sacraments, like the feasts and symbols of Christianity, were simple attempts to accommodate pagan beliefs. The evidence for this conclusion is overwhelming to unbiased, rational minds.
[16]. Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, p. 70: These are six of the seven sacraments, the glory and distinctive flower of Catholic belief, the most elaborate system of magic which any civilized religion ever invented. From first to last they are designed to enhance the power and prestige of the clergy. In their ritual and their fundamental ideas they are as alien from, as antagonistic to, the whole spirit of modern times as is alchemy or astrology. This is the set of beliefs to which the simple Catholic believes he will one day convert the whole United States! In fine, this is the set of beliefs which God, the Catholic says, was so deeply concerned to maintain in their purity that he overlooked all the horrors of the Middle Ages and all the corruptions of the Pope and the Papacy!
Với những tài liệu nêu trên, tôi thực tình không hiểu tại sao trong thời buổi này mà giới chăn chiên Ca-Tô vẫn còn dẫn dắt tín đồ trong bóng tối của những điều mê tín vô cùng phi lý, phi lô-gic, phản khoa học v..v.. mà trong thế giới văn minh ngày nay, không một người nào có đầu óc lại có thể tin vào những điều chỉ hợp với một số người trong thời sơ khai. Thật quả là sách lược nhồi sọ và nhốt đầu óc tín đồ vào những ốc đảo tối tăm trí thức của giáo hội Ca-Tô Rô-ma đáng để cho chúng ta thán phục. Chẳng trách là cuối thế kỷ 19 mà Robert G. Ingersoll đã nhận định: “Ca-tô giáo sống dai vì con chiên thì ngu dốt, còn các linh mục thì xảo quyệt.” Thay lời kết cho chương này, có lẽ mấy câu thơ sau đây của nhà đại văn hào Pháp Victor Hugo trong thế kỷ 19 vẫn còn thích hợp:
Qua sự phân tích những vấn đề trong hai chương II và III, chúng ta đã thấy rõ thực chất đức tin Ca-Tô qua Kinh Tin Kính cũng như những “bí tích” trong Ca-Tô Giáo Rô-Ma là như thế nào. Điều rõ ràng là suốt 2000 năm nay, tín đồ Ca-Tô đã bị lừa dối bởi một chính sách nhồi sọ tinh vi, xảo quyệt, của giáo hội Ca-Tô để giam hãm đầu óc tín đồ vào trong những nhà tù tư tưởng, do đó tín đồ vẫn tiếp tục tin vào những giáo điều sai lầm, lỗi thời, hoang đường, phi lô-gic, phản lý trí, phản khoa học v..v.. của giáo hội, cũng như tiếp tục tin vào những thần quyền giả tạo tự phong của giới giáo sĩ như giám mục, linh mục. Tại sao các tín đồ vẫn tiếp tục tin? Vì họ không hề biết đến những sự thật mà chính giáo hội đã thú nhận, nhưng giáo hội vẫn dấu kín trước đám đông tín đồ thấp kém, hoặc diễn giải lệch lạc những diễn biến trong nội bộ giáo hội theo luận điệu ngụy biện một chiều của giáo hội cho những tín đồ đã bị nhồi sọ từ nhỏ, vốn đã không có khả năng suy luận. Đây không phải là những luận cứ vu vơ, mà dựa trên những bằng chứng hiển nhiên như được trình bày sau đây.
Năm 1981, tòa thánh Vatican đã mời một số chuyên gia đến để cố vấn cho tòa thánh về vũ trụ học. Cuối cuộc hội thảo, các chuyên gia được giáo hoàng Gion Pôn Hai (John Paul II) tiếp kiến. Ngài bảo các khoa học gia cứ tự nhiên nghiên cứu sự tiến hóa của vũ trụ sau sự nổ lớn (big bang), nhưng không nên tìm hiểu về chính lúc nổ vì đó là lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm của Thiên Chúa của Ki-Tô Giáo. (Stephen Hawking, A Brief History of Time, p. 116: He told us that it was all right to study the evolution of the universe after the big bang, but we should not inquire into the big bang itself because that was the moment of Creation and therefore the work of God). Đây là một biến cố rất quan trọng trong nội bộ giáo hội Ca-Tô. Giáo hoàng, và lẽ dĩ nhiên giáo hội, đã thừa nhận là vũ trụ này sinh ra từ một sự nổ lớn, theo như thuyết “Big Bang” trong khoa học. Điều này đã chôn vùi thuyết sáng tạo trong thánh kinh xuống đáy hầm Vatican, dù giáo hoàng đã vớt vát bằng một câu hoàn toàn vô nghĩa: “Big Bang là lúc sáng tạo, do đó là tác phẩm của Thiên Chúa”. Vô nghĩa vì giáo hoàng không hề có một chút kiến thức nào về khoa học nên đã nói nhảm nhí về “lúc sáng tạo”. Vì Big Bang chẳng qua chỉ là sự nổ bùng của một dị điểm (singularity) vô cùng nóng, vô cùng đặc, nguồn gốc của vũ trụ ngày nay. Nóng bao nhiêu, và đặc như thế nào? Các khoa học gia đã tính ra được là sau khi nổ khoảng một phần ngàn giây đồng hồ (1/1000 s) thì nhiệt độ của Big Bang vào khoảng “một ngàn tỷ độ” (1012 độ) và tỉ trọng của khối cầu lửa khi đó vào khoảng 100000 tỷ gram (10 14 g) cho 1 phân khối. Để có một khái niệm về nhiệt độ và tỉ trọng của Big Bang chúng ta nên biết là nhiệt độ của mặt trời chỉ vào khoảng 6000 độ, và tỉ trọng của nước chỉ là 1 gram cho một phân khối. Với nhiệt độ của Big Bang như vậy thì Thiên Chúa nào tạo ra Big Bang cũng phải tự mình bị thiêu hủy ngay tức khắc, còn đâu nữa để mà sau này đi dạo trong vườn địa đàng nói chuyện với Adam, hay hiện ra trước ông tổ Do Thái Abraham của những người đi đạo Việt Nam. Mặt khác, nếu Thiên Chúa sáng tạo ra Big Bang thì Thiên Chúa phải ở ngoài Big Bang. Big Bang đã trở thành vũ trụ ngày nay, rộng khoảng 15 tỷ năm ánh sáng, vậy Thiên Chúa cũng phải ở ngoài vũ trụ này. Big Bang không phải là cái Popemobile để khi sáng tạo xong Thiên Chúa nhảy vào trong đó ngồi để mà tránh đạn thế gian. Cũng vì vậy mà từ thuở khai thiên lập địa chúng ta có thấy Thiên Chúa can thiệp vào chuyện thế gian đâu. Nhưng thật ra bảo rằng Thiên Chúa ở ngoài Big Bang cũng không đúng. Vì thời gian và không gian mà chúng ta hiểu ngày nay được sinh ra cùng với Big Bang, cho nên những câu hỏi như Thiên Chúa ở đâu trước Big Bang để tạo ra Big Bang đều vô nghĩa vì không có cái gì có thể gọi là “trước Big Bang” hay “ngoài Big Bang”. Nói tóm lại, Thiên Chúa chỉ là một sản phẩm tưởng tượng của một số người Do Thái trong thời đại mà đa số các dân tộc trên thế giới đều tin vào sự hiện hữu của một thần linh nào đó (Xin đọc cuốn Lịch sử của Thần (A History of God) của Nữ Tu Karen Armstrong). Sau cùng, giả thử chuyện Thiên Chúa tạo ra Big Bang là có thật thì Chúa Giê-su mới chết cách đây chưa tới 2000 năm, dù cho có sống lại và bay lên trời với vận tốc của ánh sáng cũng chưa ra khỏi giải ngân hà (rộng khoảng 100000 năm ánh sáng), làm sao mà lên ngồi bên tay phải của Chúa Cha ở ngoài Big Bang được, dù vũ trụ ngày nay ngưng, không tiếp tục nở rộng nữa. Giáo hoàng nói chỉ để giáo hoàng và con chiên đầu óc vốn mù mịt nghe, chứ còn người ngoài, ai mà chẳng biết là giáo hoàng nói nhảm. Chúng ta cũng nên biết, năm 1981, thuyết Big Bang chưa được hoàn chỉnh, mà tòa thánh đã công nhận thuyết Big Bang rồi. Phải đến năm 1992, khi phi thuyền COBE (COsmic Bacground Explorer) dò ra được những vân (ripples) trong bức xạ nền (background radiation) của vũ trụ, thuyết Big Bang mới được công nhận là hoàn chỉnh và rốt ráo.
Năm 1992, giáo hoàng đã công khai nhìn nhận là giáo hội đã sai lầm trong vụ án Galileo Galilei. 359 năm về trước, Giáo hội bắt Galilei phải sửa lại kết quả nghiên cứu khoa học của ông ta (rằng trái đất quay xung quanh mặt trời) cho đúng với những lời “mạc khải không thể sai lầm trong Thánh Kinh” (nghĩa là trái đất đứng yên và mặt trời quay xung quanh trái đất), rồi giam ông ta tại gia cho đến khi chết. Sự nhìn nhận sai lầm của Tòa Thánh trong vụ Galilei cho thấy thánh kinh sai và kéo theo vấn đề: nếu thánh kinh đã sai về vũ trụ thì rất có thể cũng sai về nhiều điều khác nữa. Ngày nay, các chuyên gia nghiên cứu thánh kinh đều đồng thuận ở điểm là thánh kinh có rất nhiều sai lầm cả về thần học lẫn khoa học. Do đó, thánh kinh không phải là những lời “mạc khải” không thể sai lầm của một vị thần toàn năng toàn trí, như lời giáo hội vẫn thường dạy cho những tín đồ bảo sao nghe vậy. Thực tế cũng cho thấy rằng, trí tuệ của con người ngày nay đã vượt xa trí tuệ của bậc “toàn năng, toàn trí” trong Thánh Kinh Ca-Tô rất nhiều. Ây thế mà người ta vẫn đi thờ phụng một “đấng” mà trí tuệ kém cỏi hơn người đời rất nhiều. Thật là kỳ lạ.
Năm 1996, giáo hoàng đã đặt chắc thẩm quyền giáo lý của Ca-Tô giáo sau quan điểm là “thân xác con người có thể không phải là một sự sáng tạo tức thời của Thiên Chúa, mà là kết quả của một quá trình tiến hóa dần dần”. Ngài nói: “những kiến thức mới nhất dẫn đến việc phải chấp nhận thuyết tiến hóa hơn là một giả thuyết”. (Pope John Paul II has put the teaching authority of the Roman Catholic Church firmly behind the view that “the human body may not have been the immediate creation of God, but is the product of a gradual process of evolution.. The pope said that “fresh knowledge leads to recognition of the theory of evolution as more than just a hypothesis”). Chấp nhận thuyết tiến hóa, giáo hoàng đã phá tan huyền thoại về Adam và Eve là tổ tông loài người do Thiên Chúa tạo dựng từ đất sét, và kéo theo không làm gì có chuyện Adam và Eve sa ngã tạo thành tội tổ tông, do đó vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su chỉ là một hoang tưởng, được đưa ra không ngoài mục đích khai thác lòng mê tín của một số người, huyễn hoặc và khuyến dụ họ tin vào những điều không thực.
Tháng 7 năm 1999, trước những khám phá xác tín nhất của khoa vũ trụ học, và trước những hiểu biết của con người ngày nay về cấu trúc của trái đất, Giáo Hoàng đã bắt buộc phải tuyên bố: "thiên đường không phải là một nơi trừu tượng mà cũng chẳng phải là một nơi cụ thể ở trên các tầng mây” (Heaven is neither an abstraction nor a physical place in the clouds), và “Hỏa ngục không phải là sự trừng phạt áp đặt từ bên ngoài bởi Thần Ki-Tô, mà là trạng thái hậu quả của những thái độ và hành động mà con người đã làm trong đời này” (Hell is not a punishment imposed externally by God, but the condition resulting from attitudes and actions which people adopt in this life). Như vậy là Giáo Hoàng đã bác bỏ phần giáo lý quan trọng nhất của giáo hội Ca-Tô: “người nào tin Chúa thì sẽ được Chúa cho lên thiên đường sống cuộc sống đời đời bên ngài, kẻ nào không tin sẽ bị Chúa phán xét đày vĩnh viễn xuống hỏa ngục ở trong lòng đất”. Củ cà-rốt thiên đường thường dùng để khuyến dụ những người nhẹ dạ cả tin, và cây gậy hỏa ngục để hù dọa những người yếu bóng vía, sau cùng đã không còn tác dụng gì đối với nhân loại trong thời đại văn minh tiến bộ ngày nay.
Tháng 3 năm 2000, trong một cuộc “thánh lễ” công cộng tại “thánh đường” Phê-rô, Giáo hoàng cùng một số hồng y, tổng giám mục, trong đó có tổng giám mục Nguyễn Văn Thuận, đại diện cho “hội thánh” Ca-Tô, đã chính thức “xưng thú 7 núi tội lỗi” đối với nhân loại của Ca-Tô giáo Rô-ma. 7 núi tội lỗi này, qua gần 20 thế kỷ, đã đưa đến những thảm họa to lớn cho nhân loại như “thập tự chiến” (thường được gọi một cách sai lầm là “thánh chiến” vì bản chất những cuộc chiến này rất man rợ, bạo tàn chứ chẳng có gì là “thánh” cả), tòa hình án xử dị giáo, bách hại dân Do Thái, kỳ thị phái nữ, liên kết với thực dân để truyền đạo với sách lược xâm lăng văn hóa, mưu toan thống trị và có thái độ thù nghịch với các tôn giáo khác v..v.. (Xin đọc chi tiết những tội ác của Ca-Tô giáo đối với nhân loại trong cuốn VATICAN: Thú Tội Và Xin Lỗi? của 6 tác giả, Giao Điểm xuất bản năm 2000). Hành động “xưng thú 7 núi tội lỗi” này đã làm cho những lời tự nhận của giáo hội mà giáo hội thường nhồi nhét vào đầu óc tín đồ từ khi còn nhỏ, rằng Ca-Tô giáo là tôn giáo “thiên khải duy nhất”, “thánh thiện”, “mầu nhiệm”, “tông truyền”, “hôn thê của Chúa”, “cao quý”, “ánh sáng của nhân loại”, bác ái”, “dân chủ” v..v.., trở thành những lời nói láo vĩ đại nhất trong lịch sử các tôn giáo của loài người.
Tôi tự hỏi, có bao nhiều phần trăm trong số gần một tỷ tín đồ của Ca-Tô Giáo Rô-Ma biết đến những điều thú nhận công khai trên của giáo hoàng và “tòa thánh” Vatican? Tôi nghĩ con số này phải là rất nhỏ, vì sách lược của giáo hội, qua vai trò của những người gọi là lãnh đạo tôn giáo như linh mục, giám mục v..v.., là duy trì sự “càng biết ít bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu” trong quần chúng tín đồ. Mà dù tín đồ có biết đến những sự thực này thì cũng biết một cách sai lạc, vì như Học Hội Đức KiTô Phục Sinh ở Houston đã đưa ra nhận định:
Hàng ngàn năm, để bưng bít và che dấu 7 chương tội lỗi đối ngoại - và một chương đối nội là 8 - nghệ thuật tuyên truyền của giáo hội Rô-Ma phải đạt đến chỗ cực kỳ ảo diệu, thiên biến vạn hóa, một nghệ thuật tuyên truyền thần thánh, một nghệ thuật tuyên truyền nhồi sọ tuyệt vời..
Ngoài nghệ thuật tuyên truyền, giáo hội vẫn phải xây “vạn lý trường thành đức tin” và buông bức “màn sắt thần học” lên đầu đoàn chiên. Mỗi tòa giảng là một cái loa tuyên truyền, dựa vào khoa thần học phù phép, ảo thuật “núi tội thành con chuột”, “kẻ cướp mặc áo thầy tu”, và “quỷ Sa-Tăng đóng vai ông thánh.”
Do đó, chúng ta không thể hi vọng là mọi tín đồ Ca-Tô đều biết đến một sự thực không thể chối cãi, đó là, toàn bộ nền thần học Ca-Tô với những quan niệm về Thần KiTô, thuyết Sáng Tạo, huyền thoại Adam và Eve, thiên đường và hỏa ngục, vai trò “chuộc tội” và “cứu rỗi” của Giê-su v..v.., cũng như những thuộc tính cao cả mà giáo hội tự nhận cho giáo hội, giáo hoàng v..v.. nay đã không còn chỗ đứng trước sự tiến bộ trí thức của nhân loại.
Giáo hội biết rõ trình độ hiểu biết của giáo dân cho nên vẫn có thể giữ chặt giáo dân trong đức tin mà thực chất chỉ là tin bướng tin càn, vì đức tin này hoàn toàn mâu thuẫn với những điều mà giáo hội đã công khai thừa nhận về nguồn gốc vũ trụ, thuyết tiến hóa, thiên đường, hỏa ngục, và lịch sử chứa đầy tội ác của giáo hội. Do đó, giáo hội vẫn còn đủ khả năng theo đuổi chính sách “lá mặt, lá trái” trên chính trường quốc tế.
Dựa vào sức mạnh của đám đông tín đồ, đúng như định nghĩa của Thống Đốc Jesse Ventura của Bang Minnesota: “KiTô giáo là một sự giả dối trống rỗng và là một cặp nạng cho những người có đầu óc yếu kém cần đến sức mạnh trong số đông” (Christianity is a sham and a crutch for weak-minded people who need strength in numbers), giáo hội Ca-Tô vẫn giữ thái độ tự tôn trịch thượng vô lối đối với mọi hệ phái KiTô khác.
Mới vừa đây, tháng 9 năm 2000, “hồng y thiết giáp” Joseph Ratzinger đã phổ biến một bản văn dài 36 trang, với sự chấp thuận của giáo hoàng, khẳng định mọi hệ phái KiTô khác đều là các tôn giáo hạng hai, không bằng được Ca-Tô Giáo, vì chỉ có những người ở trong giáo hội Ca-Tô mới có được sự cứu rỗi đầy đủ nhất (those who, in the church, have the fulness of the means of salvation), và ý tưởng là “mọi tôn giáo đều tốt như nhau” làm nguy hiểm đến thông điệp truyền giáo của Ca-Tô giáo (The idea that “one religion is as good as another” endangers the Catholic church’s missionary message), hàm ý Ca-Tô giáo vẫn là tôn giáo tốt nhất. Nhiều tôn giáo khác đã lên tiếng phản đối, và nhiều nhà bình luận đã cho rằng, hành động này chẳng qua chỉ để trấn an đám tín đồ thấp kép, vớt vát được chừng nào hay chừng đó trước đà suy sụp của Ca-Tô giáo Rô-ma. Thái độ tự tôn, trịch thượng trên của giáo hội Ca-Tô không ảnh hưởng gì đến Phật giáo vì những tín đồ Phật giáo không hề quan tâm đến một sự “cứu rỗi” hoang đường của một nhân vật hoang đường gọi là “Chúa cứu thế” trong một nền thần học hoang đường của Ca-Tô giáo. Vả chăng, phân tích kỹ ra thì thái độ tự tôn của Ca-Tô giáo phản ánh một sự thiếu tự tin trầm trọng của giáo hội và đó chẳng qua chỉ là một đòn phép trong thuật sử dụng sách lược lá mặt lá trái của tòa thánh Vatican, vì, như trên đã dẫn chứng, giáo hội đã chính thức công nhận thuyết Big Bang, thuyết tiến hóa, phá bỏ thuyết truyền thống về thiên đường và hỏa ngục v..v.. , vậy còn đâu là Chúa Cha, Chúa Con, Tội Tổ Tông v..v.. mà cứu rỗi với chẳng cứu rỗi. Mặt khác, việc “xưng thú 7 núi tội lỗi” của giáo hội Ca-Tô gần đây có cho phép giáo hội tiếp tục tự xưng là một tôn giáo “thánh thiện”, “thiên khải” v..v.. được nữa hay không? Cho nên, giáo hội muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, thực chất của giáo hội ra sao, cả thế giới đã đều biết. Giáo hội không thể lừa dối được ai trong thời buổi này, trừ đám tín đồ nô lệ của giáo hội. Lẽ dĩ nhiên, trong giáo hội cũng có không thiếu gì người đầu óc đã mở mang và giữ thái độ “đừng tin những gì giáo hội nói, mà hãy nhìn kỹ vào những gì mà giáo hội làm”.
Vấn đề của chúng ta ngày nay là phải xét xem giáo hội có thể làm được những gì trong tương lai, và những việc này có ảnh hưởng gì đến đất nước Việt Nam. Sách lược của giáo hội Ca-Tô cũng như Tin Lành, chúng ta đã rõ. Sau đây, tôi sẽ đi vào phần phân tích sách lược này để ít ra chúng ta cũng có thể đưa ra vài biện pháp đối phó. Tại sao lại phải đối phó? Bởi vì KiTô giáo chưa hề thay đổi trong sách lược truyền đạo, và sách lược này luôn luôn xúc phạm đến các tôn giáo và các nền văn hóa truyền thống địa phương. Ki Tô giáo không thể chấp nhận ý tưởng hòa hợp tôn giáo theo quan niệm đa tôn giáo bình đẳng trên thế giới. Đây là một thái độ nguy hiểm, phương hại đến nền hòa bình thế giới. Sau đây chúng ta hãy đi thẳng vào vấn đề.
Trong những năm gần đây, trong khi Giáo Hoàng Ca-Tô Gion Pôn Hai đi tới các nước trong thế giới thứ ba để xin lỗi các quốc gia này vì những bất hạnh mà Ca-Tô Giáo đã gây nên trong quá khứ, cùng răn dạy các tín đồ Ca-Tô phải ăn năn thống hối về những thảm họa, đau khổ mà Ca-Tô Giáo đã mang tới nhiều quốc gia trên thế giới, thì một số chức sắc trong hàng Giáo Phẩm Tin Lành cũng lên tiếng xin lỗi dân da đỏ ở Tân Thế Giới (nước Mỹ bây giờ) về những hành động diệt chủng và xóa bỏ nền văn hóa của dân bản xứ (dân da đỏ) của các nhà truyền giáo Tin Lành vào khoảng hai thế kỷ trước đây.
