Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Sáu, 26 tháng 12, 2014

NGƯỜI LÀM CHO VATICAN RUN SỢ

Bản dịch của Trần Văn Kha
                             

 

Giới thiệu và nhận định.

Người ấy là ai mà ghê gớm thế? Có phải là một tên khủng bố? Không! Người ấy là Eugen Drewermann, một nhà thần học của Gíao Hội Ca-tô Rô-ma. Ông không bị nhồi sọ điều kiện hóa, và là người trong cuộc nên nhìn thấy rõ là Gíao Hội của ông không phục vụ cho hạnh phúc của tín đồ mà chỉ tìm cách điều kiện hóa tín đồ, biến họ thành lòai vật, thành con chiên để thủ lợi.

Ông cho rằng Gíao Hội của ông: “là một thế lực khai thác những sự ngu xuẩn nhất và những mê tín bẩn thỉu nhất, để phục vụ cho những lợi ích thô bạo nhất”.

 (Un pouvoir qui exploite, au service de ses intérêts les plus grossiers, les pires stupidités et les superstitions les plus crasses. “Dieu en Toute Liberté”, Eugen Drewermann, page 48).

Ông cũng còn bảo, Gíao Hội đã biến Thượng Đế thành công chức của Gíao Hội, “dưới bóng của Giáo hội tự coi như tuyệt đối, những con người, theo nguyên tắc, chỉ còn lại một giá trị tương đối: hoặc là bị bắt buộc phục vụ Thượng đế dưới quyền giám sát của Giáo hội, hoặc là trỡ thành có hại; xét cho kỹ, giá trị của họ là cái phần của chính họ mà họ dâng lên một Thượng đế đã bị biến đổi thành công chức của Giáo hội”.

 (Dans l’ombre d’un ministère ainsi posé en absolu, les êtres humains n’ont plus,  par principe, qu’un caratère relatif: ils sont ou bien assujettis au service de Dieu sous les espèces de l’Eglise, ou bien objectivement nuisibles; tout bien considéré, leur seule valeur réside dans la partie de leur moi propre qu’ils délèguent à un Dieu transformé en fonctionaire de l’Eglise.- Dieu en Toute Liberté, page 18).

 


 

  Sau 20 năm đi tu, bị giáo dục điều kiện hóa, nhưng không bị điều kiện hóa, đã cởi bỏ chiếc áo chùng thâm, và nhận định về cái Gíao Hội ấy của ông, với những lời lẽ kết án nặng nề: “Tôi kết tội Giáo hội (cơ quan, hiểu ngầm) đã sử dụng con người như là những dụng cụ cho quyền hành của họ. Tôi không phiền trách bất cứ ai trong số những người đó, riêng từng người một. Họ là những người tù của một chế độ, của một học thuyết dã man nhất mà nhân loại đã sản xuất ra”.

"J'accuse l'Eglise (institutionnelle, sous-entendu) d'utiliser les hommes comme des instruments au service de son pouvoir. Je n'en veux à aucun de ces hommes, pris  un à un. Ils sont captifs d'un système, de l'idéologie la plus meurtrière que l'humanité ait sécrétée" .

 “Tôi kết tội Giáo hội đã dùng sẻng để xúc vất đi cái gì tốt đẹp nhất, mong manh nhất trong chúng ta, và vô lý nhất, đã xúc vất đi lý tưởng, nhu cầu của chúng ta về cao thượng, thẳng thắn, trong sạch”.

 (J'accuse l'Eglise de puiser à la pelle dans ce qu'il y a de plus beau, de plus fragile en nous et de plus dérisoire, l'idéalisme, notre besoin de noblesse, de droiture, de pureté). 

 

Chúng tôi cũng đã víết, «Giáo Hội Ca-tô không sợ bất cứ một chính phủ nào,  một quân đội nào, hay một thứ bom nào, nhưng vì sống bằng lừa gạt, mê tín dị đoan, nên rất sợ sự thật». Sức mạnh của Gíao hội Ca-tô với khỏang một tỉ tín đồ không phải là vũ trang, mà là niềm tin. Không thể lấy súng bắn vào niềm tin để tiêu diệt niềm tin. Chỉ có tư tưởng mới tiêu diệt được tư tưởng. Tư tưởng không nổ đánh đùng một cái như bom làm chết người, nên ai cũng sợ.

 Tư tưởng chỉ ngấm ngầm tác động nhưng mạnh hơn bom không biết bao nhiêu lần, nên người ta coi thường, không biết rằng tư tưởng điều hành mọi sinh họat, từ cá nhân cho đến quốc gia và thế giới. Hòa binh hay chiến tranh đều do tư tưởng quyết định.

Nó cũng đã có thể làm cho hàng tỉ người vui lòng nhận mình làm súc vật, thành con chiên, để cho người chăn chiên cầm gậy chăn dắt, dẫn đi đâu nó đi đó, bảo sao nó nghe vậy. Chỉ với ước mơ hão được lên cái thiên đàng mà Con Trời G John Paul II bảo là không có ở trên mây.

 Nếu Gíao hội Ca-tô đã có thể lừa gạt được như thế, thì sự thật cũng có thể giải thoát cho họ, để họ trở lại làm người. Sách của Eugen Drewermann bán ra cả triệu cuốn, một triệu người đọc, hay có thể hơn, thì hàng triệu người thóat khỏi cơn mê, tỉnh ngộ, bỏ đạo. Vatican/Rô-ma run sợ vì thế.

 

Trần văn Kha

20 Tháng 11, 2012







Mời đọc thêm các bài mới của tác giả :   Ai đi buôn Thượng đế ? - Trần Văn Kha  

 Nhận định cuộc đời - Trần Văn Kha

Bài viết dưới đây là của Cụ Trần Văn Kha, 92 tuổi, một thân hữu kỳ cựu của Giao Điểm, và hiện đã về dưỡng già tại Việt Nam ...





 



Sau đây là bản dịch, với nguyên văn tíêng Pháp đính kèm. (Tác giả : Robert Serrou, Denis Trierweiler, phóng viên Paris-Match ; Trần văn Kha dịch Việt)

 



Người làm cho Giáo hội Vatican run sợ

 

Tệ hơn Luther… Nhà thần học Ca-tô này đặt lại thành vấn đề một vài giáo điều. Sách của ông được bán ra cả triệu cuốn. Vatican im lặng. Đối với ông, Kinh thánh là một chuyện thần tiên, Chúa Ki-tô không bao giờ muốn có Giáo hội, và sự Đồng trinh là một huyền thoại. (Robert Serrou, Denis Trierweiler)

 


 

 

Eugen Drewermann, mà Giám mục bề trên cách chức linh mục ở Paderborn, cách xa Kassel 60 cây số, không muốn rời bỏ Giáo hội. Ở bên Đức, linh mục 52 tuổi này trở thành một Luther (1) mới. Giống như nhà cải cách thế kỷ XVI, ông đặt lại căn bản của một vài giáo điều. Trong vòng 15 năm, ông đã cho xuất bản 50 quyển sách với số in không ngờ : 150.000 ấn bản cho công trình cuối cùng nhan đề « Les clers » (Tu sĩ), một quyển sách dày 900 trang, viết về đời sống của linh mục. Là một nhà phân tâm học, ông đặt lại Kinh thánh dưới ánh sáng của chuyện thần thoại, và không chấp nhận, những phép lạ của Chúa Jésus, sự sinh ra đồng trinh, sự Sống lại và Lên trời. Nhưng mà trong lúc này Rô-ma từ chối kết tội người có tà kiến ấy, ông này muốn làm bùng cháy lên một niềm tin mới trên những đổ nát của Giáo hội.

 
 
Cái gì đang xảy ra ở bên Đức là một hiện tượng ngạc nhiên. Trong lúc người ta có thể tin rằng nước này đang bận tâm về (Cộng đồng) Âu-châu, hay sự thống nhất quốc gia, thì họ lại hăng say bênh hay chống một Luther mới, mà luận thuyết không gì khác hơn là sự phê bình căn bản về đạo Ca-tô. Thật ra thì người Đức lúc nào cũng thích những sự tranh luận như thế, nhưng điều này không có nghĩa rằng Giáo hội không bị, cũng như ở những nơi khác bên Âu-châu, một sự mất mát đáng lo ngại : 200.000 người mỗi năm ở bên kia bờ sông Rhin (phía Đông nước Pháp) từ bỏ Giáo hội, điều này có nghĩa là Giáo hội mất đi hàng tỷ (quan Pháp, do tín đồ đóng góp). Thực thế, trong vòng 15 năm cuối cùng, 50% tín đồ không đi lễ nhà thờ ngày Chủ nhật. Nhưng mà Giáo hội (Đức) vẫn còn rất giàu, vì một thứ thuế quốc gia. (Trong đó có tiền nộp cho Giáo hội). « Nên nhớ rằng », người Luther này nói với chúng tôi, « trong lúc này sự tan rã của Giáo hội ở bên Đức chắc chắn là quan trọng hơn sự tan rã của Liên bang Sô viết ».  
Eugen Drewermann là tên vị linh mục Ca-tô, ông ta, cho đến bây giờ, và trái ngược với nhà cải cách nổi tiếng thế kỷ XVI, từ chối rời bỏ Giáo hội. Chẳng thể làm gì hơn, Degenhardt, Tổng Giám mục của ông, bèn ngưng chức linh mục của ông ở giáo phận Saint-George thuộc Paderborn và cấm ông không được dạy học, hay giảng đạo. Ở Rô-ma, tại đó  hình như người ta hiểu rằng những sự buộc tội không bao giờ giải quyết đựơc gì, nên trong lúc này giữ sự yên lặng. Một cuộc thăm dò mới đây in trong « Quick » cho biết là 91% những người được hỏi nghĩ rằng Giáo hội đã sai lầm khi loại bỏ ông, và 50% linh mục thì cho rằng, đối xử như thế với ông là bất xứng.
Mỗi thứ bảy, gần 2.000 « tín đồ » bất chấp lệnh cấm của Tòa Giám mục, đã ùa vào một phòng học của trường Trung học để nghe, trong gần 2 giờ đồng hồ, Eugen Drewermann, một người say mê âm nhạc, ông ta xen kẽ câu chuyện tâm linh để nói về Chopin, Mahler hay Bach. Buổi nói chuyện chấm dứt, ông yêu cầu cử tọa góp tiền giúp đỡ những công tác từ thiện, hay bảo vệ môi sinh. Ông ta không giấu giếm cảm tình của ông đối với Brigitte Bardot, một nhà truyền giáo bảo vệ súc vật (trong đó có cả con chiên) vĩ đại, mà ông ta bênh vực trong quyển sách viết để giải thích những «Truyện» của Grimm.
… Trong lúc này, Drewermann đang viết một chuyện giả tưởng về Giordano Bruno « Cái Gương của Vô Cùng ». Đây là truyện tiểu thuyết viết về những ngày cuối cùng của nhà triết học bị kết án phải chết trên giàn hỏa, dưới thời Phục hưng, bởi Giáo hội, chỉ vì ông đã là người đầu tiên hiểu, và giải thích sự thách đố của Copernic, theo ông này thì Trái đất không là Trung tâm Vũ trụ (và Mặt trời không xoay quanh Trái đất, mà ngược lại).
Ta phải công nhận rằng, dù không đồng ý với những ý kiến mới của ông, Eugen Drewermann có một sự thông minh thuyết phục. Vì đó mà ông thành công. Ông nói rõ ràng, với một giọng nhẹ nhàng nhưng cương quyết. Ở nơi ông không có điệu bộ bề ngoài; biết giới hạn, ông không nói một cách hăng say quá trớn. Ông ta tự chủ tới độ làm cho người ta không thích ông, khi ông noi gương Luther, vận động những người theo ông mang những lời chống đối của ông đến dán ở cửa những nhà thờ. Ông cũng không phiền trách Giám mục bề trên, mà nhiều lắm thì ông chỉ trách rằng, bị ám ảnh bởi sự Đồng trinh của Marie, mà ông thẳng thắn chống lại, không phải để xuyên tạc, hay khiêu khích, nhưng bằng dẫn chứng Lịch sử dựa vào Phân tâm học.
Hãy nói đến niềm tin của ông. Chúa Ki-tô. Về vấn đề này, thì không còn sự nghi ngờ nào. ông muốn là người Ki-tô, dù rằng, tôi xin dẫn chứng lời ông, «rất dễ là ngưòi theo đạo Ca-tô, hay Tin-lành ; trái lại, là người Ki-tô thì gần như không thể được ». (2) Thực ra, điều mà ông chống là việc Chúa Ki-tô muốn có một Giáo hội, và những điều liên hệ: Hệ thống đẳng cấp, phép bí tích, Giáo diều. Về vấn đề này, lẽ dĩ nhiên, người ta biết những biện pháp mà Giám mục bề trên dành cho ông vì ông là linh mục, nhưng ông vẫn muốn giữ chức linh mục như ông xác nhận «để buộc Giáo hội phải phản ứng ». Nhưng không vì thế mà Rô-ma không coi ông là một người có tà kiến. Không phải thế là hết. Ông kết tội Giáo hội là Tối tăm, nhất là về vấn đề luân lý tình dục. Đối với ông, sự độc thân của linh mục, xin nhắc lại chỉ là biện pháp kỷ luật không do Chúa Ki-tô áp đặt, là một sự ngu xuẩn, sự chống thuốc ngừa thai cũng vậy. Về Kinh thánh, ông làm thành một quyển sách bằng hình ảnh, kể chuyện thần tiên rất hay. Những truyện trong sách của ông bắt đầu bằng sự sinh đồng trinh của Chúa Jésus ở Bethleem, theo ông, chỉ là những chuyện thần thoại, nhưng là những thần thoại quan trọng và cần thiết để con người có thể tìm thấy chính họ trong những giấc mơ, và ước vọng của họ. Cũng cùng một lý do đó, ông cho rằng nghệ thuật là một sự lừa gạt, nhưng của những người giúp cho ta hiểu được sự thật. Sự thật gì? Đối với Drewermann, không có gì ngoài Chúa Ki-tô, mà theo ý ông, trước tiên là người kiểu mẫu. Một kiểu mẫu về đời sống và tình thương, trong khi Giáo hội đề cao cái chết của Chúa. Một cái chết mà ông nghĩ là Chúa Ki-tô không bao giờ muốn.
 
« Mỗi cái cây mà ta giết, là một thi sĩ mà ta ám sát »
Hãy trả cho ma quỷ, tội Tổ tông, sự Phán xét cuối cùng, phép Thánh thể, «bởi vì, ông nói rằng, cái ý nghĩ ăn thịt một người và uống máu là một cái gì ghê tởm (3) đối với người Do-thái ». Cả sự Sống lại nữa, nền móng của đức tin Ca-tô. Còn về vấn đề Lên trời, chuyện này nhắc lại việc Chúa Jésus lên trời 40 ngày sau lễ Pâques, ông thẳng tay bác bỏ : «Ông bảo rằng, người ta chỉ có thể hiểu việc Lên trời như là biểu tượng của sự thoát lên trên sự khổ đau của loài người». Và ông thẳng thắn nói thêm : «Người nào nghĩ khác thế, không phải là thể hiện niềm tin, mà là mê tín dị đoan ». Đối với ông, ông còn cho rằng đạo Ki-tô không phải là một tôn giáo mặc khải. Tất cả văn hóa của Nhân loại, từ Phật giáo đến Ấn-độ giáo, và cổ Ai-cập, đều có những biểu tượng giống nhau. Ông nghĩ rằng đạo Ki-tô có nhiều điều phải học hỏi ở Ấn-độ giáo về vấn đề tôn trong thiên nhiên : «Mỗi một cái cây, mỗi một con vật, mà ta giết, là ta ám sát một nhà thơ ». Và ông thêm rằng : «Về phần tôi, tôi thấy rằng giới trẻ chờ đợi ở Giáo hội, ba điều. Một tôn giáo hợp với tâm lý con người, nghĩa là Giáo hội phải ngưng kết tội những đòi hỏi sinh lý, tình dục, xác thân, Giáo hội phải từ bỏ cái thứ đạo đức đàn áp. Giáo hội phải nói một thứ ngôn ngữ thi vị hóa, có lợi ích cho linh hồn con người, và nhu cầu yêu thương, nhưng giáo hội cũng phải có một quan niệm hợp lý về môi sinh. Cuối cùng, tuổi trẻ chờ đợi một văn hóa chung của người tôn giáo, bởi vì, ngày nay, tất cả mọi tôn giáo vẫ tiếp tục ôm chặt lấy truyền thống của họ. Trong tương lai, tôn giáo sẽ toàn cầu, hay là không ». Hãy trả cho ma quỷ những phép lạ của Chúa Jésus, vì đối với ông, nó không phù hợp với khoa học hiện đại.
Tất cả những luận thuyết đó, Drewermann lấy căn bản trong Phân tâm học, và đó là điều mà Vatican phiền trách ông.
… Chúng ta ở chỗ đó. Nhưng rõ ràng rằng sự tranh luận chỉ mới bắt đầu. Sự thành công truyền thông của Eugen Drewermann đặt Vatican vào một hoàn cảnh tế nhị. Cứ để cho Eugen Drewermann tiếp tục phổ biến những luận thuyết của ông có thể đem lại hậu quả đau đớn như một sự rạn nứt mới, một tà giáo thì đúng hơn, dù Drewer-mann cho rằng sự rạn nứt không phải chỉ vì lý do tôn giáo. Đối với ông, sự rạn nứt trước hết là vì chính trị, xã hội, hay luân lý. Kết tội ông thì chẳng khác gì chấp nhận rằng ông có lý về sự độc tài của Giáo hội vì Giáo hội kết tội.    
Tất cả những gì ông nói, lại tỏ ra phù hợp với tâm lý thời đại. Và nếu vì không tìm thấy một ngôn ngữ mới để nói về Thượng Đế, Giáo hội để sự tự do thao túng cho, các giáo phái, những thày phù thủy, và những nhà thần học mà lời nói cám dỗ một thời đại có khuynh hướng chống lại Giáo hội và Giáo điều của Giáo hội. Thực ra, thì rất có hại nếu Vatican/Rô-ma chọn giải pháp kết tội thay vì thảo luận với ông. Đạo Ca-tô không thiếu những người tài giỏi đủ khả năng đương đầu với ông, điều này còn tốt hơn nữa, vì một cuộc thảo luận có thể giúp cho ta điều chỉnh lại cái đồng hồ quả lắc cho đúng giờ. Trong chiều hướng này E. Drewermann đã làm được một việc có ích. Cuối cùng, 400 năm sau thời kỳ « Cải Cách », Vatican đã chẳng tìm cách phục hồi, phong thanh nữa là đằng khác cho Martin Luther? (4). Ông này có nói điều gì hơn điều gì kém Drewermann đâu ?
 
 
---------------
Vatican đã quyết định trừng phạt Eugen Drewermann. (Trích ra từ « John Paul II » trang 469):
- Năm 1991, ông bị cấm không cho dạy học;
- Tháng 1, 1992, không được giảng đạo cho đến khi có lệnh mới;
- Tháng 3, 1992 bị loại ra khỏi đời sống linh mục.
 
Chú Thích.
(1) Luther, Martin (1483-1546) là một người Đức cải cách tôn giáo, sinh ở Eisleben, và được giáo dục tại các trường ở Magdeburg, và Eisenach, và ở Đại học Erfurt.
Năm 1517 khi linh mục dòng tên Johann Tetzel tới Wittenberg bán giấy “tha tội” để lấy tiền xây nhà thờ St. Peter ở Rô-ma, thi Luther viết luận án chống đối. Không những tấn công vào những lạm dụng liên quan tới sự “tha tội”, mà luôn cả lý thuyết căn bản của sự “tha tội”. (Thời Trung cổ, Tòa thánh nắm quyền sinh sát trong tay. Những người can trọng tội, như sát nhân, ngoại tình, đều phải chịu tội, nhưng khi mua giấy “tha tội” thì không bị hành tội).
Vào ngày 31/10/1517, ông mang những luận án chống đối của ông tới dán ở cửa nhà thờ Wittenberg.
Một trong những đề nghị cải cách của ông, là rút 7 phép Bí tích xuống còn 3. (Kinh thánh được bảo là do “Gốt” mặc khải để viết ra, mà người này đòi rút bớt, người kia đòi sửa đổi, thì còn gì là Kinh thánh. Nếu Kinh thánh bảo Trái đất là Trung tâm Vũ trụ, đứng yên một chỗ, và Mặt trời xoay xung quanh Trái đất, thì cũng phả tin. Đức tin vượt lên trên Lý trí. Mà ai không tin, như Giordano Bruno, thì cho lên giàn hỏa. Thế là êm chuyện). 
Năm 1519 Giáo hoàng Leo X ra Nghị định kết tội Luther, cho ông 60 ngày để rút lại luận án, nếu không thì bị loại ra khỏi Giáo hội. Luther công khai đốt nghị định và sách luật của Giáo hội.
(2) “Làm người Ki-tô thì gần như không thể được”. Vì phải sống một đời sống kiểu mẫu, và tình thương như Chúa Ki-tô. Chúa dạy: “Các con sẽ không được giết; Khi ai tát vào má phải thì đưa thêm má kia cho người ta; Thương yêu người như chính mình...”
Làm người Ca-tô hay Tin-lành dễ, vì chỉ cần đi lễ nhà thờ, ăn bánh thánh. Thế là khi chết được lên thiên đàng (mù). Cái vé để lên thiên đàng được đem rao bán với cái giá rẻ mạt.
(3) Phép Thanh thể (Eucharistic) là lễ  “Ăn thịt người và uống máu người”.
Trên thực tế thì chỉ “ăn thịt người, uống máu người” tượng trưng thôi. Bánh thánh thay cho thịt người, rượu thánh thay cho máu người. Nhưng tại sao lại có thủ tục ăn thịt và uống máu người. Kinh thánh bảo đó là Lời Chúa: “Take, eat, this is my body... Hãy cầm lấy, ăn đi, đây là thân thể ta...”
(4) Luther chết cách đây 400 năm, nếu bây giờ Vatican phục hồi và phong thánh cho ông, thì rõ ràng phong thánh chỉ là thủ tục do Rô-ma đặt ra, và được những người trong Giáo hội chấp nhận. Chứ Chúa Jésus không dính dáng gì tới việc phong thánh. Người được Rô-ma phong thánh có thành thánh, hay không? Ở đâu bây giờ? Không ai biết cả?
(Trích ra từ « Phá Ngục Tù » phát hành năm 1997,
từ trang 338 đến 348)
 
 

 
 
 
L’HOMME QUI FAIT
TREMBLER ROME
 
Par Robert Serrou, Reportage Denis Trierweiler
Paris Match No 2234, 19 Mars 1992
 
 
 
Pire que Luther ... Ce théologien catholique remet en cause certains dogmes. Ses livres sont vendus à 1 million d’exemplaires. Le Vatican se tait. Pour lui, la bible est un conte de fées, le Christ n’a jamais voulu d’Église, et la Vierge est un mythe.

 

--------------------

 

Eugen Drewermann, à qui son evêque a supprimé ses fonctions pastorales à Paderborn, à une soixantaine de kilomètres de Kassel, ne veut pas quitter l’Église. En Allemagne, ce prêtre de 52 ans passe pour le nouveau Luther. Comme le réformateur du XVIè siècle, il remet en question le fondement même de certains dogmes. En quinze ans, il a publié une quarantaine de livres qui atteignent des tirages surprenants :150.000 exemplaires pour son dernier ouvrage, « Les clercs », un pavé de 900 pages sur la condition des prêtres. Psychanalyse, il relit la Bible à la lueur des mythologies et nie la réalité des miracles, de sa naissance virginale, de la Résurrection et de l’Ascension. Mais, pour l’instant, Rome refuse de condamner cet hérétique qui veut faire flamboyer une foi nouvelle sur les décombres de l’Église.

 

x
 
x             x

 

Ce qui se passe en Allemagne est un phénomène étonnant. Alors qu’on pourrait croire ce pays obsédé par l’Europe ou par sa réunification, voilà qu’il prend feu et flamme pour ou contre un nouveau Luther dont les thèses ne sont rien de moins qu’une critique radicale du catholicisme. Il est vrai que les Allemands ont toujours été friands de ce genre de débat ce qui ne veut pas dire que l’Église catholique ne subit pas, comme ailleurs en Occident, une désaffection inquiétante: deux cent mille personnes quittent actuellement l’Église outre-Rhin, ce qui représente pour elle des pertes qui se chiffrent en milliards. En effet, au cours de ces derniers quinze ans 50% des pratiquants réguliers ne vont plus à la messe le dimanche. Cependant, l’Église demeure encore très riche en raison d’un impôt d’État. «Il faut savoir, nous dit ce nouveau Luther, qu’en ce moment la décomposition de l’Église en Allemagne est certainement plus importante que celle de l’Union soviétique ».
Eugen Drewermann est le nom de ce prêtre catholique qui, jusqu’ici, et au contraire du célèbre réformateur du XVIè siècle, se refuse à quitter l’Église. Tout au plus son archevêque, Mgr. Degenhardt, lui a-t-il supprimé ses fonctions pastorales à la paroisse Saint-Georges de Paderborn et l’a-t-il interdit d’enseignement et de prédication. A Rome, où l’on semble avoir compris que les condamnations ne résolvent jamais rien, on garde pour l’instant le silence. Un sondage paru récemment dans « Quick » révèle en tout cas que 91% des personnes interrogées estiment que l’Église a tort de le rejeter et que, pour 56% des prêtres, elle est indigne à son égard.
Chaque samedi, près de deux mille « fidèles » bravant les oukases épiscopaux accourent dans une salle de lycée pour écouter pendant près de deux heures Eugen Drewermann, un passionné de musique qui entrecoupe ses entretiens spirituels d’œuvres de Chopin, Mahler ou Bach. La conférence terminée, il fait la quête pour venir en aide à des œuvres humanitaires ou écologiques. Il ne cache pas d’ailleurs pas sa sympathie pour Brigitte Bardot, grande prêtresse de la cause animale, qu’il défend dans un livre consacré à l’interprétation des contes de « Grimm ».
… En ce moment, Drewermann travaille à un récit de fiction sur Giordano Bruno, « Le miroir de l’infini ». C’est un roman sur les derniers jours de ce philosophe condamné, sous la Renaissance, par l’Église avant de mourir sur le bucher pour avoir, le premier, compris et interprété le défi de Copernic, selon qui la planète Terre n’était pas le centre de l’univers.
Il faut se rendre à l’évidence, ne fut-on pas d’accord avec ses idées novatrices, l’homme est intellectuellement séduisant. D’où son succès. Il parle avec sérénité, d’une voix douce mais ferme. Aucune agitation extérieure chez lui; à la limite, aucune passion débordante. L’homme se maitrise au point qu’on le voit mal, à l’instar de Luther, mobiliser des acolytes pour s’en aller afficher aux portes des églises ses thèses de critique. Il n’en veut même pas à son archevêque, auquel tout au plus reproche-t-il de n’être obsédé que par la virginité de Marie, que lui réfute carrément, non pour la frime ni par esprit de provocation, mais en invoquant tout simplement l’histoire et en s’appuyant sur la psychanalyse. Sa foi, parlons-en. C’est Jésus-Christ. Là-dessus, pas de doute. Il se veut chrétien, bien que, je le cite, « Il soit facile d’être catholique et protestant ; en revanche il est presque impossible d’être chrétien». En fait, ce qu’il conteste, c’est que le Christ ait voulu instituer une Église et tout ce qui s’est ensuivi : híerarchie, sacrements, dogme. Sur ce terrain-là, évidemment, on comprend les mesures prises à son endroit par son archevêque, car il est prêtre, entend le demeurer pour, affirme-t-il, «  contraindre l’Église à réagir». N’empêche que, vis-à-vis de Rome, Drewermann est tout simplement un hérétique. Ce n’est pas tout. Il accuse l’Église d’être obscurantiste, notamment en matière de morale sexuelle. À ses yeux, le célibat des prêtres, qui n’est, rappelons-le, qu’une mesure disciplinaire nullement imposée par Jésus, est une stupidité, tout comme le refus de la contraception. Quant à la Bible, il en fait un beau livre d’images, un admirable conte de fées. Les récits qu’elle contient, à commencer par la naissance virginale de Jésus à Bethhléem, ne sont, selon lui, que des mythes, mais des mythes essentiels et indispensables pour que les hommes puissent se retrouver dans leurs propres rêves et leurs propres aspirations. De la même facon, il estime que l’art est un mensonge, mais de ceux qui aident à comprendre la vérité. Mais quelle vérité? Pour Drewermann, ce n’est rien d’autre que le personnage du Christ qui, pour lui, est avant tout un modèle. Un modèle de vie et d’amour, alors que l’Église a valorisé sa mort. Une mort dont il pense que le Christ n’a jamais voulu.
 

« Chaque plante qu’on tue, c’est un poète qu’on assassine »

 

Au diable donc le péché originel, le Jugement dernier, l’Eucharistic, « parce que, dit-il, cette idée de manger la chair d’un homme et de boire son sang était quelque chose d’horrible pour un Juif ». Et aussi la Résurrection, sur laquelle, pourtant, repose toute la foi chrétienne. Quant à l’Ascension, qui rappelle que Jésus est monté au ciel quarante jours après Pâques, il évacue d’une chiquenaude : «On ne peut, dit-il, comprendre l’Ascension que comme symbole de l’élévation au- dessus  de l’angoisse humaine ».  Et il ajoute carrément : « Ceux qui y voient autre chose professent non pas la foi, mais la superstition ». Pour lui encore, le christianisme n’est pas une religion révélée. Toutes les cul-tures de l’humanité, du bouddhisme à l’hindouisme, en passant par l’Égypte antique, possèdent des symboles communs. De l’hindouisme, par exemple, le christianisme aurait, prétend-il beaucoup à apprendre dans le domaine du respect de la nature : « chaque plante, chaque animal qu’on tue, c’est un poète qu’on assassine ».  Et d’ajouter : « Je vois pour ma part, que la jeunesse attend trois choses de l’Église. Une religion qui soit intègre psychologiquement, c’est-à-dire qu’elle devrait cesser de réprouver les pulsions, la sexualité, le corps, qu’elle devrait renoncer à sa morale répressive. Elle devrait parler un language poétique qui ferait du bien à l’âme de l’homme et son besoin d’amour, mais elle devrait aussi avoir une intégrité écologique. Enfin, la jeunesse attend une intégration culturelle du religieux, car, aujourd’hui, toutes les religions continuent de se crisper sur leur propre tradition.  À l’avenir la religion sera œcuménique ou ne sera pas». Au diable encore les miracles de Jésus, à ses yeux incompatibles avec la science moderne.

Toutes ces thèses, Drewermann les fonde sur la psychanayse, et c’est là le grand reproche que lui fait Rome.

… On en est là. Il est évident que la polémique ne fait que commencer. Le succès médiatique d’Eugen Drewermann met Rome dans une position délicate. Le laisser continuer à diffu-ser ses thèses peut entrainer des conséquences douloureuses  comme un nouveau schisme, voire une hérésie, bien que Drewermann conteste qu’il n’y ait de schisme que pour des raisons religieuses. Pour lui, elles sont avant tout politiques, sociales ou éthiques. Le condamner serait lui donner raison sur  l’autoritarisme de l’Église qui condamne.

Tout ce qu’il dit, en tout cas, est dans l’air du temps. Et, faute d’avoir trouvé un langage moderne pour parler de Dieu, l’Église laisse le champ libre aux sectes, aux charlatans, mais aussi à des théologiens dont la parole séduit une époque réfractaire aux institutions et à leur dogme. En fait, il serait dommage que Rome préfère le condamner que discuter avec lui. Le catholicisme ne manque pas de brillants esprits sus-ceptibles de l’affronter. Ce qui serait d’autant plus salutaire qu’un débat permettrait de remettre les pendules à l’heure. En ce sens, Eugen Drewermann aurait rendu service. Après tout, quatre cents ans après la Réforme, Rome n’envisage-t-il pas de réhabiliter, voire de canoniser, Martin Luther ? Lequel ne disait ni plus ni moins que Drewermann ?

 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét