Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014
HẢI NGOẠI LÀM ĐƯỢC GÌ TRƯỚC HIỂM HỌA TRUNG QUỐC ?
07:55
Hoàng Phong Nhã
No comments
Lê Xuân Khoa
01/03/2010 1:28 sáng Chưa có phản hồi.
Sang
năm mới Canh Dần, tình hình chính trị Việt Nam đáng bi quan hơn trước.
Ngoài “quốc nạn” tham nhũng tiếp tục hoành hành, tình trạng xuống cấp
đến mức báo động của giáo dục, và sự gia tăng các tệ nạn xã hội, người
Việt Nam trong và ngoài nước còn phải đối diện với hai mối quan tâm hết
sức nghiêm trọng:
Tiếp
theo những vụ lấn chiếm lãnh thổ và lãnh hải đã được chính thức hoá
bằng những văn bản thoả hiệp với lãnh đạo Việt Nam, Trung Quốc vẫn ngang
nhiên tiến hành kế hoạch thôn tính Việt Nam bằng những hành động xác
lập quyền sở hữu hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và thực hiện những
dự án khai thác tài nguyên mang tính chiến luợc trên cả hai mặt kinh tế
và quân sự.
Trong
khi đó, Nhà nước Việt Nam vừa tiếp tục ca ngợi mối quan hệ tốt với
Trung Quốc qua những khẩu hiệu “bốn tốt” và “16 chữ vàng”, vừa gia tăng
ngăn cấm những quyền tự do căn bản của con người, đồng thời mạnh tay
trừng phạt những công dân dám công khai bày tỏ lòng yêu nước hoặc yêu
cầu cải thiện chế độ chính trị và thực hiện công bằng xã hội.
Nhiều
nhà bình luận ở hải ngoại đã phân tích và nhận định khá chi tiết về hai
mối quan tâm đặc biệt này, nhưng phần đông vẫn chỉ nhằm kể tội lãnh đạo
cộng sản, hô hào đoàn kết chống cộng và cầu mong chế độ sớm bị sụp đổ.
Gần đây mới có một số trí thức đề cập đến những phương thức cụ thể và
tích cực hơn, như thành lập cơ quan nghiên cứu chiến lược dân chủ và
phát triển (think tank), vận dụng các nguồn lực vào tiến trình dân chủ
hoá Việt Nam, nhấn mạnh vào vai trò xây dựng xã hội công dân của các tổ
chức phi chính phủ (NGO) hay vai trò của cộng đồng hải ngoại như một lực
lượng đối lập. Đây là những kế sách lâu dài có hiệu lực chuyển hoá chế
độ chính trị ở trong nước, nhưng công cuộc thực hiện đòi hỏi nhiều thời
gian, phương tiện tài chánh và nhân sự, nhất là sự ủng hộ mạnh mẽ của
cộng đồng.
Trong
khi theo đuổi những mục tiêu lâu dài, chúng ta cần gấp rút tìm cách đối
phó với những vấn đề trước mắt, ưu tiên là hai mối quan tâm nghiêm
trọng đã nêu trên. Xét cho cùng, mối quan tâm thứ hai có liên quan với
mối quan tâm thứ nhất và những biện pháp mạnh của nhà cầm quyền đối với
mọi tiếng nói phát biểu lòng yêu nước và nguyện vọng chính đáng của
người dân đều là hệ quả của tinh thần lệ thuộc Trung Quốc, với mục đích
bảo vệ quyền lực và quyền lợi của Đảng và Nhà nước. Những biện pháp này
đều rập theo khuôn mẫu của Trung Quốc, từ những phiên toà “kangaroo”
với những bản án đã có sẵn dành cho những người bất đồng chính kiến và
những người đòi đối xử công bằng cho những nạn nhân bị chính quyền tước
đoạt đất đai, cho đến những hành động đàn áp tín đồ các tôn giáo không
nằm trong hệ thống kiểm soát của nhà nước. Nếu không có gì thay đổi bất
thường, đại đa số trong bộ máy lãnh đạo Đảng sau Đại hội XI vào tháng
Giêng 2011 sẽ là những đảng viên thân Trung Quốc.
Để
có thể tồn tại với chế độ độc tài đảng trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
lựa chọn Trung Quốc làm mô hình trị nước và hội nhập với cộng đồng quốc
tế “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Việc giao thiệp với Hoa Kỳ và các
nước dân chủ khác trên căn bản “đôi bên cùng có lợi” chủ yếu là làm
giàu cho Đảng để củng cố bộ máy nhà nước. Chính phủ tìm mọi cách ngăn
chặn mọi nguồn thông tin mở rộng sự hiểu biết của người dân và đưa đến
những đòi hỏi dân chủ hoá chế độ. Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 25 tháng 6
năm 2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường cuộc đấu tranh
chống âm mưu, hoạt động Diễn biến hoà bình
trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá” đã đích danh kết tội “các thế lực thù
địch”, đặc biệt là chính phủ Mỹ và các tổ chức “phản động” của người
Việt ở nước ngoài. Những chương trình viện trợ phát triển của USAID,
chương trình học bổng Fulbright và Vietnam Education Foundation (VEF),
chương trình giao lưu văn hoá và hợp tác văn nghệ sĩ trong và ngoài
nước, cùng với các chương trình nhân đạo của các tổ chức phi chính phủ
(NGO), đều bị tố cáo là nhắm mục tiêu “xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa và
bản sắc văn hoá Việt Nam” (?). Đáng chú ý là Bản Chỉ thị này đã báo
động về “xu hướng tự diễn biến, tự chuyển hoá” đang “có chiều hướng gia tăng, có mặt trầm trọng, trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và nhân dân”.
Để
cho cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình có thể thành công, Đảng và
Nhà nước cần phải dựa vào Trung Quốc, hiện đang là quốc gia phát triển
kinh tế nhanh nhất trên thế giới và cũng là chủ nợ lớn nhất của Mỹ. Vì
cùng chung chế độ và cùng chung chí hướng, cộng sản Việt Nam coi Trung
Quốc là đồng minh vững chắc và điểm tựa an toàn nhất để chống lại mọi nỗ
lực dân chủ hoá chế độ. Lãnh đạo Việt Nam không phải không biết đến
hiểm hoạ Trung Quốc nhưng họ đã ưu tiên đặt quyền lợi và sự sống còn của
Đảng lên trên vận mệnh tương lai của đất nước. Cộng sản Việt Nam luôn
luôn giữ lễ với Trung Quốc cho nên mọi lời tuyên bố của lãnh đạo và phát
ngôn viên chính phủ đều chỉ dừng lại ở chỗ xác nhận chủ quyền và kêu
gọi Trung Quốc đối xử tử tế với ngư dân Việt Nam. Không có một viên chức
chính quyền nào lên tiếng phản đối Trung Quốc và đòi hỏi công lý cho
những ngư dân bị hải quân Trung Quốc bắt giữ, đánh đập, và bắt nộp tiền
chuộc tàu thuyền và ngư cụ. Những tàu tuần Trung Quốc hành động trái
phép và vô nhân đạo ấy đều được gọi là “tàu lạ”, một từ ngữ lần đầu tiên
được sử dụng trong lịch sử bang giao giữa hai nước.
Hiểm hoạ Trung Quốc
Truyền
thống bá quyền của người Hán bắt đầu trễ nhất là từ hai ngàn ba trăm
năm trước, ngay sau cuộc thống nhất trung nguyên của Tần Thuỷ Hoàng vào
thế kỷ thứ III trước Tây lịch. Quân nhà Tần đã mở cuộc nam tiến chinh
phục các bộ tộc Bách Việt và đồng hoá dân bị trị bằng những cuộc di dân
vĩ đại của người Hán. Số dân Bách Việt không chịu bị đô hộ phải chạy xa
xuống phía Nam, tản mát trong các nước Đông Nam Á ngày nay. Riêng dân
Lạc Việt đất Văn Lang đã kháng cự mãnh liệt, đẩy lui được nhiều đợt tấn
công của các tướng nhà Tần như Đồ Thư, Nhâm Ngao, Triệu Đà và ngay cả
của Tần Thuỷ Hoàng, rốt cuộc Đồ Thư bị chặt đầu, Tần Thuỷ Hoàng lâm bệnh
phải rút quân về nước mà chết (210 tr.TL). Anh hùng chiến thắng quân
Tần là Thục Phán lên ngôi vua, xưng hiệu là An Dương Vương, thay tên
nước Văn Lang là Âu Lạc, chấm dứt triều đại Hùng Vương đã tan rã dưới
sức mạnh của quân Tần. Nước Âu Lạc tồn tại được 30 năm thì mất do việc
An Dương Vương gả con gái là Mị Châu cho Trọng Thuỷ, con trai của vua
nước Nam Việt là Triệu Đà. Qua sự thông đồng của Trọng Thuỷ, Triệu Đà đã
đánh bại An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt.
Năm
111 tr. TL, triều đại nhà Hán đem quân chinh phục nước Nam Việt. Các
triều đại kế tiếp đã thay nhau thống trị dân tộc ta trong suốt mười thế
kỷ, nhưng mọi cố gắng đồng hoá dân tộc Việt và biến lãnh thổ của ta
thành một tỉnh của Trung Quốc đều thất bại. Tuy nhiên, sau khi Khúc Thừa
Dụ lật đổ sự thống trị của nhà Đường năm 905, khôi phục nền độc lập cho
dân tộc, các triều đại phong kiến Trung Quốc vẫn tiếp tục xâm lược nước
ta cho đến khi toàn bộ quân nhà Thanh bị vua Quang Trung đánh tan năm
1789.
Những
năm sau đó, vì phải lo chiến tranh với các nước Tây phương và vì Pháp
đã chiếm đóng Đông Dương, Trung Quốc không có cơ hội trở lại Việt Nam
cho đến khi Mao Trạch Đông ủng hộ Hồ Chí Minh trong hai cuộc chiến chống
Pháp và chống Mỹ với thâm ý kéo Việt Nam vào quĩ đạo của Trung Quốc. Dã
tâm đó thể hiện rõ rệt qua sự kiện Chu Ân Lai ép buộc Hồ Chí Minh và
Phạm Văn Đồng phải chấp nhận Hiệp định Genève chia đôi đất nước. Sau đó
họ Chu đã làm mất mặt các đồng chí Việt Nam khi mời đại diện Việt Nam
Cộng hoà Ngô Đình Luyện đến dự tiệc chung với Phạm Văn Đồng và thông báo
ý muốn thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và chính phủ Ngô
Đình Diệm.
Mưu
đồ của Trung Quốc thôn tính Việt Nam và dùng Việt Nam làm bàn đạp để
tiến chiếm toàn vùng Đông Nam Á đã được cố Tổng Bí thư Lê Duẩn tiết lộ
cho các đồng chí lãnh đạo sau chuyến đi Bắc Kinh hội kiến với Mao Trạch
Đông năm 1963, khi họ Mao không thuyết phục được Lê Duẩn và Trường Chinh
ra tuyên bố chung chống chủ nghĩa xét lại của Khrushchev. Từ đó, Bắc
Kinh biết Hà Nội đã chọn kết thân với Moscow, nhưng vẫn tiếp tục viện
trợ quân sự cho Hà Nội vì nhu cầu chống Mỹ trong cuộc chiến tranh lạnh.
Sau 1975, quan hệ Việt-Trung xấu hẳn đi cho đến khi Đặng Tiểu Bình quyết
định “dạy cho Việt Nam một bài học” trong cuộc chiến tranh biên giới
vào đầu năm 1979. Sau khi các nước cộng sản Đông Âu theo nhau sụp đổ năm
1989 và khi Gorbachev giải tán Đảng Cộng sản và Liên Bang Xô-viết năm
1991 thì Cộng sản Việt Nam phải quay về với Trung Quốc để có khả năng
bảo vệ Đảng và chế độ. Kể từ đó, Trung Quốc đã có nhiều điều kiện thuận
lợi cho việc dùng Việt Nam làm cứ điểm để tiến hành kế hoạch kiểm soát
Biển Đông và toàn thể các nước Đông Nam Á.
Vào
thời điểm đó, tinh thần yêu nước trong giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam
còn cao, cho nên mặc dù phải trở lại với Trung Quốc, họ cũng ráo riết
vận động Mỹ bỏ cấm vận và thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Dần dần, chính sách nước đôi ấy đưa đến hai khuynh hướng bảo thủ và cấp
tiến trong hàng ngũ lãnh đạo cộng sản Việt Nam. Do sự suy giảm thế lực
vả ảnh hưởng quốc tế của Hoa Kỳ trong khi Trung Quốc phát triển mau
chóng và xác lập đuợc vị thế của một siêu cường, phe bảo thủ Việt Nam
giành đuợc ưu thế và sẵn sàng nhượng bộ Trung Quốc để đổi lấy sự bảo vệ
quyền lực và quyền lợi riêng của Đảng. Ngoài hai bản hiệp ước phân định
biên giới trên đất liền và phân định Vịnh Bắc Bộ bất lợi cho Việt Nam,
việc Trung Quốc xác định chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa và công bố
bản đồ hình lưỡi rồng (còn gọi là lưỡi bò) ở Biển Đông là những hành
động phi pháp, ngang ngược không chỉ đối với Việt Nam mà còn với tất cả
các nước trong khu vực. Sự nhượng bộ của Việt Nam lên đến mức báo động
khi Nhà nước quyết định để cho Trung Quốc khai thác bô-xít trên Tây
Nguyên, bất chấp những cảnh báo khẩn cấp của các nhà khoa học, chính trị
và quân sự, đặc biệt là ba lá thư gửi lãnh đạo của Đại tướng Võ Nguyên
Giáp yêu cầu Chính phủ ngưng thực hiện các dự án khai thác bô-xít vì đây
là “vấn đề rất hệ trọng đối với cả nước về kinh tế, văn hoá và an ninh
quốc phòng.” Mới đây, hai vị cựu tướng lãnh Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn
Trọng Vĩnh lại phát hiện được hành động bất chính của lãnh đạo mấy tỉnh
biên giới đã âm thầm cho doanh nghiệp nước ngoài thuê 300 ngàn héc-ta
(ha) rừng đầu nguồn để khai thác dài hạn (50 năm) trong đó 264 ngàn ha
được dành cho Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan. Các ông đã viết thư cho
Bộ Chính trị, báo động nguy cơ về an ninh quốc phòng, ô nhiễm môi trường
và tai nạn cho nhân dân miền hạ du, và yêu cầu huỷ bỏ những hợp đồng
bất chính ấy nhưng chưa có kết quả.
Người Việt hải ngoại có thể làm gì?
Trước
viễn ảnh giang sơn mấy ngàn năm của tổ tiên bị biến thành một tỉnh của
Trung Quốc, trước những biện pháp đe doạ và trừng trị tàn nhẫn của chính
quyền, người dân trong nước vẫn còn phải cắn răng chịu đựng, ngoại trừ
tiếng nói dũng cảm của một số trí thức và đảng viên có uy tín nhưng luôn
luôn bị bộ máy công an sách nhiễu và bọn tin tặc tìm cách bóp nghẹt.
Trước tình thế ấy, cộng đồng nguời Việt hải ngoại hết sức lo ngại và
nóng lòng tìm cách đối phó. Nhiều phương cách tranh đấu đã được đưa ra,
từ ôn hoà tới cực đoan, nhưng phần lớn chỉ là những điều mơ ước (wishful
thinking) thiếu tính khả thi. Ngoài ra, trong cộng đồng vẫn chưa có sự
thảo luận thẳng thắn, tôn trọng ý kiến khác biệt dù cùng theo đuổi một
mục tiêu, do đó không đạt được sự đồng thuận, nhiều khi còn chụp mũ và
mạt sát nhau thậm tệ, một hiện tượng được gọi là “quân ta đánh quân
mình”.
Trở
lại với nhận định ở trên là cần phải gấp rút tìm cách đối phó với những
vấn đề quan tâm trước mắt được nhận diện về đối nội là tinh thần lệ
thuộc Trung Quốc của phe nhóm bảo thủ trong Đảng Cộng sản Việt Nam, và
đối ngoại là nguy cơ tổ quốc Việt Nam bị sáp nhập vào lãnh thổ Trung
Quốc và dân tộc Việt Nam bị đồng hoá trước những đợt di dân khổng lồ của
người Hán. Trong khi cuộc tranh đấu của nhân dân cho tự do dân chủ vẫn
có thể tiến hành dù còn bị kiểm soát chặt chẽ bởi chính quyền, cuộc
tranh đấu chống hiểm hoạ Trung Quốc sẽ khó khăn gấp bội vì đồng thời
phải đương đầu với cả thù trong lẫn giặc ngoài. Trong khi đó, cộng đồng
người Việt hải ngoại có nhiều điều kiện dễ dàng hơn, tự do hơn để hỗ trợ
cho nhân dân trong nước, nhất là khả năng vận động quốc tế cho một giải
pháp “chung sống hoà bình, hợp tác và phát triển” giữa Trung Quốc và
các nước Đông Nam Á mà chủ yếu là quan hệ bình đẳng giữa Trung Quốc và
Việt Nam. Nếu một thoả hiệp ASEAN-Trung Quốc có thể đạt được, chủ quyền
Việt Nam sẽ được bảo đảm. Trước tình hình cấp bách hiện nay, cộng đồng
hải ngoại cần gia tăng nỗ lực vào cuộc vận động quốc tế này. Dù thoả
hiệp với Trung Quốc có đạt được hay không, sự đóng góp quan trọng của
cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ được ghi vào lịch sử.
Riêng
tại Hoa Kỳ, cộng đồng người Mỹ gốc Việt cần tập trung chiến dịch vận
động vào Chính quyền và Quốc hội, các toà Đại sứ của các nước ASEAN, các
tổ chức quốc tế liên quan đến Trung Quốc và khu vực Á châu-Thái Bình
Dương. Ngoài ra, cần kêu gọi sự hợp tác của giới trí thức và cộng đồng
người Mỹ gốc Á, vì họ cũng rất quan tâm về tham vọng bành trướng của
Trung Quốc và họ không thể chấp nhận vai trò lãnh đạo của một siêu cường
cộng sản độc tài. Một nhóm trí thức trẻ vùng thủ đô Washington DC đã
bắt đầu mở cuộc tiếp xúc thăm dò với lãnh đạo của những tổ chức người Mỹ
gốc Á châu-Thái Bình Dương để lập kế hoạch vận động chung. Tiếng nói
của cộng đồng người Mỹ gốc Á châu chắc chắn sẽ được các nhà làm chính
sách của Hoa Kỳ và các nước ASEAN trân trọng lắng nghe. Cộng đồng người
Việt khắp nơi cũng cần có những hoạt động tương tự ở quốc gia sở tại và
nối kết với cuộc đại vận động ở Hoa Kỳ.
Cuộc
vận động của người Việt hải ngoại cho một giải pháp hoà bình ở Biển
Đông chắc chắn sẽ được đồng bào trong nước vui mừng đón nhận. Đây cũng
là cơ hội thuận tiện cho sự trao đổi và hợp tác giữa trí thức trong nước
và trí thức ở ngoài nước về những vấn đề có lợi ích cho đất nước và dân
tộc. Nhà nước sẽ không có lý do gì để ngăn cấm, trái lại còn cần phải
ủng hộ vì đây cũng chính là cơ hội cho chính phủ có thể thoát ra khỏi sự
lệ thuộc vào Trung Quốc mà vẫn có thể tồn tại. Dĩ nhiên, sự tồn tại này
còn tuỳ thuộc vào những quyết định cởi mở của chính phủ về những quyền
tự do, dân chủ căn bản của người dân trong một khung cảnh địa lý-kinh
tế-chính trị mới của toàn vùng. Ngược lại, nếu Đảng và Nhà nước cứ tiếp
tục ngăn cấm sự hợp tác chính đáng và hoà bình của người Việt Nam trong
và ngoài nước thì sẽ không khỏi bị dư luận trong nước và quốc tế lên án
và sẽ không tránh khỏi sự chống đối quyết liệt của các tầng lớp nhân
dân có thể dẫn đến bạo động. Đến lúc này, nhân dân đã có nhiều cơ hội
hiểu biết hơn về thế giới bên ngoài và nhận rõ được nhu cầu chuyển hoá
chế độ từ độc tài sang dân chủ để đất nước có thể tồn tại và phát triển
trong khung cảnh hội nhập toàn cầu.
Tất
nhiên cuộc vận động của người Việt hải ngoại chỉ có thể thành công nếu
ASEAN, với hậu thuẫn của Hoa Kỳ và các quốc gia Thái Bình Dương, có thể
thuyết phục được Trung Quốc chấp nhận giải pháp chung sống hoà bình, hợp
tác và phát triển. Kết quả mong ước này còn tuỳ thuộc vào vai trò cân
bằng quyền lực của Hoa Kỳ và khả năng đạt được đồng thuận giữa các nước
ASEAN, đặc biệt là những nước đang tranh chấp chủ quyền lãnh hải ở Biển
Đông. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của Việt Nam với tư cách Chủ
tịch ASEAN trong năm 2010. Trong mười tháng còn lại, liệu Việt Nam có đủ
khả năng điều động các nước thành viên tạm giải quyết những dị biệt
song phương để tiến đến hợp tác đa phương hầu có đủ tư thế đối thoại với
Trung Quốc hay không? Đây là cơ hội và cũng là thử thách mới cho Việt
Nam trong năm nay. Lịch sử sẽ phán xét khả năng và tinh thần trách nhiệm
của lãnh đạo Việt Nam. Đây cũng là thử thách và cơ hội cho cộng đồng
người Mỹ gốc Việt trong vai trò chủ xướng cuộc vận động của cộng đồng
người Mỹ gốc Á châu-Thái Bình Dương với chính phủ Mỹ và quê hương gốc
của họ. Mong rằng cộng đồng sẽ không bỏ lỡ cơ hội đóng góp vào những nỗ
lực xây dựng hoà bình trong khu vực và bảo vệ chủ quyền của đất nước.
Nói
đến cơ hội và thử thách của cộng đồng, đã đến lúc cần đề cập đến một
vấn đề nhạy cảm có khi được coi như vấn đề cấm kỵ không nên đụng tới, đó
là quan hệ giữa cộng đồng người Việt hải ngoại với chính quyền và một
số thành phần nhân dân trong nước. Vấn đề này không nên và không thể né
tránh vì nó là một thực tế đang diễn ra rất phức tạp, từ thái độ hồ hởi
hợp tác của những người có thiện cảm với chế độ, những chương trình nhân
đạo và giáo dục của các tổ chức NGO, đến thái độ thù nghịch một còn một
mất với chính quyền cộng sản. Quan hệ phức tạp này cần được bình tâm
thảo luận và giải quyết thích hợp vì không thể biến thái độ chống cộng
cực đoan thành một mối thù truyền kiếp cho đến các thế hệ về sau. Nếu
mối quan hệ này có thể giải quyết một cách hợp tình hợp lý và trở thành
một đồng thuận lớn trong cộng đồng hải ngoại thì mọi thành phần nhân dân
trong nước, kể cả những đảng viên cộng sản thật tình yêu nước và có đầu
óc tiến bộ, sẽ vui mừng đón nhận và sẽ trở thành một khối áp lực có khả
năng thay đổi chính sách và ngay cả chế độ, nếu cần.
Trong
phạm vi bài này, tôi chỉ muốn nêu lên một số nhận định và đề nghị do sự
hiểu biết của cá nhân để độc giả cùng xem xét và góp ý:
Đa
số nhân dân trong nước đều chán ghét chế độ nhưng cũng đã trở nên quen
với những lề lối trong xã hội cộng sản từ trên nửa thế kỷ nay, nhất là
khi đời sống vật chất theo kinh tế thị trường đã dễ chịu hơn nhiều so
với thời bao cấp. Họ cũng rất chán ghét chiến tranh và rất dè dặt đối
với những biến động chính trị vì chưa thấy có lực lượng nào có thể
chuyển hoá được chế độ; ngoài ra, họ rất hoài nghi và thờ ơ với các lực
lượng “chống cộng” và những lời kêu gọi nổi dậy từ bên ngoài.
Đa
số nhân dân trong nước bị che giấu thông tin về những quyết định sai
lầm của lãnh đạo có hậu quả nguy hại về kinh tế, văn hoá xã hội và an
ninh quốc phòng. Các cơ quan truyền thông quốc doanh chỉ trình bày những
tin tức và hình ảnh có lợi cho chính phủ, chẳng hạn những thông tin về
sự hợp tác và ủng hộ của quốc tế, những cuộc viếng thăm Việt Nam của
nguyên thủ các cường quốc, những hội nghị APEC và ASEAN được tổ chức rầm
rộ ở Hà Nội.
Đối
với mối lo ngại của nhân dân về mưu đồ xâm lược của Trung Quốc, Nhà
nước một mặt trấn an dân chúng bằng những lời tuyên bố khẳng định chủ
quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa, một mặt đề cao quan hệ hữu
hảo và bền vững giữa hai nước, che đậy những điểm nhượng bộ Trung Quốc
trong các thoả hiệp song phương, và làm giảm thiểu tính nghiêm trọng của
những hành động ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông.
Đối
với những nỗ lực dân chủ hoá và đòi hỏi công bằng xã hội, Nhà nước thi
hành các biện pháp ngăn chặn những lời khuyến cáo hay phản biện xây dựng
của giới trí thức, khoa học gia, và thẳng tay đàn áp những cá nhân hay
tổ chức tranh đấu cho tự do, dân chủ, những người bênh vực cho dân oan
và lao động bị bóc lột. Những tội danh phi lý và những bản án quá đáng
đối với những trí thức tranh đấu bất bạo động cho thấy mục đích của nhà
cầm quyền là răn đe và gieo rắc sự nghi ngại trong dân chúng đối với ảnh
hưởng từ bên ngoài.
Đối
với cộng đồng người Việt hải ngoại, Trung ương Đảng đã ban hành Nghị
quyết số 36/NQ-TW ngày 26.3.2004 về “công tác đối với người Việt Nam ở
nước ngoài.” Đây là một kế hoạch toàn diện nhằm vận động ba triệu nguời
Việt Nam ở nước ngoài thành “một bộ phận không thể tách rời của cộng
đồng dân tộc” với những đóng góp quan trọng về tài chính và trí tuệ rất
cần thiết cho công cuộc phát triển đất nước. Mặc dù mục đích này không
thể đạt được chừng nào đất nước còn bị áp đặt dưới một chế độ độc tài
toàn trị, những biện pháp thuận lợi hơn cho “Việt kiều” về nước du lịch,
đầu tư, kinh doanh, hợp tác khoa học, hoạt động nghề nghiệp hay định cư
lâu dài, cũng có khả năng hấp dẫn được một thiểu số nhất định trong
cộng đồng hải ngoại.
Để
vô hiệu hoá công tác tuyên vận một chiều của Nhà nước cộng sản, nhất là
để có thể xoá bỏ những ý nghĩ và hình ảnh tiêu cực về số đông người
Việt ở nước ngoài mà bộ máy tuyên truyền của nhà nước đã nhồi sọ nhân
dân trong nước, cộng đồng hải ngoại cần phải thay đổi quan niệm và
phương cách chống cộng đã lỗi thời. Qua những chuyến về thăm thân nhân
và bằng hữu, những hoạt động cứu trợ nạn nhân bão lụt, những chương
trình giúp đỡ y tế, giáo dục, hoặc cho vay vốn nhỏ của người Việt hải
ngoại, đồng bào trong nước không cần bị tuyên truyền cũng nhận ra được
thiện chí và ước vọng chính đáng của người Việt ở nước ngoài đối với quê
hương nguồn cội. Niềm tin tưởng của đồng bào trong nước là điều kiện
thiết yếu cho những nỗ lực tranh đấu chung cho dân chủ, nhân quyền và
công bằng xã hội. Tình đoàn kết và hợp tác của người Việt trong và ngoài
nước càng cần thiết hơn nữa cho những nỗ lực bảo vệ quê cha đất tổ,
chống lại hiểm hoạ xâm lược và đồng hoá của Trung Quốc.
Đảng
Cộng sản lo sợ và kết tội “diễn biến hoà bình” là chống phá chính phủ
và dân tộc. Người Việt hải ngoại sẽ chứng tỏ là diễn biến hoà bình chỉ
chống Nhà nước độc tài để đem lại lợi ích cho dân tộc.
Đảng
Cộng sản kêu gọi cán bộ và toàn dân học tập “đạo đức Hồ Chí Minh”.
Người Việt hải ngoại sẽ chứng tỏ là Nhà nước độc tài chỉ mượn uy danh
của “Bác Hồ” với nhân dân trong nước để duy trì chế độ, vì thực tế là họ
đã làm ngược lại tất cả những lời ông đã dạy cho cán bộ cầm quyền.
Ngoài ra cũng rất dễ chứng tỏ rằng chế độ cộng sản độc tài đã huỷ hoại
các giá trị văn hoá và đạo đức của dân tộc, biến công dân thành công cụ
của nhà nước khiến cho họ chỉ có cơ hội thăng tiến bằng những thủ đoạn
gian dối để tỏ lòng tuyệt đối trung thành với chế độ.
Bằng
mọi cách, cần phổ biến sâu rộng đến mọi giới nhân dân và quân đội những
tin tức và tài liệu chính xác về tình hình Biển Đông, về những nguy hại
của việc khai thác bô-xít Tây nguyên, khai thác rừng đầu nguồn, xây
dựng đập nước ở thượng nguồn sông MeKong, những làng Trung Quốc trên
lãnh thổ Việt Nam, v.v. Đó là những thông tin bị Nhà nước bưng bít và
ngăn cấm. Để có sức thuyết phục, cần sử dụng những tài liệu khách quan
khoa học, nhất là những bài viết của chính những đảng viên và tướng lãnh
có uy tín ở trong nước và của các quan sát viên quốc tế.
Cần
tách rời những người cộng sản yêu nước ra khỏi những người cộng sản hại
nước. Cần hỗ trợ cho những tài năng trẻ ở trong nước có thêm cơ hội học
hỏi, phát triển khả năng sáng tạo và luôn luôn tự hào là dòng giống của
con Hồng, cháu Lạc. Cần sẵn sàng tiếp xúc, trao đổi và tạo cơ hội hợp
tác giữa những trí thức tiến bộ, những đảng viên sáng suốt, những nhà
văn hoá và nghệ sĩ nổi danh trong và ngoài nước.
Gần
đây, vì cần phải xoa dịu dư luận bất mãn của nhân dân, vì những động
thái mới của Hoa Kỳ và các nước ASEAN nhằm bảo vệ an ninh và quyền lợi
chung tại Biển Đông, chính quyền trong nước đã có thái độ mạnh dạn và có
trách nhiệm hơn, như gia tăng lực lượng phòng thủ bằng việc mua tàu
ngầm và phi cơ chiến đấu của Nga. Thủ tướng chính phủ cũng vừa lưu ý báo
chí phải “lắng nghe ý kiến của người dân,” và thông tin nhanh nhạy hơn
về vấn đề “bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền dân tộc.” Với kinh
nghiệm về cách “nói một đàng, làm môt nẻo” của chính quyền cộng sản, mọi
người Việt Nam trong và ngoài nước sẽ tiếp tục theo dõi những bước đi của Đảng và Nhà nước trong những tháng ngày sắp tới.
Tóm
lại, vì nhu cầu thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, vì nhu cầu đại đoàn kết dân tộc trước nguy cơ
bị Trung Quốc thôn tính và đồng hoá, cả chính quyền trong nước và cộng
đồng người Việt ở nước ngoài đều cần phải có những quyết định đột phá,
biến thử thách thành cơ hội, kết hợp được sức mạnh cần thiết cho sứ mệnh
phát triển và cứu nguy đất nước. Trong tư thế của nhà cầm quyền, Đảng
và Nhà nước Việt Nam có hai lựa chọn: dọn đường mở lối hay xây chướng ngại vật?
Trong
bất cứ trường hợp nào, cộng đồng người Việt hải ngoại cũng vẫn tiếp tục
hỗ trợ thích hợp cho tiến trình dân chủ hoá và những nỗ lực bảo vệ độc
lập và vẹn toàn lãnh thổ của đồng bào trong nước.
© 2010 Lê Xuân Khoa
0 nhận xét:
Đăng nhận xét