Tuy nhiên, ngoài mặt thì xin lỗi để xoa dịu dư luận quần chúng và để mị dân, thực chất của Ca-Tô và Tin Lành vẫn không thay đổi. Không còn dựa vào bạo lực quân sự của đế quốc và thực dân để truyền bá đạo như xưa nữa, những nhà truyền giáo Ca-Tô và Tin Lành đã thay đổi phương thức truyền đạo, song hành với sách lược xâm lược kinh tế và văn hóa của các cường quốc Âu Mỹ. Những hoạt động phá hoại nền văn hóa bản xứ vẫn được các nhà truyền giáo Ca-Tô và Tin Lành tiếp tục thi hành trong các nước kém mở mang ở Á Châu và Phi Châu, nhắm vào các dân tộc thiểu số để gây xáo trộn xã hội, điển hình là ở Thái Lan, một xứ Phật Giáo, ở Ấn Độ, một xứ Ấn Độ Giáo, và ở Nam Dương, một xứ Hồi Giáo. Dựa vào ưu thế kinh tế, quân sự và kỹ thuật của thế giới Âu Mỹ, những nhà truyền giáo Ca-Tô và Tin Lành, núp sau những chiêu bài hữu danh vô thực, chỉ có trên mặt văn tự, như tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do tín ngưỡng v..v.. để xâm nhập những quốc gia kém mở mang. Qua bản chất kiêu căng truyền thống thường có tính cách xúc phạm nặng nề đến các tôn giáo và các nền văn hóa địa phương, họ tiếp tục xuyên tạc, mạ lỵ, phá ngầm các tôn giáo và truyền thống văn hóa địa phương bằng những bản văn truyền đạo đầy tính cách trịch thượng, xúc phạm, thuộc thế kỷ 18, 19, với mưu đồ thay thế các tôn giáo, văn hóa địa phương này bằng một tôn giáo mà những đặc tính của nó như hoang đường, tàn bạo, bất khoan nhượng, độc tôn, kiêu căng, hẹp hòi, vô luân v..v.. đã biểu lộ trong suốt 2000 năm lịch sử của nhân loại. Ngoài ra, sách lược của Vatican phong Thánh bừa bãi cho các tội đồ của các nước mà khi xưa Ca-Tô Giáo đã liên kết với thực dân để xâm chiếm cũng chỉ nhằm mục đích mị dân, khuyến khích các tín đồ bản địa cuồng tín hơn, sẵn sàng phản bội quốc gia để đặt hi vọng vào một hứa hẹn hoang đường, vô trách nhiệm, vô giá trị, về một cái bánh vẽ ở trên trời.
Điều 18 trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền Quốc Tế của Liên Hiệp Quốc năm 1948 quy định quyền tự do tôn giáo là quyền tin vào giáo lý, sự thực hành, thờ phụng và lễ tiết (belief in teaching, practice, worship and observance) của con người. Quyền tự do tôn giáo, quy định như trên, và quyền tự do truyền giáo là hai quyền khác nhau. Nhưng thế giới Âu Mỹ đã lạm dụng quyền tự do tôn giáo, đồng nhất hóa tự do tôn giáo với tự do truyền đạo. Tự do tôn giáo đang được các cường quốc Âu Mỹ dùng như một chiêu bài và bình phong để ép những quốc gia nào mà họ có thể ép được, để cho các thừa sai Ki Tô của họ được tự do truyền đạo. Thái độ trịch thượng này đã bị thế giới lên án, và những quốc gia lớn nhất trên thế giới như Trung Hoa, Ấn Độ đều tích cực chống đối, hoặc hạn chế, hoặc ngăn cấm các công vụ truyền giáo của Ki Tô Giáo.
Chúng ta biết rằng, tháng 10, 1998, quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua một đạo luật về tự do tôn giáo thế giới (The International Religious Freedom Act). Đạo luật này đã phơi bày cái bộ mặt đế quốc, đạo đức giả của Ki Tô Giáo tại Hoa Kỳ về sách lược của Hoa Kỳ đối với vấn đề "vi phạm tự do tôn giáo" trên thế giới, bao gồm những biện pháp chính trị, kinh tế, văn hóa mà Hoa Kỳ có thể dùng để trừng phạt những nước mà Hoa Kỳ cho là vi phạm. Mục đích chính của đạo luật này là mở đường cho các nhà truyền giáo Ki Tô đi truyền đạo ở những nơi nào mà Hoa Kỳ có thể ép được bằng áp lực kinh tế và chính trị. Đạo luật này qui định bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ phải đưa ra trước ngày 1 tháng 9, 1999, danh sách những nước vi phạm trầm trọng tự do tôn giáo, và sau đó 90 ngày, Tổng Thống Hoa Kỳ phải phúc trình cùng quốc hội biện pháp đối phó với quốc gia vi phạm. Quy định này đã không được bộ Ngoại Giao thi hành. (The State Department has not complied with the act's requirement to name by September, 1999, those countries deemed responsible for "particularly severe violations of religious freedom". When a country is so designated, the president has 90 days to report to Congress on action to be taken). Tại sao? Vì tự do tôn giáo chỉ là một chiêu bài, và cách sử dụng chiêu bài này còn tùy thuộc quyền lợi chính trị và kinh tế của Hoa Kỳ. Sudan, Do Thái và Saudi Arabia là những nước vi phạm tự do tôn giáo nhất trên thế giới. Nhưng điều chắc là Hoa Kỳ chỉ kể đến Sudan và bỏ qua Do Thái và Saudi Arabia vì Do Thái và Saudi Arabia đều là đồng minh của Hoa Kỳ trên chính trường quốc tế. Saudi Arabia còn là nước xuất cảng dầu nhiều nhất trên thế giới, và không có một chính trị gia Hoa Kỳ nào khuyên chính phủ ngưng mua dầu của Saudi Arabia như là một hành động phản đối sự vi phạm tự do tín ngưỡng của quốc gia này. Stephen Chapman viết trên tờ Chicago Tribune ngày 2 tháng 11, 1997 như sau:
"Những người Mỹ đề nghị ngưng giao thương với những quốc gia vi phạm tự do tín ngưỡng hãy bắt đầu từ nơi khác. Thí dụ như ở Saudi Arabia, nơi đây mọi tôn giáo ngoại trừ Hồi Giáo đều bị cấm ngặt và một tín đồ Hồi Giáo cải đạo theo đạo khác có thể bị tử hình. Nhưng chính sách độc tài tôn giáo của Saudi Arabia không gây phản đối tại Washington khi Hoa Kỳ đem nửa triệu quân vào để bảo vệ Saudi Arabia chống Saddam Hussein. Không có ai ở ngoài một bệnh viện tâm thần lại đề nghị Hoa Kỳ ngưng mua dầu của Saudi Arabia, xứ cung cấp nhiều dầu nhất." 1
Phê bình đạo luật về tự do tôn giáo của Hoa Kỳ, Giáo sư luật tại đại học Emory, Abdullahi Ahmed An-Na'im nói: "Nhiều người nhớ lại những lời hoa mỹ thiên Ki Tô trước đây và tin rằng Hoa Kỳ chỉ quan tâm đến sự hỗ trợ các thừa sai Mỹ ở ngoại quốc." (Emory University law professor Abdullahi Ahmed An-Na'im says many remember the early pro-Christian rhetoric and believe the United States is only interested in aiding American missionaries abroad.) J. Paul Martin, Giám đốc trung tâm nghiên cứu nhân quyền tại đại học Columbia còn đi xa hơn nữa. Ông nói: "Ở các nước như Nga sô, Pháp, Bỉ, và Đức, nhiều người coi đạo luật về tự do tôn giáo của quốc hội Hoa Kỳ là một phần của chủ nghĩa đế quốc rộng lớn hơn của Mỹ" (J. Paul Martin, executive director of Columbia University's Center for the study of Human Rights, goes further. In such countries as Russia, France, Belgium, and Germany, he says, many see Congress' action as "part of a larger American imperialism".)
Để độc giả có một ý niệm về bản chất cuồng tín của các nhà truyền giáo Ca-Tô và Tin Lành, ngay trong thời đại này, tôi xin trích dẫn sau đây một đoạn trong cuốn Missionaries của Julian Pettifer và Richard Bradley, nói về phương cách truyền giáo của Gia Tô Giáo ở Thái Lan:
Ở Á Châu, không có mấy nước mà các thừa sai cảm thấy hoàn toàn tin tưởng là công vụ truyền giáo của họ sẽ không bị gián đoạn trong tương lai. Ngay cả dân Thái cũng nhạy cảm đối với vấn đề thừa sai nếu sự truyền giáo không khéo xử, thái độ khoan dung của dân Thái có thể thay đổi. Hiện nay, trong một nước mà 97 phần trăm theo Phật Giáo, 2 phần trăm theo Hồi Giáo, số người theo Ki Tô Giáo hiển nhiên rất ít. Sulak Siravaksa là một trí thức Phật Giáo theo học các trường Ki Tô. Tuy nhiên, ông ta rất lấy làm khó chịu trước những tài liệu truyền giáo mô tả Thái Lan là "địa hạt của Satan"; rằng "99% dân Thái bị câu thúc bởi ma quỉ"; lên án Phật Giáo là "thờ hình tượng" và là "một tôn giáo yếm thế một cách vô vọng."; và chấp chặt là "không có sự mặc khải của Ki Tô thì không hiệp thông được với Thượng đế." Như Sulak đã vạch rõ, đó là ngôn ngữ hàng ngày của một số tài liệu truyền giáo, những tài liệu này đã xúc phạm nặng nề đến những Phật tử Thái Lan. 2
Những hành động phá Phật Giáo ở Thái Lan đã lộ liễu đến mức Phật Giáo Thái đã phải chính thức gửi kháng thư cho Gion Pôn Hai (John Paul II), phàn nàn về những việc làm sai trái của Ca-Tô Giáo ở Thái Lan. Nhưng theo truyền thống "cường quyền thắng công lý" và bất kể đến liêm sỉ của Giáo hội Ca-Tô, Giáo Hoàng đã không có một hành động sửa sai nào, chứng tỏ chấp nhận đó là sách lược hữu hiệu của Giáo hội để truyền giáo, và gần đây, ông còn kêu gọi tín đồ phải mở mang Ca-Tô Giáo sang Á Châu.
Ở Ấn Độ, hơn 400 năm nay Ki Tô Giáo đã vô cùng tích cực trong vấn đề truyền đạo với hi vọng Ki Tô hóa Ấn Độ nhưng dân chúng Ấn, tuy nghèo khó và trước những hứa hẹn về vật chất của Ki Tô Giáo, vẫn từ chối tôn giáo này. Số người theo Ki Tô Giáo nói chung chỉ vào khoảng 1% tuy chính quyền Ấn đã rất dễ dãi để cho những nhà truyền giáo tự do truyền đạo. Chủ đích đi kiếm thêm linh hồn cho Chúa của bà Teresa ở Ấn Độ cũng thất bại, vì người ta đã vạch trần bộ mặt đạo đức giả của bà qua chiêu bài "từ thiện". (Xin đọc Mother Teresa: Beyond the Image của Anne Sebba, 1997).
Chúng ta cũng nên để ý rằng, hiện nay, ở Ấn Độ đang có phong trào bài Ki Tô Giáo rất mạnh. Báo Los Angeles Times ngày 12 tháng 11, 1998, đăng một bài tường thuật dài của ký giả Dexter Filkins về những hành động bài Ki Tô Giáo, nhiều khi dùng đến bạo lực, ở Ấn Độ. Một lãnh tụ của phong trào bài Ki Tô Giáo, ông B. L. Sharma, tuyên bố:
"Chúng tôi đã phải làm nô lệ cả ngàn năm, và nay chúng tôi đã sáng mắt rồi. Tôi đòi hỏi chính phủ Ấn Độ phải đuổi cổ những kẻ đang dụ dân Ấn cải đạo, và phá hại văn hóa, ngôn ngữ và y phục của chúng tôi."
(We were slaves for 1000 years and now we have opened our eyes. I demand that the government of India throw out these people who are out to convert Hindus and ruin our culture, language and attire.)
Cũng như ở Thái Lan, nguyên nhân sự chống đối Ki Tô Giáo ở Ấn Độ không phải là vấn đề vi phạm tự do tôn giáo mà vì sách lược truyền đạo có tính cách hiếu chiến và xúc phạm đến các tôn giáo khác cũng như nền văn hóa Ấn Độ. Ký giả Uli Smettzer viết trong tờ Chicago Tribune ngày 29 tháng 10, 1999 như sau:
"Những hoạt động viên Ấn Độ đặc biệt giận dữ vì những thừa sai của một vài tông phái Ki Tô rao truyền là những Thần mà người Ấn Độ kính ngưỡng là những hình tượng ngụy. Một vài tên thừa sai còn rao giảng rằng "Ấn Độ Giáo là sản phẩm của quỷ."
Nhiều người Ấn Độ vô cùng giận dữ khi Giáo Hội Báp-Tít (một tông phái Tin Lành) miền Nam Hoa Kỳ phát hành 40000 cuốn kinh cầu nguyện để gây quỹ dùng trong công cuộc cải đạo dân Ấn "khỏi bị lạc trong sự tăm tối vô vọng của Ấn Giáo"
(Hindu activists are particularly angered by missionaries from some Christian sects who mportray revered Hindu gods as false idols. Some even preach that the Hindu religion is the work of the devil.
Many Hindus were outraged by the Southern Baptist Church in the US, which recently published 40000 prayer books that lobby for funds to convert Indians "lost in the hopeless darkness of Hinduism.")
Xuyên qua phương cách truyền đạo mang đặc tính cuồng tín và xúc phạm đến các nền văn hóa địa phương như trên, chúng ta đã nhìn thấy thực chất sản phẩm tinh thần của Ki Tô Giáo là như thế nào. Có điểm nào có thể gọi là đạo đức tôn giáo trong những mẫu người mà Ki Tô Giáo đã đào tạo ra như trên không? Giáo lý đưa đến thực hành. Qua những chính sách thực hành truyền đạo như trên, chúng ta có thể biết được bản chất giáo lý của Ki Tô Giáo ra sao. Mà thực ra, nghiên cứu về các tôn giáo trên thế giới thì Ki Tô Giáo là tôn giáo mê tín lạc hậu nhất, và đa số tín đồ là những người ngu nhất thế giới, nhưng vẫn huênh hoang tự cho là tôn giáo tiến bộ nhất. Cái tâm cảnh tự tôn như vậy bắt nguồn từ sự phát triển kỹ thuật vũ khí để chiến thắng quân sự cùng kỹ thuật hàng hải để đi xâm chiếm các nơi xa xôi, chứ không phải là vì giá trị tâm linh của tôn giáo Tây phương. Thật vậy, không có cách nào mà giá trị tâm linh của Ki Tô Giáo có thể sánh với giá trị tâm linh của các tôn giáo Đông phương như giáo sự Samuel P. Huntington đã nhận định trong cuốn “The Clash of Civilizations…”: “Tây phương thắng trên thế giới không phải là vì sự ưu việt của những ý tưởng, hoặc giá trị, hoặc tôn giáo Tây phương mà là ưu thế trong sự áp dụng bạo lực một cách có tổ chức.” (Huntington, p. 51: The West won the world not by the superiority of its ideas or values or religion but rather by its superiority in applying organized violence). Người Tây phương thường không thấy được sự kiện này, nhưng người các nước khác, nhất là các nước đã một thời bị Tây phương đô hộ, thì đã thấy rõ như vậy. Giáo sư Huntington viết: “Tây phương chưa bao giờ có được một tôn giáo lớn (theo nghĩa là chủ lực tinh thần hướng dẫn đạo đức và tính thiện của con người. TCN). Những tôn giáo lớn trên hoàn cầu không phải là sản phẩm của Tây phương mà là của những nền văn minh ngoài Tây phương, và trong hầu hết các trường hợp, đã có trước nền văn minh Tây phương. (Huntington, p. 54: The West, however, has never generated a major religion. The great religions of the world are all products of non-Western civilizations and, in most cases, antedate Western civilization). So sánh giáo lý, lịch sử Ki Tô Giáo (Chính Thống, Gia Tô, Tin Lành) với giáo lý, lịch sử của các tôn giáo Á Đông như Thích, Nho, Lão và Ấn Giáo, chúng ta thấy rõ ngay điều này.
Vì số tín đồ đông đảo, vì là tôn giáo của Tây phương có ưu thế về quân sự và kinh tế, nên thế lực chính trị và kinh tế của Ca-Tô và Tin Lành còn rất mạnh trong phương trời Âu Mỹ. Tuy nhiên, vì trình độ người dân nơi đây đã cao, vì những khám phá của khoa học đã bác bỏ toàn diện những điều hoang đường trong Ki Tô Giáo, vì càng ngày càng có nhiều tín đồ, mục sư, linh mục bỏ đạo, cũng như có nhiều học giả vạch ra những sai lầm của Thánh Kinh Ki Tô cùng những hành động vô đạo đức của các giáo hội Ki Tô v...v..., ngày nay, Ca-Tô Giáo Rô-ma và Tin Lành không còn rao bán được cái gọi là Phúc Âm trong những nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ, cho nên hai tôn giáo này đều đang tập trung nỗ lực truyền đạo sang những nước kém mở mang mà dân trí thấp kém và sự nghèo khổ là những yếu tố dễ khai thác để cho đám dân ít học dễ dàng theo đạo. Sách lược dùng tiền của, vật chất để truyền bá "Phúc Âm", kiếm thêm linh hồn cho Chúa đang được thi hành tích cực. Họ hiểu rõ hơn ai hết, Phúc Âm không thể khuyến dụ được ai nếu không đi kèm với mồi vật chất. Số linh hồn kiếm được càng nhiều thì hậu thuẫn chính trị của họ càng lớn, hậu thuẫn chính trị càng lớn thì quyền lợi vật chất càng cao. Đó là mục đích tối hậu của các nhà truyền giáo Ki Tô từ xưa tới nay chứ chẳng phải là vấn đề tâm linh đạo đức hay cứu rỗi gì đâu.
Nhưng sự nguy hại thật sự của những nỗ lực truyền đạo này trong những nước kém mở mang là, do cái căn bản tự cho là một tôn giáo chân thật duy nhất và chỉ được thờ một Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, và tin vào sự hứa hẹn của các nhà truyền đạo về một sự "cứu rỗi" của Giê-su, sự truyền đạo có tính cách mê hoặc này cộng với sách lược hạ thấp, mạ lỵ các tôn giáo và nền văn hóa khác như vừa nêu ở trên, sẽ tạo nên một lớp người bản xứ cuồng tín, nô lệ cho ngoại bang, sẵn sàng phản bội quốc gia, do đó không tránh khỏi đưa đến những cảnh xáo trộn trong xã hội, bất hòa trong những khối tín ngưỡng khác nhau trong những quốc gia yêu chuộng hòa bình, đang sống hòa hợp trong tình tương thân tương ái giữa những đồng bào ruột thịt. Những điều này đang xảy ra ở Ấn Độ, Thái Lan, ở Đông Timor, Nam Dương, và có thể sẽ xảy ra nơi vài miền dân tộc thiểu số ở Việt Nam nếu chính quyền không để ý đến cái bình phong tự do tín ngưỡng mà các nhà truyền đạo dùng để che đậy những âm mưu chính trị nhằm phá hoại cơ cấu quốc gia, gây chia rẽ, xúi dục tín đồ đòi độc lập, tự trị, với Ki Tô Giáo là quốc giáo v..v....
Sự suy thoái của Ki Tô Giáo nói chung trong phương trời Âu Mỹ là một hiện tượng rõ rệt. Nhưng, đáng lẽ phải tìm cách đảo ngược trào lưu suy thoái này trong chính những quốc gia của họ, những nhà truyền giáo Ca-Tô và Tin Lành lại mưu toan bành trướng sự truyền đạo trong các nước kém mở mang để kiếm thêm tín đồ với hi vọng bù đắp lại sự hao hụt trong khối tín đồ ngay trong thế giới Âu Mỹ. Trong cuộc viếng thăm Ấn Độ gần đây, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai đã tuyên bố rằng: “đi cải đạo người khác là một nhân quyền” và kêu gọi bành trướng truyền đạo sang Á Châu, tuy sự suy thoái của Ca-Tô Giáo tại Âu Châu, cái nôi của Ca-Tô Giáo trước đây, là một hiện tượng xã hội mà ông thường than phiền. (Chicago Tribune ngày 8 tháng 11, 1999: Pope concludes visit to India with call for crusade in Asia).
Nhận định về lời tuyên bố đầy tính cách hung hăng và trịch thượng trên, Mac Kher đã viết một bài bình luận ngắn trên Internet (www.nycny.com) nhan đề Tòa Hình Án Á Châu - Tây Ban Nha Của Giáo Hoàng (The Pope’s Asian - Spanish Inquisition) nội dung như sau:
Gần đây, giáo hoàng kêu gọi tăng gia nỗ lực cải đạo những người phi-Ca-Tô ở Á Châu. Giáo hoàng nói cải đạo là một nhân quyền. Giáo hoàng nói: “Cũng như trong thiên niên kỷ thứ nhất cây thập giá đã cắm chắc vào đất Âu Châu, và, trong thiên niên kỷ thứ nhì, vào Mỹ Châu và Phi Châu, có thể thiên niên kỷ Ki Tô thứ ba sẽ chứng kiến một sự được mùa lớn về đức tin trên lục địa rộng lớn và quan trọng này (Nghĩa là Á Châu)”. Giáo hoàng nói giáo hội công nhận những gì chân thật và thánh thiện trong những tôn giáo như Phật Giáo, Ấn Độ Giáo và Hồi Giáo, nhưng chỉ có Chúa Ki Tô là có thể mang đến cho chúng ta sự cứu rỗi chung cùng. (Giáo hoàng ngủ mơ, hoang tưởng rằng những tín đồ Phật Giáo cần đến một sự “cứu rỗi” của Giê-su khi mà họ đã theo con đường tự tu tự chứng và thấy rõ rằng Đức Phật của họ về mọi phương diện đều vượt xa Thiên Chúa và Giê-su của KiTô giáo. Mặt khác, tại sao cây thập giá không còn cắm chắc ở Âu Châu nữa? TCN)
Sự du nhập của Ki Tô Giáo vào Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu, và phần lớn Phi Châu và vùng Thái Bình Dương đã đưa tới sự hủy diệt một cách có hệ thống, toàn bộ những tôn giáo và nền văn hóa đa thần tiền-KiTô. Thật vậy, cuốn thánh kinh, với sự hỗ trợ của súng ống, đã dùng để trao đổi lấy đất đai của các thổ dân địa phương.
Tuyên bố bởi giáo hoàng, chức sắc cao nhất của Ca-Tô Giáo, lời kêu gọi cải đạo là một lời Tuyên Chiến chống nền văn hóa Á Đông, các tôn giáo Á Đông, và xã hội Á Đông nói chung, Ấn Độ Giáo nói riêng. Sách lược cải đạo quần chúng vào Ki Tô Giáo mưu toan phá hủy linh hồn của Á Châu, cấy ghép vào đó một triết lý mà Á Châu không cần đến. Á Châu không cần đến bất cứ một bài học nào về tôn giáo và lòng mộ đạo từ bất cứ ai.
Tại sao mà một tôn giáo lại có thể toan tính loại trừ một tôn giáo khác qua sách lược cải đạo quần chúng? Thật là rõ ràng, Giáo hoàng đang theo đuổi chính sách diệt tôn giáo (religious cleansing) Á Đông. Phương cách hiểm độc và dã tâm (malicious and predatory) này thật là quá sức phi luân (immoral) và vô đạo đức (unethical). Cái gì làm cho Giáo hoàng nghĩ rằng tôn giáo của ông là tôn giáo chân thật duy nhất? Đó là sự tự phong và sự bất khoan nhượng đi đến cực đoan. Ông ta có thể có quyền tin như vậy, nhưng ông ta không có quyền tổ chức một sự tấn công có phối hợp (concerted attack) vào các xã hội khác để hủy diệt bản chất của những xã hội này.
Sự cải đạo quần chúng đã gây nên sự chia rẽ chính trị trong nhiều quốc gia. Giáo hoàng sẽ gây nên sự bất ổn định chính trị ở Á Châu với sách lược cải đạo này. Điều tệ hại nhất về hầu hết những hoạt động cải đạo của Ki Tô Giáo ở Ấn Độ là những hoạt động này đặt nặng vào bả vật chất. Ngụy trang sau bộ áo dịch vụ y tế và xã hội, nhiều nhà truyền giáo Ki Tô đã ép buộc hữu hiệu đám dân nghèo phải theo Ki Tô Giáo. Thượng đế của ai có thể hoan hỉ với sự gian dối như vậy?
Sự đạo đức giả của giáo hoàng thật sự làm cho người ta sửng sốt. Năm ngoái, trong một cuộc công du Châu Mỹ La Tinh, ông ta đã buộc tội những nhà truyền giáo Tin Lành là giẫm chân lên đàn con chiên của ông ta! Ngày nay, cũng ông giáo hoàng đó lại tuyên bố rằng cải đạo là một nhân quyền. Vậy thì, Vatican có công nhận tôn giáo nào khác ngoài Ca-Tô Giáo? Hiển nhiên là Giáo hoàng muốn sự cải đạo chỉ có một chiều vào Ki Tô Giáo. Trong khi đánh bóng dịch vụ và tình thương của Ca Tô, qua niềm tin vô lý hung hăng của ông và thuyết không khoan nhượng về “một tôn giáo chân thật duy nhất”, Giáo hoàng đã chứng tỏ rằng sự khoan nhượng và tốt đẹp của Ấn Độ Giáo chẳng có gì đáng kể.
Ấn độ giáo không phán xét các tôn giáo khác, và các tín đồ Ấn Giáo đã lịch sự chấp nhận các tín đồ Ki Tô trong những cộng đồng của họ. Họ chỉ đơn giản yêu cầu Giáo hội Ca-Tô hãy miễn cho họ cái số phận của Âu Châu và Mỹ Châu. Thỏa mãn với tôn giáo của họ, những tín đồ Ấn Giáo không thích người ngoài mưu toan thay đổi tôn giáo và chính trị dân tộc họ qua sự cải đạo quần chúng với sự sắp đặt cẩn thận. Nhưng Giáo hoàng đòi hỏi phải cải đạo quần chúng. Ông ta không có một khuyến khích nào để đối xử với nhau tử tế và hòa hợp. Tín đồ Ấn Giáo sẵn sàng sống cùng với các tín đồ Ki Tô. Họ chỉ yêu cầu có một điều: Giáo hội Ca- Tô đừng có tìm cách loại bỏ Ấn Giáo bằng cách cải đạo dân Ấn, nghĩa là thay đổi Ấn Độ vĩnh viễn. Những tín đồ Ki Tô hiện đang sống ở Ấn Độ có thể sống tự do nhưng đừng có toan tính cải đạo người khác. Bảo vệ lãnh thổ, sự tự do và văn hóa có phải là một nhân quyền căn bản nhất hay không?
Giáo hoàng nói về “gặt mùa đức tin ở Á Châu” làm như những tín đồ Ấn Giáo và các tôn giáo khác chỉ là những ngũ cốc, chờ đợi để bị gặt hái và tích trữ vào trong vựa chứa. Có thể có một số người thích được gọi như một đàn trâu bò (flock of cattle) [có lẽ flock of sheep (đàn chiên) đúng hơn. TCN], nhưng những tín đồ Ấn Giáo không thích bị coi như là mùa màng bất động, không có sự sống, không thể bảo vệ chính mình. Trong khi tham gia một cuộc họp đa tôn giáo, Giáo hoàng nói đến đối thoại, sự hiểu biết, và sự đoàn kết giữa các tôn giáo. Ngày hôm sau, ông ta nói ngược trở lại, nhấn mạnh Ki Tô Giáo là tôn giáo chân thật duy nhất, và kêu gọi tín đồ đi cải đạo Á Châu. Đây là sự đạo đức giả và lừa dối cố ý tệ mạt nhất.
Giáo hoàng cương quyết loại trừ Ấn Giáo và nền văn hóa Ấn Độ bằng chủ trương cải đạo quần chúng Ấn vào Ki Tô Giáo chẳng khác gì chủ thuyết Taliban trong thời Trung Cổ. Những tín đồ Hồi Giáo tiêu diệt những kẻ ngoại đạo bằng gươm giáo; Giáo hoàng có cùng chủ trương qua sách lược cải đạo. Kết quả cũng như nhau. Báo chí Tây phương không giữ một vai trò xác thực trong vấn đề này. Luôn luôn, những bản tường trình từ những hãng thông tin Associated Press và Reuters mô tả những nhóm người Ấn Giáo chống lại toan tính của Giáo hoàng xâm chiếm tôn giáo của họ như là những kẻ “cứng rắn” hoặc “cuồng tín”. Vậy thì, có nên gọi cái nhóm (Ca-Tô. TCN) cho rằng “chỉ có đạo của ta là đúng”, là “cứng rắn”, “cuồng tín” và “phát xít” hay không? Trong khi đó, những tín đồ Ấn Giáo sẵn sàng sống chung với mọi tín đồ tôn giáo khác - chỉ không muốn bị những người kia nuốt - thì lại bị mạ lỵ. Thật ra, bất cứ nhóm nào tuyên bố là mình duy nhất và tin rằng mọi người khác sai, và nhất là tích cực tìm cách loại trừ các nhóm khác thì đã từ bỏ bất cứ quyền đặc biệt, quyền ưu tiên hoặc sự khoan nhượng nào từ các nhóm khác.
Điều hết sức cần đến hiện nay là sự khoan nhượng tôn giáo và sống chung hòa bình. Các tôn giáo có thể tiếp tục tin vào tôn giáo của mình, nhưng không nên tìm cách hủy diệt các tôn giáo khác. Mọi sự tấn công có tổ chức vào một tôn giáo nào cũng sẽ mang bất hạnh đến mọi người. 3
Không có gì xác thực hơn những lời phê bình trên của Mc Kher. Chúng ta đã thấy rõ bộ mặt thực hung hăng hiếu chiến, giả nhân giả nghĩa, đạo đức giả cũng như sách lược lá mặt lá trái của giáo hội Ca-Tô Rô-ma.
Sau đây, tôi xin phân tích về vấn đề sách lược xâm lăng Á Châu của Ca-Tô giáo có thể thành công hay không? Dựa trên những sự kiện lịch sử trong quá khứ xa và gần, chúng ta có thể phần nào tiên đoán được sự thành công hay thất bại của sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo của Vatican tại Á Đông. Phân tích vấn đề này tôi quan tâm đến nước Việt Nam của chúng ta nhiều hơn là đến các nước khác, và tôi có thể nắm phần chắc là sách lược cải đạo của Ca-Tô Giáo tại Việt Nam sẽ thất bại bởi những lý do sau đây.
Trở lại lịch sử, Ca Tô Giáo xâm nhập vào Việt Nam từ 1533, và 140 năm sau, tới đầu thập niên 1670, các thừa sai Ca Tô mới khuyến dụ được khoảng 60000 người theo đạo, tuyệt đại đa số thuộc thành phần thấp kém nhất trong xã hội Việt Nam (Xin đọc Catholicism et Sociétés Asiatiques của Yoshiharu Tsuboi). Có thể nói, Ca-Tô Giáo chỉ phát triển mạnh ở Việt Nam sau khi Giám mục Bá Đa Lộc tuyển mộ và đứng đầu một số giặc đánh mướn (mercenaries) giúp Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn vào đầu thế kỷ 19. Sau đó, các thừa sai Pháp thuyết phục thực dân Pháp đánh chiếm Việt Nam, mở đầu cuộc xâm chiếm bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng năm 1858. Sau khi Việt Nam bị Pháp đô hộ, Ca-Tô Giáo dựa vào thế lực thực dân để truyền đạo, làm mưa làm gió trên đất nước Việt Nam. Nhưng dù ở thế thượng phong, dưới cái dù của thực dân trong gần 100 năm, cộng với 9 năm miền Nam dưới chế độ Ca-Tô độc tôn Ngô Đình Diệm, số tín đồ Ca-Tô trên tỷ lệ dân số không thể lên quá 7, 8 phần trăm. Điều này chứng tỏ nền văn hóa Việt Nam không tương hợp với nền văn hóa Ki Tô. Vậy ngày nay, tất cả lợi thế về quyền lực của Ca-Tô Giáo đã không còn, ngoại trừ sức mạnh hữu danh vô thực, dựa vào đám đông cuồng tín của Ca-Tô Giáo trên hoàn cầu và sức mạnh của tiền bạc, Ca-Tô Giáo có cách nào để cải đạo người dân Việt Nam? 1000 năm đô hộ, người Tàu cũng không thể đồng hóa người Việt Nam. Có cách nào mà Ca-Tô Giáo hay Tin Lành có thể đưa hơn 90% người dân Việt xuống hàng súc vật, con chiên con cừu, để cho những tên vô lại ở Vatican chăn dắt? Hơn nữa, liệu chính quyền hiện nay có để cho họ tự do xâm nhập ào ạt vào Việt Nam để truyền đạo sau những chiêu bài đạo đức giả có tính cách lưỡng chuẩn (double standard) như nhân quyền và tự do tín ngưỡng một chiều hay không? Chúng ta cần phân biệt rõ ràng quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do xâm nhập một quốc gia để truyền đạo. Hai quyền này hoàn toàn khác nhau.
Ki Tô giáo nói chung, nhất là Ca-Tô giáo nói riêng, đang suy thoái khắp nơi trong những quốc gia văn minh tiến bộ nhất. Lý do Giáo hoàng John Paul II đã phải tìm mọi cách để giữ tín đồ: từ những cuộc công du trên khắp thế giới, đặc biệt là tới các nước nghèo khó ở Nam Mỹ, châu Mỹ La Tinh, và Phi châu để phủ dụ tín đồ bằng cách đưa ra vài lời xin lỗi mơ hồ (nhiều nơi bị dân chúng biểu tình la ó phản đối), cho tới viết cuốn Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi Vọng để hạ thấp các tôn giáo khác và tôn vinh sự mạc khải bất khả kiểm chứng của Thiên Chúa, rồi hứa hẹn xá mọi tội lỗi cho các tín đồ với một giá rẻ mạt: “chỉ cần bỏ thuốc lá hay rượu một ngày”, “phong thánh bừa bãi” cho các tội đồ của dân tộc Việt Nam, của Trung Quốc mà thực chất chỉ là những nô lệ của Vatican, phê bình các nhà truyền giáo Tin Lành ở Nam Mỹ là “những con chó sói đói mồi”, một loại ngôn từ phi đạo đức tôn giáo để đời cho các tín đồ, và cao điểm là hành động “xưng tội trống với Thiên Chúa và đồng loại” gần đây. Những sự kiện lịch sử này không cho phép giáo hội Ca-Tô mang bộ mặt giả nhân giả nghĩa hay “thánh thiện” để mà đi rao giảng tin mừng Phúc Âm nữa, vì người ta sẽ công khai chất vấn về những điều sai trái, hoang đường trong Phúc Âm và thực chất của Giáo hội.
Thực chất của giáo hội Ca-Tô Rô-Ma ra sao? Trước ngày 12 tháng 3, 2000, ngày “xưng thú 7 núi tội lỗi” của giáo hội tại “thánh đường” Phê-rô, Học Hội Đức KiTô Phục Sinh ở Houston, Texas, Hoa Kỳ, đã đưa ra bản Tuyên Ngôn số 1 và bản Tuyên Cáo số 6 với nội dung liên hệ đến tội lỗi KiTô giáo đã phạm suốt 2000 năm qua. Trong số 15 trọng tội được liệt kê trong bản Tuyên Ngôn số 1, chúng ta có thể đọc vài đoạn sau đây trong mục “Tội Thứ 15”:
Những trọng tội của giáo hội liệt kê trên (trong 14 mục trước) chưa phải là tất cả! Những trọng tội trải dài hàng ngàn năm, và còn hiện hữu trong thế giới ngày nay, cuối thế kỷ 20, tại bất cứ nơi nào và bây giờ. Gốc và đầu mối trọng tội của giáo hội còn nằm trơ y nguyên trạng không thay đổi! Giáo hội là Caesar, và Casaer là giáo hội, đế quốc thường phạm vào những tội danh gì, giáo hội cũng phạm vào những tội danh ấy, và có phần nhiều hơn vì tội nhìn thấy và tội nhìn chẳng thấy..
Giáo hội truyền giáo cứu độ là danh là diện là chiêu bài, giáo hội đế quốc là thực là điểm là cứu cánh! Qua đoạn giáo lý ngắn vài hàng dẫn chứng (giáo hội dẫn chứng từ một đoạn vô cùng hoang đường trong Thánh Kinh kể chuyện ba Vua miền đông được một ngôi sao dẫn lộ đến chầu Chúa, tuy rằng ngày nay các học giả nghiên cứu Thánh Kinh đều chứng minh rằng đó là chuyện phịa, không thể nào xảy ra được. TCN), hạng ngu phu thất học cũng nhận ra ngay tâm địa tuyên truyền nhồi sọ xảo quyệt của giáo hội bắt mọi người phải trả giá cho hồng ân cứu độ của đấng cứu thế bằng cái giá từ bỏ căn tính dân tộc riêng của mình để nhận lấy phẩm giá dân tộc Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa, là dân riêng của của giáo hội qua phép rửa tội..
Nhận định của một nhóm Ca-Tô hữu mà còn như vậy, huống chi là đối với người ngoài, giáo hội làm sao có thể thuyết phục để họ tin vào những điều quái gở mà giáo hội bày đặt ra, chỉ có tác dụng đối với tầng lớp cùng dân thấp kém. Làm sao giáo hội còn có thể thuyết phục được người dân Việt Nam từ bỏ căn tính dân tộc riêng của mình để nhận lấy phẩm giá dân tộc Do Thái?
Thời buổi này, không còn mấy người có đầu óc còn tin ở những chuyện hoang đường như “tội tổ tông”, “Chúa tình nguyện leo lên thập giá để chuộc tội cho nhân loại”, “Đức Mẹ đồng trinh”, “Giê-su chết ba ngày rồi sống lại và bay lên trời”, khả năng “cứu rỗi” của Giê-su v..v.., kể cả một số giám mục, linh mục trong giáo hội. Khoa học với những bằng chứng bất khả phủ bác trong vũ trụ học, di truyền học, sinh học, sinh hóa học, cổ sinh vật học v..v.. cộng với thuyết tiến hóa đã bác bỏ toàn bộ nền thần học Ki Tô. Đặc biệt là trong thời đại thông tin điện tử này, không ai có thể dấu ai được điều gì, và con người có thể kiểm chứng những tài liệu nghiên cứu chính xác bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu. Làm sao giáo hội có thể thuyết phục được quần chúng bằng những lý thuyết mơ hồ không có một căn bản xác thực nào. Trí tuệ người dân Việt Nam đâu còn ở mức trí tuệ của những nông dân hay dân chài ở những vùng như Bùi Chu, Phát Diệm trong thế kỷ 18, 19?
Đó là những lý do tổng quát khiến cho Ca-Tô giáo khó có thể thành công ở Việt Nam. Nhưng lý do chính là, khi truyền đạo ở Việt Nam, nền văn hóa KiTô không tránh khỏi vấp phải nền văn hóa Phật giáo đã bám rễ ăn sâu và đồng hóa với nền văn hóa truyền thống của dân Việt Nam, vốn là một nền văn hóa nhân bản và nhân chủ. Sự tích dân tộc Việt Nam là Con Rồng Cháu Tiên của Mẹ Âu Cơ và Cha Lạc Long Quân và tục thờ cúng tổ tiên, ông bà cha mẹ đã qua đời, chứng tỏ người Việt Nam từ ngàn xưa đã bác bỏ quan niệm thần linh sinh ra con người. Còn gì nhân bản hơn là người tôn thờ người, và người thờ nhân tính. Đạo sống này của dân Việt Nam có trước cả khi Đức Phật, Lão Tử, Khổng tử hay Giê-su sinh ra đời. Và Phật Giáo đã đóng góp vào nền văn hóa đặc thù này bằng cách đưa vào con đường tự tu tự chứng, mình làm chủ chính mình. Do đó, nền văn hóa nhân bản và nhân chủ của Việt Nam chính là thành trì chống nền văn hóa Kitô hữu hiệu nhất, không phải vì nền văn hóa này cũng tàn bạo và thấp kém như nền văn hóa Ki Tô, mà vì nền văn hóa này cộng với nền văn hóa Phật Giáo, suốt trong giòng lịch sử, đã chứng tỏ cho thế giới thấy đó là một nền văn hóa hòa bình, nhân bản, tôn trọng nhân phẩm của con người. Sau đây tôi xin đi vào vài chi tiết để chứng minh.
Xét riêng về phương diện tôn giáo, đại cương thì, nền văn hóa Á Đông, trừ Phi Luật Tân (Ca-Tô) và Nam Dương (Hồi Giáo), còn chung chung có thể nói cũng là nền văn hóa Phật Giáo, dù ở trong những quốc gia đang sống dưới chế độ chuyên chính như ở Trung Quốc và Việt Nam, hoặc ở trong những quốc gia dân chủ như Nhật Bản, Đại Hàn, Thái Lan, Tân Gia Ba v..v.. Nền văn hóa Phật Giáo cao hơn nền văn hóa Ki Tô rất nhiều, điều này không ai có thể phủ nhận, trừ phi chúng ta đánh đồng sai lầm nền văn hóa Ki Tô với những tiến bộ về khoa học, kỹ thuật của xã hội của Tây phương, những tiến bộ mà Ki-Tô giáo nói chung, Ca-Tô giáo nói riêng, đã tích cực ngăn chặn (đốt sách vở, đốt luôn cả khoa học gia, cấm tín đồ đọc sách v..v..) nhưng không nổi, cho nên ngày nay đã nhận vơ theo kiểu “thấy sang thì bắt quàng làm họ.” Ngày nay, Tây phương đã nhận ra chân giá trị của Phật Giáo, và Phật Giáo phát triển rất tự nhiên trong những xã hội Tây phương mà không hề có ý định cải đạo người khác hoặc kiếm thêm tín đồ. Đụng phải cái thành trì Phật Giáo ở Á Đông, Ki Tô Giáo không có cách nào thắng được Phật Giáo vì từ giáo lý cho đến thực hành, từ bản chất của mỗi tôn giáo cho đến những phúc lợi mà mỗi tôn giáo đã mang đến cho nhân loại, từ đạo đức tôn giáo cho tới trí tuệ của những vị lãnh đạo tinh thần trong mỗi tôn giáo v..v.., Ki Tô Giáo đều không thể so sánh với Phật Giáo được. Chúng ta nên nhớ, lịch sử đạo đức của một số không nhỏ giáo hoàng và nhiều vị lãnh đạo Ca-Tô giáo là một lịch sử đầy sự ô nhục, và gần đây Giáo Hoàng John Paul II đã phải công khai xưng thú 7 núi tội lỗi của Giáo hội đối với thế giới, trong đây tất nhiên Việt Nam là một nạn nhân, vậy Ki Tô Giáo lấy gì để mà thuyết phục người dân Việt Nam, trừ khả năng mang bả vật chất ra để mua tín đồ, mua những người “theo đạo có gạo mà ăn”, hoặc đưa ra những hứa hẹn hoang đường, vô trách nhiệm, về “xác chết sẽ sống lại” trong ngày phán xét, và sẽ có một cuộc sống đời đời trên một thiên đường tưởng tượng nếu giữ vững niềm tin vào những điều huyền hoặc của Tòa Thánh đưa ra với mục đích khai thác sự yếu kém tinh thần và lòng mê tín của đám cùng dân thấp kém. Giáo hội có tin rằng những người ngoại đạo ở Việt Nam sẽ để yên cho Giáo hội muốn tuyên truyền lừa dối đồng bào của họ ra sao cũng được? Hay tin rằng người dân Việt Nam đã quên đi vai trò của giáo hội Ca-Tô Rô-Ma tại Việt Nam trong việc đưa nước Việt Nam vào vòng nô lệ của Pháp?
Ngoài ra, tuyệt đại đa số người dân Việt Nam, nhất là các Phật tử, cũng đã biết rõ những điều khác biệt căn bản giữa Phật Giáo và Ca-Tô Giáo. Những điều này sẽ giúp họ có thái độ thích hợp để đối thoại hữu hiệu với các tín đồ Ca-Tô, hoặc trước những lời tuyên truyền giả dối của Ca-Tô Giáo.
Thứ nhất, lịch sử truyền giáo của đạo Phật, một tôn giáo có trước Ca-Tô Giáo hơn 500 năm, đã cho thế giới thấy, Phật Giáo là một tôn giáo hòa bình, không hề làm đổ một giọt máu trong quá trình truyền giáo và phát triển trong suốt hơn 2500 năm nay. Trái lại, lịch sử truyền giáo của Ca-Tô Giáo trên thế giới đã chứng tỏ rằng Ca-Tô Giáo là một tôn giáo hiếu chiến, sắt máu, tàn bạo v..v.., và trong quá trình truyền giáo qua 16 thế kỷ, từ thời Constantine, đã làm cho máu của nhiều triệu người vô tội chảy thành sông, xương chất thành núi. Đây chính là lý do khiến cho giáo hội Ca-Tô ngày nay phải công khai xưng thú 7 núi tội lỗi và xin được tha thứ. Nhưng dù giáo hội có làm gì đi chăng nữa thì núi xương sông máu này cũng vẫn muôn đời tồn tại trên bờ vai lương tâm của giáo hội và của những tín đồ còn đôi chút lương tri và đầu óc suy tư.
Thứ nhì, Kinh Luận Phật Giáo gồm thiên Kinh vạn quyển, số lượng nhiều gấp bội Thánh Kinh. Nhưng chúng ta không hề thấy trong rừng kinh điển Phật Giáo bất cứ một lời nói nào hay một hành động nào của Đức Phật, hay của các đệ tử Phật, trái với những tiêu chuẩn luân lý và đạo đức của con người xưa cũng như nay. Trái lại, trong Thánh Kinh chúng ta thấy vô số những chuyện ác độc, thương luân, bại lý, không của Chúa Cha thì cũng của Chúa Con, hoặc của các bậc được gọi là Thánh trong Ki Tô Giáo, cùng những chuyện dâm ô, loạn luân, thù hận, giết người tập thể v..v.. Cũng vì vậy, càng đi vào Kinh điển Phật Giáo chúng ta càng thấy chân trời của chúng ta mở rộng, càng thấy những tư tưởng Phật Giáo quả là siêu việt, vượt thời gian và không gian. Đây chính là lý do Phật Giáo đang phát triển mạnh trong thế giới, trong những nền văn minh Âu Mỹ, nhất là trong giới trí thức. Trái lại, càng đi sâu vào Thánh Kinh, chúng ta càng khám phá ra nhiều điều sai lầm, về thần học cũng như về khoa học, ngoài những điều không thể chấp nhận được vì chúng đối nghịch hẳn với những tiêu chuẩn luân lý đạo đức của con người ngày nay. Đây chính là lý do làm cho Ca-Tô Giáo suy thoái khắp nơi trên thế giới.
Thứ ba, đạo đức của những nhà tu hành Phật Giáo thật là vượt xa đạo đức của những nhà lãnh đạo Ca-Tô giáo. Trong một phần trên tôi đã viết sơ lược về những sự đồi bại của một số giáo hoàng và linh mục. Có người cố cãi rằng đó là những chuyện ngày xưa, ngày nay giáo hội đã trở nên thánh thiện hơn nhiều. Nhưng đây chỉ là sự cãi lấy được, vì họ không hề cập nhật hóa về những hoạt động của giáo hội cũng như trong cung đình Vatican. Chuyện giáo hội ký thỏa ước với Phát Xít Đức và Ý, và chuyện độc ác tàn bạo của giới giám mục, linh mục trong trọng tội giết 700000 dân Serb theo Chính Thống Giáo và dân Do Thái ở Croatia là chuyện gần đây, không phải là chuyện ngày xưa. Chuyện cả ngàn linh mục phạm tội cưỡng dâm trẻ phụ tế và nữ tín đồ vị thành niên là chuyện ngày nay chứ không phải là chuyện ngày xưa. Những chuyện đồi bại trong cung đình Vatican trong cuốn Cuốn Theo Chiều Gió Trong Vatican (Gone With The Wind in the Vatican) của linh mục Marielli viết năm 1999, và cuốn Những Tội lỗi Của Giáo Hoàng (Papal Sins) của học giả Ca-Tô Gary Wills viết năm 2000, không phải là những chuyện ngày xưa. Quý độc giả nào muốn biết thêm chi tiết về những chuyện nhơ nhớp này xin đọc một phần trong cuốn Đức Tin và Lý Trí của Trần Văn Kha.
Thứ tư, Phật giáo và Ca-Tô Giáo đều là tôn giáo ngoại lai, theo nghĩa từ ngoài du nhập vào Việt Nam. Tuy nhiên bản chất của sự du nhập và ứng dụng của mỗi tôn giáo vào trong xã hội Việt Nam hoàn toàn khác nhau và đối ngược hẳn nhau.
Phật giáo đi vào dân tộc Việt Nam qua giới trí thức bằng con đường tận dụng khả năng suy tư của con người, con đường phát triển trí tuệ, tự lực tự cường, không có những giáo điều khô cứng, không có những hứa hẹn hão huyền có tác dụng ru ngủ dân chúng, và nhất là không chống lại những truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Với những giáo lý nhân bản, lấy con người làm gốc, phục vụ con người ngay trong đời sống này, lấy trí tuệ làm căn bản, và qua những triết thuyết cao siêu, phù hợp với tinh thần khoa học, Phật Giáo đã đáp ứng được những đòi hỏi suy luận trí thức của giới có học. Từ giới trí thức này, tinh thần Phật Giáo được phát huy qua những giáo lý hòa bình, bao dung, bình đẳng, giản dị, đạo đức, từ bi v..v.. cho nên Phật Giáo đã lan xuống khắp các giới trong xã hội Việt Nam. Từ đó, Phật Giáo đã hội nhập trong dân gian để tạo nên một tinh thần Phật Giáo dính liền với tinh thần yêu nước cao độ cố hữu của người dân Việt Nam. Phật Giáo chưa bao giờ phản bội dân tộc, liên kết với kẻ ngoại xâm chống lại tổ quốc. Phật Giáo Việt Nam chưa bao giờ nhận lệnh của bất cứ chức sắc ngoại quốc nào, lệ thuộc bất cứ một tổ chức tôn giáo hay chính trị quốc tế nào. Do đó, ảnh hưởng của Phật Giáo trên nền văn hóa dân tộc thực là sâu đậm, sâu đậm đến độ người ta không còn phân biệt được đâu là văn hóa Phật Giáo và đâu là văn hóa dân tộc. Đây là những sự kiện lịch sử không ai có thể phủ bác.
Trái lại, Ca-Tô Giáo du nhập vào Việt Nam qua giới cùng đinh thất học bằng những phương pháp truyền đạo xảo quyệt, xuyên tạc sự thật, và mạ lỵ, xâm phạm tới toàn bộ tín ngưỡng, đạo đức và cấu trúc văn hóa của xã hội Việt Nam. Ngoài ra nhiều thừa sai Ca-Tô còn trắng trợn can thiệp vào chính trị nội bộ của Việt Nam và trong nhiều trường hợp đã xúi dục nội loạn và gây nên sự chia rẽ, bất hòa trong xã hội Việt Nam. Họ ru ngủ đám tín đồ thấp kém bằng những điều mê tín hoang đường, bằng một đức tin vào những giáo điều tín lý khô cứng, phi lôgic, phản khoa học, bằng những hứa hẹn vô trách nhiệm vào một niềm tin “xác chết ngày sau sống lại” để có “sự sống đời đời”, do sự “cứu rỗi” của một Thiên Chúa đã chết trên cây thập giá cách đây 2000 năm và chưa bao giờ xuất hiện để cứu bất cứ ai v..v... Những giáo sĩ thừa sai đầu tiên có ảnh hưởng trong việc truyền đạo không phải là những nhà tu hành đạo đức mà là những tên gián điệp như Alexandre de Rhodes, Francois Pallu, Lambert de la Motte v..v.., hoặc những tên lính đánh thuê như Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc), hoặc những tên thực dân như Retord (thầy của Trần Lục), Gauthier (thầy của Nguyễn Trường Tộ), Puginier, Huc, Pellerin v..v.. Nhưng bất hạnh nhất cho Việt Nam là nền đạo lý Gia Tô đã thành công trong việc đào tạo được một lớp tín đồ trong những giới thấp nhất của xã hội (từ của Toàn quyền Đông Dương de Lanessan: the lowest classes), sẵn sàng phản bội dân tộc, tiếp tay với thực dân Pháp vì một cái bánh vẽ trên trời cho riêng mình. Lời thú nhận của giám mục Puginier “Không có các thừa sai và giáo dân Ki Tô Giáo thì người Pháp cũng giống như những con cua đã bị bẻ gãy hết càng” về vai trò quyết định của giáo dân Việt Nam trong sự hỗ trợ đoàn quân xâm lăng của Pháp là một bằng chứng. Sự kiện linh mục Trần Lục mang 5000 giáo dân đến hỗ trợ quân Pháp để hạ chiến khu kháng chiến Ba Đình là một bằng chứng khác. (Xin đọc chi tiết những sự kiện trên trong cuốn Công Giáo Chính Sử, chương VIII.) Bản chất của Giáo hội Ca-Tô Việt Nam chỉ là một mớ tín đồ hạng hai. Ca-Tô giáo vào Việt Nam từ 1533 nhưng 400 năm sau (1933) mới có một giám mục đầu tiên (Nguyễn Bá Tòng). Nhưng tệ hơn cả là Giáo hội này hoàn toàn lệ thuộc Vatican bất kể là những quyết định của Vatican xâm phạm đến chủ quyền dân tộc và xúc phạm đến nền văn hóa của Việt Nam tới đâu. Lịch sử cho thấy quyền lợi của Vatican luôn luôn đối nghịch với quyền lợi của Việt Nam. Chừng nào mà tinh thần nô lệ này còn tồn tại, thì chừng đó người dân Việt Nam vẫn còn phải lưu tâm đề phòng lịch sử tái diễn.
Trên đây chỉ là vài lý do chính mà tôi nghĩ chính sách trồng cây Ca-Tô Giáo vào những miền đất ở Á Châu sẽ thất bại. Đất Á Châu không thích hợp với cây Ca-Tô. Trồng vào đó, cây tuy không đến nỗi chết héo queo như cây sung bị Chúa Giêsu nguyền rủa, không bao giờ có thể ra trái được nữa, nhưng có lẽ cũng chỉ sống một cách èo ẹt, không có nhiều sinh khí. Không ai có thể đi ngược lại đà tiến hóa của con người. Người dân Việt Nam không lẽ lại tệ hại đến mức phải đi hốt những thứ làm ô nhiễm đầu óc con người mà Âu Châu và Mỹ Châu đang đào thải dần dần, và coi đó là những của báu trên trần gian. Tôi thực tình không tin như vậy.
Tuy âm mưu truyền đạo sang các nước Á Châu của Ca-Tô Giáo không có mấy hi vọng thành tựu, nhưng chúng ta không thể lơ là, coi thường những thủ đoạn của Giáo hội Ca- Tô. Chúng ta không thể áp dụng hạnh từ bi một cách sai lầm theo nghĩa chỉ biết tụng Kinh niệm Phật và để mặc cho Ca- Tô Giáo tự do hoành hành trong âm mưu nô lệ hóa đầu óc người dân Việt. Từ là cho vui, và Bi là cứu khổ. Khai sáng trí tuệ người dân, chuyển hóa để cho họ thấm nhuần giáo lý nhân bản, thiết thực, hòa bình, vị tha, vô thường, vô ngã v..v.. của Phật Giáo là mang niềm vui đến cho họ. Cứu họ ra khỏi vô minh, mê tín dị đoan, xiềng xích trí tuệ, tinh thần nô lệ ngoại nhân v..v.., đó chính là cứu khổ.
Muốn chống lại âm mưu truyền đạo sang Á Châu của Ca- Tô Giáo chúng ta cần phải biết tôn giáo này đã thành công và phát triển trên thế giới như thế nào, và tại sao ngày nay các nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ lại đang từ bỏ dần dần tôn giáo này để đi tìm những giá trị tâm linh của Á Đông. Có lẽ vài nhận định sau đây của Học Hội Đức KiTô Phục Sinh, có thể cho chúng ta thấy rõ vấn đề. Trong mục “Tội Thứ Sáu” trong số 15 trọng tội của Giáo hội, Học Hội viết:
Hạ lưu tôn giáo là: Thánh kinh, thánh truyền, mạc khải, tín điều, thần học, tế lễ, bí tích, cầu kinh, và kể cả đức tin.. là bản năng tín ngưỡng hướng ngoại thấp hèn của đại đa số nhân loại chưa được giáo dục đủ để có một hiểu biết chân thật về chính mình, là vong thân và đi tìm một thiên đường trên mây, bên ngoài con người.. Giáo hội rất mạnh nơi thôn dã, chài lưới, làng mạc, dân ngu và nghèo.
Trong mục “Tội Thứ Tám”, Học Hội trích dẫn Chỉ Dụ ngày 4 tháng 3 năm 1804 của Vua Gia Long:
“Còn về đạo Bồ Đào Nha (Ca-Tô) là một đạo ngoại lai đã được truyền cách chùng lén khắp trong nước và hiện nay vẫn còn, mặc dù chính phủ đã cố gắng để hủy bỏ cái đại dị đoan này. Hỏa ngục là một chỗ ghê gớm đạo này dùng để làm cho kẻ ngu xuẩn khiếp sợ. Thiên đàng mà đạo hứa sẽ ban cho những người ngay lành (thật ra là những người chỉ cần tin Chúa. TCN) là một thành ngữ rất kêu để quyến rũ những kẻ khờ khạo. Đạo này đã được dạy trong đám dân ngu. Một số khá lớn?? Trong nước bị thâm nhiễm tà đạo, và đã quen giữ lề luật (của đạo Ca-Tô) một cách mù quáng, không suy nghĩ, và không sao mở mắt cho họ được..” rồi đưa ra nhận định như sau: Tội lỗi của giáo hội là mượn chiêu bài truyền giáo Tin Mừng và tôn giáo cứu độ, nhưng chủ yếu là chinh chiến xâm lăng mở rộng quyền lực trên đất đai và trên con người..
Trọng tội của giáo hội là đồng hóa đại cuộc truyền giáo Tin Mừng vào công việc thương mại hàng hải, giáo hội đồng hành với các đạo quân viễn chinh của các nước Tây phương đi cướp đất cướp dân làm thuộc địa và nô lệ hóa dân bị trị cả thể xác lẫn văn hóa và linh hồn. Giáo hội chủ trương làm cỏ nền văn hóa và lễ nghi Trung Hoa và Việt Nam.
Và, trong mục “Tội Thứ Mười”:
Giáo hội không biết mình, không biết người! Giáo hội công giáo Rôma La-tinh rất chủ quan, trịch thượng và kiêu ngạo, luôn luôn có quyết tâm lấy mạc khải đánh đổ minh triết, lấy chư thần bức bách con người, lấy văn hóa La-Hi tiêu diệt văn hóa thiên hạ. Nền minh triết và văn hóa định cư nhiều ngàn năm của Châu Á Viễn Đông đã có hùng lực Đức Sung Phù kháng cự dẻo dai bền bỉ trước cuộc tấn công của mạc khải và văn hóa bán du mục bán định cư của phương Tây. Ki-Tô giáo bị chặn đứng tại cửa ngõ các trường Nho học, Lão học, Phật học. Học trò chư thánh hiền Đông phương và giới trí thức khoa bảng tam giáo có giòng máu văn hóa bách gia chư tử đã đồng thuận khinh thị và tẩy chay văn hóa Tây phương. (Học hội viết sai chỗ này: Đông phương khinh thị và tẩy chay văn hóa đặc thù Ki Tô chứ không phải là tất cả nền văn hóa Tây phương. Từ thế kỷ 16, Tây phương đã thoát ra khỏi ngục tù tư tưởng của văn hóa đặc thù KiTô và tạo cho mình một nền văn hóa tiến bộ biệt lập, đưa văn hóa Ki Tô vào hậu trường lạc hậu lỗi thời. TCN) Giai cấp Nho sĩ đã bước qua phạm trù hạ lưu tôn giáo là mạc khải, thần học, tín điều, giáo điều, đức tin.. và đã thăng đường nhập thất bước lên phạm trù thượng lưu tôn giáo là minh triết, đạo học, tâm học, lý học, hình nhi thượng học.. Dưới mắt các nho sĩ Đại Việt, thần thánh là cỏ rác chó rơm, và 7 phép bí tích của Ki-Tô giáo (Chỉ có Ca-Tô giáo mới có 7 bí tích, Tin Lành chỉ có 2: rửa tội và ban thánh thể. TCN) là việc hành quái, nhất là bí tích Thánh Thể, bánh và rượu biến thành thịt và máu Đức Giêsu là hiện tượng hành quái và dị đoan tuyệt đối không thể chấp nhận được.
Từ những nhận định chính xác của Học Hội Đức Ki Tô Phục Sinh như trên, chúng ta thấy rõ ràng là ông cha chúng ta đã có những nhận định rất đúng về Ca-Tô Giáo và đã đưa ra những biện pháp ngăn chận hợp lý để bảo vệ, gìn giữ nền văn hóa dân tộc và truyền thống xã hội của Việt Nam. Tiếc thay, vì ở thế yếu quân sự, nên thực dân Pháp đã thành công trong việc chiếm giữ nước ta, và bọn ngu dại, tin vào một cái bánh vẽ trên trời, đang tâm phản quốc, mới có cơ hội mê hoặc quần chúng bằng những quan niệm về thiên đường, hỏa ngục hoang đường mà ngày nay chính giáo hoàng của họ đã thú nhận đó chỉ là những luận điệu thần học có tính cách lừa bịp.
Thế nhưng, đạo đức giả và nói xuôi rồi nói ngược hầu như là nghề của đương kim giáo hoàng Gion Pôn Hai. Thật vậy, ngày 20 tháng 5, 1996, Giáo Hoàng Gion Pôn Hai lên tiếng khuyên cùng thế giới: "Các quốc gia phải gìn giữ nền văn hóa của họ như là một biểu thị của phẩm cách Quốc gia" (Countries must preserve their culture as an expression of national dignity). Giáo hoàng thừa biết rằng nền văn hóa Ki Tô không thể nào tương hợp với những nền văn hóa ở Á Châu, nhưng ông vẫn khuyến khích tín đồ "Phúc âm hóa" Á Châu, hi vọng có thể bù đắp phần nào cho sự hao hụt tín đồ trong các thế giới tiến bộ Âu Mỹ. Tuyên bố như trên nhưng ông vẫn chấp chặt vào niềm hoang tưởng: rằng nền văn hóa Ki Tô là nền văn hóa của Thượng đế (God's culture), do đó phải được truyền bá khắp thế giới qua sách lược Ki Tô hóa toàn cầu, xóa bỏ mọi nền văn hóa bản xứ để thay vào đó bằng nền văn hóa Ki Tô. Do đó, truyền bá Phúc Âm chẳng qua chỉ là hành động xâm lược những nền văn hóa khác của các quốc gia mà chính Giáo hoàng đã khuyên họ phải gìn giữ như là phẩm cách quốc gia. Qua những biện pháp cấm đạo, tuy không phù hợp với sự tiến bộ xã hội của nhân loại ngày nay, nhưng ông cha chúng ta đã thành công trong việc gìn giữ nền văn hóa dân tộc dù trong nước vẫn còn một số không nhỏ, do thực dân để lại, chưa bỏ được những hành động phi dân tộc, lệ thuộc ngoại bang, sống xa lạ với những truyền thống văn hóa Việt Nam. Chúng ta cần ghi ơn tổ tiên và nguyện tiếp nối truyền thống yêu nước, bảo vệ và gìn giữ nền văn hóa dân tộc. Vậy, ngày nay, nếu chúng ta có đưa ra những biện pháp hòa bình ngăn chận sự xâm lăng văn hóa của các thừa sai Ki Tô thì cũng chỉ để gìn giữ phẩm cách quốc gia của chúng ta mà thôi. Thật là hợp lý và chính đáng. Không ai có thể dựa vào bất cứ căn bản nào để lên án chúng ta là vi phạm tự do tôn giáo.
Bản chất của Ca-Tô Giáo và Tin Lành là lợi dụng sự cuồng tín của tín đồ, tạo thành một lực lượng xã hội, để khi có cơ hội và quyền thế thì sẽ khuynh loát chính quyền, đàn áp và áp bức tín đồ của các tôn giáo khác. Bản chất cuồng tín này, nếu ở vị thế nắm quyền hành thì sự tác hại của nó đối với khối dân chúng không đồng tín ngưỡng không biết lên tới mức độ nào. Kinh nghiệm lịch sử ở những nơi mà Ca-Tô giáo là chủ lực tinh thần trong thời Trung Cổ, ở Tây Ban Nha dưới quyền của nhà độc tài Ca-Tô Franco, ở Croatia dưới quyền của tên Ca-Tô Ante Palevic và những linh mục khát máu, và của người dân miền Nam Việt Nam dưới chế độ Ca-Tô Ngô Đình Diệm là một tấm gương cảnh tỉnh những người còn mơ mộng là "tôn giáo nào cũng tốt cả". Ngày nay, không ai còn coi Ki Tô Giáo là một lực lượng tôn giáo thuần túy mà trái lại chỉ là những định chế coi nặng vấn đề quyền lợi chính trị và kinh tế.
Cái hiểm họa Ki Tô Giáo ở trên thế giới là một hiểm họa có thực. Lịch sử đã chứng tỏ như vậy. Chúng ta không nên bị mê hoặc bởi luận điệu: "Tôn giáo nào cũng tốt như nhau cả, đều dạy con người làm lành, tránh ác." Chính nhà Thần học nổi tiếng Hans Kung đã mở đầu cuốn Ki Tô Giáo (Christianity) bằng câu:
"Chỉ có kẻ không biết gì mới cho rằng mọi tôn giáo đều giống nhau. Trái lại, thật là vô cùng quan trọng cho tín đồ mỗi tôn giáo tự đặt câu hỏi: Sự khác biệt giữa tôn giáo của mình và các tôn giáo khác là gì?" (Only the ignorant can claim that all religions are the same. On the contrary, it is extremely important for members of each religion to ask: What is the difference between my religion and other religions?).
Ngày nay, không một người nào có đầu óc còn nghĩ đến những biện pháp cấm đạo và bách hại những người đi đạo như khi xưa nữa. Vậy biện pháp nào thích hợp nhất để bảo vệ và gìn giữ nền văn hóa truyền thống của Việt Nam? Tôi cho rằng, để tránh cái hiểm họa Ca-Tô (Công Giáo) và Tin Lành, cái hiểm họa đã được chứng tỏ trong 2000 năm lịch sử của Ki Tô Giáo, đặc biệt là Ca-Tô giáo , ở Việt Nam, ngoài việc cương quyết ngăn chận sự xâm nhập của các thừa sai truyền đạo vào trong đất nước, con đường hữu hiệu nhất là con đường mở mang dân trí. Qua con đường này, người dân sẽ biết rõ về bản chất và những sự thực về Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo nói riêng, và từ đó sẽ đỡ bị mê hoặc bởi những lời truyền đạo giả dối, che đậy thực chất mê tín, hoang đường, phi lý của Ki Tô Giáo. Nữ học giả Ca-Tô Joane H. Meehl, sau khi đã nhìn thấy rõ chủ đích và những việc làm của Giáo hội Ca-Tô từ thế kỷ 4 cho tới ngày nay, đã viết trong cuốn "Người Tín Đồ Ca-Tô Tỉnh Ngộ" (The Recovering Catholic, Prometheus Book, 1995, trang 288):
"Đạo Ca-Tô chỉ thịnh hành và phát triển trong đám người nghèo và ngu dốt. Nó chỉ bị khắc phục bằng giáo dục (mở mang dân trí. TCN) và đời sống kinh tế thoải mái." (Catholicism thrives and grows among the poor and ignorant. It is overcome by education and economic well-being).
Điều này đã xảy ra trong những nước văn minh tiến bộ Âu Mỹ trong đó đời sống vật chất của con người tương đối cao, và những tác phẩm nghiên cứu nghiêm chỉnh về tôn giáo, bất kể tôn giáo đó là tôn giáo nào, và bất kể chủ đề nghiên cứu là chủ đề nào, của những người có uy tín trong giới trí thức như lãnh tụ tôn giáo, học giả, chuyên gia, giáo sư đại học v..v.. được phổ biến rộng rãi trong quần chúng. Đừng bao giờ e ngại trước những lời lên án việc mở mang dân trí này là chống tôn giáo hay chia rẽ tôn giáo. Sự hòa hợp giữa những khối dân có tín ngưỡng khác nhau trong những quốc gia tân tiến Âu Mỹ, nơi đây các tác phẩm nghiên cứu về tôn giáo được phổ biến rộng rãi, là một bằng chứng rõ rệt nhất về lợi ích của việc mở mang dân trí để cho người dân biết rõ sự thật về tôn giáo trong xã hội. Những sự thực về lịch sử những tội ác của Ca-Tô Giáo, về tổ chức độc tài của Giáo hội, về những thần quyền tự phong của giới lãnh đạo Ca-Tô, cùng những tín điều hoang đường phi lô-gic, phi lý trí, phản khoa học, huyền hoặc, lỗi thời v..v.. của Ca-Tô Giáo phải được nghiên cứu cẩn thận và phổ biến rộng rãi.
Việt Nam cần phải ý thức được sự nguy hại của chiêu bài nhập nhằng tự do tôn giáo với tự do truyền đạo để có thể tìm cách đối phó, đưa ra những biện pháp ngăn chận thích nghi, hợp lý. Những biện pháp ngăn chận này phải nằm trong quốc sách và phải được cương quyết thi hành. Tôi tin rằng đa số người dân Việt Nam sẽ ủng hộ những biện pháp bảo vệ nền văn hóa truyền thống Việt Nam này vì chúng ta ý thức rõ ràng rằng không có một chế độ nô lệ nào độc hại bằng nô lệ văn hóa.
Truyền Giáo là sự phát triển tự nhiên của mọi tôn giáo. Tôn giáo nào cũng mong muốn đạo mình có thêm tín đồ. Nhưng phương cách truyền giáo là cả một vấn đề và thường phản ánh bản chất của tôn giáo đó. Chúng ta không nên quên 7 núi tội lỗi mà giáo hoàng vừa xưng thú, những tội lỗi trải dài suốt 2000 năm và ở mọi nơi Ca-Tô Giáo mang cây thập giá tới. Chúng ta cũng không nên quên Ca-Tô Giáo đã giữ một vai trò then chốt quyết định trong việc đưa Việt Nam vào vòng nô lệ của Pháp. Lịch sử đã chứng minh: Sách lược truyền giáo của Ca-Tô Giáo là một sách lược chủ trương xóa bỏ mọi nền văn hóa phi Ki-Tô, dùng bạo lực thắng công lý, dùng gian xảo, dối trá để lừa dối dân gian, dùng bả vật chất và mê tín dị đoan để chiêu dụ và giữ tín đồ, dùng những phép lạ ngụy tạo để huyễn hoặc làm mê mẩn đầu óc tín đồ v..v.. Lịch sử thế giới đã ghi rõ điều này, và kinh nghiệm cay đắng của Việt Nam đối diện với sự xâm nhập của Ca-Tô Giáo còn ghi rõ trong sử sách. Ở đây, sách lược truyền giáo của đạo Ca-Tô đã đưa tới những cảnh bất hòa trong những gia đình nào có người bỏ tôn giáo truyền thống của gia đình, của dân tộc, để tin theo những lời dụ dỗ huyền hoặc của Ca- Tô Giáo, từ bỏ không còn tôn trọng những lễ tiết truyền thống trong gia đình. Ca-Tô Giáo cũng đưa tới những cảnh Lương Giáo nghi kỵ, thù nghịch, tàn sát lẫn nhau như lịch sử đã chứng tỏ. Gần đây, Ca-Tô giáo còn đưa ra sách lược nham hiểm: dùng bọn người trí thức nô lệ mất gốc, đưa ra những tác phẩm xuyên tạc lịch sử, văn hóa Việt Nam, nhất là lịch sử và văn hóa Phật Giáo, hoặc đánh đồng khập khiễng vài nét văn hóa Việt Nam hoặc Phật Giáo với nền văn hóa Ki Tô, ngụy trang đằng sau những chiêu bài đầu môi chót lưỡi như “Thần học Ki Tô Giáo theo cung cách Á Châu”, hoặc “quay về với truyền thống dân tộc, hội nhập văn hóa dân tộc”, trong khi bản chất độc tôn cuồng tín về “Chúa KiTô là đấng trung gian duy nhất” vẫn không thay đổi. Chính quyền và người dân Việt Nam cần nghiên cứu kỹ để biết rõ những âm mưu lũng đoạn quốc gia Việt Nam, và nhất là thái độ “không đội trời chung” của Ca-Tô Giáo đối với Cộng Sản, để biết đường mà tránh đóng vai “Cô Bé Quàng Khăn Đỏ” hoặc “đánh đu với tinh”.
Hơn ai hết, người Việt Nam cần phải đề cao cảnh giác trước âm mưu truyền giáo sang Á Châu của Vatican. Chúng ta cần phải ý thức được rằng, Ki Tô Giáo nói chung, Ca-Tô Giáo nói riêng, đang lạm dụng và núp sau chiêu bài “Nhân quyền”, “Tự Do Tín Ngưỡng”, và dựa vào ưu thế kinh tế và quân sự của các cường quốc Âu Mỹ để truyền đạo trong những quốc gia mà họ có thể ép được. Họ không dám đụng tới khối Hồi Giáo hay Do Thái, những khối tuyệt đối không nhân nhượng về vấn đề tự do truyền đạo. Họ cũng không dám đụng tới Trung quốc, một quốc gia vĩ đại với một tỷ ba dân, có tiềm lực kinh tế và quân sự không thể coi thường, và có một chính sách rõ rệt để ngăn chận và kiểm soát sự tự do truyền giáo. Nhưng họ lại khai thác sự yếu kém kinh tế của các nước nhỏ ở Á đông và tính dễ dãi của những dân tộc trong vùng này, trong đó có Việt Nam, để thực hiện mưu đồ Ki Tô hóa các quốc gia này. Chính quyền Việt Nam cần phải ý thức được cái hiểm họa Ki Tô nếu không muốn truyền thống dân tộc và văn hóa của Việt Nam bị xóa sạch trong tương lai, rơi vào vòng nô lệ Vatican cả hồn lẫn xác, giống như ở Phi Luật Tân và một số nước ở Phi Châu, Nam Mỹ.
Người Việt Nam chúng ta thường tự hào với 4000 năm văn hiến. Thật ra, nền văn hóa nhân bản (lấy con người làm gốc), nhân chủ (con người tự quyết định số phận mình) và định cư (không lang thang nay đây mai đó) của dân tộc Việt Nam, một nền văn hóa đối ngược với loại văn hóa thần linh, du mục của dân Do Thái, còn lâu hơn là 4000 năm. Nền văn hóa này, được biết trong giới khoa học và khảo cổ là nền văn hóa Hòa Bình (Bắc Việt Nam). Tiến sĩ Wilhel G. Solheim II, giáo sư nhân chủng học ở trường đại học Hawaii đã viết: “Tôi không ngạc nhiên nếu thời kỳ văn hóa Hòa Bình (Bắc Việt Nam) bắt đầu khoảng 15000 (mười lăm ngàn) năm trước Tây Lịch.. Trên một mảnh sành khoảng 6 cm vuông, chúng tôi đã thấy dấu vết vỏ một hạt thóc oriza savita. Dùng carbon 14 định tuổi những đồ vật bị vùi ở lớp đất trên lớp đất vùi mảnh sành, chúng tôi biết là mảnh sành - và hạt lúa - đã có niên đại muộn là 3500 trước Tây Lịch” (Wilhelm G. Solheim II, New Light On A Forgotten Past, National Geographic, Vol. 139, No. 3, March 1971). Như vậy, tính đến thế kỷ 16, khi Ca-Tô giáo bắt đầu du nhập Việt Nam, thì Việt Nam đã có một lịch sử và một nền văn hóa không hề biết đến Chúa Cha cũng như Chúa Con trong ít nhất là 5000 năm. Trong 5000 năm này, tổ tiên chúng ta đã tốn bao xương máu, mồ hôi, nước mắt để xây dựng nước và giữ nước, những việc thiết thực nhất của một quốc gia độc lập.
2. Hans Kung, Christianity, p. 783: Without peace between the religions, war between the civilizations. No peace among the religions without dialogue between the religions. No dialogue between the religions without investigation of the foundations of the religions.
3. Madalyn O’Hair, All The Questions You Ever Wanted To Ask American Atheists, back cover: The basic premise of Christianity is intolerance. The Christian cannot just have his belief and permit everyone else to have theirs. Jesus Christ demanded that the Christian convert and this has caused more grief to mankind than any other religion. The old pagan gods lived side by side. But when Christianity came with its exclusivism, based on the first of the Ten Commandments, "Thou shalt have no other God before me," the killing began.
4. Ernie Bringas, Going by the Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority, p. 18: Christianity has left an appalling trail of misery and death as recorded in the bloodstained pages of history. And the cruel, grotesque events they record are prime examples of misguided faith, perpetrated under the delusion (sometimes pretext) of divine guidance.
5. Hans Kung, Does God Exist? p. 615: It is impossible to understand the Christian God without the Jewish, for the Jewish is in fact the Christian God.
6. James Kavanaugh, The Birth of God, p. 72: The Old Testament rings with fervor of a religious people. But it also rings with mythology, archaic and superstitious ritual, narrownwss and national pride, cruelty and legalism... It is the record of the unparalleled religious evolution of the Jews. But it is not the "word of God". Nor is the New Testament. It cannot be understood except through the eyes of Jewish history. The men who wrote it were Jews, steeped in the law and traditions of their Jewish past. There is hardly reason for believing that God spoke to them directly; there is every reason for believing that they merely reacted as religious writers to the life and teachings of Christ, to the religious needs of their own times, to the problems they faced within their own religious communities.
7. Anene Obianyido, Christ or Devil? The Corrupt Face of Christianity in Africa, p. 17: To discuss the origin of Christianity, one of course has to start with the Jews and Judaism, the faith from which Christ broke away and was punished as a result.
8. James Kavanaugh, A Modern Priest Looks At His Outdated Church, p. 6: Our theology, however, has become a scholar's game. It is a code of rules accumulated in the petty wars of religious bitterness. It is a tale of tired truths, which only serve to rob man of personal responsibility and reduce him to the listlessness of a frightened slave. Theology took away man's mind and left him memorized words... This is the theology I learned and transmitted in every confession I heard, every class I taught, every sermon I gave to the guilt-infected flock.
9. William Harwood, Mythology's Last Gods: Yahweh and Jesus, p. 16: One by one the various books of the bible were discovered to contain errors of fact; inaccurate guesses; rationalizations; prophecies ex-post-facto, usually combined with prophecies of the future that proved inaccurate; and unmistakable, deliberate lies. Had this discovery been allowed to reach general public, Judeo-Christian mythology would have suffered a blow from which it could not have hoped to recover. Facing elimination, the current Pope appointed his own historians to examine the secular historians' conclusions and find the flaw in their evidence that he believed must be there. The outcome was that the Papal historians confirmed that their bible really was falsifiable fantasy. They presented the Pope with their reports and, when he promptly suppressed them, they all ceased to be Catholics. So the Pope ordered his propaganda machine to invent an alternative methodology to combat that of the historians, a methodology created for the specific purpose of reaching the conclusion that the Judeo-Christian bible is nonfiction, no matter how severely the evidence had to be distorted in order to achieve that objective. That methodology was 'theology'.. Such was the power of the world's theocracies that, despite the publication of thousands of scholarly books and articles refuting every part of the Judeo-Christian bible, to this day the existence of unchallengeable proof that the bible is a work of fiction is unknown to ninety percent of the population of Christian-dominated societies.
10. David Voas, The Bad News Bible: The New Testament, Introduction: Theology, once queen of the sciences, now seems merely queen of the cloisters, still gossiping about the same old stories long after the choir boys have grown up and moved on. It's a shame... Granted, theology - the study of God - suffers from the suspicion that it has no subject, or at least none we can study. It is the only field with experts who don't know what they are talking about. Their subject matter being inaccessible, theologians must resort to the odd couple of imagination and authority... Christian thinkers now have the job of showing that scripture makes sense, is consistent, and appears morally defensible. This can be difficult.
11. John E. Remsburg, False Claims, p. 3: Among the intelligent classes of Europe and America, Christian theology is practically dead.
12. John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, p. 99: A savior who restores us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian superstition and post-Darwinian nonsense.
13. Trịnh Xuân Thuận, The Birth of the Universe, p. 120: The primates evolved some 20 million years ago, and about 2 million years ago the first representatives of Homo Sapiens trod the earth.
14. Frederick Heese Eaton, Scandalous Saints, pp. 63-81: According to the Bible tale, the Egyptians refused to let the Jews leave Egypt. However, this is unreasonable in light of the facts. The Egyptians were afraid of the Jews who out numbered them. Naturally they would have been delighted if the Israelites would leave their country (Exodus 1:9,10). What Saint Moses was undoubtedly trying to do was to persuade Pharaoh to ease up on the hard labor he required of the Jews. They were not anxious to leave Egypt. The Nile delta was by far the best cattle grazing land in that part of the world, and the Israelites were unwilling to leave it. Their cattle thrived there, and the Jews multiplied and grew rich. Even after the Hebrews left Egypt later on, they longed to return (Numbers 14:4).. However, when Pharaoh refused to ease their burdens, what could Moses tell his people? That he was a failure? No political leader wants to do that; and political leader Moses was. He was acting as the head of the Israelite nation. So, rather than admit he was a failure, he turned the story around and claimed that Pharaoh refused to let the Jews leave Egypt. Next in his bag of tricks, Moses persuaded his people that now he would perform a series of plagues upon the Egyptians which would force Pharaoh to let the Israelites leave Egypt. This setting up a straw man and then knocking him down is an old trick among politicians to divert their followers from seeing the facts.
2. James Kavanaugh, God Lives: From Religious Fear To Spiritual Freedom, 39-40: I found it hard to believe that in the age of space technology a religious body could be so out of touch as to believe such a mythological penalty could have any meaning left for man.
...Excommunication had for centuries been authority's way of playing God. It was the inhuman and unchristian denial of man's freedom of conscience. But most of all it had been a deeply frigtened authority's frantic effort to dominate and control men and woman rather than to direct them toward a free and mature love. Excommunication attempted to turn the religious experience into a boot camp where the officer in charge aspires to build loyal robots by smothering them with confinement and indignity. Perhaps such methods might have had meaning in preparing man for combat. They are only childish and dishonest in dealing with a man or woman's relationship with God, but incredulously they still exist.
3. John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, p. 4: The words of the Apostles' Creed, and its later expansion known as the Nicene Creed, were fashioned inside a worldview that no longer exists. Indeed, it is quite alien to the world in which I live. The way reality was perceived when the Christian creeds were formulated has been obliterated by the expansion of knowledge..
4. John Dollison, Pope-Pourri, p. 106: The woman, together with her own husband, is the image of God..., but when she is referred to separately..the woman alone, then she is not the image of God, but as regards the man alone, he is the image of God.
5. Ibid.: Woman is the gate of the Devil, the way of evil, the sting of the scorpion, in a word, a dangerous thing.
6. Ibid.: Among savage beasts none is found so harmful as a woman
7. Ibid.: When you see a woman, consider that you face not a human being, but the devil himself. The woman's voice is the hiss of the snake.
8 . Ruth Hurmence Green, The Book of Ruth, p. 59: There wansn't one page of this book that didn't offend me in some way. And when I encountered the Bible's disdain for women, I very often almost pitched the good book across the room. I vowed never to be seen in public with an unconcealed Bible in my hands.
9. Joseph L Daleiden, The Final Superstion, p. 82: Pope John Paul II believes in many superstitions that modern Catholics find embarassing. Just recently he gave three lessons in which he maintained that each person has no less than three guardian angels and discussed the various roles of angels working inside paradise. The pope shouted at the audience, "Watch out for the devil!" He believes Satan appears in the shape of a lion, a snake, a dragon, or a goat with horns.
10. John Shelby Spong, Rescuing the Bible From Fundamentalism, p. 34: If only human beings have souls, as the church has taught, one must be able to say when humanity became human and was infused with its divine and eternal soul. Without an instantaneous creation, that becomes quite problematic. Is Homo Erectus human? Or is that human definition to be reserved only for Homo Sapiens? If so, at what stage in the development of Homo Sapiens? Language appears to be no more than 35 thousand to 50 thousand years old. If biologists cannot pinpoint the moment at which Homo Erectus became Homo Sapiens, except to say that it occurred over a period of 1.5 million years, can theologians dare to be more specific?
11. G. W. Foote, Bible Romances, p. 7: In every Christian country the masses of the people are taught in childhood that God created the universe in six days and rested on the seventh. Yet every student knows this is utterly false, every man of science regards it as absurd, and the more educated clergy, are beginning to explain it away. But they must retain the Creation story in some sense or other, for two very strong reasons. First, it stands at the very threshold of the Bible, and if it is a mere fiction it enivitably throws discredit on all that follows. Secondly, it is inseparably connected with the Story of the Fall. Both live or perish together. And if the Fall is to be regarded as a myth, what becomes of Christianity? The Christian scheme of salvation is unintelligible without the antecedent doctrine of the Fall of Man. Without the Fall, and the Incarnation, the Crucifixion, and the Resurrection are gigantic mistakes.
The Creation Story, as we shall attempt to show, is incoherent, self-contradictory, and absurd.
12. John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, p. 10: What is heaven? Where is heaven? It is clear that in this ancient world the heaven that God created was thought of as God's home, and it was located beyond the sky. But those of us in this generation know that the sky is neither the roof of the world nor the floor of heaven. So what are we referring to when we assert that this almighty God created heaven? Are we talking about that almost infinite universe that no one living knew anything about when the Bible was written?
13. Colin Cross, Who Was Jesus, Introduction: Viewed from a distance and considered as a whole, Jesus of Nazareth is a reasonably tangible historical figure. But too close an examination of any individual detail of him causes him to blur...The reason for uncertainty about Jesus is the simplest possible. It is just that there is no record at all, of any kind, about the greater part of his life. He wrote no book. Even what he looked like is unknown. There is not a word of independent proof that he ever even existed. The records that do exist, the gospels, cover only a fraction of Jesus' life and are written from a cultic and ritualistic point of view and not as ordinary history. There are the gravest inconsistencies in the gospel accounts and also many blatant improbabilities.
14. Ernie Bringas, Going By The Book: Past And Present Tragedies of Biblical Authority, p. 191: The consensus today is that the historical Jesus - the words and actions of Jesus and the real events surrounding his life - cannot be determined with precision. While we know how the author of a Gospel regarded Jesus by what he reported (and how he reported it), it is not always possible to penetrate beyond the Gospel portrayals of Jesus to Jesus himself. We cannot determine with certainty what Gospel statements about his life and career are genuine.
15. Thomas Paine, The Age of Reason, Edited by Philip S. Foner, p. 571: The history of Jesus Christ is contained in the four books ascribed to Matthew, Mark, Luke, and John. The first chapter of Matthew begins with giving a genealogy of Jesus Christ; and in the third chapter of Luke there is also given a genealogy of Jesus Christ. Did those two agree, it would not prove the genealogy to be true, because it might, nevertheless, be a fabrication; but as they contradict each other in every particular, it proves falsehood absolutely.
If Matthew speaks truth, Luke speaks falsehood, and if Luke speaks truth, Matthew speaks falsehood; and as there is no authority for believing one more than the other, there is no authority for believing either; and if they cannot be believed even in the very first thing they say and set out to prove, they are not entitled to be believed in anything they say afterward...If they cannot be believed in their account of Jesus' genealogy, how are we to believe them when they tell us strange things such as Jesus was the Son of God begotten by a ghost, and that an angel announced this in secret to his mother?..
16. John Shelby Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism, p. 21: There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical.
17. Ibid., pp. 21,24: Are we drawn to a Lord who would destroy a herd of pigs in order to exorcise a demon? Are we impressed when the one we call Lord curses a fig tree because it did not bear fruit out of season?...
A literal Bible presents me with far more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less worship.
18. Reynolds Price, Time, Dec. 6, 1999: The suggestion that Jesus' childhood may have been dogged by the accusation of bastardy is perhaps implicit in his townspeople's question in Mark 6, "Isn't this Mary's son?" To be called one's mother son, as opposed to one's father's, was often an implication of bastardy, or at least a sign that one's paternity was unknown, whether divine or not. Early opponents likewise suggested that Mary had conceived Jesus with a Roman soldier, Panthera. His childhood may well be clouded by questions about his paternity.
19. John Shelby Spong, Born of a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus, p. 41: He was a nobody, a child of Nazareth out of which nothing good was thought to come. No one seemmed to know his father. He might well have been illegitimate. Hints of that are scattered like undetected and unexploded nuggets of dynamite in the landscape of the early Christian tradition.
20. Uta Ranke-Heinemann, Putting Away Childish Things, p. 49: In the legend of the twelve-year-old Jesus in the Temple, his parents fail to show any understanding. When Jesus speaks of his heavenly Father, they don’t know what he is talking about (Luke 2:50). This contradicts the story of the annunciation, which in turn shows that Luke has woven together differents strands of tradition. Among these the one on which this passge was based knows nothing about the virgin birth.
21. Thomas Paine, The Age of Reason, Ibid., pp. 466, 574: When I am told that a woman called Virgin Mary, said, that she was with child without any cohabitation with a man, and that her bethrothed husband, Joseph, said that an angel told him so, I have a right to believe them or not; such a circumstance required a much stronger evidence than their bare word for it; but we have not even this - for neither Joseph nor Mary wrote any such matter themselves; it is only reported by others that they said so - it is hearsay upon hearsay, and I do not choose to rest my belief upon such evidence.
It is, however, not difficult to account for the credit that was given to the story of Jesus Christ being the Son of God. He was born at a time when the heathen mythology had prepared the people for the belief of such a story. Almost all the extraordinary men that lived under the heathen mythology were reputed to be the sons of some of their gods. It was not a new thing, at that time, to believe a man to have been celestially begotten; the intercourse of gods with women was then a matter of familiar opinion...
The story of the angel announcing what the Church calls the Virgin Birth is not so much as mentioned in the books ascribed to Mark and John; and is differently related in Matthew and Luke. The former says the angel appeared to Joseph; the latter says it was to Mary; but either Joseph or Mary was the worst evidence that could have been thought of, for it was others that would have testified for them, and not they for themselves.
Were any girl that is now with child to say, and even to swear it, that she was gotten with child by a ghost, and that an angel told her so, whould she be believed? Certainly she would not. Why, then, are we to believe the same thing of another girl, whom we never saw, told by nobody knows who, nor when, nor where?
22. John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, p.12: Certainly if that phrase is to be understood literally, it violates everything we know about biology. Do we not yet recognize that all virgin birth tales - and there have been many in human history - are legendary? They are human attempts to suggest that humanity alone did not have the ability to produce a life like the one being described. All virgin birth stories, including the ones about Jesus, were fulled discredited as biological truths by the discovery of the existence of an egg cell. That discovery meant that the woman could no longer regarded simply as passive receptacle for the seed of the male, which is the implication of these narratives. Divinity thus could no longer be said to enter her offspring as a divine gift without being compromised by her own humanity. The woman from that moment on had to be recognized as a cocreator, an equal genetic participant in the procreation of every life. The primary assumption in the biblical story of the virgin birth - namely, that Jesus' divine nature came to him directly from God through his mother's impregnation by the Holy Spirit - is a hopeless sexist idea born in a totally patriarchal world that denied the woman's contribution to every new life. The story of Jesus' birth, when literalized, is now seen to be filled with the stuff of legends. Yet classical theology has placed the content of these legends into the basic Christian creed and for most of the years of the Church's life has treated these phrases as literally true. In our day, the advances in our knowledge have rendered these phrases nonsensical whenever the assumption is made that they describe some objective truth.
23. Uta Ranke-Heinemann, Ibid., pp. 43-44: The birth of Jesus was not supposed to imply any notion whatsoever of human generation. There was no male contribution here, there was no human contribution at all. The making of Jesus was to be exclusively God's creative work. comparable to the creation of Adam from a lump of clay. A woman, however, is not a clump of clay. The whole miraculous narrative of the virgin birth was composed at a time when nothing was known of the female ovum..The story of the virgin birth could be composed only at a time when the woman was thought to play a wholly passive role. Until the discovery of the ovum, in 1827, theologians, including Luke and Matthew, thought that women were nothing more than something like the soil, the flower pot, the petri dish into which the man placed the seed, out of which the child then grew. Such thinking was rooted in Aristotelian biology, which viewed the woman as an empty vessel for the masculine principle. Males did all the work of generation...
Thus, following this ancient model, Matthew and Luke could think that if an eartly father was excluded from the begetting of Jesus, the God alone would be the active force. They had no idea that to generate a person, two equally active partners were needed, so that even if the man was replaced by God, God would still not be the only active principle..
Ever since the discovery of the ovum - and with it of the woman's share in reproduction - the traditional idea of the virgin birth as an image of God's lonely creative action has become indefensible...
Thus ignorance served as the foundation for the idea of a virgin birth from the Holy Spirit in a sex-free domain. After the discovery of the ovum, any further claim that Mary gave birth virginally reduces God's role to that of a mere male substitute...
In addition, we have to consider the following: In the case of a virginal conception the first cell in Jesus' organism would have to be a female cell. And if this female cell miraculously were to begin to divide without the intervention of a man, so that a human being came into existence through furthert cellular division, then such a virginal pregnancy must inevitably issue in the birth of a female person.
24. Michael Martin, The Case Against Christianity, pp. 107-109: What historical evidence is there for the Virgin Birth of Jesus? The claim of the Virgin Birth is only made in two of the four gospels and these accounts differ. As I have already noted, in Matthew the news of the coming birth of Jesus is conveyed to Joseph in a dream; in Luke, Mary is told directly by the angel Gabriel. Furthermore, Matthew implies that when Jesus was born his parents lived in Bethlehem and they left when King Herod began a search to find and kill Jesus..
However, in Luke Jesus’ parents traveled from their home in Nazareth to Bethlehem for a Roman census..
Indeed, it seems likely that if there were two independent notifications of the Virgin Birth, this would have been mentioned in at least one of the two gospels. In addition, because of the ways in which Mary and Joseph were notified - by an angel and through a dream - the announcements of the Virgin Birth are unsubstantiated by anyone other than Mary and Joseph. In the case of the story of Mary’s visitation by the angel Gabriel there could have been other witnesses but there were not; Mary was alone. In the case of Joseph’s dream there could not have been other witnesses since only the dreamer is a “witness” to his or her dream. Consequently, we have no independent confirmation of the witnesses to the two supernatural notifications...
In addition to all the apparent contradictions, historical inaccuracies, and implausibilities of Matthew and Luke, neither Mark nor John give any account of Jesus’ birth. On the supposition that the doctrine of the Virgin birth was a widely held belief among the earlier Christians this is remarkable. In particular, why would Mark, the earliest written gospel, fail to mention this doctrine if it was widely believed in the last part of the first century? Indeed, why would John, according to many accounts the last gospel, fail to mention it if it was widely held? Surely, the most likely explanation is that Mark and John did not consider the Virgin Birth to belong to a correct account of Jesus’ life. This surely detracts from the plausibility of the Virgin Birth story.
25. Russell Shorto, Gospel’s Truth, p. 198: Over centuries of incorporation into Christian art, crucifixion has become highly stylized - a thing of beauty, even - that it is difficult to imagine the true horror of it.. But the reality was something else. Consider, first, the horror it meant in a society where personal dignity - even a peasant’s dignity - was the highest virtue. To be made a public spectacle - convicted of a crime, exposed naked, and dying in agony - was punishment far beyond mere execution.
Then there is the torture. It generally included being bound to a post and flogged, either with a short whip consisting of several leather tongs beaded with lead or bone tips, or with sticks. The victim was usually mounted to the crossbar on the ground and it was then hoisted up and attached to the upright. Nails were usually driven through the hands or wrists, and the feet..
26. Foote, G. W., Bible Romances, p. 203: Just as the twenty-fifth of December, as the birthday of Jesus, is a perfect fiction, having been borrowed by the Church from ancient Paganism, so the date of the Crucifixion is purely arbitrary. If Jesus died at all he died on a particular day, which should be a regular fixture in the calendar.. The anniversary of his death always falls on a Friday. But it is sometimes in one month; and sometimes in another, and is never on the same date two years running; which conclusively proves that the death of “the Saviour” is a mythological occurrence. Why else should its anniversary be determined by an astronomical calculation? Why should it be the first Friday after the first full moon after the spring equinox?
Another aspect of this matter should be noted. “Good Friday” is a singular name for this astronomically determined date. It is supposed to have been a day of tragedy on Mount Calvary after the agony and blood sweat of the Garden of Gethsemane. He who cried out “O my Father, if it is possible, let this cup pass from me,” cried out still more bitterly, as he felt the cold shadow of the wings of death hovering over him, “My God, my God, why hast thou forsaken me?” What a day to call Good Friday! To him it was Bad Friday or Black Friday. Yet his followers regard it as the happiest incident in the world’s history. He suffered that they might enjoy; he descended into hell in order that they might ascend into heaven; and they look upon this fatal day with gladness and rejoicing. So terribly vain and egoisticcal are human beings, and so generally is religion the consecration of selfishness! And of all the selfish religions in the world Christianity is the most selfish.
28. Lloyd M. Graham, Deceptions and Myths of the Bible, pp. 463-468: What we offer here is admittedly and intentionally a one-sided picture, the dark and shameful side. Our reason for so presenting it is that millions of misguided souls are painting the other side and holding it up to a credulous world as the only side. We think both sides should be known, not only in the interest of truth but also for those who are living in spiritual bondage to a fraudulent authority. For these, a thousand years of crime and corruption are glossed over with the statement, “There were a few bad popes.” Were their informers honest they would admit there were a few good.
We have spoken of the dishonesty of Catholic scholarship. Nowhere it is more evident than in its whitewash of wicked popes. Their crimes were all done by others and “unavoidable,” their burning of heretics, a “necessity of the times,” their debaucheries, but “love of godd cheer.”. Contemporary records completely refute these claims, and the records were not written by the Church’s enemies, but mainly by its own historians, popes and cardinals: Victor II, Pius II, Cardinal Baronius, Bishop Liutprand, Father Salvianus, and historians, Milman, Gerbert, Burchard, Guicciardini, Vacandard, Draper, and others. These are the authority for the dark and shameful side. What we offer here is but a hop, skip and jump over some 1500 years, but sufficient, we think, to disprove any claim to divine selection and guidance.
During the Dark Ages these divinely guided popes murdered one another at such a rate there were ten in twelve years (891-903) and forty in little more than one hundred. Sergius III was a wholesaler; according to Cardinal Baronius and also Vulgarius, he murdered his two predecessors. In 708 Toto, a noble at the head of a rabble following, had his brother apointed pope. This was Constantine II whose eyes were put out by Christopher, his chief official. Then Christopher and his son plotted against Pope Gregory for they too had their eyes put out. The two nephews of Leo III, Pascal and Campulus, themselves clerics, conspired to replace Leo and set a band of paid assassins upon him as he rode through the streets. When the hirelings failed, the two nephews dragged the pope into a monastery and complete the work. Pure fiction, downright slander, you say. But no, it is from the record of the papal biographer.
This was the order of the day. Pope Leo the V was deposed by another Christopher, who was in turn deposed and succeeded by the aforesaid criminal Sergius III, who murdered his predecessors. At this time it was not the Holy Ghost that selected the popes but what cardinal Baronius called scortas, whores. This was the “rule of the courtesans,” sometimes called Pornocracy, or reign of the whores. Among them was one Baronius called the “shameless whore,” Theodora, and her equally shameless daughter Marozia. Both had sons by Sergius III, and both put their illegitimates on the papal throne - John XI and John XII. The first was imprisoned, the second “turned the Lateran Palace into a brothel.” There was no crime he didn’t commit - murder, perjury, adultery, incest with his two sisters, bleeding and castrating his enemies, etc. He died, we are told, at the hand of an outraged husband.
According to the record, Cardinal Francone had Benedict VI strangled, after which he became Boniface VII, “a horrid monster surpassing all other mortals in wickedness,” according to Gerbert. He was no worse however than Boniface VIII.. Yes indeed! To gain his tiara he had the halfwit Celestine V disposed of. He did not long enjoy his victory for soon he was driven out by the Romans. Under a successor, Clement V, he was tried posthumously and found guilty of every crime including pederasty and murder. And when Clement died, his successor, John XXII, revealed that Clement had been so very clement he had given his nephew the equivalent of five million dollars of papal money. It was at this time the papal court was moved to Avignon, and now St. Peter had two successors, one at Avignon and one at Rome. But even this was not enough; there were at one time three - Grogory XII, Alexander V, and John XXIII. Later, John XXIII was repudiated, the title was annulled and recently assumed by the successor of Pius XII.
So corrupt was the latter, Sigmund of Hungary called a council to investigate him. The result was fifty-four articles described him as “wicked, irreverend, unchaste, a liar, disobedient and infected with many vices.” As a cardinal he had been “inhuman, unjust and cruel.” As pope he was “an oppressor of the poor, persecutor of justice, pillar of the wicked, statue of the simoniacs, addicted to magic, the dregs of vice..wholly given to sleep and carnal desires, a mirror of infamy, a profound inventor of wickedness.” He secured the Papacy by “violence and fraud and sold indulgences, benefices, sacraments and bulls.” He practiced “sacrilege, adultery, murder, rape and theft.”.. Some of these popes so outraged decency they were exiled. At least two of them had their eyes and tongue cut out, then were dragged through the streets tied to the tail of an ass. Still others were so despised their corpses were exhumed and thrown into the Tiber. After fourteen hundred years of Christianity morals had sunk so low that Pius II tells us: “scarcely a prince in Italy had been born in wedlock.” A statement as applicable to the princes of the church as of the states.
Bad as all this was, the worst was yet to come - the Borgias, particularly Rodrigo. Of all the wicked popes he deserves the crown. By bribing fifteen cardinals with the equivalent of three million dollars he secured the election of one of the worst men in history - himself, Alexander VI. Guicciardini, the historian, describes him thus: “..private habits of the utmost obscenity, no shame or sense of truth, no fidelity to his engagements, no religious sentiments, insatiable avarice, unbridled ambition, cruelty beyond the cruelty of barbarous races, burning desire to elevate his sons by any means: of whom there were many, and among them one - not any less detestable than his father.” This was the notorious Cesare Borgia who to gain a cardinalate murdered his brother John, his sister’s husband, and two cardinals..
While still a cardinal this rake and murderer turned his quarters in the Vatican into a brothel. According to Burchard, the papal historian at the time, he indulged in nightly revels in his rooms above the pope’s, and courtesans “danced naked before the servants of the Lord and the Vicar of Christ.” And his sister, Lucrezia, distributed prized to those who “had a carnal intercourse with courtesans the largest number of times.” This is the gaiety explained as “love of dood cheer.”
Such were the Princes of the Church in those days. During the Middle Ages the College of cardinals was as corrupt a body as could be found in all history. Securing a cardinalate was but a matter of money and influence. Neither character, learning nor aptitude played any part in it. Indeed boys of fouteen and fifteen were sometimes invested with the office. Paul III appointed two of his teen-age grand children to this high office.. Paul IV made his nephew a cardinal, though, as he said, “his arm is dyed in blood to the elbow.”
Yet these were the men who, with the help of the Holy Ghost, selected the popes..
Now why isn’t this disgraceful record known as well as that of the the good popes? Why aren’t Catholics told it was such men as these that caused the Reformation and not “that devil Luther?” Protestantism sprang not from Luther exclusively but from centuries of protestation against the crime and corruption of the Catholic Church. Satan Peter had outraged all Europe..
29. John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, pp. 16-17: This creed concludes with a paragraph dedicated to the Holy Spirit, who was said to have created the church at Pentecost and who, it is suggested, continues to fill the church with “God presence”. First, we need to note that all of these Pentecost symbols come out of the same three-tired skies into which Jesus was said to have ascended. The assumption lying behind the story of the sending of the Holy Spirit is that the earth is the center of the universe and that onto it the heavenly gifts of the God who lives above the sky can be poured. Second, the creed asserts that this spirit will issue in the communion of saints, which will continually renew the “holy Catholic church.” The church, throughout its history, has indeed had moments when it certainly looked like saints living in communion. Many lives have been enriched and transformed by their associations with Christian worship and fellowship. But the church has also had in its history some rather dreadful moments marked by such things as “holy wars”, “sacred crusades”, inquisitions, inhumane anti-Semitism, and an overt, killing racism, sexism, and homophobia. In these episodes incredible violence has been unleashed upon both God’s people and God’s creation by those who counted themselves as believers. These horrors have even been inflicted in the name of the God of love. Where was the communion of saints during those episodes? What do we do with this known history when we recite these words in this creed?
30. John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, p. 95: A human father who would nail his son to a cross for any purpose would be arrested for child abuse. Yet that continued to be said of God as if it made God more holy and more worthy of worship.. I would choose to loathe rather than to whorship a deity who required the sacrifice of his son..
This casts the burden of their training almost entirely upon the Church, and their education is generally very poor. Very few priests could read any Latin author (except Ceasar) at sight, or make much sense of Horace, Tacitus, or Juvenal. Of Greek they have, as a rule, received only an elementary knowledge, which they soon forget. Of science, history, and philosophy, in the modern sense, they, as a rule, know nothing.
Science is taught in very few training-colleges for the clergy, and then only in the most elementary form and for a very short time. History is represented only by a few lessons, from Catholic writers, on Church history...
In science and history I did not receive one single lesson in the whole course of my training; and, as I said, my "philosophy" had as little relation to modern philosophy as astrology has to astronomy.
The value of the education given to me in the Church was made plain the moment I returned to "the world"...I could not get a position as a teacher at ten dollars a week. My friend Mr. Forbes, regretfully told me, after a short examination, that my "education" was quite useless...Three of my colleagues secretly left the Church and tried to earn their living. Each failed, and had to return..The Church must have a high proportion of such men.
2. James Kavanaugh, A Modern Priest Looks at His Outdated Church, pp. 20-21: I studied four years after college until I was declared ready to be a priest. My studies spoke seldom of doubts or opinions and most frequently of blacks and whites.. In philosophy, for example, we could handle Berkeley, Hume, and Kant in a single week... We memorized each thesis and definition and proved that "reason" could only lead an honest man to faith. We were the only honest men as we defended by "reason" all the moral teachings of the Church. Catholic opposition to divorce and birth control, to freedom of speech and thought, to mercy killing and adultery were all the obvious conclusions of a "reason" unclouded by passion and pride. It did not seem important that there were millions of "unreasonable" men...It was an education without sympathy, a training without recourse. I heard what I was supposed to hear, and said what the administration expected me to say. Rebels were weeded out. Only the strong and legal-minded, or the naive and passive, could last. Creativity was discouraged unless it pursued the accepted patterns wich cautious minds approved. "heresy" was a word which ended every argument, and "the Church teaches" was the narrow outline of every debate. I was not educated, I was formed. I was not encouraged to think, but trained to defend. I was not asked to reflect, but to memorize.
...My God! What have I become? You asked me to minister with the weakness of my flesh, to serve the struggling sinner, and I have grown rigid and comfortable in the service of myself. I am not "another Christ," I am not even a man, I am only a prisoner, a synthetic paragon, a defender of the tired past.
God! If I am to be a priest, first lat me be a man. Do not let me hide behind my collar, my titles, my false front. Do not make me give answers I do not believe, nor mold men into impersonal and uncomplaining dolts. Let them know my doubts from my own lips, and let them tell me honestly of theirs. Let me not bind them with law and hell, nor frigten them with tales of unexpected death...
3. Emmett McLoughlin, American Culture and Catholic Schools, pp. 36 -37: I did not learn to think. As the years of childhood slipped through a frustrated adolescence (in the seminary) into the days that were supposed to be those of manhood, my mind was molded in an intellectual pattern as effectively as though it had been cast in concrete.
The closest approach to science that I experienced in those 21 years was that a non-laboratory course in elemental physics...Of the world's really great literature, in 12 years I learned practically nothing. Its greatest lights were locked in the prison of the Index of Forbidden Books.
In short, I was not educated. I was merely endoctrinated. I had achieved the level of the rigor mortis of intellectual mediocrity.
I had become an automaton, a priest of sacred, half known rites as meaningless in the efficacy as the chants of a Puerto Rican woodoo priest.
I was an ecclesiastical technician trained to mold other young, pliable minds...
4. Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, p.70: The “sacrament” is, of course, merely a part of the system which raises a priestly caste, to their great advantage, above the common crowd. So it is with the sacrament of “holy orders” or the ordination of the clergy. The ritual is a maze, a stupendous collection of archaic prayers and mysic actions, to the onlooker. It is supposed to be so potent that henceforward the priest can order devils about, forgive sins, and turn bread into Christ. This your Catholic neighbor literally believes.
5. Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, pp. 64-65: The sacrament of baptism is for infants... For a very serious reason. Every child of Adam has incurred the sin of Adam, and must pay the penalty. At first it was drastically held that every man, woman, or child who had not this stain "washed away" in the waters of baptism would burn in hell for ever. That was too much even for medieval human nature, and the theologians made a compromise...The unbaptized cannot enter heaven. The Church sticks to that. But the innocent babes do not go to hell. They go into a sort of dim modern extension of the underworld, and may even be happy there; but they will never "see God", or see their parents again.
So the babe is rushed to the church on the first Sunday afternoon after its birth. If it caches a fatal cold, the parent must not grieve. It has gone straight to heaven, absolutely spotless. The church, and often the water, are, however, now warmed, and the weird ceremony proceeds...
You spit on your finger, and daub the babe's mouth and eyes, and say to it "Ephetha". You put some salt into its mouth; which it generally resents in the usual manner and tone. You talk very severely, in bad Latin, to whatever devils there may be in the pink morsel, and bid them to go - to Protestants or anywhere. Then you pour a shell of water, very highly exorcized and blessed, over its head (taking extreme care that it touches the skin, not merely the hair, or the babe will never go to heaven); and the dreadful sentence which overhung it, because a legendary being named Adam ate a legendary apple in a legendary garden in the reign of King Khammurabi of Babylon, is mercifully cancelled.
It is difficult to discuss sacrament No. 1 seriouly. Spittle and devils, holy oils and holy water, lighted candles and collecting boxes, are bad enough, but the essential principle of the thing is intolerable. Even the comparative damnation of the unbaptized, with "every modern convenience", is too stupid for words. There are Catholic scholars now who regard Adam and Eden as "a beautiful legend"...Yet it is still the emphatic and obligatory teaching of the Church that every child born (except Mary - that is the real meaning of the "Immaculate Conception") shares "the sin of Adam". and must be put through the extraordinary performance I have described.)
6. Henri Guillemin, Malheureuse Église: Qui dit "Rome" aujourd'hui désigne le Vatican, le Saint-Siège, l'Église catholique dans son centre et son gouvernement... Rome, pour les prophètes, c'est le symbole même des vices et des infamies, et l'Apocalypse fait de la ville des Césars la "Bête" immonde, "aux sept têtes et dix cornes", la "prostituée fameuse", "la mère des abominations".
Cette Église, qui aujourd'hui s'effondre, est régie par un pontife de type médiéval qui, même s'il amendait sa technique, ne peut plus rien, à mon sens, pour empêcher de disparaitre, pratiquement et assez vite, au cours du troisième millénaire, du moins sous sa forme "romaine", une Église qui, pour ses deux "grands sacrements", recourt à la magie. Elle arrache d'abord, avec un peu d'eau et la comédie d'un dialogue, le nouveau-né aux griffes du Démon refermées sur lui par le "péché originel", puis, au moyen de quelques syllabes, elle insère, dans un fragment de pain, le corps, le corps physique de Jésus-Christ voué à une consommation buccale et stomacale...
7. John Shelby Spong, Why Christianity Must Change or Die, pp. 98-99: We human beings do not live in sin. We are not born in sin. We do not need to have the stain of our original sin washed away in baptism. We are not fallen creatures who will lose salvation if we are not baptized... A savior who restores us to our prefallen status is therefore pre-Darwinian superstition and post-Darwinian nonsense.
8. Uta Ranke-Heineman, Putting Away Childish Things, p. 212: But this Spirit is no Spirit to be possessed, because it blows where it wills and not where the Church or anyone else wants it to. We can assume, therefore, that the Church is merely a product of its own spirit.
9. Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, pp. 69-70: The sacrament of “confirmation” proceeds on the admirable theory that when young folk attain, or approach, the age of puberty they need “confirming” - that is to say, strengthening. It may seem ungracious to cavil, but one wonders why the Almighty grants this stregth only through a bishop, and as part of a very antique and - to the young folk - totally unintelligible ritual. The “sacrament” is, of course, merely a part of the system which raises a priestly caste, to their great advantage, above the common crowd.
10. Ibid., pp. 66-68: The sacrament of the Eucharist - that is, the doctrine of the "real presence" of Christ in the consecrated bread and wine - is quite the central belief of the Catholic Church...It is on this priceless possession of a real live god in their midst, and on the miraculous nature of their papacy, that Catholics affect their amusing air of superiority to all the rest of mankind. And it is one of the most childish and foolish beliefs that was ever preserved in a civilized religion.
The doctrine of the Church is not generally understood. This is not due to "misrepresentation" but to the fact that a non-Catholic does not find it credible that any educated modern man or woman should believe such things... He is aware that Catholics profess the "real presence" of God in the Eucharist. Being accustomed to the belief that God is everywhere, he sees no intellectual enormity in this. He does not know, and can hardly convinced, that Catholics believe, and their Church sternly and dogmatically insists, that in what seems to the eye to be bread and wine, there is, after the words of consecration, no bread and wine at all, but the living body of Jesus Christ down to the last eye-lash and toe-nail.
In the earlier Middle Ages, as among the uneducated Catholic millions today, no explanation of the appearance of bread and wine was needed; nor was it necessary to attempt any explanation how the human body of Christ could be simultaneously in heaven and in a million places on the earth. To such minds anything is possible. Explanation is as superfluous as argument.
This was very convenient. By a supernatural operation, in the mass, the invisible "substance" of the bread and wine is replaced by the "substance" of the real, living body of Christ...As to how the body of Christ could be in a million places at once, and could exist in its full proportions in a crumb of bread, the answer was - bow to the mystery of "transubstantiation.".
11. Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, pp. 71-74: The whole performance of "the sacrament of penance", and others call the practice of confession, is useless and stupid in the case of children. It merely "breaks them in". From that moment they must at least once a year, under pain of eternal damnation, kneel at the feet of a priest and confess their sins.
It is quite obvious that, like the sacrament of marriage, this also was, in the main, instituted in order to bring the laity under more perfect control.
After a few words of exhortation, I made the magic sign of the cross in the air, and repeated the solemn formula of absolution: not "God absolves thee," but "I absolve thee from thy sins".
The sacrament of penance no doubt helps some people; it rather debases others; it is just a painful necessity, doing neither good nor harm, to the great majority. Its essential evil is its almost incredible stupidity. It was quite openly instituted in the thirteenth century, as an obligatory practice, by priests who wanted to bring all Europe under absolute control; yet the Catholic persuades himself that Christ founded it. It central idea - the forgiveness of sin by a youth whose hands have been oiled - is grotesque. It is not even, as sentimental people outside the Church sometimes imagine, a good human device for promoting morality...
12. Emmett McLoughlin, Crime and Immorality in The Catholic Church, chapter 14, p. 215:
Confession - The First Step in Mental Enslavement:
In spite of her protestations that she is the only divinely founded church, that she is holy, that she can and does produce holiness in her members, the Roman Catholic Church has failed in the past to hold aloft the banner of morality. And in our time, she continues to harbor more criminals and sinners than other churches, more even than among people who renounce all religion..
A significant explanation for much of Roman Catholic lawlessness lies in the structure of Catholicism. Its code of behavior is built upon ritual and superstition rather than upon true religion, reasoned ethics, self-education and self-control.
The most important ritual for the control and rehabilitation of the behavior of Roman Catholics is the ceremony of Confession, also called the Sacrament of Penance. It is the epitome of superstition in the Church's centuries-old bag of magic tricks and amulets.
For the ritual of confession is a superstition, a word that Webster defines as follows:
An irrational abject attitude of mind toward the supernatural, nature or God proceeding from ignorance, unreasoning fear of the unknown or mysterious, morbid scrupulosity, a belief in magic or chance or the like, misdirected or unenlightened religion or interpretation of nature;...any belief, conception, act or practice resulting from such a state of mind...a fixed irrational idea...a notion maintained in spite of evidence to the contrary.
It is unfortunate for devout Catholics that this definition applies so exactly to what all of us were taught to be a sacrament established by Christ himself for the complete cleansing of souls fouled by sin and their restoration to a "state of grace".
13. Joseph McCabe, The Truth Abaut The Catholic Church, p. 70: The sacrament of “matrimony” requires little discussion. For at least six centuries after the establishment of Christianity the laity obstinately refused to submit their marriages to the clergy, and they freely used the right to divorce. The notion of a divine institution of this sacrament is a wonderful piece of audacity. It was men like Hildebrand, completing the enslavement of the people to the priests, who at last secured for the church complete control of marriage. As a “sacrament” the new type of marriage was indissoluble; and the morality of countries where the church still resists the right to dissolve unhappy marriages tells its own history. The whole thing is part of the determination of the priests to rule and exact fees.
14. Georges Las Vergnas, Pourquoi J’ai Quitté L’Église Romaine, p. 51: Ce qui importe, c’est de prononcer sans erreur. Un prêtre peut dire la formule sacramentelle sans la comprendre, et même sans y croire, mais pour que la magie opère, it doit vouloir faire ce que fait l’Eglise. Mais s’il change une syllable rien ne va plus. Le “Sesame ouvre-toi” est, en principle, invariable..
Les sacrements ne sont pas seulement absurdes mais blasphématoires; j’appelle ca “moque-Dieu” dirait Rabelais.
J’en dis d’ailleurs autant de toute la “piété” catholique, assemblage de trucs et de recettes qui transforment le prêtre en charlatan et le fidèle en imbécile..
Le prêtre sait que la bêtise humaine est inepuisable: il en profite.
15. Joseph L. Daleiden, The Final Superstition, p. 131: I once believe in that primitive custom of which Cicero wrote in the first century B.C.E (long before Christianity adopted the practice): “How can a man be so stupid as to imagine that which he eats to be a god?” My only excuse is that it was before I had developed what slight powers of critical reasoning I now possess. Also, I had no way of knowing that anthropologists and historians had traced the practice of the ritualistic eating of a god to the primitive belief that we acquire the powers of the creatures we eat.
Finally, I was fooled by the semantic trick so prevalent in the pseudoscience of metaphysics: the confusion of words with things. The word “transubstantiation” is pretty awe-inspiring to an unsophisticated mind. When it is backed by the weight of an authority figure, such as a priest who describes how the “substance” of the bread and wine can change without a change in “properties”, it is easy to be taken in. Besides, everyone likes a magic show. It is certainly more entertaining than plowing through the empiricist philisophy of David Hume or the critical analysis of Ludwig Feuerbach. It was these two men who first pointed out the obvious: for a thing (substance) to exist without its attributes (properties) is as silly an idea as the opposite notion - a property without a thing. (Show me along nothing, or a hard, green nothing.) Therefore, there are no separately existing substances that could undergo a magical transubstantiation. Once again theologians successfully bewitched minds with meaningless words. All the sacraments, like the feasts and symbols of Christianity, were simple attempts to accommodate pagan beliefs. The evidence for this conclusion is overwhelming to unbiased, rational minds.
16. Joseph McCabe, The Truth About The Catholic Church, p. 70: These are six of the seven sacraments, the glory and distinctive flower of Catholic belief, the most elaborate system of magic which any civilized religion ever invented. From first to last they are designed to enhance the power and prestige of the clergy. In their ritual and their fundamental ideas they are as alien from, as antagonistic to, the whole spirit of modern times as is alchemy or astrology. This is the set of beliefs to which the simple Catholic believes he will one day convert the whole United States! In fine, this is the set of beliefs which God, the Catholic says, was so deeply concerned to maintain in their purity that he overlooked all the horrors of the Middle Ages and all the corruptions of the Pope and the Papacy!
2. Julian Pettifer & Richard Bradley, Missionaries, p. 186: In Asia there are few countries where missionaries can feel completely confident of an uninterrupted future for their work. Even the Thais are sensitive on the subject of missionaries and if evangelism is not carried out in a tactful manner, their tolerant attitude may change. At present, in a country where 97 percent of the population is Buddhist and 2 percent Muslim, there are obviously very few Christians.
Sulak Sivaraksa is a Buddhist intellectual who was educated in Christian schools. He is, however, severely irritated by evangelical literature that describes Thailand as "the territory of Satan"; that declares "99 percent of Thais are in bondage to demons"; that condemns Buddhism as "idolatry" and "a religion of hopeless escapism"; and which insists that "without Christian revelation, there is no relationship with God". As Sulak points out, this is the everyday language of a certain kind of mission literature, which is deeply offensive to Thai Buddhists.
3. Mc Kher, www.nycny.com: The Pope’s Asian-Spanish Inquisition: Recently, the Pope called for stepping up conversion in Asia. The Pope said that religious conversion is a human right. ”Just as the first millennium saw the cross firmly planted in the soil of Europe, and, the second, in America and Africa, so may the third Christian millennium witness a great harvest of faith on this vast and vital continent” the Pope said.
The Pope said the Church acknowledged what was true and holy in such religions as Buddhism, Hinduism and Islam, but only Christ offered the way to ultimate salvation. The advent of Christianity in Europe, Americas, Australia, and large parts of Africa and the Pacific led to the systematic and complete elimination of the pre-Christian polytheistic religions and cultures. Truly, the bible was exchanged for the native lands with the help of the gun. Coming from Pope, the highest official of Catholicism, this call to conversion is a Declaration of War against Asian culture, Asian religions, and Asian society in general, and Hinduism in particular. Mass-conversion to Christianity seeks to destroy the soul of Asia, transplanting an un-needed philosophy. Asia does not need any lesson in religion or piety from anybody. Why should one religion try to eliminate other through mass-conversions? Clearly, the Pope seeks to achieve religious cleansing of Asia. This malicious and predatory approach is highly immoral and unethical. What makes the Pope think that his is the only true religion? This is self-righteousness and intolerance to the extreme. He may have the right to believe so, but he has no right to organize a concerted attack on other societies to destroy their very nature. Mass religious conversions have caused political partitions of many nations. The Pope will cause political instability in Asia through mass-conversions.. The worst thing about most of the Christian conversions in India is that they are influenced heavily by economic inducements. Under the garb of medical and social service, many Christian missionaries effectively blackmail poor people into Christianity. Whose God can be happy with such fraud?
The hypocrisy of Pope is really amazing. Last year during his Latin American tour, he had blamed the Protestant of poaching his flock! The same Pope today claims that religious conversion is a human right. Well, does the Vatican recognize any religion other than Catholicism? Obviously the Pope wants a one-way street of conversion to Christianity. While waxing eloquent about service and love, the Pope through his chauvinist and hardline theory of “only one true religion” makes it clear that the tolerance and goodness displayed by Hinduism counts for nothing. Hinduism is non-judgmental, and Hindus have graciously accepted the Christians amongst them. The Hindus simply ask the Church to spare them the fate of Europe and Americas. Satisfied with their religion, the Hindus do not like outsiders seeking to change their religious and political demography through orchestrated mass-conversions. But the Pope insists on mass-conversions. He leaves no incentive in being nice and accommodating.. But the Hindus are willing to live with Christians. They ask for only one thing: that the Church not seek to eliminate Hinduism through conversions, thus changing India forever. The existing Christians can live freely without trying to convert others. Isn't guarding one's land, liberty and culture the most basic human right? The Pope talks about “harvesting faith in Asia” as if the Hindus and others are mere crops, waiting to be cut off and stored in the elevator. Some may like being portrayed as a flock of cattle, but the Hindus dislike being shown as lifeless, immobile crops who can not protect themselves. While attending an inter-faith meeting, the Pope talked about dialogue, understanding, and solidarity between religions. The next day he reverted back to his insistence on Christianity as the only true religion, and gave a call to convert Asia. This is hypocrisy and duplicity at its worst. The Papal determination to eliminate Hinduism and Indian culture by converting masses to Christianity is barely one step short of medieval Talibanism. The medieval Islamites seek to eliminate the infidels through the sword; the Pope seeks to achieve this through mass-conversions. The end result is same in both cases. The Western press is not playing a positive role in this whole episode. Invariably, the reports from the Associated Press and Reuters suffix the word “hard-line” or “zealot” when describing Hindu groups which are resisting the Pope's attempts to take over their religion. Pray tell, shouldn't the party that says “only my way is correct” be described as hard-line, zealots and fascists? Instead, Hindus who are ready to co-exist with others - without being gobbled up by others - are maligned. In fact any group which claims exclusivity and believes that all others are wrong, and which on top actively tries to eliminate the other groups forfeits its claims to any special rights, privileges or tolerance from others. The dire need of the hour is religious tolerance and co-existence. The religions may continue to believe in themselves, but they should not seek to destroy others. Any organized offensive on a religion will invite doom for everybody.
Akerley, Ben Edward, The X-Rated Bible: An Irreverend Survey of Sex in The Scriptures, AA Press, Austin, Texas, 1989.
Andrews, Richard & Schellenberger, Paul, The Tomb of God: The Body of Jesus and the Solution to a 2000-year-old Mystery, Little, Brown & Company, New York, 1996
Angeles, Peter A., Critiques of God: Making The Case Against Belief In God, Prometheus Book, New York, 1997.
Alves, Rubem, Protestantism and Repression, Orbis Books, New York, 1979.
Armstrong, Karen, 1. A History of God, Ballantine Books, New York, 1993; 2. In The Beginning: A New Interpretation of Genesis, Alfred A. Knoff, New York, 1996.
Aterin, Karl Otmar Von, The Papacy and the Modern World, Weidenfeld & Nicolson, London, 1970.
Au, William A., The Cross, The Flag, and The Bomb, Praeger, New York, 1987.
Baigent, Michael & Leigh, Richard & Lincoln, Henry, 1. Holy Blood, Holy Grail, A Dell Book, New York, 1983; 2. The Dead Sea Scrolls Deception, Summit Books, New York, 1991. 3. The Messianic Legacy, A Dell Book, New York, 1986.
Bainton, Roland H., Christian Attitudes Toward War & Peace, Abingdon Press, Nashville, 1986.
Baldwin, Louis, The Pope and the Mavericks, Prometheus Books, New York, 1988.
Ball, W. P., Foote, G. W. et al..., The Bible Handbook, AA Press, Austin, Texas, 1986.
Bartsch, Hans Werner, Editor, Kerygma and Myth, Harper Torchbooks, New York, 1961.
Batchelor, Stephen, The Awakening of the West: The Encounter of Buddhism and Western Culture, Parallax Press, Berkeley, CA., 1994.
Bays, Jack, 1. The Gospel of Love, Truth Seeker, San Diego, CA., 1942; 2. The Gospel of Love Vs Crime, Truth Seeker, San Diego, CA., 1942; 3. The Shadow of the Deamon, Truth Seeker, San Diego, CA., 1943.
Beeson, Trevor & Pearce, Jenny, A Vision of Hope: The Churches and Change in Latin America, Fortress Press, Philadelphia, 1984.
Bello, Nino Lo , The Vatican Empire, Triden Press, New York, 1968.
Berry, Jason, Lead Us Not To Temptation: Catholic Priests and the Sexual Abuse of Children, Doubleday, New York, 1992.
Berryman, Phillip, Liberation Theology, Pantheon Books, New York, 1987.
Bhushan, Shashi, Fundamentalism: A Weapon Against Human Aspiration, Pradeep Kumar, India, 1986.
Bilheimer, Robert S., A Spirituality For The Long Haul: Biblical Risk & Moral Stand, Fortress Press, Philadelphia, 1984.
Binns, L. Elliott, The Decline and Fall of the Medieval Papacy, Barnes & Nobles Books, New York, 1995.
Blanshard, Paul, 1. American Freedom and Catholic Power, Beacon Press, Boston, 1950; 2. Communism, Democracy, and Catholic Power, Beacon Press, Boston, 1951.
Bockmuehl, Markus, Revelation and Mystery in Ancient Judaism and Pauline Christianity, William B. Eerdmans Publishing Company, Michigan, 1990.
Boff, Leonardo, 1. Church: Charism & Power, Crossroad, New York, 1986; 2. Faith on the Edge, Orbis Books, New York, 1989.
Bringas, Ernie, Going By The Book: Past and Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads Pub. Co., VA., 1996.
Brown, Michael L., Our Hands Are Stained With Blood: The Tragic Story of the "Church" and the Jewish People, Destiny Image Pub., 1992.
Bùi Đức Hạnh (Linh mục), Bức Tâm Thư, Saigon, 1974
Bùi Kha, Hoàng Nguyên Nhuận, Trần Chung Ngọc, Nguyễn Văn Hóa, Nguyễn Mạnh Quang & Lam Hồng Thể, Vatican: Thú Tội và Xin Lỗi, Giao Điểm, CA., 2000.
Burkett, Elinor & Bruni, Frank, A Gospel of Shame: Children, Sexual Abuse, and the Catholic Church, Viking, New York, 1993.
Bussmann, Clauss, Who Do You Say? Jesus Christ in Latin American Theology, Orbis Book, New York, 1985.
Cairns, D. S., The Faith That Rebels: A Re-Examination of the Miracles of Jesus, Doubleday, New York 1928.
Chamberlin, E. R., The Bad Popes, A Signrt Book, New York, 1969.
Chu Văn Trình, 1. Gia Tô Thực Dân Sử Liệu, Florida, 1990; 2. Sách Lược GiaTô Thực Dân Thống Trị Toàn Cầu, Florida, 1990; 3. GiaTô Thực Dân Chính Sử, Florida, 1993; 4. Gián Điệp Alexandre de Rhodes và Chữ Quốc Ngữ, Florida, 1996.
Cao Huy Thuần, Les Missionaires et la Politique Coloniale Francaise au Vietnam (1857-1914), Yale Southeast Asia Studies, 1990. (Đạo Thiên Chúa và Chủ Nghĩa Thực Dân Tại Việt Nam, Hương Quê, Cali., 1988)
Carmichael, Joel, "The Birth of Christianity: Reality and Myth", Dorset Press, New York, 1989.
Cavendish, Richard, Mythology: An Illustrated Encyclopedia, Barnes & Nobles Books, New York, 1993.
Cowie, Leonard W., The March of the Cross, McGraw-Hill Book Co., Inc., 1962.
Cox, Harvey, 1."The Silencing of Leonardo Boff: The Vatican and the Future of World Christianity", Meyer-Stone Books, Oak-Park, IL., 1988; 2. "Many Mansions: A Christian's Encounter With Other Faiths", Collins, London, 1988; 3. Military Chaplains: From a Religious Military to a Military Religion, Abingdon Press, 1971.
Cross, Colin, Who Was Jesus, Barnes & Nobles Books, New York, 1993.
Crossan, John Dominic, Who Killed Jesus?, Harper, San Francisco, 1996.
Daleiden, Joseph L., The Final Superstition: A Critical Evaluation of the Judeo-Christian Legacy, Prometheus Books, New York, 1994.
Dalian, Robert, Dieu Contre Dieu, Édité par l'Homme Lucide, France, 1974.
Davies, A. Powell, The Meaning of the Dead Sea Scrolls, A Mentor Book, New York, 1956.
Davies, J. G., The Early Christian Church, Barnes & Nobles Books, New York, 1995.
Davis, Kenneth C., Don't Know Much About The Bible, Eagle Brook, New York, 1998.
DeBlassie, Paul, Toxic Christianity, Crossroad, New York, 1992.
Ducey, Michael H., Outgrowing Catholicism, The Windhover Press, Madison, WI 1990.
Dunn, Joseph, The Rest of Us Catholics: The Loyal Opposition, Templegate Publishers, Illinois, 1994.
Durant, Will & Ariel, The Age of Voltaire, MJF Books, New York, 1992
Eaton, Frederick Heese, Scandalous Saints, Own Pub., CA, 1994.
Ellul, Jacques, The Subversion of Christianity, William B. Eerdmans Publishing Company, Michigan, 1986.
Ferm, Deane William, Third World Liberation Theologies, Orbis Book, New York, 1987.
Flamini, Roland, Pope, Premier, President, McMilland Pub., New York, 1980.
Floyd, William, Christianity Cross-Examined, Arbitrator Press, New York, 1941.
Foner, Philip S., The Life and Major Writings of Thomas Paine, A Citadel Press Book, New York, 1993.
Foote, G.W., Bible Romances, The Pioneer Press, London, 1922.
Forest, Alain & Tsuboi, Yoshiharu, Catholicism et Sociétés Asiatiques, L'Harmattan, Tokyo, 1988.
Fricke, Weddig., The Court-Martial of Jesus: A Christian Defends The Jews Against The Charge of Deicide, Grove Weidenfeld, New York, 1990.
Friedman, Richard Elliott, 1. Who Wrote The Bible?, Harper & Row, Publishers, New York, 1989; 2. The Disappearance of God, Little, Brown & Co., New York, 1995.
Funk, Robert W. & Hoover, Roy W. & The Jesus Seminar, The Five Gospels: What Did Jesus Say?, Scribner, New York, 1996.
Garabedian, John H. & Coombs, Orde, Christ is Dead - Buddha Lives, Workman Publishing Co., New York, 1969.
Garner, James Finn, Apocalypse: Wow! A memoir For The End of Time, Simon & Schuster, New York, 1997.
Garrison, Webb, Strange Facts About the Bible, Abingdon Press, New York, 1968.
Gaylor, Annie Laurie, Betrayal of Trust, Clergy Abuse of Children, Freedom from Religion Foundation, WI, 1988.
Gauvin, Marshall J., One Hundred Contradictions in the Bible, The Truth Seeker Company, New York, 1922.
Gibbon, Edward, The Decline and Fall of the Roman Empire, Hartcourt, Brace and Company, New York 1960.
Graham, Lloyd M., Deceptions & Myths of the Bible, The Citadel Press Book, New York, 1995.
Granfield, Patrick, The Limits of the Papacy, Crossroad, New York, 1990.
Greeley, Andrew M., 1. The Jesus Myth, Doubleday, New York, 1971; 2. The Catholic Myth, Charles Scribner's Sons, New York, 1990. 3. The Catholic Imagination, University of California Press, CA., 2000.
Greeley, Andrew M. & Neusner, Jacob, The Bible and Us, A Priest and a Rabbi Read Scripture Together, Warner Books, New York, 1990.
Green, Ruth Hurmence, 1. The Book of Ruth, Freedom From Religion Foundation, Wisconsin, 1982; 2. The Born Again Skeptic's Guide to the Bible", Freedom From Religion Foundation, Wisconsin, 1979.
Greenleaf, Richard E., The Roman Catholic Church in Colonial Latin America, Alfred A. Knopf, New York, 1971.
Guillemin, Henri, Malheureuse Église, Éditions Du Seuil, Paris, 1992.
Hadden, Jeffrey K., Prophetic Religions & Politics, Paragon House, New York, 1986.
Hanson, Eric O., The Catholic Church in World Politics, Princeton University Press, New Jersey, 1987.
Harris, Michael, Unholy Orders, Tragedy at Mount Cashel, Penguin Books Ltd., Middlesex, England, 1990.
Harwood, William, Mythology's Last Gods, Yahweh and Jesus, Prometheus Books, New York, 1992.
Haught, James A., 2000 Years of Disbelief: Famous People With The Courage To Doubt, Prometheus Books, New York, 1996.
Hayward, F. H., Questions for Catholics: A Brief Inquiry Into The Catholic Argument, Watts & Co., London, 1928.
Hebblethwaite, Peter, In The Vatican: How The Church is Run - Its Personalities, Traditions and Conflicts, Adler & Adler, Maryland, 1986.
Helms, Randel McCraw, 1. Gospel Fictions, Prometheus Books, New York, 1988; 2. Who Wrote The Gospels?, Millennium Press, CA, 1997.
Hitchcock, James, Catholicism & Modernity, Servant Books, Michigan, 1979.
Hobley, Leonard F., Christians and Christianity, Wayland Publishers, England, 1979.
Hoffer, Eric., The True Believer, Harper & Row, New York, 1966.
Hofmann, Paul, O Vatican! A Slightly Wicked View of the Holy See, Congdon & Weed, Inc., New York, 1984.
Hughes, Philip, A Popular History of the Catholic Church, The Macmillan Company, New York, 1949.
Huxley, Julian, Religion Without Revelation, A Mentor Book, New York, 1957.
Hyers, Conrad, The Comic Vision and the Christian Faith, The Pilgrim Press, New York, 1981.
Ide, Arthur Frederick, Unzipped: The Popes Bare All, A Frank Study of Sex & Corruption in the Vatican, AA Press, TX, 1987.
Imbens, Annie & Jonker, Ineke, Christianity & Incest, Fortress Press, MN, 1992.
Ingersoll, Robert G., 1. Some Mistakes of Moses, Freethought Press Association, New York, 1967; 2. Sixty Five Press Interviews, AAP, Austin, Texas, 1983.
John Paul II, Crossing the Threshold of Hope, Alfred A. Knof, New York, 1994.
Jones, Cheslynn & Wainwright, Geoffrey & Yarnold, Edward, The Study of Lithurgy, Oxford University Press, New York, 1978.
Kasmar, Gene, All The Obscenities in the Bible, Kas-mark Pub., MN, 1995.
Kasper, Walter, The God of Jesus Christ, Crossroad, New York, 1986.
Kavanaugh, James, 1. A Modern Priest Looks at his Outdated Church, Pocket Books, New York, 1968; 2. God Lives: From Religious Fear To Spiritual Freedom, Steven J. Nash Pub., IL., 1993; 3. The Birth of God, Pocket Book, New York, 1970.
Kazantzakis, Nikos, The Last Temptation of Christ, A Touchtone Book, New York, 1960.
Kersten, Holger, Jesus Lived in India: His Unknown Life Before & After the Crucifixion, Element Books Limited, Rockport, MA., 1994.
Kersten, Holger & Gruber, Elmar R., 1. The Jesus Conspiracy: The Turin & The Truth About The Resurrection, Barnes & Nobles Books, New York, 1995; 2. The Original Jesus: The Buddhist Sources of Christianity, Element Books, Inc., Rockport, MA, 1995.
Kirvan, John J., The Infallibility Debate, The Missionary Society, New York, 1971.
Konakis, Gregory, Elaborations, A Self-Published Book, 1995.
Kraft, Charles F., Genesis: Beginnings of the Biblical Drama, Board of Missions, New York, 1964.
Kung, Hans, 1. On Being A Christian, Wallaby, New York, 1978; 2. Infallible? An Inquiry, Doubleday, New York, 1971. 3. Christianity, Essence, History, and Future, Continuum Publishing Co., New York, 1995.
Las Vergnas, Georges, Pourquoi J'ai Quitté L'Église Romaine, Imprimerie Les Comtois, Besancon, France 1956.
Lea, Henry Charles, The Inquisition of the Middle Ages, Barnes & Nobles Books, New York, 1993.
Leclercq, Jacques, Christianity and Money, Hawthorn
Books, New York, 1960.
Lernoux, Penny, 1.Cry of the People, Penguin Books, New York, 1991; 2. People of God, Penguin Books, New York, 1989.
Lewis, Joseph, 1. Ingersoll: The Magnificent, AA Press, Texas, 1983; 2. The Bible Unmasked, The Freethought Press Association, New York, 1941.
Lewis, Norman, The Missionaries: God Against The Indians, Penguin Books, New York, 1988.
Lorulot, André, 1. Les Secrets des Jésuites, Herblay, France, 1933; 2. Lourdes: La Vérité sur les Visions de Brenadette. Le Mercantilisme de la Grotte, Herblay (Seine-et-Oie), France, 1933.
Lý Chân, Thầy Là Ai? Tài Liệu Nghiên Cứu Phúc Âm, Canada, 1997.
Lynch, Christopher Owen, Selling Catholicism: Bishop Sheen and the Power of Television, The University Press of Kentucky, 1998.
Maccoby, Hyam, The Mythmaker: Paul and The Invention of Christianity, Barnes & Nobles, New York, 1986.
Manhattan, Avro, 1. The Vatican's Holocaust, Ozark Books, Springfield, MO., 1986; 2. The Vatican Billions, Paravision Books, London, 1972; 3. Catholic Imperialism and World Freedom, Watts & Co., London, 1952; 4. Vietnam: Why Did We Go?, Chick Publications, CA., 1984
Marshall, Michael, Church at the Cross-Roads, Harper & Row, San Francisco, 1988.
Martin, Malachi, 1. The Keys to this Blood, A Touchtone Book, New York, 1990; 2. Rich Church, Poor Church, G.P., Putnam's Sons, New Yok, 1984.; 3. The Decline and Fall of the Roman Church, Bantam Books, New York, 1983; 4. The Jesuits, The Society of Jesus, and The Betrayal of the Roman Catholic Church, Simon & Schuster, New York, 1987.
Martin, Michael, The Case Against Christianity, Temple University Press, Philadelphia, 1991.
Martin, Ralph, A Crisis of Truth: The Attack on Faith, Morality, and Mission in the Catholic Church, Servant Books, Michigan, 1982.
McBrien, Richard P., 1. Catholicism: Study Edition, Harper & Row, Publishers, San Francisco, 1981. 2. Report on the Church: Catholicism After Vatican II, HarperSanFrancisco, 1992.
McCabe, Joseph, 1. The Vatican's Last Crime: How The Black International Joined the World-Plot Against Freedom, Liberalism, and Democracy, Haldeman-Julius Co., Kansas, 1941; 2. Rome Puts the Blight on Culture: The Roman Church the Poorest in Cutlure and Richest in Crime, Haldeman-Julius Publications, Kansas 1942; 3. The Church: The Enemy of the Workers. Rome is the Natural Ally of All Exploiters, Haldeman-Julius Publications, Kansas 1942; 4. The Truth About The Catholic Church, Haldeman-Julius Publications, Kansas, 1926; 5. The Totalitarian Church of Rome: Its Fuehrer, Its Gauleiter, Its Gestapo, and Its Money-Box, Haldeman-Julius Publications, Kansas, 1942
McGinn, Bernard, Meyendorff, John & Leclercq, Jean, Editors, Christian Spirituality: Origins to the Twelfth Century, Crossroad, New York, 1987.
McLoughlin, Emmet, 1. American Culture and Catholic Schools, Lyle Stuart, Inc., New York, 1960; 2. People's Padre, Beacon Press, Boston, 1961; 3. Crime and Immorality in the Catholic Church, Lyle Stuart, Inc., New York, 1962; 4. Letters to an Ex-Priest, Lyle Stuart, Inc., New York, 1965.
Minerbi, Sergio I., The Vatican & Zionism, Oxford University Press, New York, 1990.
Monk, Maria, The Awful Disclosures of Maria Monk: The Hidden Secrets Of Convent Life, Random House, London, 1997.
Mott, George F. & Dee, Harold M., Middle Ages, Barnes & Nobles, New York, 1967.
Muggeridge, Malcom., The End of Christendom, W. B. Eerdmans Pub., Michigan, 1980.
Neyrey, Jerome H., Honor and Shame in the Gospel of Matthew, Westminster John Knox Press, Kentucky, 1998.
Nichols, Peter, The Politics of the Vatican, Frederick A. Praeger, Publishers, New York, 1968.
Nickell, Joe, 1. The Shroud of Turin, Prometheus Books, New York, 1983; 2. Inquest on the Shroud of Turin, Prometheus Books, New York, 1987.
Numbers, Ronald L., The Creationists, Alfred A. Knoff, Inc., New York, 1992.
Obianyido, Anene, Christ or Devil? The Corrupt Face of Christianity in Africa, Delto Publications Limited, 1988.
O'Brien, George Dennis, God and the New Haven Railway, and why Neither One is Doing Very Well, Beacon Press, Boston, 1986.
O'Brien, John A., The White Harvest: A Symposium on Methods of Convert Making, The Newman Press, Maryland, 1952.
O'Connor, John., The People Versus Rome, Random House, New York, 1969.
O'Hair, Madalyn & John Murray, All The Questions You Ever Wanted To Ask American Atheists, AA Press, Austin, Texas, 1986.
Padchi, The Holy Humbugs, Arivagam, Sri Lanka.
Pagels, Elaine, The Gnostic Gospels, Random House, New York, 1979.
Petersen, Norman R., Literary Criticism for New Testament Critics, Fortress Press, PA, 1978.
Pettifer, Julian & Bradley, Richard, Missionaries, BBC Books, London, 1990.
Picknett, Lynn & Prince, Clive, Turin Shroud, In Whose Image? The Shocking Truth Unweiled, Bloomsbury, London, 1994.
Pigott, Adrian, Freedom's Foe - The Vatican, The Pioneer Press, 1965.
Plaidy, Jean, The Spanish Inquisition, Barnes & Nobles Books, New York, 1994.
Rajneesh, B.S., Priests & Politicians: The Mafia of the Soul, The Rebel Publishing House, Cologne, Germany, 1987
Ranke-Heinemann, Uta, 1. Eunuchs For The Kingdom of Heaven, Penguin Books,New York, 1991; 2. Putting Away Childish Things, Harper-Collins Pub., San Francisco, 1995.
Rappoport, Angelo S., The Love Affairs of the Vatican or The Favorites of The Popes, Barnes & Nobles Books, New York, 1995.
Rausch, David A., A Legacy of Hatred: Why Christians Must Not Forget the Holocaust, Moody Press, Chicago, 1984.
Reese, Thomas J., In The Vatican: The Politics and Organization of the Roman Catholic Church, Harvard University Press, MA., 1996.
Remsburg, John E., False Claims, The Truth Seeker Company, New York, 1928.
Rice, David, Shattered Vows, Priests Who Leave, William Morrow & Co., Inc., New York, 1990.
Robinson, John J., Dungeon, Fire and Sword, M. Evans & Company, Inc., New York, 1991.
Peter de Rosa, Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy, Crown Publishers, New York, 1988.
Ruethe, Rosemary, Liberation Theology, Paulist Press, New York, 1972.
Russell, Bertrand, Why I Am Not A Christian, A Touchtone Book, New York, 1957.
Russer, Maximilian F., Authority in the Roman Catholic Church, Vantage Press, New York, 1991.
Schoenherr, Richard & Young, Lawrence, Full Pews and Empty Altars, The University of Wisconsin Press, WI., 1993
Scott, Nathan A., The Tragic Vision and the Christian Faith, Asssociations Press, New York, 1957.
Sebba, Anne, Mother Teresa: Beyond The Image, Doubleday, New York, 1997.
Seldes, George, The Vatican Crisis, Julian Messner, Inc., New York, 1945.
Schmitt, Karl M., The Roman Catholic Church in Modern Latin America, Alfred A. Knoff, New York, 1972.
Schonfield, Hugh J., The Passover Plot, Bantam Books, New York, 1966.
Schweitzer, Albert, The Psychiatric Study of Jesus, The Beacon Press, Boston, MA., 1948.
Shaw, Eva, Eve of Destruction: Prophecies, Theories and Preparations For The End of the World, Lowell House, Los Angeles, 1995.
Sheatsley, J., The Pope’s Catechism, Lutheran Book Concern, Columbus, Ohio, 1917.
Sheler, Jeffery L., Is The Bible true?, HarperSanFrancisco, 1999.
Shorto, Russell, Gospel Truth, Riverhead Books, New York, 1997
Sipe, A.W. Richard, Sex, Priests, and Power: An Anatomy of a Crisis, Brunner/Mazel Publishers, New York, 1995.
Smith, Charles M., How To Become a Bishop Without Being Religious, Doubleday, New York, 1965.
Smith, Wilfred Cantwell, The Faith of Other Men, A Mentor Book, New York, 1965.
Solignac, Pierre, The Christian Neurosis, Crossroad, New York, 1982.
Spinoza, Benedict de, A Theologico-Political Treatise, Dover Pub., New York, 1951.
Spong, John Shelby, 1. Rescuing The Bible From Fundamentalism: A Bishop Rethinks The Meaning of Scripture, Harper, San Francisco, 1991; 2. Resurrection: Myth or Reality? A Bishop's Search For The Origins of Christianity, Harper Collins Pub., New York, 1994; 3. Born of a Woman: A Bishop Rethinks the Birth of Jesus, Harper, San Francisco, 1992; 4. Why Christianity Must Change or Die: A Bishop Speaks To Believers in Exile, Harper, San Francisco, 1998.
Steinhauser, Gerhard R., Jesus Christ - Heir To The Astronauts, Abelard-Schuman Ltd., New York, 1975.
Thiering, Barbara, Jesus and the Riddle of the Dead Sea Scrolls, Harper, San Francisco, 1988.
Thomas, Gordon & Witts, Max Morgan, Pontiff, A Signet Book, New York, 1983.
Tillich, Paul, A History of Christian Thought, Touchtone Book, New York, 1968.
Trần Văn Kha, Đức Tin Và Lý Trí, Văn Nghệ xuất bản và phát hành, Cali., 1999.
Trần Chung Ngọc, Công Giáo Chính Sử, Giao Điểm, Cali., 1999.
Treece, Henry, The Crusades, A Mentor Book, New York, 1964.
Voas, David, The Bad News Bible: The New Testament, Prometheus Bo\oks, New York, 1995.
Wallace-Hadrill, J. M., The Barbarian West: The Early Middle Ages, Harper TorchBooks, New York, 1960.
Walsh, William Thomas, Characters of the Inquisition, Kennedy & Sons, New York, 1940.
Watts, Alan W., Myth and Ritual in Christianity, Beacon Press, Boston, 1971.
White, Andrew D., A History of the Warfare of Science With Theology in Christendom, Prometheus Books, New York, 1993.
Williams, Paul L., Everything You Always Wanted To Know About The Catholic Church But Were Afraid To Ask For Fear of Excommunication, Doubleday, New York, 1989.
Wise, Michael O., The First Messiah: Investigating The Savior Before Christ, HarperSanFrancisco, 1999.
Wolf, James G., Gay Priests, Harper & Row, San Francisco, 1989.
Woodward, Kenneth L., Making Saints, A Touchtone Book, New York, 1990.
Ziolkowski, Theodore, Fictional Transfiguration of Jesus, Princeton University Press, NJ, 1972.
Le Cléricalisme: Voilà l'Ennemi! Les Meilleures Pensées Anticléricales de Ferdinand Buisson, Léon Gambetta, Émile Combes, Victor Hugo [..et al], Herblay (Seine et Oise), Éditions de l'Idée Libre, 1937.
Đối Thoại Với Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ II, Nhiều Tác Giả, Giao Điểm, CA., 1995.
Vatican: Thú Tội Và Xin Lỗi?, 6 tác giả, Giao Điểm, Cali., 2000.
Holy Bible, The New King James Version, American Bible Society, New York, 1982.
The Holy Bible, New International Version, International Bible Society, CO., 1984.
Ki Tô Giáo: Từ Thực Chất Đến Huyền Thoại, Nhiều Tác Giả, NXB Văn Hóa, USA, 1996.
Tại Sao Không Theo Đạo Chúa, Tuyển Tập I, 1994; Tuyển Tập II, 1998, Ban Nghiên Cứu Đạo Giáo, Texas
Thánh Kinh: Cựu Ước và Tân Ước (Bản Diễn Ý), Văn Phẩm Nguồn Sống Phát Hành, 1994.
Giáo Lý Công Giáo, Bản dịch của Hoài Chiên và Nguyễn Khắc Xuyên, Zieleks Publishing Co., Texas, 1991.
Catechism of the Catholic Church, Liguori Publications, MO, 1994.
Tin Tức Trên Báo Chí và TV.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét