Xu thế của thời đại chúng ta đang mở ra những cơ hội khổng lồ cho bất kỳ ai, bất kỳ dân tộc nào muốn phát triển. Cơ hội lớn nhất mà toàn cầu hoá mang lại chính là tự do. Nhưng làm thế nào để không bỏ lỡ cơ hội? Làm thế nào để phát triển? Chỉ khi nào con người tự do thì con người mới phát triển. Hơn bao giờ hết, mỗi con người của thời đại phải nhận thức được rằng tự do không phải là thứ gì đó xa rời cuộc sống của con người, tự do không chỉ có ý nghĩa triết học. Tự do vô cùng cao quý, vô cùng thiết yếu đối với sự sống còn của con người. Tự do là thứ có thể "ăn được" và con người "ăn" tự do là để giải phóng mình ra khỏi trạng thái lạc hậu, chậm phát triển. Cần phải trao trả tự do để con người trở thành chính nó.
Sự trở về của tự do phải là một lộ trình được hoạch định tương xứng với những nhận thức của con người về tự do, nếu không, con người sẽ rơi vào trạng thái choáng ngợp trước những giá trị của tự do và sẽ sử dụng nó một cách liều lĩnh hay đúng hơn sẽ cống hiến tự do một cách thiếu chín chắn và đẩy mình vào những trạng thái không tự do khác. Cho nên, hiểu rõ về giá trị và những nội dung của tự do là đòi hỏi thiết yếu đối với mỗi con người. Từ trước tới nay, con người vẫn có thói quen tiếp cận tự do dưới góc độ một đối tượng triết học hay một đối tượng của thơ ca mà quên mất rằng tự do còn là một đối tượng của chính trị học. Nghiên cứu tự do dưới góc độ chính trị học sẽ giúp chúng ta tìm thấy giá trị, ứng dụng và địa vị của tự do trong các lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống. Bằng cách đó, tự do được kéo xuống các tầng của đời sống hàng ngày để con người có thể sử dụng tự do, biến tự do thành công nghệ sống và phát triển.
I. Những không gian tự do cơ bản
Trong cuộc sống hàng ngày tự do có nhiều nội dung, nhưng ở đây tôi muốn đề cập đến tự do trong các không gian thuộc các lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống, đó là: tự do kinh tế, tự do chính trị, tự do văn hoá. Tự do kinh tế đi trước để con người nếm được các thành quả của sự phát triển. Khi người ta cảm nhận được vị ngọt của nó rồi thì người ta mới nhận thức được giá trị của tự do chính trị. Tự do chính trị chính là nhu cầu đòi hỏi một thể chế nhà nước có năng lực pháp chế hoá hay thể chế hoá các quyền tự do. Nhưng chỉ có tự do kinh tế và tự do chính trị thôi thì chưa đủ, con người còn cần có cả tự do văn hóa. Bởi vì con người hình thành một cách liên tục, con người là sản phẩm của quá khứ nên nếu không tự do về văn hoá, con người không tìm được yếu tố bảo trợ tinh thần cho tự do kinh tế và chính trị. Nếu không có sự bảo trợ tinh thần thì quá trình đó sẽ tạo ra sự phát triển không ổn định vì bị níu kéo bởi sự lạc hậu về mặt văn hoá và không có được sự hưởng ứng đối với các hành vi tự do. Nếu không có tự do về chính trị, không có tự do về văn hoá thì tự do kinh tế không được bảo trợ về mặt pháp lý, không được bảo trợ về mặt tinh thần. Tự do chính trị và tự do văn hoá là những yếu tố bảo trợ tinh thần để xây dựng một cộng đồng mà ở đó chu kỳ sau của sự phát triển được đại diện bởi nhân sự có năng lực chèo lái đến trạng thái tự do cao hơn và ổn định hơn.
1. Tự do kinh tế để thoát khỏi đói nghèo
Trả lại quyền tự do kinh tế cho con người ở những quốc gia kém phát triển có ý nghĩa trước tiên và thiết thực là giải phóng con người khỏi đói nghèo và lạc hậu. Bản chất của hoạt động kinh tế là sự tìm kiếm lợi ích hay hoạt động kinh tế được hướng dẫn bởi lợi ích. Nếu không có sự hướng dẫn bởi lợi ích thì mọi hoạt động kinh tế đều không có mục tiêu. Hoạt động kinh tế chỉ diễn ra một cách tự nhiên và chỉ phát triển khi con người có tự do kinh tế. Nếu không tự do trong việc thực hiện các hoạt động kinh tế, con người sẽ không đạt được mục đích kiếm tìm lợi nhuận và như vậy các hoạt động này sẽ trở nên phi kinh tế.
Tuy nhiên, kinh tế có thể phát triển tự do một cách bản năng đến một ngưỡng nào đó sẽ vấp phải các giới hạn do chính trị tạo ra. Bởi vì chính trị là một hoạt động thuộc về thượng tầng kiến trúc của xã hội. Nó ảnh hưởng đến tất cả những mặt còn lại của cuộc sống. Nếu không có thể chế đúng đắn, rất dễ xảy ra tình trạng chính trị chi phối và thao túng hoạt động kinh tế, khiến cho hoạt động kinh tế không thể phát triển. Sự chi phối của chính trị đối với các hoạt động kinh tế ở nhiều quốc gia đã làm mất tự do kinh tế, kìm hãm sự phát triển của kinh tế. Bản chất của tất cả chương trình phát triển kinh tế là phát triển cả hai yếu tố thể chế và lực lượng kinh tế. Thể chế kinh tế một khi bị áp đặt, bị chi phối bởi những mục tiêu chính trị thì không thể hỗ trợ và đảm bảo hoạt động của lực lượng kinh tế, do đó không thể hỗ trợ sự phát triển kinh tế. Việc trói buộc kinh tế vào chính trị còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro mà rủi ro lớn nhất là làm con người mất mát năng lực trong đời sống kinh tế. Tự do tạo ra sự đa dạng tinh thần của con người và tạo ra sự cân bằng tự nhiên của cuộc sống. Một khi con người không tự do về mặt kinh tế cũng như chính trị thì con người không còn tính đa dạng nữa, con người sẽ phát triển lệch lạc và con người trở nên mất năng lực. Các lưc lượng kinh tế cũng như mọi lực lượng khác không thể phát triển trong điều kiện mất cân bằng của cuộc sống như vậy. Do đó cần phải trả lại cho con người tự do kinh tế. Đó cũng chính là nội dung của cải cách kinh tế. Trong lý thuyết về cải cách mà tôi nghiên cứu thì cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển hiện nay là tạo quyền tự do kinh tế và quyền độc lập kinh tế cho con người.
Điều kiện tiên quyết để có tự do kinh tế là phải thừa nhận quyền sở hữu của mỗi cá nhân. Đây cũng là điều kiện phổ biến và căn bản để có thể tiến hành cuộc giải phóng con người lần thứ hai này. Nói đến quyền tự do là phải nói đến tập hợp các quyền và các quyền ấy có mức độ phát triển khác nhau cùng với sự phát triển của xã hội, trong đó quyền sở hữu là một trong những quyền thiết thân nhất của con người. Ở đây, tôi không nói đến giá trị tuyệt đối của sở hữu mà nói đến quyền tự do mỗi người phải có để định đoạt những thứ thuộc về mình, tức là tính chất của sở hữu. Con người buộc phải có không gian pháp lý để có sở hữu, khi có sở hữu con người sẽ tìm cách giữ. Con người có thể chưa có các quyền công dân theo đúng nghĩa nhưng phải tự giác về chúng và phải ý thức về cái mình cần. Ý thức được quyền đó là tiền đề cơ bản của quá trình tự giải phóng của mỗi người. Vấn đề quan trọng nhất đối với mỗi một cá nhân là anh biết rõ cái anh có để giữ và biết rõ cái anh cần để tìm. Khi nào con người bắt đầu có nhu cầu đi tìm kiếm cái mình cần và gìn giữ cái mình có thì lúc ấy con người bắt đầu thức tỉnh về giá trị, về cơ hội cũng như rủi ro của mình.
Quyền tự do kinh tế sẽ đem lại cho mỗi người sự tự chủ về mặt kinh tế. Tự chủ về kinh tế là điểm xuất phát để con người rèn luyện bản lĩnh và năng lực, đồng thời phấn đấu đạt được những phẩm chất vô cùng quan trọng của một con người là tự lập, tự chủ và tự trọng. Điều đó có nghĩa là, không gian kinh tế tự chủ là cơ sở cho các giá trị cá nhân phát triển. Trong không gian đó, con người có cơ hội để bảo tồn và phát triển các bản năng kinh doanh, bảo tồn và phát triển những khả năng làm xuất hiện các trị giá gia tăng. Tạo không gian tự do kinh tế cho mỗi cá nhân là gieo mầm cho sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Đó không chỉ là giải pháp nhằm mục đích phát triển kinh tế mà còn nhằm đảm bảo sự an toàn về chính trị. Những nhà chính trị nào không nhận thức được tầm quan trọng của tự do kinh tế thì nền kinh tế đó không thể phát triển, và quốc gia đó sớm muộn cũng rơi vào những cuộc khủng hoảng chính trị đồng thời đẩy xã hội đến tình trạng kiệt quệ.
Không có cách nào khác là các quốc gia kém phát triển phải trả lại cho người dân của mình quyền tự do kinh tế. Tự do kinh tế là tiền đề để con người nhận ra giá trị của tự do, đặc biệt là tự do chính trị. Sự bùng nổ kinh tế ở một số quốc gia chậm phát triển thời gian qua là những minh chứng cho điều này. Tự do kinh tế đòi hỏi phải được đảm bảo bởi tự do chính trị vì phát triển lực lượng kinh tế là hệ quả trực tiếp của sự phát triển thể chế chính trị, một thể chế chính trị đảm bảo được tự do chính trị sẽ đảm bảo cho sự phát triển của kinh tế. Có tự do thì các lực lượng kinh tế mới phát triển, và chính sự phát triển của các lực lượng kinh tế cũng sẽ là sức ép cho sự hoàn thiện của thể chế chính trị.
2. Tự do văn hoá để có môi trường tinh thần lành mạnh
Văn hoá, nhìn chung, hình thành từ sự tích lũy kinh nghiệm sống của mỗi cộng đồng, mỗi dân tộc, do đó văn hoá chính là cuộc sống. Quy luật hình thành của văn hoá cũng tự nhiên như chính đời sống con người. Chúng ta đã biết rằng, bản chất của cuộc sống chính là tính đa dạng tự nhiên và tự do là điều kiện quan trọng nhất để không chỉ đảm bảo mà còn phát huy tính đa dạng ấy. Tính đa dạng tự nhiên của cuộc sống tạo ra một sự cạnh tranh bình đẳng giữa các khuynh hướng của cuộc sống và sau khi trải qua quá trình sàng lọc một cách tự nhiên, những khuynh hướng còn lại là những khuynh hướng hợp lý.
Văn hoá bao giờ cũng thể hiện sự chấp nhận lẫn nhau và bình đẳng giữa các thành tố cấu tạo ra cuộc sống. Yếu tố đảm bảo sự hợp pháp của quá trình đấu tranh và hoà hợp giữa các thành tố của cuộc sống chính là tự do. Tự do đem lại cho con người sự phong phú về nhận thức và đến lượt mình, sự phong phú về nhận thức sẽ tạo ra sự đa dạng về khuynh hướng. Trong văn hoá cần có sự cạnh tranh lành mạnh giữa tất cả các khuynh hướng. Bởi thứ nhất, đó là điều kiện để văn hoá phản ánh một cách chính xác sự tồn tại đan xen cũng như những mâu thuẫn giữa các khuynh hướng. Thứ hai, để các khuynh hướng hợp lý trở thành các khuynh hướng trội và con người nhận thức một cách tự do trong khoảng không gian hợp lý của khuynh hướng hợp lý đã được xác nhận đó. Và cuối cùng, để khuynh hướng trội có thể bị thay thế bởi những khuynh hướng hợp lý hơn, từ đó con người luôn phát triển về mặt nhận thức và không trở thành nô lệ của bất kỳ khuynh hướng nào. Đó là một nền văn hoá lành mạnh, nền văn hoá là sản phẩm của tự do. Chỉ có nền văn hoá với tư cách là hệ quả của tự do mới có khả năng hỗ trợ cuộc sống và chính là môi trường tinh thần của tất cả những gì còn lại của cuộc sống. Nền văn hoá ấy đến lượt mình sẽ bảo đảm cho sự duy trì và phát triển của tự do.
Tự do văn hóa là điều kiện để một nền văn hóa có khả năng tiếp nhận các yếu tố văn hoá từ những miền khác nhau của cuộc sống, tạo ra những giá trị mới. Một nền văn hoá tự do được sự hỗ trợ của nền chính trị tự do sẽ làm gia tăng sự đa dạng tinh thần của con người bởi tính mở của nó. Bảo đảm các quyền tự do về mặt tinh thần cho con người lựa chọn các yếu tố văn hoá mình yêu thích chính là tạo ra tự do cho việc lựa chọn các khuynh hướng văn hoá, các giá trị văn hoá, và tạo ra sự cân bằng văn hoá, tạo ra tính mở, tính hấp dẫn về mặt văn hoá. Sự hấp dẫn về mặt văn hoá chính là bến đỗ của sự trôi dạt văn hoá trên quy mô toàn cầu. Trong quá trình tương tác giữa con người ở các quốc gia khác nhau, luôn có hiện tượng trôi dạt của các yếu tố văn hoá từ nền văn hoá này sang nền văn hoá khác. Con người, với bản năng tự nhiên, từ khi xuất hiện đến nay luôn sống trong những mối tương tác cá nhân với cộng đồng, cộng đồng này với cộng đồng khác. Muốn có đủ năng lực để sống và cạnh tranh một cách thành công đối với các cộng đồng khác thì con người phải có kinh nghiệm của các nền văn hoá khác. Chính những yếu tố văn hoá ngoại khi xâm nhập vào một nền văn hoá đã trở thành những nhân tố đầu tiên để tạo ra năng lực hay tạo ra kinh nghiệm của con người trong nền văn hóa đó đối với các nền văn hoá khác.
Các yếu tố văn hoá trôi dạt có hai dạng, có những cái đi qua và có những cái ở lại. Có những yếu tố vào một cách tự nhiên và ra một cách tự nhiên. Những yếu tố này không ở lại hoặc vì chúng không có năng lực ở lại hoặc vì nền văn hoá nội không có khả năng tiếp nhận chúng. Nền văn hoá khi hoan nghênh những yếu tố ở lại thì tức là đã biến những thành tựu của nhân loại trở thành yếu tố làm tăng cường năng lực của dân tộc. Sự cởi mở và thái độ vồn vã của một nền văn hoá chủ nhà đối với các nền văn hoá khác chính là mầm mống tạo ra một nền văn hoá có năng lực hội nhập, tạo ra một nền văn hoá lớn hơn. Chính sự trôi dạt của những yếu tố văn hoá khác nhau đến những vùng đất hẻo lánh đã tạo ra sự bừng sáng của những vùng đất vốn dĩ tăm tối. Nếu không đón chào những sự trôi dạt như vậy của những sản phẩm văn hoá từ những vùng đất phát triển thì con người không thể có cơ hội để thức tỉnh, để phát triển. Sự đón chào ấy chính là tín hiệu đầu tiên của việc phổ biến các nguyên lý phát triển.
Thế giới ngày nay chỉ có một điểm đến, đó là những giá trị, những tiêu chuẩn toàn cầu chứ không phải là những bản sắc, những giá trị văn hoá riêng biệt. Văn hóa chính là thông điệp chung sống, nó có giá trị chung sống. Sự chia rẽ về mặt địa lý do sự hạn chế của năng lực vượt cự ly làm cho con người có cảm giác mình biệt lập với người khác, giá trị của mình biệt lập với người khác và luôn luôn tự hào về giá trị biệt lập đó. Đó là quan điểm hoàn toàn sai lầm. Cần phải hiểu rằng giá trị đáng tự hào là giá trị về tính hấp dẫn, tính phổ biến, tính hội nhập, tính chung sống và tính đa dạng của văn hóa. Năng lực để chung sống với các giá trị văn hóa khác nhau là đòi hỏi tất yếu của thời đại ngày nay và chỉ có tự do văn hóa mới tạo ra cho con người năng lực như thế.
3. Tự do chính trị để hoạch định tương lai chủ động
Chính trị là một loại hoạt động đặc biệt để tập hợp nhân dân hay cộng đồng, nhằm giải quyết các vấn đề xuất hiện trong quá trình sống và phát triển của nhân dân hay cộng đồng ấy. Trong một cộng đồng, mỗi cá nhân, tầng lớp hay giai cấp đều có những xu hướng hoặc đòi hỏi chính trị của mình với sự khác nhau nhất định. Tuy nhiên, không có quyết định xã hội nào bao gồm những quyết định của nhiều cá nhân gộp lại. Để đi đến quyết định, người ta phải thảo luận và thoả thuận với nhau để lựa chọn sự đúng đắn. Chính trị là hoạt động đi tìm sự thoả thuận, tìm sự đúng đắn mà mọi người cùng thừa nhận. Nói cách khác, hoạt động chính trị là hoạt động xúc tiến sự đồng thuận của xã hội - một phạm trù có nguồn gốc từ tự do.
Trong xã hội dân chủ, nhân dân có quyền tự do lựa chọn các khuynh hướng chính trị, các chương trình chính trị, các cương lĩnh chính trị bằng việc lựa chọn các đảng chính trị làm người đại diện cho mình. Về mặt hình thức, người dân bầu cho các đảng chính trị, nhưng về bản chất người ta bầu cho các khuynh hướng chính trị phù hợp với nhận thức của họ. Đảng chính trị nào đại diện cho khuynh hướng chính trị được đa số nhân dân ủng hộ sẽ trở thành đảng cầm quyền. Và sự cạnh tranh chính trị một cách tự do chính là cách thức mà xã hội dân chủ kiểm soát quyền lực.
Chính trị là các cảm hứng về nhận thức khác nhau đối với đời sống. Đã là con người khác nhau thì chắc chắn sẽ có những cảm hứng nhận thức khác nhau và do đó sinh ra các khuynh hướng chính trị khác nhau. Vì xem chính trị là thống soái, xem các quyền chính trị có vai trò to lớn nên nhà cầm quyền ở những quốc gia phi dân chủ không dám trao cho nhân dân quyền ấy. Họ quên mất rằng trong đời sống hàng ngày, các khuynh hướng, các bản năng chính trị, các tình cảm chính trị thể hiện rất tự do, nhưng do không được pháp chế hoá nên nó không trở thành các cảm hứng cá nhân, và chính vì thế không tạo ra các cảm hứng cộng đồng. Nếu không có sự đa dạng trong cảm hứng chính trị có tính chất cộng đồng thì không thể có xã hội dân chủ được.
Cần phải nhận thức một cách rõ ràng rằng chính trị không phải là sản phẩm của nhà nước. Nhà nước chỉ là những thực thể mang chất lượng vật lý để cấu tạo nên hệ thống chính trị. Tự do mới chính là yếu tố cấu thành nên cấu trúc của hoạt động chính trị. Nguồn gốc của chính trị chính là tính khuynh hướng về nhận thức của các thành viên và lực lượng trong xã hội. Tính khuynh hướng phong phú và tự nhiên như tính phong phú và tự nhiên của cuộc sống. Khi các khuynh hướng nhận thức phát triển đến một trình độ nhất định, khi tư duy mang tính định hướng đã trở nên chuyên nghiệp ở mức độ nhất định thì nó trở thành chính trị. Cái đảm bảo cho sự đa dạng tự nhiên của các khuynh hướng chính trị chính là tự do. Bởi vì tự do sinh ra con người, tự do tạo ra sự đa dạng tinh thần của con người và do đó tạo ra tính đa khuynh hướng của chính trị. Xã hội vốn được cấu thành bởi nhiều tầng lớp, nhiều giai cấp, với trình độ nhận thức, đặc thù dân tộc và văn hóa khác nhau, với những điều kiện kinh tế cũng khác nhau, do đó, trong xã hội luôn luôn có những nhận thức khác nhau, những lý giải khác nhau về cùng một vấn đề. Điều đó cho thấy tính đa khuynh hướng của chính trị là bản năng tự nhiên của đời sống. Phải tôn trọng sự đa dạng khuynh hướng của chính trị như tôn trọng sự đa dạng sinh học của cuộc sống hay sự đa dạng của đời sống tinh thần con người để đảm bảo tính cân bằng và khả năng phát triển của con người. Nếu tính đa dạng của đời sống chính trị không được bảo tồn thì sẽ không có tính phong phú về khuynh hướng, điều này có nghĩa là làm giảm năng lực thích nghi, năng lực tồn tại và năng lực cạnh tranh của xã hội. Bảo tồn sự đa dạng về nhận thức, và từ đó bảo tồn sự đa dạng của đời sống chính trị, chính là tạo điều kiện để phát triển tính chuyên nghiệp chính trị của xã hội.
Tự do chính trị không có nghĩa là vô chính trị. Con người không bao giờ vô chính trị. Bởi chính trị là gì nếu không phải là cách con người tác động để bảo vệ cuộc sống? Tác động vào cuộc sống và bảo vệ cuộc sống, đó vừa là năng lực vừa là phẩm hạnh quan trọng nhất của con người. Tự do chính trị là cách để con người bảo vệ chính mình. Con người có hai đối tượng để bảo vệ: công dân chính là nhân thân cộng với tài sản. Chính trị chỉ bảo vệ được tài sản, bảo vệ sở hữu, bảo vệ những cái liên quan đến con người còn tự do về chính trị mới bảo vệ được quyền hướng thiện của con người, bảo vệ được sự trong sáng tự nhiên của con người, tức là bảo vệ phẩm giá bên trong mỗi con người. Nhân thân chính là không gian ở đó con người có quyền tự do sống một cách trọn vẹn. Tự do ấy được đảm bảo bởi không gian chính trị lành mạnh, tức là bởi sự tự do về chính trị.
Tự do chính trị là hạt nhân cơ bản của tự do cá nhân vì tự do chính trị là con người không bị nô lệ bởi bất kỳ loại chính trị nào. Bản chất của cuộc sống là di chuyển sự chú ý, di chuyển nhận thức, di chuyển tình yêu của con người từ khuynh hướng này sang khuynh hướng khác. Đó cũng chính là bản chất của khái niệm tự do của con người. Tự do chính trị đảm bảo cho con người lựa chọn các khuynh hướng chính trị khác nhau dựa vào nhận thức của mỗi người về địa vị của các vấn đề chính trị. Vậy khi con người tự do trôi dạt giữa các khuynh hướng chính trị khác nhau thì các nhà chính trị tác động như thế nào để phổ biến khuynh hướng chính trị của mình vào cuộc sống xã hội? Bằng sự hấp dẫn của khuynh hướng chính trị mà họ đại diện. Hấp dẫn chính trị là cách quyến rũ con người đến với tự do. Không thể cưỡng bức con người được mà chỉ có thể hấp dẫn con người. Năng lực tạo ra sự hấp dẫn chính là một trong những năng lực quan trọng nhất của con người. Vì thế, có thể nói con người không chỉ trôi dạt giữa những khuynh hướng chính trị mà con người trôi dạt giữa những sự hấp dẫn khác nhau của đời sống chính trị.
Thế giới ngày nay luôn phải đối mặt với sự cạn kiệt của các nguồn năng lượng sống. Do đó, tiết kiệm đã trở nên một khái niệm triết học toàn cầu. Hoạt động chính trị cũng như các hoạt động khác của con người cũng phải đảm bảo tính tiết kiệm. Một không gian chính trị lành mạnh phải là không gian mà ở đó con người luôn có khả năng tái sinh trong các tiến trình khác nhau của đời sống chính trị, tức là con người hoàn toàn phải đủ điều kiện sống, điều kiện tinh thần để có thể là đầu ra của tiến trình trính trị này và là đầu vào của tiến trình chính trị khác. Trong xu thế của thời đại là hội nhập và toàn cầu hoá, tự do về chính trị còn phải được hiểu là không định kiến về chính trị để có khả năng tiếp cận, ứng phó uyển chuyển với mọi tình huống của đời sống quốc tế.
II. Khuynh hướng chính trị chủ đạo của thời đại
Sự hiểu biết về địa vị, giá trị và ứng dụng của tự do trong đời sống hàng ngày là điều kiện ban đầu để con người tiếp cận với tự do. Nhưng để sử dụng tự do, biến tự do thành công nghệ phát triển trong đời sống hàng ngày thì con người cần có thể chế xã hội thuận lợi cho quá trình đó, tức là một thể chế có khả năng pháp chế hóa các quyền tự do. Có thể khẳng định rằng không có thể chế nào khác ngoài thể chế dân chủ có khả năng đó. Xây dựng nền dân chủ là xây dựng một thể chế để đảm bảo quyền tự do cho con người. Chính vì vậy, phấn đấu xây dựng nền dân chủ là nhiệm vụ sống còn của mọi quốc gia, nhất là đối với các quốc gia chậm phát triển.
Trong thời đại hiện nay, toàn cầu hóa là một cơ hội vô cùng thuận lợi cho các quốc gia chậm phát triển để phấn đấu cho nền dân chủ. Chúng ta đều biết rằng, trong thời đại toàn cầu hoá, sức cạnh tranh của một quốc gia là năng lực chủ yếu để quốc gia ấy tồn tại và phát triển. Sức cạnh tranh của một quốc gia phải được xây dựng trên nền tảng sức cạnh tranh của mỗi cá nhân. Mà đối với mỗi cá nhân, các quyền tự do là những điều kiện vô cùng quan trọng để tạo ra năng lực, tạo ra sức cạnh tranh. Chính vì vậy, đây là thời đại mà đòi hỏi về dân chủ trở nên thúc bách hơn lúc nào hết và do đó, dân chủ hoá đã trở thành xu thế tất yếu không thể cưỡng lại trong đời sống chính trị toàn cầu hiện nay.
Cần phải thừa nhận một cách dứt khoát rằng công nghệ phát triển của thời đại chính là tự do, dân chủ. Các dân tộc kém phát triển phải thừa nhận tự do, dân chủ là khuynh hướng chính trị chủ đạo của thời đại toàn cầu hoá. Không thể có một lựa chọn nào khác cho các dân tộc này. Trước đây, người ta có thể an phận thủ thường hay dùng các phép thắng lợi tinh thần để giải thích sự nghèo khổ của mình nhưng ngày nay không thể tiếp tục sự giải thích như thế được.
Một sự lựa chọn khác chỉ có thể xảy ra trong thời đại mà các quan hệ toàn cầu không được xác lập hay không được cưỡng bức xác lập nên người ta có thể trốn tránh, tức là người ta có thể ngủ yên không phát triển hoặc không cần phát triển. Như đã phân tích, trong thời đại toàn cầu hoá, con người không thể an phận thủ thường được nữa vì họ sẽ bị kích động tâm lý trong sự so sánh với những cộng đồng khác và thậm chí, đối với những người lấy sự an phận làm giá trị cơ bản trong cấu trúc đời sống tinh thần thì sự an phận ấy cũng bị tước đoạt mất. Chính vì không thể trốn tránh sự phát triển nên con người không thể trốn tránh nền dân chủ. Trong thời đại này, dân chủ hoá không phải là những đòi hỏi chính trị nữa mà là những đòi hỏi phát triển. Những đòi hỏi phát triển không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan rằng phát triển hay không phát triển mà nếu không phát triển thì sẽ suy thoái và tiêu vong.
Có thể thấy rằng càng ngày chu kỳ thay đổi các khuynh hướng chính trị trên thế giới càng ngắn lại, cho nên tính cơ hội chính trị trong các đảng cầm quyền ở các nước phi dân chủ ngày càng bộc lộ rõ hơn. Chính vì vậy, không còn bất cứ cơ hội nào cho những nhà chính trị cố tình khất lần không xây dựng nền dân chủ. Họ không thể không hiểu hậu quả của việc khất lần dân chủ, không thể không biết toàn bộ nền kinh tế sẽ bị tụt hậu như thế nào, không thể không biết nền văn hoá sẽ thoái hoá như thế nào nếu kéo dài quá lâu sự thiếu dân chủ. Các nhà chính trị đó cần hiểu rằng dân chủ hoá là cách duy nhất để chấm dứt sự chậm phát triển và nghèo khổ. Trong thời đại mà dân chủ đã là khuynh hướng thắng thế thì việc khất lần tiến trình dân chủ hoá sẽ đẩy nhân dân đến chỗ bần cùng trong con mắt của cộng đồng quốc tế, làm cho đất nước thua kém trong quá trình cạnh tranh. Nếu không tiến hành dân chủ hoá, các quốc gia này sẽ ngày càng đắm chìm vào tầng dưới của đời sống quốc tế, và đến một lúc nào đó khi ngẩng lên, họ sẽ thấy cả dân tộc mình biến thành kẻ tụt hậu của tiến trình phát triển, hay nói cách khác là đi giật lùi đến tương lai của mình.
Chúng ta không thể tìm lại tự do hoặc đấu tranh với những mặt tiêu cực một cách bản năng thông qua những cuộc bạo động hay những cuộc cách mạng bởi điều đó sẽ tạo ra tình trạng hỗn loạn và những sự trả giá không đáng có. Con người cần và phải thu xếp những hành động bản năng của mình một cách có giáo dục bằng những cuộc cải cách và đó cũng chính là sự phát triển của tự do. Điều đó cũng giống như con người cần và phải cố gắng giữ sạch từng phần trong không gian tinh thần của mình để tổ chức cuộc sống, bởi đó chính là sự phát triển.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét