Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2014
Nghĩ về văn hóa tâm linh và tín ngưỡng ngày nay
08:22
Hoàng Phong Nhã
No comments
Như vậy, sự phát triển đích thực về “Văn hóa tâm linh”
là đồng nghĩa với hành động hướng vào một nếp sống có ý thức giác ngộ,
có nhận chân được mọi sự vật hiện tượng, có chế ngự được khổ thọ và lạc
thọ (dục lạc) không bị các lợi dưỡng chi phối, có sự tỉnh giác về
Thân-Khẩu-Ý, có nhu nhuyễn về sự tu tập, vượt thoát khuôn sáo bên ngoài,
tự mình có tu tập, hướng dẫn người biết tu tập, tự mình an hòa, giúp
người được pháp an hòa.
Những kẻ không thấy đời…”
Subha.
Cho dù ngày nay với tốc độ chuyển biến
của xã hội như thế nào đi nữa, con người có lao vút ào ạt vào quỷ đạo
khát vọng nhiệt cuồng, thậm chí đánh mất phẩm chất nhân tính bởi những
dục tính thế nào đi nữa ! Thì lời dạy của Đức Phật, của những bậc giác
ngộ, những bậc thức giả vẫn luôn được thắp sáng mỗi lúc, mọi thời và mọi
nơi trong cuộc sinh tồn của con người và nhiều sinh loại khác.
Thế nhưng từ bao thuở xưa xa cho đến tận
bây giờ, số đông con người vẫn miệt mài, nôn nã, ước vọng đi tìm kiếm
hạnh phúc cho riêng mình, để rồi có được chăng, chỉ là bao mơ hồ huyền
hoặc của lớp khói sương phù phiếm mà thôi, bởi sự tham cầu vô vọng, do
niềm tin được thông qua sự sợ hãi, do tầm cầu để được thỏa mãn các dục
lạc. Và nếu như bao hình thức cả nội dung ấy vẫn còn duy trì một cách
đắm đuối, thiết nghĩ cũng lắm nỗi mịt mù, mục nát cho hướng nẻo tương
lai trong cuộc tử sinh nầy. Mà tác nhân đứng phía sau đó là một vài đạo
sư, đạo sĩ, đạo nhân, nhân danh, tư tách, thậm chí còn cho là bổn phận
từ cõi nầy cõi kia đến để cứu đời với bao hình thức cầu nguyện, bùa chú,
phép linh mầu nhiệm.v.v…
Ngày nay, đứng trước bao hiện cảnh trong
cuộc sống, chúng ta thường cho rằng thời đại phát triển khoa học, tầm
vóc vĩ đại và văn minh của nhân loại, thậm chí còn cho rằng : “văn hóa, văn minh tâm linh”
hô hào tuyên truyền những tính đặc thù vượt thoát siêu hóa đến cộng
đồng loài người, thế nhưng thực chất, có việc lại đi lùi lại sự tiến bộ
văn hóa, văn minh đạo lý tâm linh ấy một cách cực kỳ nguy hiểm đến mức
đáng được báo động hơn bao giờ hết, đó là vấn đề tín ngưỡng. Đến đây,
chúng ta cùng nghĩ và đề cập đến lỉnh vực tinh thần đạo lý của Đức Phật
cũng như hiện tượng gọi là văn hóa tâm linh tín ngưỡng đang sinh hoạt trong tổ chức Phật giáo hiện nay (ở góc độ hẹp).
Từ xa xưa, tín ngưỡng được thổi vào loài
người bằng niềm tin đa thần giáo, rồi kế đến nhất thần giáo… mãi về sau
cho đến thời kỳ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện, thì được Ngài chủ
xướng bằng một ý thức giác ngộ, nhận diện, minh triết qua mọi hiện tượng
và các pháp sanh diệt, khám phá và tuyên bố chân lý thâm diệu sau khi
chứng nhập quả vị tối thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đó là bốn chơn lý
cao thượng Tứ Thánh Đế hay còn gọi là Tứ Diệu Đế, được Đức Phật mở đầu công bố vào thế gian tại vườn Lộc Uyển (Isipatana) và cũng chính nơi đây giáo pháp và tăng già được Đức Phật thành lập.“Cửa bất tử đã mở, cho những ai chịu nghe…” (Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ I).
Như đã được đề cập ngay từ đầu “chúng sanh chìm bùn dục, những kẻ không thấy đời…” (Subha). Vì rằng : không thấy được hiện tượng Sanh, Già, Bệnh, Chết bị chi phối bởi Vô thường, Khổ, Vô ngã…đến với các loài hữu tình, và Thành, Trụ, Hoại, Không… đến với không gian và thời gian… Đồng thời, cũng không rõ biết được những pháp thiện và pháp bất thiện,
không thấy sự nguy hại, tàn phá khốc liệt đưa đến nhiều khổ đau, đọa xứ
ác thú địa ngục ngay trong hiện tại. Đó là vô minh, đó là “không thấy đời”, vì họ đã chìm đắm trong những lạc thú thấp kém thường tình và đầy dẫy tội lỗi từ nơi Thân, Khẩu, Ý tạo tác từ hiện đời hay trải qua nhiều đời trong lộ trình sinh tử.
Một điều nữa, chúng ta có thể hiểu thêm rằng : “không thấy đời…”
không chỉ riêng cho một ai, dù có hình thức tín ngưỡng hay không hình
thức tín ngưỡng, dù người tu xuất gia hay người tu tại gia, mà là do
hành xử trong cuộc sống không phù hợp với lý tính đạo đức, không có tâm
xã ly, không khắc phục những ác hạnh dục tham nơi thân và tâm, hại mình
và hại người, không cảm thông và thương tưởng đến mọi người, mọi tầng
lớp, nhất là tầng lớp chịu nhiều bất hạnh trong gia đình, xã hội và kể
cả trong một đất nước, chỉ biết phục vụ lợi dưỡng cho bản thân, cho
người của mình, không biết chia sẻ sâu sắc từ những cảm thọ thuộc về khổ thọ
của con người qua nạn đói nghèo, chiến tranh tàn phá cướp giựt, thiên
tai đói rét và chết chóc, những bất công đàn áp, cậy thế lực quyền hành
hay giàu có.v.v… Đồng thời, qua những điều đó nếu chính mình là một phần
nhân tố, nếu chính mình đem đến hệ quả hay cộng sự với hệ quả…, không
có sự thương tưởng tốt đẹp phù hợp với lý tính đạo đức, để có được an
lạc lâu dài từ thân và tâm, không làm hại mình và người. Thời như vậy là
kẻ “không thấy đời…”. Chúng ta có dịp đọc những lời thơ tự nhận nơi chính mình, như :
“Ta cứ chạy hoài
Qua những bước đời say men
Qua những ước mơ trắng màu ký ức
Qua những dấu hỏi trầm lên khuôn mặt
Ta chạy đuổi một đời
Không tới đích.”
Ta cứ chạy, rượt đuổi, tầm cầu vô vọng bởi những niềm tin được tẩm ướp bằng chất liệu dục tưởng
thì biết bao giờ mới có sự yên vui đích thực ngay trong hiện tại, nơi
mà chúng ta đang có mặt. Chúng ta hoàn toàn vuột khỏi tầm tay hay không
với được do tầm tay, bởi những ký ức quá khứ lừa gạt, bởi những vị ngọt
ảo huyền chứa đầy chất độc thời gian hứa hẹn, để rồi từ đó sân tưởng và hại tưởng phát
sinh, ác hận phát sinh sẽ đưa đến đau khổ đọa lạc tái sinh. Như vậy,
không phải chỉ chạy đuổi một đời mà còn băng qua nhiều đời, không tìm
đâu đích điểm để dừng cuộc phiêu bạt bao nẻo luân trầm. Từ đây, chúng ta
mới thấy lời dạy tuyệt diệu nơi Đức Phật : “…Do nhàm chán, vị ấy ly tham. Do ly tham, vị ấy giải thoát…” (Kinh Tương Ưng IV).
Như vậy, từ hình thức tín ngưỡng sẽ biến thành niềm tin đúng pháp,
tin vào sự vấn thân và thành tựu của Đức Phật, tin vào những năng lực
Diệu Pháp mà Đức Phật đã trình bày, và tin vào những đệ tử của Đức Phật
đã thực tập để được đắc nhập vào Thánh hạnh, đem lại sự tươi mát, an lạc
hạnh phúc cho chúng sanh, chư thiên và loài người, niềm tin đó sẽ hóa
giải khổ đau, sẽ đem lại lạc trú hiện tại. Đồng thời niềm tin phải luôn
được nuôi dưỡng bởi có sự tu tập Giới-Định-Tuệ.
Ngày nay trong cũng như ngoài nước,
chúng ta thấy có nhiều nơi vận động, kêu gọi tổ chức, thiết lập đàn
tràng, lễ cầu nguyện, lễ chiêm bái khá phổ biến, nếu không nói đó là
hình thức “cành lá phạm hạnh”. Gần đây, lễ chiêm bái xá lợi, và
lễ chiêm bái Phật Ngọc Thế giới cũng đã được diễn ra nhiều năm qua, có
nhiều nơi đăng ký tổ chức như; tại các Tự viện, Tịnh xá... Xét thấy việc
tổ chức chiêm bái nói trên nhằm để mọi người đệ tử Phật và mọi giới
trong xã hội đến với lòng kính tin, đến do phát khởi tín tâm (thiện),
đến để trưởng dưỡng bồ đề tâm, tự mình rõ biết và hộ trì chánh pháp,
giúp người rõ biết và hộ trì chánh pháp, điều ấy rất phù hợp tinh thần “sứ giả Như Lai”.
Nhưng nếu trái lại, nó sẽ có tác dụng ngược cho cả hai chúng đệ tử
(xuất gia và tại gia), nhất là Ban tổ chức. Đối với người tổ chức nếu
ngoài mục đích trên, sẽ bị lạc mất quỉ đạo, chệch hướng đi khi thực hiện
việc làm hiện hóa Đức Phật vào đời, điều nầy (có lỗi
với Tam Bảo), đối với người tại gia, số đông sẽ chỉ biết dựa dẫm vào
niềm tin để cầu nguyện, không hiểu được ích lợi của sự tu tập để chuyển
hóa tâm hồn, hướng cầu dứt trừ chướng nghiệp ác quấy về thân-khẩu-ý ,
tích tụ công đức lành ngay trong hiện tại.
Như vậy, sự phát triển đích thực về “Văn hóa tâm linh”
là đồng nghĩa với hành động hướng vào một nếp sống có ý thức giác ngộ,
có nhận chân được mọi sự vật hiện tượng, có chế ngự được khổ thọ và lạc
thọ (dục lạc) không bị các lợi dưỡng chi phối, có sự tỉnh giác về
Thân-Khẩu-Ý, có nhu nhuyễn về sự tu tập, vượt thoát khuôn sáo bên ngoài,
tự mình có tu tập, hướng dẫn người biết tu tập, tự mình an hòa, giúp
người được pháp an hòa.
Có thể nói ; đó là kẻ thấy đời,
không bị chìm trong bùn dục. Mà cũng là sự cộng hưởng tịnh hóa vào
nguồn mạch tâm linh của Chư Phật, của những bậc Thánh, và Chư Tổ, bậc
giác ngộ tự ngàn xưa cho đến ngàn sau. Đến đây, để kết thúc bài viết
nầy, chúng ta cùng đọc lại lời dạy của Bồ Tát Shantideva (Tịch Thiên)
như sau : “ Nếu không biết tâm nầy, bí yếu của tất cả Phật Pháp, thì
dù có mong muốn thoát khổ và được an vui, rốt cuộc vẫn phiêu bạt trong
ba cõi một cách vô nghĩa” (Trích: Nhập Bồ Tát Hạnh).
MẶC PHƯƠNG TỬ (VĂN CHƯƠNG VIỆT)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét