Tư duy dân tộc là một bộ phận cấu thành của văn hoá dân tộc. Có thể thấy trong rất nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật cũng như các công trình nghiên cứu về địa lý, tâm lý những đoạn nói về sự ảnh hưởng to lớn của điều kiện địa lý nước Nga lên tính cách, tư duy dân tộc Nga. Bài viết này trình bày một số yếu tố địa lý, cụ thể là: (1) vị trí địa lý, (2) khí hậu, (3) cảnh quan và độ rộng lãnh thổ nước Nga – ảnh hưởng đến tư duy, tính cách dân tộc Nga.Tư duy dân tộc là một bộ phận cấu thành của văn hoá dân tộc. Nghiên cứu tư duy dân tộc rất cần thiết cho việc hiểu mối tương quan thiên nhiên, lịch sử, văn hoá và xã hội trên một lãnh thổ nhất định. Và đối tượng quan tâm trước hết đó là con người.
Bài đã đăng trên Tập san “Khoa học xã hội & nhân văn”, số 28, tháng 9-2004, tr. 52-57.
Nghiên cứu tư duy dân tộc Nga giúp cho người học tìm ra những cách tiếp cận đúng để hiểu nhiều vấn đề trong lĩnh vực kinh tế – xã hội và chính trị, dự đoán được những nét chính yếu của tương lai nước Nga. Nhà văn Nga nổi tiếng M.A. Sholokhov từng nói: “Khắc nghiệt, hoang dã – biển và núi đá. Không có gì nhân tạo cả, và con người phải đối mặt với thiên nhiên. Thiên nhiên này đã đặt dấu ấn sức khỏe và tính tự kiềm chế sáng suốt lên người lao động – ngư dân và nông dân”[ Shirikin P.S. 2002]. Nghiên cứu chi tiết những quy luật thiên nhiên, ta có thể hiểu được cả tính quy luật thái độ ứng xử và tính cách của con người.
Có thể thấy trong rất nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật cũng như các công trình nghiên cứu khoa học chuyên ngành địa lý, tâm lý những đoạn nói về sự ảnh hưởng to lớn của điều kiện địa lý nước Nga lên tính cách, tư duy dân tộc Nga. Ví dụ như I.A. Iliyn viết: “Nước Nga đặt chúng ta mặt đối mặt với thiên nhiên khắc nghiệt và bao quát với mùa đông giá lạnh và mùa hè thiêu đốt, với mùa thu tuyệt vọng và mùa xuân bão táp khủng khiếp. Thiên nhiên làm ta phải do dự, buộc ta phải sống bằng quyền lực và độ sâu của nó. Chính vì vậy mà tính cách Nga rất mâu thuẫn”[Geografija 1992]. Còn S.N. Bulgakov thì viết về khí hậu lục địa (sự cách biệt nhiệt độ ở Oimiakon đạt đến 104 0C) có lẽ là tác nhân làm cho tính cách Nga có đặc trưng là mâu thuẫn: vừa khao khát tự do tuyệt đối vừa thuần phục kiểu nô lệ, vừa tín ngưỡng vừa vô thần – những tính chất này của nếp nghĩ, tư duy Nga rất khó hiểu đối với người châu Âu, tạo cho nước Nga vòng bí ẩn, thách đố và không thể đạt đến được.
Bài viết này trình bày một số yếu tố địa lý – cụ thể là: (1) vị trí địa lý, (2) khí hậu, (3) cảnh quan và độ rộng lãnh thổ nước Nga – ảnh hưởng đến tư duy, tính cách dân tộc Nga.
1. Vị trí địa lý
Các sự kiện nói nên rằng quốc gia Nga (Xô Viết) và dân tộc Nga từng được “lập trình sẵn” về lịch sử, địa lý và tâm lý để đối trọng với sự ép buộc khắc nghiệt nhất từ bên ngoài. Dân tộc Nga được sinh ra ở trung tâm lục địa Á – Âu, ở đồng bằng không được biển cũng như núi che chở cả ở phía tây và phía đông để chống lại xâm nhập quân sự từ Bắc Á và từ Tây Âu. Phương pháp duy nhất để bảo tồn tính tự chủ trong điều kiện này là chiếm càng nhiều đất càng tốt để buộc chân được quân đội của kẻ thù.
Không gian bao la và sự cần thiết đối mặt bằng sức mạnh liên kết đồng thời của nhiều dân tộc từ tây sang đông đã nảy sinh một dạng tư duy tâm lý tiềm thức và có ý thức (“chuẩn bị chậm nhưng đi nhanh” – dạng tâm lý lý tính hướng nội), tập trung quyền lực ở một nhà nước chuyên chế (quân chủ tuyệt đối hay chuyên chế kiểu Đông phương).
Tính chất Bắc Á – Âu của nước Nga đã tạo nên dạng tâm lý dân tộc không chỉ phù hợp với những xu hướng thịnh hành trên thế giới, mà còn đối lập trực tiếp với chúng. Từ đó, thay vì phát triển sản xuất hàng hoá là tâm lý kinh tế tự nhiên (từng là cứu cánh trong những năm bị nước ngoài vây hãm, nhưng không hiệu quả cho vịêc xây dựng một nền kinh tế mạnh), thay vì tính tự chủ là thói quen được bảo hộ, thay vì những đòi hỏi vật chất cao là tínhdễ dãi với điều kiện sống.
2. Khí hậu
Người học cần được đưa đến kết luận rằng tính khắc nghiệt của khí hậu Nga đã ảnh hưởng mạnh đến tư duy dân tộc Nga. Sinh sống trên lãnh thổ nơi mùa đông kéo dài đến gần nửa năm, người Nga đã tạo cho mình một sức mạnh ý chí lớn lao, tính kiên trì trong tranh đấu vì sự sống còn trong điều kiện khí hậu giá lạnh. Nhiệt độ thấp trong suốt phần lớn của năm đã ảnh hưởng đến khí tính dân tộc. Người Nga thường đa sầu, chậm chạp hơn người Tây Âu, do người Nga phải bảo tồn và tích lũy năng lượng của mình, nguồn năng lượng cần thiết cho cuộc đấu tranh chống cái lạnh. “Dân Nga phải tiêu tốn biết bao sức mạnh, tiền bạc và thời gian để bảo vệ mình chống cái lạnh, giữ gìn những gì khai thác được và vận chuyển chất đốt, bảo quản hệ thống sưởi ấm nhà cửa, củng cố các công trình xây dựng, cứu nạn tàu thuyền, bến cảng, cầu cống, dọn tuyết trên các con đường, chống lũ lụt, may quần áo ấm”[Shirikin P.S. 2002]. Mùa đông Nga kéo dài và lạnh giá được phản ảnh bằng dấu ấn khốn khó trong tâm hồn người Nga.
Mùa đông Nga khắc nghiệt ảnh hưởng đến truyền thống hiếu khách của người Nga. Từ chối người đi đường trong điều kiện khí hậu mùa đông có nghĩa là đẩy họ vào cái chết lạnh. Vì vậy, tính hiếu khách được người Nga hiểu là nghĩa vụ. Tính khắc nghiệt và hà khắc của thiên nhiên dạy cho người Nga tính chịu đựng và biết lắng nghe. Nhưng có ý nghĩa hơn cả là cuộc đấu tranh không ngừng và bền bỉ với thiên nhiên khắc nghiệt. Từ lâu, bên cạnh nghề nông người Nga phải làm nhiều nghề khác nhau. Điều này được giải thích bởi hướng suy nghĩ thực tế của họ, tính linh hoạt và tính sáng suốt. Cách tiếp cận cuộc sống một cách sáng suốt, tính toán và thực dụng không phải lúc nào cũng giúp được người Nga, vì khí hậu độc đáo của nước Nga cũng có lúc làm đánh lừa cả những kỳ vọng khiêm tốn nhất. Và do quen với những thất vọng này, người Nga đôi khi lại chọn những quyết định thiêu thân, ít hy vọng nhất để chống lại thói đỏng đảnh của thiên nhiên bằng sự đỏng đảnh của lòng can đảm của chính mình. Xu hướng trêu chọc hạnh phúc, đùa với thành công là sự may rủi của người Nga.
Trong hoàn cảnh không thể dự đoán trước được như vậy, khi thành quả lao động phụ thuộc vào thói đỏng đảnh, thất thường của thiên nhiên, thì chỉ có thể sống được với một sự lạc quan vô bờ bến. Trong bảng xếp loại các nét tính cách dân tộc do tạp chí Reader’s Digest lập ra bằng cách thăm dò dư luận ở 18 nước châu Âu vào tháng 2 năm 2001, phẩm chất này ở người Nga đứng đầu. Có đến 51% người Nga được hỏi cho mình là người lạc quan, chỉ có 3% là người bi quan. (Ở các nước châu Âu còn lại, những phẩm chất dứng đầu lại là ổn định, cầu ổn) [Volykina V.M.].
Người Nga quý những ngày làm việc sáng sủa, vì những ngày này không nhiều. Điều này buộc nông dân Nga phải vội vàng làm việc cật lực để kịp làm được nhiều việc trong một khoảng thời gian ngắn. Không một dân tộc nào ở châu Âu lại có khả năng làm việc căng thẳng như vậy trong một thời hạn ngắn. Lòng yêu lao động này có lẽ đặc trưng chỉ cho người Nga. Khí hậu đã ảnh hưởng đa diện đến tư duy của người Nga. Cảnh quan cũng góp phần gây ảnh hưởng không nhỏ. V.O. Kliuchevsky nói rõ về ảnh hưởng của cảnh vật Nga lên tính cách con người như sau: “Nước Đại Nga thế kỷ 13–15 với những cánh rừng, đầm lầy trên từng bước đi đã tạo ra cho người dân muôn ngàn mối hiểm nguy nhỏ, những khó khăn và khó chịu mà người dân phải thoát ra được và phải từng phút đấu tranh với chúng. Điều này tập cho người Nga theo dõi, quan sát thiên nhiên tinh tường, theo cách diễn tả của họ, là khi đi thì vừa phải ngoái lại nhìn, vừa phải dò thử đất dưới chân, không nhảy xuống nước nếu không tìm được chỗ nông (tức phải thăm dò nông sâu cẩn thận, đắn đo suy nghĩ thật kỹ lưỡng trước khi làm việc gì đó), phát triển trong họ tính tháo vát trong những khó khăn và nguy hiểm, thói quen đấu tranh bền bỉ với thiên tai và mất mát”[ Shirikin P.S. 2002].
Ở châu Âu không có dân tộc nào ít được nuông chiều, ít đòi hỏi, ít chờ đợi ở thiên nhiên và số phận, biết chịu đựng như dân tộc Nga. Nét độc đáo của thiên nhiên Nga, tính thất thường và khó dự đoán của nó được phản ánh trong nếp nghĩ, cách tư duy của người Nga. Những cái thất thường và ngẫu nhiên đời thường dạy họ suy xét nhiều về đoạn đường đã trải qua hơn là hình dung con đường đi tiếp, nhìn lại quá khứ nhiều hơn là nhìn về phía trước. Trong cuộc đấu tranh với những đợt ấm lên bất ngờ và những đợt giá buốt tháng tám, với tiết trời ướt át tháng giêng không dự đoán được, người Nga trở nên thận trọng hơn, có tính quan sát hơn, học cách nhận thức hậu quả hơn là đặt ra các mục tiêu, giáo dục cho mình kỹ năng đưa kết luận về nghệ thuật quan sát. Kỹ năng này cũng chính là cái mà ta gọi là con mắt sau gáy… “Thiên nhiên và số phận dẫn dắt người Nga, dạy họ biết bước ra con đường thẳng rộng lớn từ những quãng đường gập ghềnh khúc khuỷu”[ Shirikin P.S. 2002].
3. Cảnh quan và độ rộng lãnh thổ
Thiên nhiên Nga tuyệt vời cùng tính đồng bằng của cảnh quan Nga đã dạy cho nhân dân biết suy tưởng, trực quan. Nhưng suy tưởng thái quá rất dễ trở nên mơ mộng, lười biếng, thiếu ý chí, ghét lao động. Tính cẩn trọng, ưa quan sát, trầm ngâm, tập trung suy tưởng và trực quan – đó là những nét tính cách được giáo dục trong tâm hồn Nga bởi chính cảnh quan Nga.
Phần nhiều những nét tính cách tư duy Nga được xác định bởi tính chất bao la mênh mông của không gian Nga. Một lãnh thổ rộng lớn thưa dân cư đòi hỏi có một kiểu người đặc biệt mới khai khẩn được nó. Những người này có khả năng hành động quyết đoán, táo bạo và quả cảm. Theo tính toán của P.S. Shirikin, sau 75 năm (từ thời Ermakov chinh phục Siberi đến khi Moskvitin bước ra Thái Bình Dương), lãnh thổ nước Nga tăng lên 10 triệu km2 – một trong những nước thực dân có tầm cỡ lớn nhất thế giới. Để so sánh, có thể lấy số liệu các cuộc thám hiểm của Columb nhập vào đế quốc Tây Ban Nha vùng biển Caribe 2.777.000 km2, Cortes – 2.067.000 km2, Pisarro – 1.285.200 km2 [Shirikin P.S. 2002].
Nhưng trong các cuộc chinh phục ở Nga, không một dân tộc Siberi và Viễn Đông nào bị tuyên bố là “hoang dã” và bị tiêu diệt. Và khắp nơi trên đường đi của mình, người Nga đã tạo dựng một mạng lưới các pháo đài– làng thôn và chúng đóng vai trò quan trọng như trung tâm kinh tế của những vùng lãnh thổ được khai hoá. Cư dân của những pháo đài này có tính đặc trưng là tháo vát, yêu tự do khác thường và dễ nổi loạn. Phần lớn dân chạy trốn “khuất mắt vua” ra khỏi Ural, và chính bản thân chính quyền Sa hoàng cũng muốn giữ những công dân này càng xa thủ đô càng tốt.
Người Nga không chỉ hình thành trong không gian dân tộc khép kín, mà còn ở đồng bằng rộng mở – đồng bằng của những cuộc đồng hoá. Họ được “luyện” trong cái nồi chảo này và bước ra khỏi nó với hai tính chất nền tảng –tinh thần thống nhất mạnh mẽ và thái độ hoà giải nảy sinh từ kinh nghiệm sống có bề dày nhiều thế kỷ với các dân tộc láng giềng (cả với những dân tộc mà họ chiếm đất và những dân tộc vì lợi ích đã tự liên kết với họ, nhất là với các dân tộc cho rằng điều quan trọng đối với bản thân mình là truyền bá kiến thức và những yếu tố sáng tạo của nền văn hoá dân tộc mình cho người Nga).
Người Nga vốn xa lạ với tính thù địch và cạnh tranh do họ có sự vượt trội hiển nhiên và có cội rễ nhân dân hùng hậu với nòng cốt Moskva. Cội rễ Nga này vững chắc đến độ từng nấu hoà tan cả những vị Sa hoàng mang dòng máu Đức, những giới công chức Cận Baltic, cả các chức sắc người Tarta, cả giới thượng lưu nói tiếng Pháp và Chính thống kiểu Ukraina.
Tính bao la và không thể đạt được của những vùng không gian nước Nga không thể không ảnh hưởng đến thái độ của các nước láng giềng. Sa hoàng Aleksandr Đệ tam từng nói trước khi sang thế kỷ 20: “Hãy nhớ là nước Nga không có bạn bè. Họ sợ sự rộng lớn của chúng ta”. P.A. Vyazemsky, nhà nghiên cứu văn học và bạn của A.S. Pushkin, nói đến khái niệm khách quan về nước Nga trong suy nghĩ của người ngoại quốc như sau: “Nếu anh muốn cho một người thông minh, người Đức hay người Pháp, nói ra một điều xuẩn ngốc, thì hãy đòi anh ta nói ra suy luận của mình về nước Nga. Đó là đối tượng buộc anh ta phải chóng mặt và làm khả năng suy nghĩ của anh ta giảm thiểu ngay tức thì”[ Shirikin P.S. 2002].
Vấn đề khắc phục những khoảng không bao la và khoảng cách luôn luôn là một trong những vấn đề chủ yếu nhân dân Nga. Sa hoàng Nikolai Đệ nhất từng nói: “Khoảng cách là nỗi bất hạnh của nước Nga”. Ở mỗi người dân Nga đều có tính bền bỉ, căn cơ của một nông dân hoà cùng dòng máu du mục can đảm với khát vọng thoát khỏi nơi sống đã lâu để tìm kiếm những gì tốt đẹp hơn. Người Nga không phân biệt ranh giới Âu–Á mà biết cân bằng giữa hai phương thức phát triển. Ví dụ cho tính chất này có thể thấy rất nhiều trong lịch sử Nga: sự chấp nhận Cơ-đốc giáo với ách cai trị Mông Cổ – Tarta, những cuộc xâm lược của các quân đội châu Âu với những cuộc nổi dậy của Stephan Razin và Pugachop, các cuộc cải cách châu Âu với quyền sở hữu nông nô, định hướng cải tổ phương tây ngày nay với thói tham nhũng châu Á của các quan chức.
Không gian bao la dễ dàng quy thuận dân tộc Nga, nhưng việc tổ chức các khoảng không gian này trong một quốc gia lớn nhất thế giới, việc gìn giữ nó và duy trì trật tự trong nó thì không dễ dàng gì. Tầm rộng lớn của quốc gia đặt ra trước nhân dân Nga những nhiệm vụ vượt sức, giữ người Nga luôn ở tình trạng căng thẳng vượt bậc. Tất cả những điều này cũng không thể không được phản ánh trong tư duy Nga. Tâm hồn Nga bị ức chế bởi những cánh đồng Nga bát ngát, các lớp tuyết Nga dày mênh mông, nó như bị chìm nghỉm, hoà tan trong sự mênh mông bát ngát này.
Sự cai quản những vùng đất bao la của nhà nước kèm theo sự tập trung hoá cao độ sự phục tùng suốt đời đối với lợi ích quốc gia và sự đè nén mọi lực lượng xã hội, tự do cá nhân diễn ra từ dưới lên. Tập trung hoá được phản ánh trong tinh thần Nga theo hai hướng. Thứ nhất, người Nga quyết định rằng người điều hành những khoảng không gian rộng lớn như vậy (tức nước Nga) và một dân tộc vĩ đại thì phải có nguồn gốc xuất thân gần như siêu tự nhiên. Từ đây nảy sinh ra sự tôn thờ cá nhân, tình cảm biết ơn đối với “vua cha” trong tâm hồn người Nga. Thứ hai, cảm giác có một người nào đó đứng trên mình nhìn thấy và điều khiển mọi hoạt động của mình đã hoà thành một tính chất trong tâm hồn người Nga – đó là tính vô tư.
Độï rộng của tâm hồn Nga cũng như đất đai, sông ngòi, cánh đồng Nga vậy – tất cả đều có thể được tâm hồn Nga tiếp nhận: mọi tình cảm, cá tính và phẩm chất con người đều có chỗ trong tâm hồn người Nga. Người học sẽ cảm thấy thú vị nếu phân tích không chỉ những phẩm chất tốt đẹp của dân tộc Nga, mà còn cả những nét tính tiêu cực của họ nữa. Quyền lực của độ rộng đối với tâm hồn Nga cũng làm nảy sinh một loạt “tính xấu” của người Nga.
Đó là các tính lười biếng, vô tư, thiếu chủ động sáng tạo, ít có tinh thần trách nhiệm. “Độ rộng của đất Nga và độ rộng của tâm hồn Nga đã bóp nghẹt nhiệt tình Nga, mở ra khả năng chuyển động theo hướng quảng đại”[Shirikin P.S. 2002]. Thói lười biếng Nga (tính lười Oblomov)[1] phổ biến ở mọi tầng lớp nhân dân. Người Nga lười thực hiện những công việc không có tính nghĩa vụ nghiêm ngặt. Tính lười Oblomov một phần được thể hiện như tính không chính xác, hay đến muộn (đến nơi làm việc, nhà hát, những cuộc gặp mặt công việc).
Nhìn lãnh thổ bất tận của mình, người Nga bằng lòng với ý nghĩ rằng dù sao cũng không thể cai quản chặt chẽ được một lãnh thổ rộng lớn như vậy. I.A. Iliyn nói: “Nước Nga ban tặng cho chúng ta tài nguyên thiên nhiên khổng lồ – cả bên ngoài và bên trong lãnh thổ”[2]. Người Nga cho rằng những nguồn tài nguyên ấy là vô tận và không hề gìn giữ chúng. Điều này làm nảy sinh trong nếp nghĩa của người Nga tính lãng phí. Người Nga cho rằng mọi thứ ở họ đều rất nhiều. “Từ ý nghĩ cho rằng tài sản thiên nhiên của chúng ta là dư thừa, trong tâm hồn chúng ta tỏa rộng tình cảm tốt bụng, rộng lượng, an bình, cởi mở, thích giao tiếp… cái gì cũng sẽ đủ, hơn nữa Chúa sẽ còn ban tặng thêm” [Geografija 1992]. Đây chính là cội nguồn tính rộng lượng của người Nga.
Tính an bình, tốt bụng, rộng lượng “bẩm sinh” của người Nga trùng lặp một cách lạ thường với đạo lý của Chính thống giáo. Tính hoà hợp ở người Nga cũng có gốc từ nhà thờ. Đạo lý Cơ đốc hàng bao thế kỷ trước đã giữ vững được tính quốc gia gia, ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính cách dân tộc Nga. Đạo Chính thống giáo dục người Nga sống có tinh thần, tình yêu vị tha, sẵn sàng giúp đỡ, hy sinh và lòng tốt. Sự thống nhất nhà thờ và nhà nước, cảm nhận mình không chỉ trung thành với đất nước mà còn là một phần bé nhỏ của một cộng đồng văn hoá vĩ đại đã phát triển ở người Nga lòng yêu nước diệu kỳ dẫn đến hy sinh anh dũng. Nhà tư tưởng Nga nổi tiếng A.I. Ghertsen viết: “Mỗi người Nga đều nhận thức mình là một phần của cả quốc gia, nhận thức được sự ruột thịt của mình với toàn thể nhân dân”[ Geografija 1992].
Sự phụ thuộc của tư duy dân tộc Nga vào những yếu tố địa lý tự nhiên có thể được tóm tắt trong bảng dưới đây [dựa theo Volykina V.M.].
Yếu tố ảnh hưởng đến tư duy
|
Nét tính cách
|
1. Vị trí địa lý | Tự ý, tự doTự do tinh thầnTính bị áp chế
Tâm lý lý tính hướng nội Chuyên chế Tâm lý kinh tế tự nhiên Thói quen được bảo hộ Dễ dãi với điều kiện sống. |
2. Khí hậu (khí hậu khắc nghiệt, mùa đông kéo dài, nhiệt độ thấp) | Đa sầuChậm chạpKhông quý trọng lao động của mình
Hiếu khách Chịu đựng Tuân lệnh, nghe lời Chủ nghĩa tập thể Đoàn kết tập hợp Mâu thuẫn |
3. Cảnh quan và độ rộng lãnh thổ | Độ rộng tâm hồnSuy tưởng, trực quanMơ mộng
Quan sát Trầm tư Theo dõi thiên nhiên Suy ngẫm về quá khứ Rộng lượng Lãng phí Thiếu chủ động sáng tạo Lười biếng (Thói lười Oblomov) |
Phân tích môi trường văn hoá dân tộc và tự nhiên về mặt điều kiện địa lý cho phép mở ra những đặc tính quan trọng nhất của tư duy bất cứ dân tộc nào và cho phép theo dõi những giai đoạn cũng như các nhân tố hình thành tư duy dân tộc.
* TS., Khoa Ngữ văn Nga, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – ĐHQG Tp. HCM..
2. Geografija 1992: Геoграфия, No 1-2 (электронная версия)
3. Shirikin P.S. 2002: П.С. Ширинкин. Этноконструктивистский подход в оценке биохимической энергетики великорусского суперэтноса: 420 лет спустя, некоторые итоги и результаты. -География и регион (1. Регионоведение и региональная организация общества). — Пермь, 2002.
4. www.geo.1september.ru
[1] Tiếng Nga обломовщина – gọi theo tên nhân vật chính Oblomov trong tác phẩm “Bờ vực” của nhà văn Nga thế kỷ 19 I.A. Goncharov.Oblomov mang tính cách Nga điển hình: một trí thức thông minh, tốt bụng nhưng lười hành động, chỉ thích nằm suy tưởng suốt ngày đến mức mất cả người yêu và cuối cùng lâm vào cảnh nghèo dù xuất thân từ một gia đình quý tộc khá giả.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét