07 tháng 9, 2009 |
Cuối tháng 12/2004, Giáo sư Trần Chung Ngọc cho công bố điện thư trao đổi giữa ông và Tiến sĩ Lê Anh Huy trên mạng lưới Giao Điểm. Được biết Ts Lê Anh Huy thách thức tranh luận với Gs Trần Chung Ngọc về “Thuyết Tiến Hóa”, nhưng Gs Trần Chung Ngọc đã không chấp nhận tranh luận, vì ông cho rằng việc đó phí thì giờ, vô ích. Trong các điện thư của Lê Anh Huy, tôi chú ý một đoạn nguyên văn như sau:
“Thuyết Tiến Hóa là một atheist (spiritual) belief. Nó cũng như thuyết Con Rồng Cháu Tiên vậy. Người có học cũng như người bình dân, ai cũng có thể tin vào thuyết này. Trong bài “con rồng cháu tiên” tôi có viết vấn đề spiritual belief nó nằm trong mặt phẳng tâm linh, sâu hơn, bao trùm hơn, mặt phẳng tâm trí. Mặt phẳng tâm linh không che mặt phẳng tâm trí…”
Tôi tò mò muốn bíêt Lê Anh Huy viết gì về “Con Rồng Cháu Tiên”, về cái “mặt phẳng tâm linh” mà Lê Anh Huy vừa quảng cáo. Tôi đã tìm được bài “Truyền Thuyết Con Rồng Cháu Tiên” đăng ngày 23/12/2004 trên hoptinhhoply.org (http://hoptinhhoply.org/read.asp?Article_ID=231). Đọc xong, tôi mới thấy Gs Trần Chung Ngọc hoàn toàn có lý khi từ chối tranh luận với Ts Lê Anh Huy.
Riêng về phần tôi, nếu tôi tuyên bố: con ruồi bay qua, tôi có thể biết được là đực hay cái! Tôi chấp nhận để người ta mắng tôi là “đồ ba xạo”. Nhưng nếu tôi nói: Lê Anh Huy vừa mở miệng ra là tôi biết ông ta sắp nói gì! Nói như thế là có cơ sở và hoàn toàn nghiêm túc. Bởi vì sau khi đọc bài “Truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên”, biết được “mặt phẳng tâm linh” của ông ta là như thế nào. Cho dù ông ta có đề nghị tranh luận với bất kỳ ai, về bất cứ đề tài nào, thuyết Tiến Hóa hay thuyết gì gì đi nữa. Ông ta có vận dụng kíến thức khoa học và “đề nghị công thức tranh luận như: Giới hạn trong thuyết tiến hóa. Tranh luận trong lịch sự, chuyên nghiệp và trí thức. Dùng các bộ môn như toán, vật lý, hóa học, sinh vật, tin học, v.v. để hổ trợ cho luận cứ của mình”…Cuối cùng, chính ông ta sẽ phá vỡ các giới hạn để dẫn vào sự cuồng tưởng mà Lê Anh Huy gọi là “mặt phẳng tâm linh”. Tôi không suy diễn điều này, mà chính Lê Anh Huy đã viết như thế trong điện thư gởi Gs Trần Chung Ngọc: “Mặt phẳng tâm linh sâu hơn, bao trùm hơn mặt phẳng tâm trí”…
Qúy độc giả muốn biết “mặt phẳng tâm linh” của Lê Anh Huy ra sao, xin mời đọc phần “Phân tích truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên trên bình diện tâm linh” như sau:
“Trên mặt phẳng tâm linh có một câu hỏi cơ bản vẫn chưa được trả lời: Từ đâu sinh ra hình ảnh của một con vật kinh sợ, gớm ghiếc đó? Có nhiều người cho rằng đó là do sự tưởng tượng của nghệ thuật gia. Nhưng chúng ta lại hỏi tiếp tại sao một hình ảnh "tưởng tượng" đó lại có thể chiếm ngự sự yêu mến, kính sợ, tôn thờ của nhiều người? Một sản phẩm của trí tưởng tượng lại đáng để cho nhiều người sùy sụp cúi lạy? Có sợi dây liên hệ nào giữa sản phẩm của "trí tưởng tượng" (là con rồng) và sự thờ lạy, là một hành động cụ thể của hoạt động tâm linh? Để giải quyết vấn đề tâm linh như vấn đề con rồng, chúng tôi trở lại Thánh Kinh là lời của Đức Chúa Trời. Ngài đã mặc khải rằng con rồng là hình ảnh của quỉ Satan…”
Độc giả thấy rất rõ, để giải quyết mọi vấn đề thuộc “mặt phẳng tâm linh” Lê Anh Huy chẳng còn cách nào hay ho hơn là “trở lại Thánh Kinh là lời của Đức Chúa Trời” (?). Cho nên Gs Trần Chung Ngọc từ chối tranh luận với Lê Anh Huy là hoàn toàn đúng đắn. Và nếu như Lê Anh Huy muốn tranh luận với tôi, thì như tôi đã nói, Lê Anh Huy vừa mới mở miệng ra là tôi đã biết ông ta sắp nói gì rồi… Điều này càng được khẳng định tuyệt đối đúng khi trên trang nhà mucsu.net, Mục sư Nguyễn Thanh Vũ ra thông báo: “Mucsu.net đã thiết lập diễn đàn dành cho cuộc đối thoại”. Trong thông báo này có đoạn:
“Mucsu.net và những tác giả nơi đây chỉ chú trọng đến khai triển lẽ đạo chứ không khai thác cá nhân, vì thế cho nên chúng tôi không đăng tải những tác phẩm nào hạ bệ nhân cách cá nhân. Cho nên cuộc đối thoại giữa Tiến sĩ Lê Anh Huy và Tiến sĩ Trần Chung Ngọc là một vấn đề giữa đôi bên và ban điều hành MUCSU.NET không tham dự vào nội dung đối thoại”.
Cho dù ban điều hành mucsu.net không tham dự đối thoại, không khai thác, hạ bệ nhân cách cá nhân, nhưng mục đích của cuộc đối thoại, dù bất kỳ đề tài nào, đối thoại với ai, thì: “Mucsu.net và những tác giả nơi đây chỉ chú trọng đến khai triển lẽ đạo…”. Hay nói cách khác, lợi dụng đối thoại để giảng đạo. Ts Lê Anh Huy cũng không dấu diếm điều này khi viết “Hy vọng anh quay trở lại với Chúa” trong một điện thư gởi Gs Trần Chung Ngọc. Đối thoại với Lê Anh Huy và những người trong mucsu.net chẳng khác nào “đối thoại với đầu gối”. Chỉ tiếc cho cái diễn đàn của Mục sư Nguyễn Thanh Vũ: “Diễn đàn dành riêng cho cuộc đối thoại nầy đã mở thì sẽ không đóng”. Không đóng dù nó có vắng như chùa bà đanh, vì chẳng có ma nào thèm đến để nghe đám “tôi tớ chúa” nói tào lao… Mở mà không đóng dù không có người vào, kể cũng phí!
Trở lại với bài “Truyền Thuyết Con Rồng Cháu Tiên”. Mở đầu bài viết, Tiến sĩ Lê Anh Huy đã viết lếu láo:
“Thánh Kinh dạy rằng Đức Chúa Trời đã bày tỏ hết mọi chuyện có thể biết được về Ngài cho nhân loại, trong đó có dân tộc Việt Nam (Rô-ma 1:19).”
Ts Lê Anh Huy đã đánh giá quá thấp, cố tình xem thường độc giả, nên đã viết những dòng lếu láo nêu trên. Đừng nói chỉ mỗi “Thư Rô-ma”, mà cả toàn bộ quyển Thánh Kinh, từ Cựu Ước đến Tân Ước, Tôi đố Lê Anh Huy tìm ra được cụm từ “trong đó có dân tộc Việt Nam”. Do đó, những cố gắng quy kết vụng về “Ông Trời” của người Việt, cũng chính là “Đức Chúa Trời” của Ki-tô giáo, chỉ tổ làm trò cười cho thiên hạ… Đó là chưa nói đến trình độ “Thiên Chúa hóa ông Trời” của Tiến sĩ Thệ Phản giáo Lê Anh Huy còn rất non nớt, không có cửa để so sánh với “trình độ” của các “đàn anh” Công giáo như: Cao Phương Kỷ, Trần Văn Đoàn, Phan Đình Cho, Trần Cao Tường, Thiện Cẩm, Vũ Đình Trác v.v…
Đối với những người này, họ biết rất rõ không thể đánh đổ văn hóa dân tộc, nên tìm cách hòa hoãn, hội nhập, trong cái gọi là “hội nhập văn hóa”. Với ý đồ từng bước “hòa để hóa” theo đúng sách lược của Vatican, họ đã thiết lập cả những chuyên ngành đề nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Gần đây, chúng ta thường nghe nói đến “Việt Triết”, “Việt Nho” v.v… Năm 1998, một số các học giả Công giáo đã thành lập Viện Triết Đạo tại Washington để phổ biến trào lưu Triết-Việt, Thần-Việt, không ngoài mục đích kế thừa sự nghiệp của bậc thầy Lương Kim Định, dọn đường cho một nền thần học Việt Nam lấy văn hóa truyền thống làm chủ đạo … Lê Anh Huy cũng muốn học đòi “Thiên Chúa hóa ông Trời”, nhưng không chịu học tập ở các đàn anh Công giáo, cố chấp, thiển cận, vừa mê tín lại vừa cuồng tín, đạp đổ tất cả những gì thuộc về di sản văn hóa dân tộc, mạ lị tổ tiên, viết ra những điều tưởng chừng không một người Việt nào dám viết như: “Điều đáng buồn là mặc dù biết mình có gốc gác từ Ông Trời, nhiều người Việt Nam chối bỏ nguồn gốc từ Ông Trời của mình mà hãnh diện nhận mình là "con rồng cháu tiên.”
Gs Trần Chung Ngọc trong bài “Hòa Bình Giữa Các Tôn Giáo” đã nhận định chính xác như sau:
“-Riêng đối với người Công Giáo Việt Nam, vì được đào tạo theo sách lược đào tạo của Ca-tô Giáo Rô Ma, cộng với lịch sử phụ thuộc ngoại bang, nhất là trong thời thực dân Pháp v..v.. cho nên khó mà có thể thoát ra sự lệ thuộc hoàn toàn vào Vatican, vào các “bề trên”, và nền thần học Ki-tô Giáo. Đối thoại đối với họ là tuyệt đối theo đúng sách lược “đối thoại” của Vatican. Sách lược đối thoại của Vatican không ngoài mục đích truyền đạo và xâm lăng tôn giáo và văn hóa, đưa tất cả vào Công Giáo và văn hóa Ki-tô…”
“-Đối với người Tin Lành thì đối thoại còn khó hơn, vì bản chất của Tin Lành là u mê cuồng tín, tin tất cả vào Kinh Thánh, cho đó là những lời mạc khải của Thiên Chúa nên không thể sai lầm. Phần lớn tín đồ Tin Lành thiếu trình độ tôn giáo, đúng như nhận định của Robert G. Ingersoll: quần chúng [Tin Lành] thì mê tín và các mục sư thì đần độn (stupid)…”.
Bản chất u mê cuồng tín của Tin Lành được Tiến sĩ Lê Anh Huy cụ thể hóa qua việc “phân tích truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên”. Trước khi tiến hành “phân tích” Lê Anh Huy đã ranh mãnh lôi cả học giả Trần Trọng Kim vào làm người cùng hội cùng thuyền để “không mang tiếng là báng bổ tổ tiên của mình”. Lê Anh Huy viết:
“Mặc dù một số người Việt Nam hãnh diện với gốc tích “con rồng cháu tiên,” nhưng nhiều người Việt không tin vào truyền thuyết này, trong đó có sử gia Trần Trọng Kim. Ông viết rằng: “Nhưng ta phải hiểu rằng nước nào cũng vậy, lúc ban đầu mờ mịt, ai cũng muốn tìm cái gốc tích mình ở chỗ thần tiên để cho vẻ vang cái chủng loại của mình. Chắc cũng bởi lẽ ấy mà sử ta chép rằng họ Hồng Bàng là con tiên, cháu rồng…” Cũng như sử gia Trần Trọng Kim, chúng tôi không tin truyền thuyết “con rồng cháu tiên” (con rồng, cháu tiên, 100 cái trứng nở ra 100 con) là nguồn gốc của dân tộc Việt.”
Chỉ có Lê Anh Huy đặt vấn đề “tin” hoặc “không tin”, chứ Trần Trọng Kim có nói gì đến việc “tin” hay “không tin” đâu? Trần Trọng Kim chỉ nói: “…nước nào cũng vậy, lúc ban đầu mờ mịt, ai cũng muốn tìm cái gốc tích mình ở chỗ thần tiên để cho vẻ vang cái chủng loại của mình…” Điều này đặc biệt đúng, không chỉ đối với dân tộc Việt Nam, mà còn đúng với cả dân tộc Do Thái. “Lúc ban đầu mờ mịt” ấy, người Do Thái “cũng muốn tìm cái gốc tích mình ở chỗ thần tiên”, nên đã tưởng tượng ra một vị thần gọi là “Da-vê”, và tự hào nghĩ rằng: “dân Do Thái là dân được thần Da-vê chọn”. Lê Anh Huy muốn nhận vơ thần Da-vê của người Do Thái làm gốc gác của mình thì cũng chẳng ai cấm cản gì, vì đó là quyền tự do của mỗi người, hà cớ gì Lê Anh Huy lại đi mạ lỵ tổ tiên dân tộc Việt Nam?
Ngày nay, với kiến thức của một học sinh trung học, các em đã biết bất kỳ dân tộc nào, khi bắt đầu bước vào lịch sử, đằng sau lưng họ là một khoảng thời gian mênh mông khuyết sử. Các dân tộc với các nền văn hóa khác nhau, đã lắp đầy khoảng không mênh mông khuyết sử ấy bằng chất liệu văn hóa đặc trưng của dân tộc mình, đó chính là huyền sử. Vì chưa có chữ viết, nên huyền sử chỉ được bảo lưu dưới dạng hội hè, đình đám, đồng dao, truyện tích v.v… Tất cả đều là truyền khẩu đời này qua đời khác, do đó không tránh được sự gia giảm, cùng một sự kiện, nhưng ở mỗi địa phương lại có một lối kể khác nhau, điều đó làm cho văn hóa càng trở nên phong phú…
Đặc biệt, dù chưa có văn tự, người xưa cũng đã để lại những kiến trúc, điêu khắc, hay các tranh vẽ như trên mặt trống đồng, hoặc trên vách đá trong các hang động, đã giúp ích rất nhiều cho con người của thời đại chúng ta ngày nay từng bước khám phá tàng tích văn hóa phong phú của cha ông ta ngày trước… Và điều may mắn đã đến, dù muộn, việc sáng tạo ra văn tự đã giúp con người vượt qua được cái ngưỡng huyền sử, để bước vào lịch sử. Tuy nhiên, những gì thuộc về huyền sử của một dân tộc đều đáng trân quý, bảo lưu cẩn trọng …
Đối với Lê Anh Huy, nhận thức về lịch sử và văn hóa dân tộc bị khống chế bởi ý thức hệ Tin Lành, nên đã méo mó, lệch lạc, thiển cận cả về tầm nhìn lẫn cách nhìn. Ngày nay, không một người Việt Nam nào lại không biết gốc gác “Con Rồng Cháu Tiên” của mình là huyền thoại, thuộc về huyền sử nằm trong giai đoạn khuyết sử. Nhưng người Việt vẫn trân qúy, tự hào, hoài niệm về một quá khứ xa xăm trong huyền sử như một kỷ niệm đẹp về tổ tiên của mình. Trịnh Công Sơn trong bài “Ngụ Ngôn Mùa Đông”, đã mô tả sự hoài niệm đó bằng một câu hát đi vào lòng người: “Nhớ về cội nguồn, nòi giống của tiên…”
Như vậy, truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên” của dân tộc Việt thuộc về phạm trù Văn Hóa, là Minh Triết, không phải là Tôn Giáo như Lê Anh Huy đã ngộ nhận. Vì không phân biệt được đâu là văn hóa, minh triết, đâu là tôn giáo, nên Lê Anh Huy đã tự hỏi:
“Nhưng chúng ta lại hỏi tiếp tại sao một hình ảnh "tưởng tượng" đó lại có thể chiếm ngự sự yêu mến, kính sợ, tôn thờ của nhiều người? Một sản phẩm của trí tưởng tượng lại đáng để cho nhiều người sùy sụp cúi lạy?”
Đối với truyền thống văn hóa của dân tộc Việt, yêu mến hình tuợng con rồng thì có, vì nó vừa là vật tổ, vừa là linh vật, nhưng “kính sợ, tôn thờ, sùy sụp cúi lạy” chỉ có trong sự tưởng tượng của một đầu óc bệnh hoạn, tự nguyện làm tôi mọi cho thần Da-vê của người Do Thái. Chính Lê Anh Huy và những đồng đạo của ông mới “kính sợ, tôn thờ, sùy sụp cúi lạy” Đức Chúa Trời, mà theo Charlie Nguyễn là một biến thái từ Thần Bò, cũng chỉ là một linh vật được nhân cách hóa. Hoặc theo Ngô Triệu Lịch, “Thánh Linh” còn mang đậm dấu ấn của tín ngưỡng Tô-tem, bái vật qua hình ảnh con chim Bồ Câu. Nghĩa là cũng không thể hơn được linh vật Rồng của dân tộc Việt.
Nếu vì yêu qúy linh vật của dân tôc, mà một số người Việt tôn kính (chứ không phải tôn thờ, sùy sụp cúi lạy) cũng là điều bình thường, vì trong quá trình bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa, thường phát sinh những biến thái mang tính tín ngưỡng, nhưng chỉ là tín ngưỡng dân gian tự phát ở một bộ phận dân cư trong cộng đồng dân tộc, không thể nhầm lẫn với tôn giáo, vì nó không có hệ thống giáo lý, tín điều, và cũng chẳng có tổ chức giáo hội nào cả . Do đó, đối với người Việt yêu qúy linh vật Rồng của mình, cũng cứ gọi là CON Rồng, chứ họ không hề gọi là NGÀI Rồng, hoặc ĐỨC Rồng. Đây là một điểm son trong văn hóa Việt mà văn hóa Ki-tô giáo không thể có. Bằng chứng là linh vật Thần Bò, chim Bồ Câu trong văn hóa Do Thái bị Ki-tô giáo nhân cách hóa thành Đức Chúa Cha, Đức Chúa Thánh Thần (theo cách gọi của người Công giáo). Tôi đố tín đồ Công giáo và Tin Lành dám thay từ “Đức” bằng từ “Con” để gọi “Chúa’ của họ, như người Việt thường gọi vật tổ thiêng liêng của mình là “Con Rồng”…
Cũng như dân tộc Việt Nam, Người Trung Hoa cũng rất yêu qúy Rồng, nhưng Rồng đối với họ chỉ là linh vật chứ không phải vật tổ. Lê Anh Huy đã ngộ nhận cho rằng: “người Trung Hoa cũng xem mình có gốc gác từ con rồng…” Việc tự nhận mình là “con cháu Rồng” của người Trung Hoa là do ảnh hưởng văn hóa Bách Việt. Một điều gần như quy luật, khi một dân tộc muốn đồng hóa một dân tộc khác bằng vũ lực, thì dân tộc đó bị dân tộc bị trị đồng hóa ngược lại bằng văn hóa. Lịch sử đã chứng minh điều đó khi Hán tộc muốn thôn tính Bách Việt bằng vũ lực, thì những yếu tố văn hóa Việt tộc lại ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống tinh thần của Hán tộc.
Theo huyền sử thì người Trung Hoa bắt đầu từ ông Bàn Cổ. Không biết hình thù ông Bàn Cổ ra sao, nhưng theo Will Durant trong “Lịch Sử Văn Minh Trung Quốc” (bản dịch của Nguyễn Hiến Lê) thì:
“Bàn Cổ thở thành gió mây, nói thì thành sấm, mạch máu của ông là sông, thịt của ông là đất, tóc là cỏ và cây, xương là kim loại, mồ hôi đổ ra thành mưa, sau cùng những con sâu bọ bám vào người ông thành loài người”.
Tất nhiên “loài người” ở đây chỉ có thể hiểu là người Trung Hoa cổ đại, cũng như “loài người” trong Cựu Ước chỉ là người Do Thái Cổ đại, không thể lấy khái niệm “loài người” của ngày nay đánh đồng với “loài người” trong huyền sử để hiểu là toàn thể nhân loại sống trên hành tinh này. Chuyện ông Bàn Cổ cũng là một thứ “Sáng Thế Ký” của người Trung Quốc, Lê Anh Huy không hiểu điều này nên đã viết theo lòng tin mù quáng của một tín đồ Tin Lành: “Đấng Tạo Hóa là Đấng sáng tạo nên vũ trụ này và muôn loài, trong đó có loài người…” Từ ông Bàn Cổ đến những triều đại tiếp theo cũng không thấy có chuyện nhận Rồng làm vật tổ, đến như Thần Nông là vị vua của huyền sử Trung Hoa cũng chỉ là một con quái vật đầu trâu mình người, chứ không liên quan gì đến Rồng. Như thế đủ rõ Lê Anh Huy không biết gì về huyền sử Trung Hoa, nhưng lại thích viết càn: “Người Trung Hoa cũng xem mình có gốc gác từ con rồng” (?).
Như đã nói trên, Rồng không phải là vật tổ, mà chỉ là linh vật được người Trung Hoa yêu mến vì nó là biểu tượng của sự hưng thịnh, trường tồn. Vì thế những điều vặt vãnh mà Lê Anh Huy trưng dẫn như : “Áo vua mặc gọi là long bào, giường vua nằm gọi là long sàn, thân thể của vua gọi là long thể, diện mạo vua gọi là long nhan” v.v… chẳng những không nói lên được điều gì, mà còn tự phơi bày sự cuồng tín của một tín đồ Tin Lành, đem những hiểu biết về lịch sử và văn hóa rất hời hợt của mình để mạ lỵ Phật giáo: “Con rồng trong Phật giáo là linh vật hộ pháp, tức bảo vệ cho giáo lý Phật giáo…”, “Lời dạy của Thánh Kinh chứng nghiệm thực tế của văn hoá Á Đông khi con rồng có cặp mắt của ác quỉ lại là con vật "hiền," biết "ban phước cho người làm lành," và chính nó cũng là "Hộ Pháp" cho một tôn giáo lớn.”
Rồng đối với người Trung Quốc tuy chỉ là linh vật chứ không phải là vật tổ như đối với dân tộc Việt Nam. Nhưng nguời Trung Hoa ngày nay “yêu rồng” đến mức cuồng tín, chỉ vì rồng là biểu tượng của sự thịnh vượng. Danh xưng “Rồng Châu Á” để ám chỉ những quốc gia có nền kinh tế phát triển như Đại Hàn, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, là một danh xưng mà nhiều quốc gia Châu Á thèm muốn, trong đó có Trung Quốc. Có lẽ vì thế mà hãng trang phục thể thao Nike khi thực hiện một chương trình quảng cáo sản phẩm, đã ký một hợp đồng hàng triệu Mỹ kim với siêu sao bóng rổ Mỹ LeBron James, làm một đoạn phim video quảng cáo với thời lượng chỉ có 90 giây, nội dung mô tả LeBron James đánh nhau với một cặp rồng. Và thế là ngày 3/12/04. Ủy ban phát thanh, điện ảnh và truyền hình Trung Quốc ra thông cáo, công ty trang phục thể thao Nike đã vi phạm những quy định về quảng cáo ở Trung Quốc, vì tất cả những quảng cáo ở đây phải bảo vệ phẩm giá dân tộc và kính trọng văn hóa bản xứ. Họ cho rằng công ty Nike đã xúc phạm đến thể diện quốc gia, và cấm phát sóng đoạn phim quảng cáo của Nike trên phạm vi toàn quốc… Ts Lê Anh Huy có còn cho rằng, người Cộng Sản Trung Quốc vốn tôn thờ chủ nghĩa duy vật, “cũng xem mình có gốc gác từ rồng” cũng “kính sợ, tôn thờ, suỳ sụp cúi lạy” con rồng nữa hay không? Hay chỉ vì nó là biểu tuợng của sự thịnh vượng, là đích ngắm của các quốc gia kinh tế muốn vươn lên thành rồng…
Trở lại với vật tổ Rồng của dân tộc Việt. Tiền nhân ta khi viết sử đã phân định rõ ràng ranh giới giữa ngoại kỷ và bản kỷ, huyền sử thuộc phần ngoại kỷ, lịch sử thuộc phần bản kỷ. Các sử gia khi viết sử cũng chọn lựa phương thức “dĩ nghi khuyết yên” hoặc “dĩ nghi truyền nghi”. Đối với sử gia, những gì còn nghi ngờ, chưa rõ ràng thì chưa vội viết, đó là “dĩ nghi khuyết yên”. Nhưng nếu chọn phương thức “dĩ nghi truyền nghi” thì những gì còn mịt mờ như trong huyền sử, nếu đã sưu tập được, dù còn nghi ngờ cũng cứ viết ra để nguời đời sau có cơ hội suy nghiệm, đánh giá lại. Lê Anh Huy không biết được điều này nên đã chọn Trần Trọng Kim để tham khao về huyền thoại “Con Rồng Cháu Tiên”, đã hí hửng nhận bừa học giả họ Trần có cùng quan điểm với mình là “không tin truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên”. Thật ra Trần Trọng Kim là học giả thời nay, do ảnh hưởng khoa học nên đòi hỏi những sự kiện khi viết phải chính xác, ông đã chọn lối “dĩ nghi khuyết yên” để viết sử. Bằng chứng là trong “Việt Nam Sử Lược”, thời đại Hồng Bàng ông chỉ sơ thuật vỏn vẹn khoảng vài trang sách. Lê Anh Huy căn cứ vào đó để mạ lị tổ tiên: “Tổ tiên thật chúng ta là loài bò sát!”, “ dân tộc mình là đồ súc sinh!”. Lại còn lớn tiếng huênh hoang: “Do đó chúng tôi có tự do để nhìn vào vấn đề một cách khách quan mà không mang tiếng là báng bổ tổ tiên của mình.”
Kinh Cựu Ước của Ki-tô giáo thực tế cũng chỉ là một cuốn sử của dân tộc Do Thái, trong cuốn sử này, chúng ta thấy cũng đầy dẫy những yếu tố huyền thoại, hư thực không phân biệt, những yếu tố kỳ bí đều được giải thích là “mạc khải” của một vị thần mà dân tộc này nhận là “Thiên Chúa”… Nếu so sánh với sử của dân tộc Việt, chúng ta có quyền tự hào các phương pháp sử học mà cha ông ta đã sử dụng, khoa học hơn “sử Cựu Ước” rất nhiều. Nếu Cựu Uớc gom tất cả huyền thoại và lịch sử vào thành một mớ hổ lốn, rồi gán cho sự “mạc khải”, thì ngược lại, nhờ sắp xếp sử liệu hoặc vào bản kỷ, hoặc vào ngoại kỷ, để hậu thế có thể phân biệt được đâu là lịch sử, đâu là huyền thoại. Các sử gia còn theo các khuynh hướng khác nhau như “dĩ nghi truyền nghi” hoặc “dĩ nghi khuyết yên” để viết sử. Nhờ thế nguời học sử đời sau biết được huyền thoại “Con Rồng Cháu Tiên” là một giải pháp tốt để kéo người Việt cổ trở về với giới hạn của mình trước những thắc mắc siêu hình về nguồn gốc giống nòi … Ngày nay, người Việt trân quý, tự hào về nguồn gốc “Tiên Rồng” của mình, hoàn toàn không có yếu tố thần bí, mê tín nào như Lê Anh Huy và các đồng đạo Tin Lành của ông nhầm tưởng, mà chỉ là sự hoài niệm về một quá khứ xa xăm trong huyền sử như một kỷ niệm đẹp về tổ tiên của mình…
Chính nhờ biết trân trọng di sản văn hóa của tiền nhân để lại, hào khí Tiên Rồng đã đồng hành cùng với dân tộc trong suốt bốn ngàn năm dựng nước và mở nước, dân tộc Việt Nam mới tránh được nạn diệt chủng bởi móng vuốt ngoại xâm. Lê Anh Huy và các đồng đạo Thệ Phản giáo của ông, còn được tồn tại đến ngày hôm nay, cũng là nhờ các thế hệ người Việt nối tiếp nhau, gìn giữ và bảo vệ hào khí Tiên Rồng, lý nào họ lại cam tâm ăn cháo đá bát !…
Nói về việc phân tích truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên”, do bị chiếc vòng Kim Cô ý thức hệ Tin Lành chụp vào đầu, nên Lê Anh Huy càng phân tích càng bậy. Lê Anh Huy viết:
“Để sáng tỏ vấn đề, chúng ta có thể nhìn vào truyền thuyết này qua khía cạnh sinh vật học (vật thể) và xã hội tâm lý học (tâm trí) rồi từ đó rút ra kết luận cho mình”
Đã nói “Con Rồng” chỉ là huyền thoại, truyền thuyết, tức không có thật. Lê Anh Huy lại muốn mang sinh vật học ra để khảo nghiệm cái không có thật đó. Đúng là chuyện ruồi bu! Khi mang sinh vật học ra phân tích cái không phải là “sinh vật”, Lê Anh Huy đã “rút ra kết luận cho mình” như thế nào? Sao ông không mang sinh vật học ra phân tích “Thánh Linh” cho độc giả thấy “Thánh Linh” của ông “qua khía cạnh sinh vật học” ra sao? Qua “phân tích”, Lê Anh Huy rút ra được kết luận là những lời phỉ báng dân tộc như: “chúng ta là con cháu của loài bò sát”, “dân tộc mình là đồ súc sinh”.
Về khía cạnh tâm lý xã hội, chúng ta hãy nghe Lê Anh Huy phân tích tiếp:
“Theo khía cạnh xã hội tâm lý học, câu chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ là một câu chuyện buồn. Đó là câu chuyện của một gia đình đổ vở vì không thể giải quyết những xung đột bên trong. Gia đình đổ vở ly tán, xã hội không đứng vững… Ấy thế mà chúng ta lại tin vào một truyền thuyết buồn và xấu cho cả một dân tộc, khi mà “tổ phụ” bỏ “tổ mẫu” và các con cái mình không ai chăm sóc để vui chơi một mình. Đã không có trách nhiệm làm chồng, làm cha, “tổ phụ” chúng ta lại không có ý chí để giải quyết chuyện lục đục gia đình mà chọn một phương cách thật dễ dàng: bỏ cuộc!…”
Tôi tự hỏi Lê Anh Huy “phân tích” lếu láo như thế có đáng cho chúng ta phải mất thời giờ phê bình hay không? Lê Anh Huy đã dám mạ lỵ tổ tiên là “loài bò sát, đồ súc sinh” thì cái gì mà ông ta chẳng dám nói! Tuy nhiên khi quy kết bậy bạ chuyện Âu Cơ, Lạc Long Quân chia tay, kẻ lên rừng, người xuống biển, là “điềm xui” cho nên mới có nạn 12 sứ quân, Trịnh Nguyễn phân tranh, Quốc Cộng phân tranh… Nghĩa là, theo ý Lê Anh Huy, “điềm xui” chiến tranh ly tán suốt chiều dài lịch sử dân tộc, chỉ vì người Việt dám nhận Lạc Long Quân, Âu Cơ làm tổ? Thử hỏi Lê Anh Huy, ông có thể chỉ ra trên thế giới này, có nước nào không chiến tranh ngay từ thời kỳ lập quốc? Hãy nhìn vào cái nước Do Thái của “chúa Giê-su” xem, cho đến bây giờ vẫn đánh nhau ì xèo với người Palestine để dành đất. Theo lô-gíc của Lê Anh Huy, “điềm xui” của dân Do Thái chính là đã nhận thần Gia-vê làm “chúa” của họ!…
Sau khi phân tích truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên ở khía cạnh sinh vật và tâm lý, Lê Anh Huy tiến hành phân tích “trên bình diện tâm linh”, Lê Anh Huy viết:
“Niềm tin vào con rồng không phụ thuộc vào trình độ học vấn. Như vậy học vấn không khống chế được niềm tin này. Như vậy, phải có một "mặt phẳng" cao hơn, sâu hơn, cơ bản hơn "mặt phẳng" vật thể và tâm trí, mà trên đó, vấn đề "con rồng" hiện hữu gay gắt để chúng ta giải quyết. "Mặt phẳng" này ảnh hưởng, điều động, khống chế lên hai "mặt phẳng" kia. Chúng tôi gọi nó là "mặt phẳng tâm linh."”
Cái gọi là “mặt phẳng tâm linh” chính là cái Lê Anh Huy đã mang ra khoe với Gs Trần Chung Ngọc trong điện thư “thách đấu” của Lê Anh Huy. Tôi không thể nào hiểu nỗi một người có học vị Tiến sĩ như Lê Anh Huy, chỉ vì vớ phải cái bã Tin Lành mà u mê đến thế. Ông viết :
“Niềm tin vào con rồng không phụ thuộc vào trình độ học vấn. Như vậy học vấn không khống chế được niềm tin này.”
Rõ ràng ở Lê Anh Huy có sự nhầm lẫn giữa tôn giáo và văn hóa. Như tôi đã trình bày ở phần trên, truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên” của dân tộc Việt thuộc về phạm trù Văn Hóa, là Minh Triết, không phải là Tôn Giáo như Lê Anh Huy đã ngộ nhận. Vì không phân biệt được đâu là văn hóa, minh triết, đâu là tôn giáo, nên Lê Anh Huy phủ nhận vai trò học vấn trong việc nhận thức “Vật tổ Rồng” thuộc văn hóa Việt tộc. Chỉ có niềm tin tôn giáo mới không phụ thuộc vào trình độ học vấn. Ví dụ: Nếu tôi theo Tin Lành, tôi chỉ cần tin vào “Đức Chúa Trời” là đủ, còn nếu tôi có học vị Tiến sĩ như Lê Anh Huy cũng tốt, không có cũng không sao, miễn là tôi biết chữ đủ để đọc Thánh Kinh, thế là qúa đủ để được “cứu rỗi”… Hoàn toàn ngược lại, truyền thuyết “Con Rồng Cháu Tiên” đòi hỏi phải có cái nhìn Minh Triết” có thể không cần phải có học vị cao, nhưng phải có trình độ văn hóa vừa đủ để nhận thức. “Niềm tin” ở đây không phải là niền tin tôn giáo như Lê Anh Huy lầm tưởng, mà là sự Suy Nghiệm Minh Triết. Vì thế, chuyện “kính sợ, tôn thờ, sùy sụp cúi lạy” con rồng chỉ là sự bịa đặt của Lê Anh Huy. Và “sự thờ lạy, là một hành động cụ thể của hoạt động tâm linh” chỉ có nơi tôn giáo hữu thần như Tin Lành, Công giáo chứ không hề có trong Minh Triết Rồng của văn hóa Việt tộc.
Ý đồ của Lê Anh Huy là nâng “niềm tin con rồng” lên một “mặt phẳng” mà ông ta cho rằng “cao hơn, sâu hơn, cơ bản hơn”. Lê Anh Huy gọi đó là “mặt phẳng tâm linh”. Và cũng từ đây, với tâm lý cố chấp, hẹp hòi, ích kỷ, cuồng tín, Lê Anh Huy đã lôi “thánh kinh” ra để hành hạ, tra tấn và thủ tiêu “con rồng”, cuối cùng đạp nó xuống tận địa ngục!
Thật tình tôi quá chán ngán không muốn phê bình tiếp, nên đành dừng lại ở đây. Để kết thúc bài này xin muợn hai câu của Gs Trần Chung Ngọc, trong điện thư trả lời cho Lê Anh Huy:
“-Anh điên rồi!”
“-Hãy tỉnh lại đi, ông Tiến sĩ ơi !"
06 tháng 9, 2009 |
Trước đây tôi có đọc 3 bài của giáo sư Trần Chung Ngọc viết về hiểm họa Tin Lành, có đề cập đến ba ông Mục sư: Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng và Nguyễn Huệ Nhật. Và gần đây, nhân đọc bài “Linh vật rồng trong truyền thuyết rồng tiên........” của ông Hoàng Vũ ở trang cập nhật của tháng 1/2005. Tôi hoàn toàn đồng ý tất cả những luận điểm của hai ông đưa ra. Kể cả sự từ chối tranh luận với ông Lê Anh Huy của giáo sư Trần Chung Ngọc. Duy chỉ có một điều duy nhất, khi hai ông gọi mấy ông Mục Sư này là cuồng tín thì tôi không đồng ý, nên tôi viết bài này để góp ý cùng hai ông.
Theo tôi nghĩ thì trước khi làm Mục Sư, có lẽ Lê Anh Huy, Huỳnh Thiên Hồng và Nguyễn Huệ Nhật cũng đã đậu tú tài. Riêng ông Lê Anh Huy, tôi không biết ông đậu tiến sĩ về ngành nào? Nếu ông đậu tiến sĩ về thần học thì tôi đồng ý với nhận xét của Charlie Nguyễn “Những mảnh bằng tiến sĩ thần học chỉ là những chứng chỉ xác nhận sự ngu dốt của người đựơc cấp”. Như vậy thì sau khi học thần học có thể họ đã trở nên ngớ ngẩn, u mê thêm. Có nghĩa là sự hiểu biết của họ đi thụt lùi. Nhưng cho dù có đi thụt lùi, chỉ còn ngang tầm ....tiểu học, thì mấy ông Mục Sư này cũng thừa sức để hiểu những điều bậy bạ trong thánh kinh. Mà họ đã đọc, đã hiểu những điều bậy bạ đó thì không thể nào tin. Không tin nhưng họ vẫn giảng, vẫn xúi ngừơi khác tin. Vì vậy hai ông gọi họ là những ngừơi đó là cuồng tín thì không đúng. Họ chỉ nói càn, nói lấy đựợc để kiếm cơm. Chứ họ có bao giờ tin Chúa đâu mà gọi là cuồng tín.
Còn ông tân tòng Nguyễn Huệ Nhật, do làm nghề Mục sư, phải đi giảng đạo mỗi ngày, tôi biết chắc chắn ông đã đọc tất cả những điều bậy bạ trong thánh kinh. Vậy mà ông vẫn tiếp tục giảng và tiếp tục bênh vực ông Chúa trời tưởng tượng vừa tàn ác vừa dâm dục trong huyền thoại của Babylon. Như vậy tôi có thể kết luận mà không sợ sai lầm rằng, trứơc đây ông vào chùa không phải để tu mà là để kiếm cơm. Bây giờ nhìn lại thấy nghề thầy chùa cực khổ quá, không có gái, cứ bắt thằng nhỏ nhịn thèm, lại phải ăn chay nên ông nhảy qua Tin Lành để tận hưởng đủ mùi đời, lại có tiền xài rủng rỉnh. Có phải thế không ?
Đến đây tôi biết các ông Linh Mục, Mục Sư và đám cừu của các ông ông sẽ hỏi: “Căn cứ vào đâu mà tôi dám quả quyết rằng các ông không tin mà vẫn giảng?” Xin thưa! Do đọc thánh kinh nên tôi biết.
Từ trước đến giờ, tôi thường nghe nói Thánh Kinh Cựu Ước là những lời của Đức Chúa Cha do ông Moise chép lại, và Kinh Tân Ước là những lời dạy của Đức Chúa Con Jesus , do bốn ông tông đồ chép lại, chắc là phải hay lắm, triết lý cao siêu lắm. Nếu không hay sao lại có hàng tỷ tín đồ trên thế giới nghe theo.
Cho đến sau này, đọc đựơc nhiều bài trên Giao Điểm, Tôi thấy những lời dạy trong thánh kinh sao kỳ cục quá. Tôi ngờ rằng họ viết bậy nên mới tìm mượn cho được hai cuốn kinh trên để tìm hiểu. Thì ra tất cả những gì họ viết đều đúng cả. Sau khi đọc những phần họ trích dẫn, tôi cố ý đọc hết những phần khác. Nhưng thú thật là không thể nào đọc nổi. Văn chương thì luộm thuộm khó hiểu, ý tứ thì tiền hậu bất nhất, câu sau chưởi cha câu trước. Từ đó tôi mới hiểu tại sao những người theo đạo Thiên Chúa ít có ai đọc Thánh Kinh. Họ chỉ theo vì truyền thống gia đình, cha mẹ theo thì con cái theo vậy thôi. Những người theo đạo vì truyền thống gia đình, bị nhồi sọ từ nhỏ thì có thể cuồng tín. Còn đám tân tòng thì chỉ theo đóm ăn tàn. Nhưng khi gặp những người theo đạo Phật hay đạo thờ cúng ông bà thì họ thường đem thánh kinh ra nói, và khoe những cái hay, cái tốt của Ki Tô Giáo. Họ muốn phân bua với mọi người rằng: “Đạo Công Giáo (hoặc Tin Lành) nó hay như vậy đó cho nên tôi mới bỏ đạo Phật để theo”. Làm cho nhiều người lầm tưởng là họ cuồng tín. Nhưng thật sự, họ biết mọi người coi thường họ, cho nên họ cố nói để khỏa lấp cái mặc cảm theo voi hít bã mía của họ đó mà thôi. Thành thật mà nói, nếu có ai mướn tôi, cứ mỗi lần đọc qua một lượt hai cuốn Thánh Kinh họ sẽ trả cho tôi một ngàn Mỹ kim. Tôi cũng xin chịu thua, thà đi làm mướn, hái nho, hái táo kiếm tiền chứ không thèm đọc để lấy 1.000 đô la. Chán lắm.
Nếu các bạn không tin lời tôi nói, xin các bạn hãy lật thánh kinh ra xem những điều tôi trích dẫn dứơi đây thì biết họ có thể tin đựơc hay không? (*)
MA-THI-Ơ: 10: 34-Chớ tưởng rằng ta đến để đem bình an cho thế gian; ta đến, không phải đem sự bình an, mà là đem gươm dáo. 35-Ta đến để phân rẽ con trai với cha, con gái với mẹ, dâu với bà gia; 36-và người ta sẽ có kẻ thù nghịch, là người nhà mình. 37-Ai yêu cha mẹ hơn ta thì không đáng cho ta; ai yêu con trai hay là con gái hơn ta thì cũng không đáng cho ta;
Cũng những ý này, nhưng Lucas thì chép với lối hành văn khác:
LU-CA: 12: 51: Các ngươi tưởng ta đến đem sự bình an cho thế gian sao? Ta nói cùng các ngươi, không, nhưng thà đem sự phân rẽ. 52-Vì từ nay về sau, nếu năm người ở chung một nhà, thì sẽ phân li nhau, ba người nghịch cũng hai, hai người nghịch cùng ba; 53- cha nghịch cùng con trai, con trai nghịch cùng cha; mẹ nghịch cùng con gái, con gái nghịch cùng mẹ; bà gia nghịch cùng dâu, dâu nghịch cùng bà gia.
Vậy mà các Linh Mục và Mục Sư giảng rằng Chúa trời thương yêu mọi người, thương đến nỗi có đứa con trai độc nhất Ngài cũng phái xuống trần, chịu chết trên thập giá để chuộc tội cho nhân loại. Nó còn thậm vô lý ở chỗ là Chúa con cũng là Chúa Cha (ba ngôi). Như vậy thì chính Chúa Cha chịu sỉ nhục, chịu để cho loài người đóng đinh để rửa tội cho loài người. Mà loài người mắc tội với ai? Thưa, Với Chúa Cha. Như vậy chính Ngài đi chịu tôi để chuộc cái tội do Ngài buộc?
Xin quý vị đọc tiếp:
LU-CA: 14: 26- Có đoàn dân đông cùng đi với Đức Chúa Giê-su; ngài xây lại cùng họ mà phán rằng: Nếu có ai đến theo ta mà không căm ghét cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và chính sự sống mình nữa, thì không được làm môn đồ ta.
Nói rõ ra, muốn theo Chúa thì điều kiện đầu tiên và bắt buộc là phải căm ghét cha mẹ, vợ con, anh em và ngay cả đời sống của mình nữa, thì Chúa mới chấp nhận cho theo Chúa.
LU-CA: 19: 26- Hãy đem kẻ thù của ta ra đây. Những kẻ không chịu thờ kính ta trên họ, và chém đi trước mặt ta.
(Ai không theo Chúa, thờ Chúa thì phải giết hết. Chính vì vậy Vatican đã tổ chức 7 cuộc thập tự chinh trong thời trung cổ để tiêu diệt tất cả những ai không thờ Chúa. Làm cho khoảng 3 triệu người bị chết oan-BTĐ)
XUẤT Ê-DÍP-TÔ KÝ: 22: 20- Kẻ nào tế các thần khác hơn một mình Đức Giê-Hô-Va sẽ bị diệt
DÂN SỐ KÝ:
Chương 31: 1-Đức Giê-Hô-Va lại phán cùng Môi-Se rằng: 2-Hãy báo thù dân Ma-đi-an cho dân Y-sơ-ra-ên; rồi ngươi sẽ được về cùng tổ phụ. 3-Vậy, Môi-se truyền cho dân sự rằng: Trong các ngươi hãy sắm sửa binh khí mà ra trận hãm đánh dân Ma-đi-an đặng báo thù dân đó cho đức Giê-hô-va. 4-về mỗi chi phái Y-sơ-ra-ên, các ngươi phải sai một ngàn lính ra trận.
5-Vậy, trong dân Y-sơ-ra-ên người ta cứ mỗi chi phái chọn một ngàn lính, là mười hai ngàn người sắm sửa binh khí đặng ra trận. 6-Môi se sai mười hai ngàn người đó ra trận, tức là sai một ngàn người về mỗi chi phái, với Phi-nê-a, con trai của Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, đem đi theo mình những khí giới thánh cùng kèn có tiếng vang. 7-Vậy, chúng giao chiến cùng dân Ma-đi-an, y như Đức Giê-Hô-Va đã phán dặn Môi-se, và giết hết thảy nam đinh. 8-Trong các người bị giết chúng cũng giết năm vua Ma-đi-an, là: Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ, và Rê-ba; cũng lấy gươm giết Ba-la-am, con trai của Bê-ô. 9-Dân Y-sơ-ra-ên bắt đờn bà và con nít Ma-đi-an dẫn theo, cướp hết thảy súc vật, bầy chiên và của cải họ. 10-đốt hết những thành, nhà ở, và hương thôn chúng nó, 11-cũng lấy đem theo hết thảy của đoạt được, bất kỳ người hay vật. 12-chúng dẫn những kẻ bị bắt và những của đoạt được đến cho Moi-se, cho Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và cho hội dân Y-sơ-ra-ên đương đóng trại tại đồng bằng Mô-áp, gần sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô.
13-Bãy giờ, Môi-se, Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và hết thảy hội trưởng đi ra đón rước chúng binh ngoài trại quân. 14-Môi-se nổi giận cùng các quân trưởng, tức là quan tướng một ngàn quân và quan tướng một trăm quân đi đánh giặc này trở về. 15-Môi-se nói cùng họ rằng; các ngươi để hết thảy người nữ còn sống sao? 16-Kìa, ấy là chúng nó theo mưu kế của Ba-la-am mà dụ dỗ dân Y-sơ-ra-ên cúng thờ Phê-rô, và phạm một tội trọng cùng Đức Giê-hô-va; và tội đó xui cho hội chúng của Đức Giê-hô-va bị tai vạ. 17-Vậy bây giờ, hãy giết hết thảy nam đinh trong bọn con trẻ, và giết người nữ nào đã kết bạn cùng một người nam; 18-nhưng hãy để sống cho các ngươi hết thảy con gái chưa hề kết bạn cùng người nam. 19-Còn về phần các ngươi, hãy đóng trại ngoài trại quân trong bảy ngày. Ai có giết một người và có đụng đến một xác chết, thì ai đó cùng kẻ bị bắt, phải dọn cho mình được sạch ngày thứ ba và ngày thứ bảy. 20-Cũng phải làm cho sạch hết thảy áo xống, mọi vật bằng da, mọi vật bằng lông dê, và mọi đồ vật bằng cây.
21-Ê-lê-sa, thầy tế lễ, nói cùng những lính đi trận về, mà rằng: Nầy là đều luật pháp dạy mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se: 22-vàng, bạc, đồng, sắt, thiếc, chì, 23-tức là mọi vật đưa vào lửa được, thì các ngươi phải đưa ngang qua lửa đặng luyện nó; nhưng người ta cũng phải dùng nước tẩy uế mà làm cho nó được sạch nữa. Còn mọi vật chi không đưa qua lửa được, thì phải ngâm nó trong nước. 24-Ngày thứ bảy các ngươi phải giặt áo xống mình, thì sẽ được sạch; đoạn mới được vào trại quân.
25-Đức Giê-hô-va lại phán cùng Môi-se rằng: 26-Ngươi, Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, và các quan trưởng của những tông tộc, hãy dựng sổ về của giặc mà người ta đã đoạt được, nào người, nào vật, 27-rồi chia của đó cho các người đã ra trận và cho cả hội chúng. 28-Trong phần thuộc về quân binh đã ra trận, hoặc người, hoặc bò, hoặc lừa hay chiên, ngươi phải cứ thâu một phần trong năm trăm mà đóng thuế cho Đức Giê-hô-va, 29-tức phải thâu thuế đó trong phân nửa thuộc về quân binh và giao cho Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, làm lễ vật dâng cho Đức Giê-hô-va. 30-Còn trong phân nửa kia thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, hoặc người, hoặc bò, hay lừa hay chiên, tức các súc vật, ngươi phải cứ mỗi năm chục mà để riêng ra một, và giao cho người Lê-vi có chức phận coi sóc đền tạm của Đức Giê-hô-va.
31-Môi-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, làm y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se. 32-Vả, của giặc còn lại mà quân binh cướp lấy được, là sáu trăm bảy mươi lăm ngàn con chiên cái; 33-bảy mươi hai ngàn con bò, 34-sáu mươi mốt ngàn con lừa đực. 35-Người nữ chưa kết bạn cùng người nam nào, hết thảy được ba mươi hai ngàn người. 36-Phân nửa thuộc về kẻ đã đi trận, là ba trăm ba mươi bảy ngàn năm trăm con chiên cái, 37-đóng thuế cho Đức Giê-hô-va là sáu trăm bảy mươi lăm con; 38-ba mươi sáu ngàn con bò, đóng thuế cho Đức Giê-hô-va là bảy mươi hai con; 39-ba mươi ngàn năm trăm con lừa đực, và đóng thuế cho Đức Giê-hô-va sáu mươi mốt con; 40-mười sáu ngàn người, và đóng thuế cho Đức Giê-hô-va là ba mươi hai người. 41-Môi se giao cho Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, của thuế làm lễ vật dâng cho Đức Giê-hô-va, y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.
42-Phân nửa kia thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, tức là phân nửa mà Môi-se chia ra với phân nửa của quân binh đã đi trận, 43-phân nửa nầy thuộc về hội chúng, số là ba trăm ba mươi bảy ngàn năm trăm con chiên cái, 44-ba mươi sáu ngàn con bò, 45-ba mươi ngàn năm trăm con lừa, 46-Và mười sáu ngàn người. 47-Trong phân nửa nầy thuộc về dân Y-sơ-ra-ên, Môi-se cứ mỗi năm chục thì để riêng ra một. Bất luận người hay vật, và giao cho người Lê-vi có chức phận coi sóc đền tạm của Đức Giê-hô-va, y như Đức Giê-hô-va đã phán dặn mình.
48-Những quân trưởng, tức là quan tướng một ngàn quân và quan tướng một trăm quân, đến gần Môi-se 49-mà rằng: Những kẻ tôi tớ ông đã dựng sổ chiến sĩ, là người ở dưới quyền chúng tôi, và không thiếu một tên. 50-Mỗi người trong chúng tôi có đem đến đồ bằng vàng mình đã được, hoặc dây chuyền, hoặc vòng, hoặc cà rá, hoặc hoa tai, hoặc kiềng, làm lễ vật dâng cho Đức Giê-hô-va đặng chuộc tội cho mình trước mặt ngài. 51-Môi-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ, bèn nhận vàng, và hết thảy đồ trang sức làm công kỹ. 52-Hết thảy vàng và lễ vật mà những quan tướng một ngàn quân và quan tướng một trăm quân dâng cho Đức Giê-hô-va, cọng là mười sáu ngàn bảy trăm năm mươi siếc-lơ. 53-Vả, mỗi người trong quân binh đều có cướp lấy vật cho mình. 54-Vậy, Môi-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ,, nhận lãnh vàng của quan tướng ngàn quân và quan tướng trăm quân, rồi đem vào hội mạc làm kỷ niệm về dân Y-sơ-ra-ên trước mặt Đức Giê-hô-va”.
Họ tôn thờ một ông thần dâm dục và ham chuộng vật chất như vậy, thì trách gì mấy ông Linh Mục hiếp dâm con nít!
Từ khi chưa đọc Thánh Kinh, tôi đã không có mấy thiện cảm với người Công Giáo và Tin Lành. Lý do đơn giản là trong đời sống họ thường tỏ ra trịch thượng, ngạo mạn. Họ thường gọi những người tân tòng là những người “trở lại đạo”. Nếu có ai hỏi: “Họ đã theo bao giờ đâu mà gọi là trở lại?” thì họ sẽ trả lời “Tất cả mọi người đều là con của Chúa, nhưng lâu nay nghe lời quỷ satan bỏ Chúa, bây giờ biết ăn năn hối cải, trở về với Chúa nên gọi là trở lại”. Như vậy họ ám chỉ rằng những người không theo đạo như họ là những đứa con hư, theo quỷ Satan. Nhưng thử hỏi những kẻ tôn thờ một ông thần dâm dục và ác ôn như vậy thì họ là thứ gì? Ai là quỷ Satan?Họ thường coi những người không cùng đạo với họ là những người thiếu đạo đức. Nhưng nhìn chung, đa số họ là những người không hiền lành gì. Tôi thấy phần đông họ tranh giành những của cải thế gian nhiều hơn là lo về đời sống tâm linh. Cứ nhìn vào cách xử thế của họ đối với mọi người trong những xóm đạo thì rõ.
Đồng ý rằng, trong niềm tin tôn giáo có những điều khó giải thích. Chẳng hạn đạo Phật tin có luật nhân quả, luân hồi. Anh có quyền tin hay không tin, tùy anh. Ki Tô Giáo cho rằng tất cả mọi thứ trên thế gian này đều do một tay Chúa tạo dựng. Tin hay không tin, là quyền của anh! Tuy nhiên, tôn giáo phải phù hợp, không phản lại những điều mà khoa học đã chứng minh. Về đạo đức phải có tính hướng thiện để dạy con người ăn hiền, ở lành và cái vị thần mà mỗi tôn giáo thờ phụng, phải là một tấm gương hiền đức, tốt lành để mọi tín đồ noi theo. Thử hỏi một ông thần dâm dục, lại tàn ác như Chúa trời có đáng cho chúng ta tôn thờ hay không? Xin nhắc lại cho các bạn đừng quên là, những điều này hiện đang nằm chình ình trong thánh kinh. Chứ không phải cái thằng tôi ngoại đạo, chống báng rồi xuyên tạc bậy bạ đâu nhé!
Trong thánh kinh Chúa có nói: “Ta nói cho các ngươi biết, mọi sự tốt lành hay tai họa trên đời này, đều do một tay ta làm ra chứ không có Chúa nào khác” Và các ông Linh Mục và Mục Sư cũng thường lấy lời Chúa trong thánh kinh mà hăm he con chiên rằng: “Một sợi tóc trên đầu của chúng ta rụng xuống cũng là do ý của Chúa”. Như vậy thì trận động đất vừa rồi ở Nam Á, nếu hiểu theo thánh kinh và những lời giảng của các ông thì chắc chắn phải là do Chúa làm chứ còn ai vô đây nữa, phải không các cha? Hay vì lần này Thiên Chúa giết gần ba trăm ngàn sinh mạng, khiếp quá nên các cha đổ vấy cho Satan.
Còn ông Lê Anh Huy, thuyết tiến hóa chỉ là một phần nhỏ trong những bài viết của giáo sư Trần Chung Ngọc. Trong phần lớn những bài của GS Ngọc, ông công kích những điều mê tín, phản khoa học và những sự xấu ác của Chúa Trời trong thánh kinh (như cuốn Công Giáo Chính Sử chẳng hạn) hoàn toàn ngược lại những gì các ông giảng trong nhà thờ. Như vậy nếu muốn tranh luận, thì ông phải chọn những đề tài mà GS Ngọc thường đả phá và ông thường giảng cho con chiên như những câu thánh kinh tôi đã trích dẫn trên kia thì mới đúng chớ. Tại sao ông lại đòi tranh luận với GS Trần Chung Ngọc về thuyết tiến hóa? Có phải những điều trong thánh kinh mà GS Trần Chung Ngọc thường đề cập đến, đã làm cho ông nghẹn họng, tịt ngòi? Hơn nữa thuyết tiến hóa đã được mọi người công nhận, kể cả Giáo Hoàng và hàng giáo phẩm cao cấp của các ông (ngoại trừ những kẻ có đầu mà không có óc). Ai dại gì đi làm cái chuyện tầm phào, vô ích như vậy? Giáo Sư Ngọc không chấp nhận tranh luận là hoàn toàn đúng.
Sau khi đọc những “lời Chúa” trên đây. Tôi thấy câu nói của Đại Văn Hào Émile Zola thật là chí lý: “Nền văn minh của nhân loại sẽ không đi đến tột đỉnh. Cho đến khi nào cái phiến đá cuối cùng từ cái nhà thờ cuối cùng rơi trúng đầu ông Linh Mục cuối cùng”. Đốt nhà thờ thì tôi không dám đốt, đốt sẽ bị tù, ngu sao đốt! Nhưng nếu tôi có dịp đi ngang qua một cái nhà thờ, gặp lúc nó đang phát hỏa thì tôi sẽ lẳng lặng đi luôn, không gọi cho Cảnh Sát, cũng không gọi xe chữa lửa. Và nếu lúc đó tôi có mắc đái, tôi cũng sẽ đái ra ngoài chứ không đái vào ngọn lửa.
Tuy nhiên, đối với những con chiên thường, chúng ta nên thông cảm và tội nghiệp cho họ, hãy giúp họ thoát khỏi cái vòng kim cô La Mã chứ không nên ghét họ, họ chỉ là nạn nhân bị lừa bịp, vì họ không bao giờ đọc Thánh Kinh nên không biết. Chỉ đáng trách là những ông tu sĩ, vì nhu cầu giảng đạo hàng ngày nên các ông Linh Mục và Mục Sư đọc Thánh Kinh rất kỹ. Vì đọc kỹ nên họ biết tất cả những điều bậy bạ trong Thánh Kinh. Đã đọc, đã biết, và với trình độ biết đọc, biết viết như họ, chắc chắn họ không tin, nhưng vì miếng cơm, manh áo họ vẫn giảng. Tôi nhớ câu nói của Thomas Paine “Bất lương không phải là tin hay không tin. Mà bất lương là xác nhận rằng mình tin vào một điều, mà thực sự mình không tin”. Họ là những người trọn đời sống bằng nghề bịp. Vì vậy, trong tất cả các nghề trên thế gian gian này, hai cái nghề mà tôi khinh bỉ nhất là nghề Linh Mục và nghề Mục Sư. Những người bình thường, nếu có bịp cũng chỉ bịp vài lần trong cuộc đời. Còn giới Linh Mục và Mục Sư, họ bịp từng ngày, từng giờ trong suốt cả cuộc đời của họ.
Hỡi các ông Linh Mục và Mục Sư! Xin các ông giảng giùm những câu Thánh Kinh trên đây. Qua mấy câu kinh này, nếu các ông chứng minh được Chúa nhân lành, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, thì các ông hãy tiếp tục làm Linh Mục và Mục Sư. Còn nếu không bào chữa cho Chúa được và nếu các ông còn chút liêm sỉ thì nên cởi áo dòng trả lại cho nhà thờ. Đừng bịp thiên hạ nữa. Nên tìm một nghề khác mà sống. Đời một con người ngắn ngủi, phù du lắm. Hãy sống làm sao trước khi nhắm mắt, nhìn lại cuộc đời đã qua, không thấy hổ thẹn với chính lương tâm mình.
Dẫn: "Truy diệt dấu ấn của Satan", "Truyền thuyết con rồng cháu tiên",.. tác giả Lê Anh Huy và Huỳnh Christian Timothy (www.thanhkinhthanhoc.net)
(ảnh http://tinlanhbiengiao.net/node/418)
From: tran ha long
To : sachhiem@sachhiem.net
Sent : 10/29/2010 10:13:13 AM
Subject: Tôi thực sự kinh tởm lời lẽ của bọn cuồng tín
Kính gửi BBT sachhiem.net
Gia đình tôi bên ngoại là người gốc Đạo. Nhưng bà tôi hiền lành, yêu thương con cháu, hòa đồng với mọi người, không cuồng tin như nhiều giáo dân khác. Vì thế bao năm đi làm ngành y bà tôi được bệnh nhân và đồng nghiệp yêu quí.
Bà tôi vẫn đi tham quan chùa chiền, thánh thất các tôn giáo khác với sự tôn trọng. Và bà tôi vẫn giữ tình yêu với tôn giáo mình, không bài bác, chê bai tôn giáo khác (mẹ tôi không theo tôn giáo nào, bà chỉ hay lên chùa vào rằm, vào ngày lễ.) Vậy mà tôi lại thấy một bộ phận những kẻ gọi là tin giáo dân lại có những lời lẽ phỉ báng nguồn gốc tổ tiên như Lê Anh Huy.
Lời lẽ tởm lợm trong thanhkinhthanhoc.net khiên người ta phải đặt ra cau hỏi: đây có phải là người Việt Nam không. So với những con vật như loài chó biết hy sinh vì chủ, con lợn khi người ta đem giết còn biết khóc tạ ơn công nuôi dưỡng thì Lê Anh Huy và đồng bọn không có tư cách ấy.
Những giống không đáng xếp vào hàng súc sinh ấy đem tổ tiên mình ra ví với Quỉ, không biết dùng lời nào để mô tả sự bất hiếu, bất nghĩa bất trung. Đến lúc này thì tôi phải nói rằng:
Vua Tự Đức ơi, ngài đã đúng khi đem chém những tên truyền giáo ngu si phỉ báng tổ tiên người Việt.
Bọn chúng cậy oai thế của Pháp mà bôi xấu đặt điều cho vua ta, hạ nhục người Việt ta mà vẫn có những kẻ tự gọi là người Việt vỗ tay dậm chân hưởng ứng
Rất mong BBT hãy lượng thứ nếu tôi quá lời. Nhưng người có lương tri và là công dân của một nước có văn hóa thì trước những hành vi vô văn hóa của bọn Lê Anh Huy, tôi chỉ muốn thét vào mặt bon chúng
"Hãy ôm đống phân của chúng mày và đừng tự gọi là người Việt. Chúng tao không có đồng bào ruột thịt gì với những hạng dơ bẩn mạt hạng như chúng mày'
Một lần nữa xin BBT lượng thứ
Ha Long
Quyển hộ chiếu tôi luôn mang bên ngực
Bức ảnh trắng đen một khuôn mặt bình thường
Đã có lúc trong tay nhà chức trách
Khẽ hất hàm sẵng giọng hỏi :VIET NAM?
Đúng ! tôi là ngưới Việt Nam thứ thiệt
Từ màu da đến vóc dáng cách nhìn
Hiểu chỗ đứng của mình nơi xứ lạ
Áo dẫu sờn ,vẫn biết trọng đường kim
Chúng tôi sống hồn nhiên như cây cỏ
Ăn miếng thơm biết rả lại miếng bùi
Chỉ biết cho, ít khi chìa tay nhận
Những thứ gì không trả giá mồ hôi
Chúng tôi sống âm thầm vai nặng gánh
Đi muôn nơi van~ hướng tới cội nguồn
Lòng nhẫn nhục trước bao điều ngang trái
Nếu ai đó có ngàn năm lịch sử
Có chiến công và những bước thăng trầm
Thì nước việt bao vinh quang chói sáng
Phù sa bồi văn hiến bốn ngàn năm
Từng sát cánh một quãng đường cầm súng
Máu nhân dân cùng đổ một chiến hào
Chúng tôi muốn những chặng đường phía trước
Ta sẽ cùng thân ái nắm tay nhau.
Vá chắc chắn điều này không xa nữa
0 nhận xét:
Đăng nhận xét