Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
|
Ung
thư là một nhóm bệnh hoặc căn bệnh được di truyền và khiến tế bào trong
người thay đổi và tăng số một cách không thể kiềm chế được. Nhiều loại
tế bào ung thư trở thành một đống gọi là bướu. Tế bào ung thư độc có thể
xâm lấn vào những mạch máu và bạch huyết, và lan tràn qua những bộ phận
khác của cơ thể và từ đó tiếp tục mọc lớn và cản trở những cơ năng bình
thường của bộ phận đó.
Ung thư gan gồm có hai loại, một loại bắt nguồn từ gan (gọi là ung
thư gan hạng nhất) và một loại bắt nguồn từ những bộ phận khác trong
người và tràn đến gan (được gọi là ung thư gan di căn hoặc ung thư gan
hạng nhì). Ung thư gan hạng nhất bắt đầu trong gan, bộ phận lớn nhất
trong thân thể mình. Những chức vụ của bộ phận gan gồm có:
- Tích trữ vi-ta-min và chất dinh dưỡng
- Trao đổi chất dinh dưởng trong cơ thể
- Kiểm soát mức đường trong máu
- Phát xuất yếu tố đông máu
- Khử hoạt tính của thuốc độc và những hoá chất khác
Ung thư biểu bì tế bào gan (Hepatocellular carcinoma, HCC)
HCC, vẫn được gọi là hepatoma, là loại bướu độc thông thường nhất của
ung thư gan hạng nhất. Tuy rằng HCC hiếm có đối với đa số người dân Hoa
Kỳ và Âu Châu, nó chính là một trong 3 nguyên nhân lớn nhất khiến người
chết vì ung thư trong nhiều quốc gia Á Châu và Phi Châu. Tài liệu từ Tổ
Chức Y Tế Thế Giới (World Health Organization) cho biết rằng ít nhất là
550,000 người chết hàng năm vì HCC, 75% (khoảng 400,000) của số đó là
dân của những quốc gia trong vùng Đông Nam Á Châu và dọc theo bờ Thái
Bình Dương. Cở chừng 80% của những trường hợp ung thư gan là vì gan của
bệnh nhân bị nhiễm siêu vi khuẩn viêm gan B (HBV) kinh niên từ lúc còn
bé (đây chính là trường hợp của nhiều người gốc Á Châu có viêm gan B),
phần còn lại là bởi vì nhiễm siêu vi khuẩn viêm gan C.Trung
Tâm Kiềm Chế và Đề Phòng Bệnh (Centers for Disease Control and
Prevention) cho biết rằng sự bất đồng sức khỏe lớn nhất giữa người Mỹ
gốc Á Châu và người Mỹ trắng là ung thư gan. Chích ngừa để phòng chống
viêm gan B có thể ngăn cản ung thư gan trong 80% người gốc Á Châu ở Hoa
Kỳ và khắp thế giới.
Triệu chứng
Ung thư gan được gọi là sát thủ âm thầm vì đa số bệnh
nhân vẫn cảm thấy khỏe mạnh và không có dấu hiệu hoặc triệu chứng.
Những đống bướu nhỏ không có thể tìm được qua cách mò vì vị trí của gan
nằm dưới xương sườn và vì thế bị che khuất. Sự đau nhức thường không có
thể cảm giác được cho đến lúc đống bướu đã mọc lớn, và một số bướu không
gây đau nhức hoặc những triệu chứng khác cho dù nó đã to lớn. Thêm một
nguyên do rắc rối nữa là mức mọc của một số loại ung thư gan. Những giai
đoạn chót của ung thư gan, lúc nó đã to lớn hoặc lúc nó gây trở ngại
cho những cơ năng của gan, có thể sanh ra những triệu chứng rõ ràng như
đau nhức trong vùng trên phải của bụng, giảm cân, ăn không ngon miệng,
và cuối cùng là mắt và da bị vàng thêm (bệnh hoàng đản) và bụng bị phồng
lên. Sự chẩn đoán lúc đã quá muộn có thể giải thích tại sao bệnh nhân
chỉ có thể tiếp tục sống trung bình 3-6 tháng sau khi bệnh đã được phát
hiện, và tại sao y giới thường hoài nghi lúc đề cập đến ung thư gan.
Cách duy nhất để tăng thêm kết quả điều trị chính là chẩn đoán ung thư
lúc còn sớm bằng cách truy tìm ung thư trong những người gốc Á Châu đang
có viêm gan B và trong những người đang bị xơ gan vì nhiễm viêm gan B
hoặc C.
Truy tìm ung thư gan
Một điều quan trọng mọi người phải thừa nhận là tất
cả những người gốc Á Châu có viêm gan B vì bị nhiễm lúc còn trẻ có nguy
cơ cao đễ phát triển bệnh ung thư gan cho dù họ có xơ gan hay không.
Nguy cơ này cao hơn trong những người đàn ông và những người nào có ung
thư gan di truyền trong gia đình. Mọi người đồng ý rằng vấn đề truy tìm
ung thư gan thường xuyên rất là quan trọng cho những người gốc Á Châu có
viêm gan B, nhưng công việc này đối với những người Mỹ trắng đã bị
nhiễm lúc đã lớn tuổi hiện vẫn đang gặp nhiều tranh luận. Tuy rằng những
bệnh nhân gốc Á Châu có thể phát bệnh ung thư gan vào lúc đang còn tuổi
thanh niên, tài liệu từ Hoa Kỳ cho biết rằng sự nguy cơ phát triển ung
thư gan bắt đầu lên cao vào khoảng 30 tuổi. Một cách hợp lý để đối phó
tình trạng này là bắt đầu thường xuyên truy tìm ung thư gan bắt đầu vào
lúc 30-40 tuổi nếu bệnh nhân là người gốc Á Châu. Việc truy tìm đại khái
gồm có một cuộc thử máu để xem xét mức alpha-fetoprotein (AFP) cách mỗi
6 tháng và siêu âm gan mỗi năm một lần (Tại Đài Loan, bệnh nhân nên
được siêu âm mỗi năm hai lần). Chỉ một trong hai cách thử nghiệm riêng
có thể khiến chẩn đoán sai lầm. Mức alpha-fetoprotein chỉ lên cao trong
60-70% trường hợp ung thư gan, vì thế chỉ thử máu riêng thôi sẽ bỏ sót
30-40% trường hợp ung thư gan. Siêu âm có thể bỏ sót 20% của những
trường hợp ung thư gan chưa tới 2 cm, nhất là khi việc phân tích hình
siêu âm khó khăn vì gan bị xơ hại. Sau khi phát bệnh xơ gan, bệnh nhân
nên được truy tìm thường xuyên.
Ước định tình trạng ung thư gan
Siêu âm cho gan hoặc xem xét bằng CT thường có thể
được áp dụng để chẩn đoán HCC, nhưng hai cách này thường không có đủ độ
nhạy bén để có thể nhận ra những vết thương tổn nhỏ có nhiều tiêu điểm
hoặc để áp dụng trong kế hoạch điều trị. Chủ yếu là sự ước định kỹ lưỡng
ở vùng bụng qua cách xem xét bằng máy CT xoắn ốc với hai phương diện.
Máy CT xoắn ốc nhanh lẹn này có năng lực để dò xét gan dưới phương diện
động mạch không lâu sau khi bệnh nhân được nhận thức phẩm trong tĩnh
mạch để làm chất tương phản. Các cục bướu thường hay thâu nhận chất
tương phản và vì thế ngay cả các cục bướu chứa đựng nhiều mạch máu vẫn
có thể nhận thấy được. Những cục bướu loại này thường bị bỏ sót nếu dung
kỷ thuật CT thông thường và máy dò xét chậm chạp. Một vết thương tổn
chứa đựng nhiều mạch máu được thấy rõ ràng dưới phương diện động mạch mà
lại phai đi dưới phương diện tĩnh mạch trong lúc dò xét là đặc tính của
HCC. Người Á Châu nào mang bệnh viêm gan B và có loại bướu này trong
gan, hoặc bệnh nhân nào bị xơ gan liên quan với mức AFP tăng lên (hoặc
một mức quá 500), là tương đương với sự chẩn đoán bệnh HCC và không cần
dùng cách sinh thiết để kiểm lại và xác định. Cách sinh thiết dùng kim
nhỏ dưới da có thể được áp dụng trong trường hợp sự chẩn đoán giữa bướu
ung thư gan hạng nhất hoặc ung thư gan di căn không được chắc chắn, dưới
điều kiện là thí nghiệm này có thể được thực hiện một cách an toàn. Sự
chảy máu sau khi thử nghiệm sinh thiết có thể đe dọa đến sinh mạng nếu
bệnh nhân bị xơ gan và có số lượng tiểu cầu thấp, thời gian đông máu kéo
dài, và mạch máu mở rộng vì tăng áp suất (tăng huyết áp mạch cửa). Đại
khái, vết thương tổn gan loại di căn rất hiếm có trong những bệnh nhân
bị xơ gan.
Điều trị HCC
Điều trị cho ung thư gan được gặp nhiều thách thức so
với những loại ung thư khác vì ngoài căn bệnh, gan của nhiều bệnh nhân
đã bị thiệt hại do bệnh viêm gan kinh niên gây đến xơ gan hoặc suy nhược
gan. Ðiều trị cho bệnh ung thư gan mà lại không chú ý đến tình trạng
bấp bềnh của bộ gan có thể khiến bệnh nhân chết sớm hơn. Nhiều bệnh nhân
có bộ gan yếu đến nỗi họ có nhiều nguy cơ chết vì hư gan hơn là chết vì
có ung thư. Cho mỗi bệnh nhân, những lợi ích của các cách trị liệu phải
được so sánh và cân bằng với nguy cơ hư gan và cách tình trạng ấy có
thể ảnh hưởng đời sống của họ. Tại trường đại học Stanford, một phương
hướng mới đã được chọn để cho những bệnh nhân nào có bướu trong gan có
thể được khám xét bởi một nhóm chuyên gia tại Trung Tâm Kỷ Luật Gan/Ban
Bướu để bàn cách điều trị bướu và những căn bệnh gan hoặc viêm gan.
Những cách trí liệu mới cũng được khám xét. Tất cả các bệnh nhân được
điều trị sẽ được theo giỏi lâu dài và được ghi tên vào hệ thống đăng ký
điện tử của trường Stanford.
Ðiều trị bằng cách giải phẫu
Lúc cục bướu vẫn còn nhỏ hoặc cho rằng có thể cắt bỏ
được, và tình trạng của gan của bệnh nhân có đủ năng lực để trải qua
cuộc giải phẩu, thì cách giải phẩu cắt bỏ là cách hữu ích nhất để cho
bệnh nhân sống lâu dài. Sự cải tiến trong ngành giải phẩu và cách điều
khiển thuốc mê đã tăng tỷ lệ sống sót và hạ nguy cơ thiệt mạng trong
thời gian giải phẩu xuống còn ít hơn 2-5% dưới sự điềi trị của y sĩ kinh
nghiệm, và đa số bệnh nhân có thể dời bệnh viên sau 5 ngày. Tuy rằng
cục bướu đã được cắt bỏ hoàn toàn, bệnh nhân vẫn có nguy cơ rằng căn
bệnh sẽ tái phát, và họ cần phải luôn luôn được kiểm tra kỹ lưỡng, nhất
là trong năm đầu tiên, lúc nguy cơ tái phát bệnh được cao nhất.
Ðiều trị ngoài cách giải phẫu
Cho những bệnh nhân nào không có đủ điều kiện để được
cắt bỏ bướu vì lý do sức khỏe hoặc cơ thể, một số cách điều trị khác,
tuy ít hiệu lực, đang được có sẵn hoặc đang được nghiên cứu để tìm cách
kiềm chế căn bệnh lâu dài và với mục đích gìn giữ lối sống bình thường
của bệnh nhân. Sự điều trị cho những bệnh nhân này phải tùy theo tình
trạng của bệnh nhân, tình trạng của gan, và mức phát triển của căn bệnh.
Hoá liệu pháp thông thường đại khái có hiệu lực thấp, khiến rất nhiều
tác dụng thứ yếu có thể giảm bớt phẩm chất của đời sống bệnh nhân, và
thường không có thể kéo dài đời sống cho bệnh nhân. HCC là bướu chứa
đựng nhiều mạch máu thường được tiếp tế bởi những nhánh của đường đông
mạch trong gan. Tài năng của chuyên gia can thiệp bằng tia X để đi thông
qua những đường mạch này và đưa ống thuốc chính xác đến những nhành này
cung cấp cho chúng ta một cách để nhắm liệu pháp trực tiếp vào đống
bướu. Cách điều trị dùng hoá chất để chấn động mạch hoặc đổi máu với
nước biển trong tĩnh mạch (TACE hoặc TAC) của gan thường được dùng bởi
chuyên gia can thiệp bằng tia X tại Á Châu và đã được áp dụng bởi Phòng
Mạch Gan Toàn Diện tại Stanford trong bốn năm qua để chữa trị một số
bệnh nhân có vết tổn thương không có thể cắt bỏ được. Tuy rằng cách chữa
trị này chỉ dùng để điều trị dưới những điều kiện rất khó khăn và kỷ
lưỡng để giảm nguy cơ tai hại những phần trong gan không có vết tổn
thương, cách điều trị này không có hợp với những bệnh nhân có dấu hiệu
suy gan (chất đản bạch trong huyết thanh dưới 3 gm/dL, chất sắc tố mật
quá 1.5 gm/dL, và có nước trong bụng gọi là cổ trướng) và những bệnh
nhân có tĩnh mạch cửa bị chận lại. Cho những bệnh nhân có phản ứng tốt,
bệnh nhân sẽ được điều trị mỗi 4 tháng nếu cần thiết cho đến lúc mức AFP
trở lại bình thường hoặc đến lúc hết tìm thấy vết tổn thương. Cách điều
trị này chỉ cần bệnh nhân ở nhà thương qua đêm để theo dỏi và thường có
thể chịu đựng được nếu dùng cách nêu trên. Những cách điều trị lâu dài
với TACE hoặc TAC có liên quan với sự kéo dài đời sống của bệnh nhân, và
trong trường hợp đống bướu được kiểm soát kỷ lưởng hoặc teo rút nhỏ
lại, bệnh nhân có thể được giải phẩu cắt bỏ hoặc ghép gan.
Ghép gan
Ghép gan là một cách điều trị HCC nếu không có thể
áp dụng giải phẩu hoặc những cách y khoa khác để cắt bỏ bướu, dưới điều
kiện là đống bướu còn nhỏ (dưới 5 cm hoặc có ít hơn 4 vết thương tổn),
nằm hoàn toàn trong gan, và không có xâm lấn vào mạch máu. Một bản báo
cáo về một cuộc nghiên cứu bởi Trung Tâm Gan Á Châu tại Trường Đại Học
Stanford cho thấy rằng những bệnh nhân nào có phản ứng tốt với TACE hoặc
TAC cũng có tỷ lệ sống sót cao sau khi ghép gan. Các đống bướu lớn có
nguy cơ cao để tái phát và bệnh nhân có thể chết sau khi ghép gan. Sau
khi ghép gan, bệnh nhân phải được tiếp nhận huyết cầu miễn dịch viêm gan
B (HBIG) hoặc lamivudine, hoặc cả hai, để ngăn ngừa sự lây nhiễm HBV
trong gan mới. Điều trị ung thư gan vẫn là một vấn đề rất là khó khăn và
cần sự thấu hiểu trong rất nhiều ngành, gồm bệnh ung thư gan, cách chẩn
đoán bằng tia X, giải phẩu, ghép bộ phận, và những căn bệnh liên can
với gan. Sự chẩn đoán những đống bướu nhỏ lúc còn sớm là cách hữu ích
duy nhất để tăng thêm kết quả điều trị ung thư gan, và trường hợp này
chỉ có thể xảy ra qua sự truy tìm trong những dân số có nguy cơ cao.
Theo Trung Tâm Gan Á Châu - Đại học Stanford/
ungthubachmai.com.vn
0 nhận xét:
Đăng nhận xét