Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2015

Những Biện Pháp Săn Lùng Và Tiêu Diệt Phù Thủy:

Trần Chung Ngọc
 

PHẦN IV :

NÚI TỘI ÁC THỨ BỐN CỦA CÔNG GIÁO:


[300+] NĂM SĂN LÙNG PHÙ THỦY 
 

Phần IV (2):
 

Những Biện Pháp Săn Lùng Và Tiêu Diệt Phù Thủy:
 
 
    Jakob Sprenger và Heinrich Kramer, tác giả cuốn Búa Phù Thủy (Malleus Maleficarum):
 


    “Chưa từng biết có một người vô tội nào bị trừng phạt vì nghi ngờ là phù thủy, và không còn nghi ngờ gì là Thượng đế sẽ không bao giờ cho phép việc đó xảy ra.”

   (It has never yet been known that an innocent person has been punished on suspicion of witchcraft, and there is no doubt that God will never permit such a thing to happen.)



   Ronald Seth trong Witches and Their Craft:
 

   “Công lý đã sai lầm và nhiều ngàn nam nữ chết vì những bằng chứng kết tội ngụy tạo của những kẻ đố kỵ hoặc trả thù ”

   (Justice was perverted and thousands of innocent man and women died on the false evidence of envious or vengeful accusers.)
 

   Mark Twain trong Europe and Elsewhere:
 

   “Có những phù thủy trong nhiều thời đại.  Thánh Kinh viết vậy.  Thánh Kinh ra lệnh không được để cho các phù thủy sống sót.  Do đó, Giáo hội thu thập những giây thòng lọng, những cái kẹp ngón tay, và củi lửa, rồi khởi sự công cuộc thánh thiện trong sự hăng say nhất.. [để tra tấn, treo cổ và thiêu sống các nạn nhân] Rồi người ta khám phá ra rằng chẳng có cái gì là phù thủy, và chưa từng bao giờ có phù thủy.  Người ta không biết nên cười hay khóc”

   (During many ages there were witches.  The Bible said so.  The Bible commanded that they should not be allowed to live.  Therefore, the Church…gathered up its halters, thumbscrews. and firebrands, and set about its holy work in earnest..  Then it was discovered that there was no such thing as witches, and never had been.  One does not know whether to laugh or cry.)
 
     Clifford Lindsey Alderman trong The Devil’s Shadow:
 


    “Quy tội (phù thủy) cho hàng trăm nam nữ thật là vô nghĩa, và những phiên xử án chỉ là những trò hề công lý.”

   (The charges brought against the hundreds of women and men were senseless, and the trials themselves travesties of justice.)

*
 

   Trong Phần IV (1) viết về nguyên nhân của chủ trương săn lùng và giết hại phù thủy của giáo hội Công Giáo trong 300 năm ở Âu Châu, tôi đã đưa ra nhận định của một trí thức đạo gốc, Charlie Nguyễn, như sau:



   Giáo hoàng và bọn quan án đạo đã vận dụng cái ngu và cái ác của Thiên Chúa trong Kinh Thánh hợp với cái ngu và lòng mê tín ác nghiệt của chúng để tạo thành một căn bản luật pháp tôn giáo. Bọn chúng đã dám dựa vào cái lòng tin ngu xuẩn của chúng để ra lệnh tàn sát bao nhiêu ngàn sinh linh!  Trong 300 năm, từ 1450 đến 1750, ít nhất cũng có 200,000 phụ nữ bị thiêu sống dưới cái tội danh “phù thủy” vu vơ, không có thật. Tội danh này thật sự đã được tạo ra do sự tưởng tượng của những kẻ nặng đầu óc mê tín mà thôi.
 

   Sau đây chúng ta hãy đi vào một số chi tiết về thời kỳ mấy trăm năm săn lùng và giết hại phù thủy này mà R. H. Robbins đã gọi  là: “Cơn ác mộng làm mọi người sửng sốt, tội ác nhơ nhuốc nhất và sự ô nhục sâu thẳm nhất của nền văn minh Tây phương” (The shocking nightmare, the foulest crime and deepest shame of Western civilization), một thời kỳ “đã sinh sản ra một đám kỳ cục những con quỷ người ~ những người săn lùng phù thủy ~ đặc biệt là những con quỷ người này thường lại là các giám mục, linh mục, mục sư, nhà thần học, luật sư, y sĩ v..v..  trong Ki Tô Giáo, những người tự cho là đã ở trong một “hội Thánh” thánh thiện, trong người tràn đầy Thánh Linh.
 

   Đọc những tài liệu về “cơn ác mộng” trên, chúng ta không thể tưởng tượng được là tại sao một tôn giáo, theo định nghĩa là phải có mục đích hướng dẫn tâm linh con người theo sự thăng tiến của trí tuệ và đạo đức, nhưng ngược lại, lại nhốt con người vào những tù ngục tâm linh tăm tối, cùng lúc lại có những hành động vô cùng độc ác đối với nhân loại. Vậy thực chất Ki Tô Giáo có phải là một tôn giáo hay không, và những tín đồ Ki Tô Giáo nghĩ sao về cái “lịch sử tội ác nhơ nhuốc nhất và sự ô nhục sâu thẳm nhất” của tôn giáo mà mình đang theo.  Trên thế gian từ xưa tới nay không thiếu gì những sự bạo hành ở khắp nơi, trong những chế độ phong kiến và quân phiệt, và ngay trong thời đại này trong sách lược xuất cảng dân chủ của Mỹ.  Nhưng tại sao những sự bạo hành vô tiền khoáng hậu đó lại nằm trong chính sách của một tôn giáo?   Mà tôn giáo này lại do Chúa thành lập, một vị Chúa “quá thương yêu thế gian” theo như lời rao giảng của giáo hội cho đám tín đồ ở dưới, và một số không nhỏ các giáo hoàng thừa kế tự nhận là  đại diện của Chúa trên trần (Vicars of Christ) nhưng lại phạm đủ mọi tội ác trên thế gian, những tội ác mà những người không hề biết đến Chúa không bao giờ có thể phạm. Ai có thể giải thích tại sao và cho tôi biết thực chất của Ki Tô Giáo là như thế nào, xin lên tiếng.  Phải chăng các tín đồ Ki Tô Giáo đã bị mờ mắt trước những cái bánh vẽ “cứu rỗi”, “thiên đường” mà không nhìn thấy những sự việc sờ sờ ngay trước mắt trong tôn giáo của mình?
 

   Giáo hội Công giáo cố che dấu lịch sử của giáo hội, nhưng Giê-su đã từng nói, Mark 4:22: “Không có gì được che dấu mà không bị phanh phui ra, cũng như không có gì được giữ bí mật mà không bị đưa ra ánh sáng.” [Mark 4:22: "For there is nothing hidden which will not be revealed, nor has anything been kept  secret but that it should come to light."]
 

   Vậy, sau đây chúng ta hãy đưa ra ánh sáng một số chi tiết về các cuộc săn lùng phù thủy của giáo hội Công Giáo thánh thiện tông truyền.  Các tài liệu này đều là của các nghiên cứu gia trong giáo hội cũng như ngoài giáo hội ở Tây phương, không có một tài liệu nào của Phật Giáo hay của Cộng Sản [Tôi xin nhấn mạnh điểm này], do đó những luận điệu chống đối lố bịch như nhân danh Phật Giáo để gây chia rẽ tôn giáo, hay theo sách lược chống Thiên Chúa Giáo của Cộng Sản v..v… đều chỉ là những luận điệu chụp mũ vu vơ của những kẻ hạ căn, thiển cận, không thuộc hàng ngũ trí thức.  Và đây cũng chỉ là vài tài liệu điển hình trong số hàng trăm các tài liệu viết về một trang sử ô nhục nhất của Ki Tô Giáo.
 

1.  Milton Meltzer, Witches and Witch-Hunts: A History of Persecution, The Blue Sky Press, New York, 1999:
 

   Một cuộc săn lùng phù thủy điên cuồng , kéo dài hơn 400 năm – từ thế kỷ 14 qua thế kỷ 17 – đã giết hại nhiều triệu người ở Âu Châu, tuyệt đại đa số là phụ nữ.  Sự điên cuồng này khởi sự trong thời trung Cổ và kéo dài cho tới Thời Đại Lý Trí.  Lâu sau đó, trong thế kỷ 20, nhà độc tài Đức Quốc Xã, Adolf Hitler, đã chỉ đạo một chiến dịch bạo hành có tổ chức – thường gọi là săn lùng phù thủy – những người Do Thái ở Đức và Âu Châu đưa đến cái chết của 6 triệu người đàn ông, đàn bà và con trẻ.
 

   Cuốn Thánh Kinh chỉ đạo cuộc săn lùng phù thủy xuất hiện năm 1486..  Đó là một cuốn sách dày gọi là Búa Phù Thủy (Malleus Maleficarum).  Đây là cuốn sách đầu tiên về ảo thuật và phù thủy, viết bởi hai linh mục dòng Đa Minh ở Đức: Heinrich Kramer và Jacob Sprenger.

   Hai năm trước, Giáo Hoàng Innocent VIII đã cho phép hai ông linh mục này quét sạch phù thủy ờ Đức.  Cuốn sách chỉ nam về bạo hành này đã là một dụng cụ ở trong tay mọi ông tòa xét xử phù thủy và mọi kẻ săn lùng phù thủy trong 3 thế kỷ.  Cuốn Búa Phù Thủy đã được tái bản 14 lần.  Nó trở thành một cuốn sách có ảnh hưởng nhất trong những cuốn sách đã được in ra trước đó.  Cuốn sách mở đầu bằng sự phản bác quan niệm về sự không hiện hữu của phù thủy.  Cuốn sách viết, đức tin chân thật dạy rằng có một số thiên thần sa ngã từ thiên đường xuống và nay trở thành quỷ và do bản chất quỷ của chúng, chúng có thể làm những việc phi thường mà chúng ta không làm được.  Các tác giả trên viết rằng Satan và các quỷ có thể tự chúng làm những điều tác hại, hoặc cùng với, hoặc qua các phù thủy để tác hại.  Cuốn sách mô tả những chuyện phù thủy có thể làm và những phương thức chống phù thủy.
 

   Hai linh mục trên viết ra từ những kinh nghiệm của mình, vì chính họ đã đích thân xử 50 phù thủy trong đó 48 là phụ nữ.  Cuốn Búa Phù Thủy trở thành quyền hành chỉ đạo cho những cuộc săn lùng phù thủy có tổ chức.  Những cuộc săn lùng phù thủy được phát động và thi hành bởi giáo hội và chính quyền [trong thời mà thần quyền đứng trên chính quyền].  Cuốn Búa Phù Thủy dạy phải tra tấn nạn nhân như thế nào để cưỡng bách họ phải thú tội rồi kết án họ ra sao.  Cách tra tấn thông thường là lột trần truồng người phụ nữ bị cho là phù thủy, cạo hết lông trên người, rồi dùng cái kẹp ngón tay, giá căng người, những hình cụ có đinh dài nhọn hoặc dùng để nghiền gẫy xương, và đánh đập hoặc bỏ đói.
 

   Khi cơn lốc bạo hành đi vào thế kỷ 15, số nạn nhân thật nhiều vô kể.  Nicholas Remy, một quan án đạo ở Lorraine, Pháp, chủ tọa các cuộc xử án phù thủy, viết rằng sau một thời gian tra tấn phù thủy, ông ta biết rằng “chúng xứng đáng chịu mọi sự tra tấn và rồi thiêu sống… và những cảnh khủng khiếp này có thể dùng làm gương và cảnh báo cho những người khác.”    

   Remy đã thiêu sống từ 2000 đến 3000 nạn nhân trong khoảng 21 năm, từ 1595 đến 1616.
 

   Torquemada (1420-1498), Đại Phán Quan (Grand Inquisitor) Tây Ban Nha được biết là đích thân đã thiêu sống hơn mười ngàn (10000) người và kết án 97 ngàn người khác trong vòng chưa đầy 20 năm.  [Theo Bernard Fall trong The Two Viet-Nams" , Frederik A. Praeger Publisher, New York 1967, trang 236, thì Ngô Đình Diệm cũng là một loại Phán Quan Tây Ban Nha (Spanish Inquisitor) : Tính hiếu chiến của ông Ngô Đình Diệm thuộc loại như thế này: Đức tin của ông ta ít có tính chất từ ái của các tông đồ hơn là tính hiếu chiến tàn nhẫn của  một  Đại Phán Quan Tây Ban Nha của Tòa Án Dị Giáo (Torquemada) (Ngo Dinh Diem's militancy is of that kind: His faith is made less of the kindness of the apostles, than of the ruthless militancy of the Grand Inquisitor) ]
 

   Trong 12 năm, từ 1581 đến 1593, những sự bạo hành phù thủy hoành hành khắp thị trấn Trier đầy nhà thờ ở Đức.  Giám mục thị trấn Trier, Peter Binsfield, tuyên án tử hình khoảng 6000 người.

   Năm 1620 ở vùng Wurzburg, Đức, chúng ta có thể thấy những thí dụ ngoạn mục về một sự tận diệt toàn diện các phù thủy.  Giám Mục Wurzburg thiêu sống 900 người vì tội làm phù thủy..

   Tổng giám mục Trier thiêu sống 268 phù thủy trong 22 làng mạc trong khoảng từ 1587 đến 1593.  Trong 2 làng trong số này, tới năm 1595 chỉ có một phụ nữ được sống sót.

    Người Do Thái là một nhóm người khác bị bạo hành, nhất là khi những cuộc săn lùng phù thủy ở cao điểm.  Trong Tân ước, John 8:44 gọi quỷ là cha đẻ của dân Do Thái.  Trong Khải Huyền 2:9 và 3:9 có nói đến “giáo đường [nơi người Do Thái tụ họp cầu nguyện] của Satan”.  Những vị lãnh đạo trong giáo hội Ki Tô Giáo lên án người Do Thái thờ phụng Satan và trao con cái cho các quỷ.
 

   Ở Anh quốc, dưới triều đại Tin Lành của Henry VIII và Elizabeth 1, sự bạo hành thật nghiêm trọng.  Và đó không phải là những nhà cầm quyền Tin Lành duy nhất đã kẹp gẫy xương phù thủy trên giá căng hay áp sắt nung đỏ vào người nạn nhân.  Ở Netherland cũng vậy, tra tấn bằng roi, kẹp sắt, và thiêu sống cũng là điều hiển nhiên.

   Martin Luther, 1483-1546, người sáng lập ra giáo phái Chống Đối [Tin Lành], đã tăng gia sự mê tín trong thời của ông ta.  Những tác phẩm ông viết ra làm chứng cho những sự tấn công của quỷ đối với ông ta, và ông ta thường cho những hành động ác ôn là của phù thủy – trong số này ông ta gồm những người đối nghịch với ông.  Ông ta nghĩ rằng quyền năng của phù thủy thật đáng kinh ngạc; đã có lần ông viết: “ Tôi không có sự thương hại nào đối với các phù thủy, tôi có thể thiêu sống tất cả chúng.”
 

   Thôi thúc bởi cuốn Búa Phù Thủy, nước Đức [nước của Hitler và của giáo hoàng đương nhiệm: Benedict XVI] có một lịch sử đen tối nhất về sự bạo hành phù thủy, nhưng các nước khác – Pháp, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Tô Cách Lan – tất cả đều nâng cao tổng số sát nhân.  Khi cuộc khủng bố đạt tới đỉnh cao [trí tuệ của Ki Tô Giáo] , những người nghi ngờ bắt buộc phải tỏ sự đồng tình tin là có phù thủy.  Tỏ ý không tin là có phù thủy đặt con người vào nguy cơ là chính họ sẽ bị tố cáo là phù thủy.  1

     

2.  James A. Haught, Holy Horrors: An Illustrated History of religious Murder and Madness, Prometheus Books, New York, 1990, p.73-76:
 

   Trong thế kỷ 15, Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo Thánh Thiện [The Holy Inquisition] chuyển mục tiêu sang các phù thủy, và ba thế kỷ tiếp theo đã chứng kiến sự cuồng loạn kỳ quái của ảo tưởng tôn giáo.  Nhân viên của Giáo Hội đã tra tấn vô số ngàn người phụ nữ, và một số đàn ông, để bắt họ phải thú nhận là họ đã bay trên không để thi hành những nhiệm vụ của quỷ, làm tình với Satan, tự biến thành súc vật, tự làm cho mình trở nên vô hình, và làm những việc ác siêu nhiên.  Hầu như mọi người bị kết án là phù thủy đều bị xử chết.

   Mới đầu Giáo Hoàng Gregory IX cho phép giết các phù thủy trong thế kỷ 13, và những tòa xử phù thủy không nhiều, nhưng sự điên cuồng không bắt lửa cho đến thế kỷ 15.  Năm 1484 Giáo hoàng Innocent VIII ban một sắc lệnh tuyên bố về sự hiện hữu tuyệt đối có thật của phù thủy – do đó nghi ngờ sự hiện hữu của phù thủy là lạc đạo [nghĩa là có thể bị các Tòa Hình Án xử dị giáo xử].  Truy tố phù thủy tăng lên vùn vụt.  Quan án đạo Cumanus thiêu sống 41 phụ nữ trong năm tới và một đồng nghiệp ở Piedmont nước Ý hành quyết 100 người.
 

   Sau đó không lâu, hai quan án đạo dòng Đa Minh, Jakob Sprenger và Heinrich Kramer, xuất bản cuốn sách ô nhục Malleus Maleficarum (Búa Phù Thủy) nêu ra một bản kinh cầu khủng khiếp về những hành động quỷ thuật của các phù thủy và những tiểu yêu , những thân nhân, ma quái, quỷ, quỷ đực, quỷ cái của chúng.  Cuốn sách mô tả những phù thủy đã làm hại mùa màng, ăn thịt trẻ con, làm ra bệnh tật, và làm phù chú như thế nào.  Cuốn sách chứa đầy những chuyện tình dục của phù thủy và coi phụ nữ như là xảo quyệt  và đáng khinh.  Jakob Sprenger và Heinrich Kramer viết: “Mọi phù thủy đều xuất thân từ sự khao khát xác thịt, điều mà phụ nữ không bao giờ thỏa mãn.”  Khoa tâm lý học hiện đại nhận ra dễ dàng chứng bấn loạn thần kinh của các linh mục này về tình dục nhưng trong nhiều thế kỷ cuốn sách của họ đã là cuốn chỉ nam chính thức cho các quan án đạo để đưa các phụ nữ đến những cái chết khủng khiếp. 
 

   Những cuộc săn lùng phù thủy nở rộ ở Pháp, Đức, Hung Gia Lợi, Tây Ban Nha, Ý, Thụy Sĩ, Thụy Điển và hầu như trên khắp mọi nơi ở Âu Châu – sau cùng lan tới Anh, Tô Cách Lan, và vùng thuộc địa Vịnh Massachusetts (Đông Bắc Mỹ).  Hầu hết các nạn nhân là phụ nữ đã già mà những hành động khác thường đã gây nên sự nghi ngờ trong láng giềng.  Một số khác còn trẻ, đẹp.  Vài người là đàn ông. Nhiều người trong lục địa Âu Châu chỉ là những công dân bình thường nhưng tên của họ là do những nạn nhân bị tra tấn khai ra [vì không chịu nổi sự tra tấn] khi được lệnh phải khai ra đồng bọn.
 

   Phương thức xử dị giáo tiêu chuẩn là cô lập và tra hỏi những người bị nghi ngờ là phù thủy – thêm vào một bước: những nạn nhân bị lột trần truồng, cạo hết lông trên người, và dùng mũi nhọn đâm dò trên người.  Cuốn Malleus Maleficarum chỉ rõ rằng mọi phù thủy đều mang trên người một “dấu của quỷ” không có cảm giác, mà người ta có thể dò ra được bằng cách đâm để dò bằng một vật nhọn.  Những quan án đạo cũng nhìn vào các đầu núm vú của “phù thủy”,  những vết chàm có thể là những đầu vú bí mật để cho các quỷ bú.

   Nếu tìm dò trên người không thấy thì sự tra tấn bắt đầu.  Móng tay bị rút ra.  Những miếng sắt nóng đỏ được áp vào ngực.    Nhà nghiên cứu Nancy Van  Vuuren viết: “Bộ phận sinh dục của phụ nữ đặc biệt hấp dẫn những người tra tấn phái nam”.  Thân thể bị căng trên giá hay trên bánh xe.  Erica Jong viết “Tay bị trật khớp xương và nạn nhân thường thú nhận có những thỏa thuận hoặc hội họp với quỷ.”  Hầu như mọi nạn nhân bị tra tấn như vậy đều thú tội – và bị hành quyết dựa trên sự thú tội này.
 

   Ở vùng Basque, Tây Ban Nha, hồ sơ ghi chép của giáo hội Công giáo ghi rõ là trong cuộc tra tấn, Maria ở Ituren đã thú nhận chính mình và các chị em phù thủy đã tự biến thành những con ngựa phi trên trời.  Ở một quận trong nước Pháp, 600 phụ nữ thú nhận là đã làm tình với quỷ.

   Tổng số phù thủy bị chết không thể biết được.  Một vài hồ sơ lịch sử còn hiện hữu; một số đã mất mát.  Các ghi chép viết 5000 phù thủy bị giết ờ tỉnh Alsace, 900 ở thị trấn Bamberg, 2000 ở Bavaria, 311 ở Vaud, 167 ở Grenoble, 157 ở Wurzburg, 133 trong một ngày ở Saxony.  Trong  vài làng mạc, phụ nữ bị tận diệt.
 

   Sự điên cuồng tiếp tục cho đến thế kỷ 18.  Ở Scotland, một bà già bị thiêu sống năm 1722 sau khi bị kết tội là đã biến đứa con gái mình thành con ngựa con rồi cưỡi nó đến dự cuộc họp của các phù thủy.  Ở Đức, một nữ tu bị thiêu giữa chợ ở Wurzburg năm 1749 sau khi các nữ tu khác chứng nhận là nữ tu này trèo qua tường của tu viện dưới dạng một con heo.  Cuộc hành quyết  phù thủy cuối cùng là ở Thụy Sĩ, vào năm 1782.  Tới thời kỳ này, nhiều khoa học gia và học giả đã nêu lên những nghi vấn về sự thực hữu của các phù thủy do đó chấm dứt sự điên cuồng [tiêu diệt phù thủy của giáo hội].

   Một sự khôi hài sâu đậm về những cuộc săn lùng phù thủy là chúng được chỉ đạo, không phải bởi những người man rợ mê tín, nhưng bởi những giám mục có học thức, những ông Tòa, giáo sư, và các cấp lãnh dạo khác trong xã hội.  Những thế kỷ ám ảnh bởi phù thủy cho thấy quyền năng khủng khiếp của những niềm tin vào siêu nhiên.  2
 

3.  Helen Ellerbe, The Dark Side Of Christian History, Chapter 8, The Witch Hunts, pp. 114-138: 
 

   Giáo hội Công giáo đã tạo ra một quan niệm tinh vi về sự thờ phụng quỷ và rồi dùng sự bạo hành của giáo hội để đối phó và quét sạch những người bất đồng ý kiến, đưa con người vào vòng kiểm soát độc đoán của giáo hội và công khai hạ thấp phụ nữ.

   Phải mất một thời gian lâu giáo hội mới làm cho xã hội tin rằng phụ nữ thường có khuynh hướng thờ phụng quỷ và làm những việc ác của phù thủy…Trong thế kỷ 13, giáo hội bắt đầu miêu tả phù thủy là nô lệ của quỷ..
 

   Giáo hoàng John XXII chính thức hóa sự bạo hành phù thủy năm 1320 khi ông ta cho phép tòa án xử dị giáo truy tố phù thủy.  Sau đó những sắc lệnh và tuyên ngôn của giáo hoàng càng ngày càng lên án mãnh liệt phù thủy.  Năm 1484 giáo hoàng Innocent VIII ban sắc lệnh Summis Desiderates cho phép hai quan án đạo Kramer và Spencer hệ thống hóa sự bạo hành phù thủy.  Hai năm sau, cuốn Búa Phù Thủy của họ được xuất bản, sau đó với 14 ấn bản trong khoảng 1487-1520 và ít nhất là 16 ấn bản trong khoảng 1574-1669.  Một sắc lệnh của giáo hoàng năm 1488 kêu họ mọi quốc gia ở Âu Châu hãy cứu giáo hội bị “nguy hại bởi những nghệ thuật của Satan”.  Giáo hoàng triều và cơ quan xử dị giáo đã thành công biến đổi phù thủy từ một hiện tượng mà trước đó giáo hội cực lực phủ nhận thành một hiện tượng có thực, rất đáng sợ, đối nghịch với Ki Tô Giáo, và tuyệt đối đáng bị bạo hành.
 

   Vì những tác giả cuốn Malleus Maleficarum ghi rằng: “Niềm tin vào sự hiện hữu của các phù thủy là phần cần thiết của đức tin Công Giáo nên bướng bỉnh không chịu tin như vậy là lạc đạo”.  Đoạn trong Thánh Kinh như “Ngươi không được để cho một phù thủy nào được sống sót” được viện dẫn để biện minh cho sự bạo hành phù thủy.  Cả Calvin và Knox [hai nhà lãnh đạo Tin Lành] đều tin rằng phủ nhận sự hiện hữu của phù thủy nghĩa là là phủ nhận quyền năng của Thánh Kinh.   Nhà sáng lập hệ phái Tin Lành Giám Lý trong thế kỷ 18, John Wesley, tuyên bố về những người nghi ngờ sự hiện hữu của phù thủy là: “loại bỏ sự hiện hữu của phù thủy là loại bỏ Thánh Kinh.”   Và một luật sư người Anh nổi tiếng viết: “Phủ nhận sự khả hữu, không, sự hiện hữu thực sự của phù thủy, là lập tức dứt khoát  tỏ sự mâu thuẫn với những lời mạc khải của thiên chúa trong nhiều đoạn trong Cựu Ước và Tân ước.”
 

   Sự bạo hành phù thủy đã giúp  kéo dài thời gian thu thập những lợi nhuận của những tòa án xử dị giáo của  giáo hội.  Những tòa án xử dị giáo đã khiến cho nhiều vùng suy sụp về kinh tế đến độ quan án đạo Eymeric phải than phiền: “Trong thời này, không còn những kẻ lạc đạo giầu có nữa.. thật là đáng tiếc là một định chế có ích lợi như của chúng ta lại không chắc về tương lai của nó.”  Thêm những tội ác của những phù thủy vào những người mà giáo hội bạo hành ngoài những kẻ dị giáo, những tòa án xử dị giáo có cả một nhóm người mới để có thể thu vét tiền bạc từ nhóm này và giáo hội lợi dụng tối đa cơ hội này.  Tác giả Barbara Walker ghi nhận:

  “Những nạn nhân phải trả tiền cho ngay cả sợi giây thừng trói họ và mớ củi thiêu sống họ.  Mỗi một phương cách tra tấn đều có một giá (mà nạn nhân phải trả).  Sau khi hành quyết một nạn nhân giầu có, các viên chức của giáo hội thường mở tiệc ăn mừng dùng tiền từ tài sản của nạn nhân.”

   Năm 1592, linh mục Cornelius Loos viết: “Những nạn nhân khốn khổ vì bị tra tấn tàn bạo bắt buộc phải thú nhận những điều họ chẳng bao giờ làm, và do đó những con người vô tội bị chết bởi cái lò sát sinh độc ác; và bằng thuật luyện kim mới, vàng bạc được lấy ra từ máu người.”  3
 

4.  Malise Ruthven, Torture: The Grand Conspiracy, Weidenfeld and Nicolson, London, p. 119:

  

   Cuốn Thánh Kinh chỉ đạo cho những kẻ sát nhân khủng khiếp này là cuốn “Búa Phù Thủy” ô nhục, một cuốn sách viết bởi hai linh mục cuồng tín dòng Đa Minh và xuất bản năm 1486.  Đối với các tác giả của cuốn sách, không có mánh khóe gian dối nào là thủ đoạn, không có sự tra tấn nào là quá mức khi dùng để lấy lời thú tội.  Cũng không có lý do nào được phép nghi ngờ hay nhân nhượng.  Phương châm của cuốn sách là: “Không tin có phù thủy là là lạc đạo nghiêm trọng nhất.”
 

   Một trong những “Búa” nổi tiếng nhất là triết gia – luật sư Pháp Jean Bodin (1529-96).  Có lẽ ông ta là người đầu tiên thảo ra định nghĩa “hợp pháp” về một phù thủy ~ “người đã biết luật của thiên chúa nhưng lại có những hành động với sự đồng thuận của Quỷ”

   Bodin hữu hiệu ghê gớm trong việc truy tố những người bị nghi ngờ là phù thủy.  Đích thân hắn ta tra tấn những em nhỏ và những người tàn tật để moi ra những lời thú tội, và tuyên bố rằng, thiêu sống những người bị kết án là phù thủy thì làm cho chúng chết quá mau đi ~ không lâu hơn nửa tiếng đồng hồ.  Năm 1580, vào cuối cuộc đời, Bodin viết cuốn Demonomanie [Hành Động Ác Ôn Của Quỷ].  Gay gắt và xảo quyệt hơn ngay cả đối với cuốn “Búa Phù Thủy” , cuốn đó được nhiều người đón nhận và được nhiều người đọc.
 

   Quan án đạo ở Lorraine,  Nicholas Remy, cùng thời với Bodin và, nếu không ngang hàng trí tuệ với Bodin, thì chắc chắn là ngang hàng với hắn về bạo hành.  Trong 15 năm xử án phù thủy hắn đã chịu trách nhiệm về sự hành quyết khoảng 900 người.

   Khi đứa con cả của hắn chết vào năm 1582, Remy nghi ngờ là do phù thủy làm, sau đó lên án và kết án một người hành khất mà hắn đã đuổi đi trước khi con hắn chết ít lâu.  Remy giải thích: “Những phù thủy có cách xảo trá nhất để đánh thuốc độc, vì tay của chúng đã thoa đầy thuốc độc, chúng nắm lấy quần áo của một người và do đó gài vào để hại người đó.”  Giống như Bodin, Remin về hưu với tư cách một người danh giá và viết một cuốn sách kể lại kinh nghiệm của mình.  Hắn ta thú nhận, điều đáng tiếc nhất trong đời của hắn là hắn không giết được nhiều hơn những con cái của phù thủy.

   Trong số những người đi săn phù thủy, người giết nhiều nhất là Giám mục dòng Tên Peter Binsfeld ở Suffragan, Trier, nước Đức, vào cuối thế kỷ 16.  Hắn là người năng nổ truy tố phù thủy và nhấn mạnh là tra tấn nhẹ là chẳng phải là tra tấn.  Người ta cho rằng Binsfeld chịu trách nhiệm về cái chết của 6500 đàn ông, đàn bà và trẻ con.  Bản Luận Về Những Lời Thú Tội Của Những Ác Nhân và Phù Thủy được nhiều người cùng thời coi như là một tài liệu hợp pháp.  Ít người dám cất lên tiếng nói để chống đối nghiệp vụ đẫm máu về săn lùng phù thủy.  Khi học giả Hà Lan Cornelius Loos, khủng khiếp trước sự quá độ của Binsfeld trong việc cho phép giết người theo phán quyết của hắn, toan tính phản đối nhân danh nhân loại, thì ông ta bị lên án và phải công khai sửa sai trước quần chúng.
 

   Sự kiện là hầu hết những người săn lùng phù thủy thành thực tin vào sự chính đáng của những công cuộc đeo đuổi giết người đó cũng không làm cho cái lôgíc tai ác của họ, thiên kiến cực đoan và phương pháp bất nhân của họ kém kinh khủng đối với chúng ta ngày nay. 

   Henri Boguet (1550-1619),  một luật sư người Pháp được biết là đã tiêu diệt khoảng 600 “phù thủy”,  đã giúp kết án một người sùng tín căn cứ trên cây thánh giá bà ta đeo trên chuỗi tràng hạt có một vết nhỏ trên đó ~ một dấu chỉ rõ ràng mà Boguet nói rằng cái đó chứng tỏ là bà ta là đồng bọn với quỷ.

   Pierre de Lancre, viên chức săn lùng phù thủy trong vùng Basque của Vua Pháp Henry IV,  cũng giỏi trong việc dò ra được sự hiện diện của phe phái Satan.  Vì những lý do mù mờ có vẻ như liên hệ đến vấn đề tình dục, de Lancre tin rằng tất cả 30000 người dân (gồm cả các linh mục) trong địa phận Labourd đều là phù thủy.

   Khi người dân nghe được tin này, hàng ngàn người đã bỏ nhà chạy khỏi, một số di dân xa đến tận Newfoudland để thoát khỏi cuộc truy tố không thể tránh được.  Trong vòng 4 tháng, de Lancre thiêu sống khoảng 600 người còn lại trong địa phận, rồi hắn ta vinh quang trở lại Paris và được Vua Henry tạ ơn phong cho chức cố vấn quốc gia.
 

   Người Anh săn lùng phù thủy nổi tiếng nhất là một luật sư thất bại, theo hệ phái Thanh Giáo Tin Lành, tên là Matthew Hopkins.  Không như các đồng nghiệp săn lùng phù thủy, trong một thời gian ngắn vào thập niên 1640 hắn chỉ có thể giết vào khoảng 600 người.  Ngoài ra, vì một sắc lệnh của Quốc hội, hắn ta bắt buộc phải bỏ phương pháp đầu tiên của hắn dùng để tìm ra phù thủy: ném những người bị nghi ngờ là phù thủy đã bó chặt lại xuống sông xem có nổi hay không, nếu chúng nổi thì đúng là phù thủy, vì quỷ đã đỡ chúng. [Lẽ dĩ nhiên không có ai nổi và sẽ bị chết chìm]… Một trong những phương pháp hắn dùng thành công nhất là tra tấn tâm lý: các nạn nhân bị bắt buộc phải đi không ngừng, không được ăn, ngủ cho đến khi kiệt sức hay trở thành mê sảng, và thú nhận là phù thủy.  4

  

   Trên đây chỉ là vài tài liệu trong số hàng trăm tài liệu về vài chi tiết của những cuộc săn lùng phù thủy của Ki Tô Giáo. Hiển nhiên là tuyệt đại đa số tín đồ Ki Tô Giáo, Công Giáo cũng như Tin Lành, không hề biết đến những trang sử đen tối của Ki Tô Giáo nói chung.  Vì vậy, họ vẫn hãnh diện tự cho là mình được ở trong những “Hội Thánh Ki Tô”.  Hi vọng ánh sáng của những sự thật lịch sử trong Ki Tô Giáo sẽ giúp họ hiểu rõ hơn về chính tôn giáo của họ, và từ đó sẽ có một thái độ khác hơn, khiêm nhường hơn đối với những người phi Ki-Tô và các tôn giáo khác, những tôn giáo mà lịch sử truyền đạo chưa từng bị vấy một giọt máu.

 

    Để kết luận, tôi xin trích dẫn nhận định của Aldous Huxley trong cuốn The Devis of Loudun, xuất bản năm 1952, một cuốn sử viết về quỷ ám, mê tín và cuồng tín tôn giáo trong thế kỷ 17 ở Pháp, dựa trên những biến cố trong tỉnh nhỏ Loudun. [It is a historical account of demonic possession, superstition and religious fanaticism in seventeenth-century France, based on events which took place in the small town of Loudun]:
 

   Điều đáng sợ nhất, và lố bịch nhất, là đầu óc của những kẻ bảo thủ Ki Tô Giáo có thể viện vấn đề “tâm linh” ra để biện minh cho những sự độc ác như vậy, cho bất cứ nguyên nhân nào.

   Sự ngu xuẩn và mê tín của những kẻ bảo thủ Ki Tô Giáo lên cao đến cực điểm vào thế kỷ 17, được khuyến khích, xúi giục bởi giáo hội, vì giáo hội dạy rằng có quỷ ở khắp nơi, và bất cứ hiện tượng nào khác lạ đều có thể là kết quả hành động của quỷ.  Mưa đá, gió lớn, rận chấy, sữa trở thành chua, hay một con lừa khó bảo đều có thể quy trách cho người phụ nữ láng giềng.  Tỏ ý nghi ngờ về sự hiện hữu của các phù thủy thì có giá trị như chính mình là quỷ, và bất cứ người nào tỏ ý chống đối đều bị nghi ngờ, canh chừng, và coi là phù thủy.

   Sự ám ảnh của Ki Tô Giáo về Quỷ và phù thủy thực sự đã cổ vũ và tăng gia sự đàn áp của Ki Tô Giáo; và như là trước đây, ngày nay cũng vậy.

   “Để biện minh cho những hành động của họ, họ đã biến những lý thuyết của họ thành những tín điều, những quy chế của họ thành những nguyên lý căn bản, những lãnh đạo chính trị của họ thành những Thiên chúa, và tất cả những người không đồng ý với họ đều là hiện thân của quỷ.  Sự biến đổi để mà sùng bái cái tương đối thành cái tuyệt đối, nhân bản thành thần bản, đã làm cho họ có thể say đắm trong những tình cảm đam mê xấu xa đáng sợ nhất với một lương tâm yên ổn và trong niềm tin chắc là đang phục vụ cho Thượng đế. Và khi những niềm tin đó tự chúng trở thành ngu mê, thì một tập hợp những niềm tin mới sẽ được phát minh ra để cho những sự điên rồ khi xưa có thể tiếp tục mang những bộ mặt quen thuộc của tính hợp pháp, của lý tưởng, và của tôn giáo chân thật.  5
 

  
 

1.  Milton Meltzer, Witches and Witch-Hunts: A History of Persecution, The Blue Sky Press, New York, 1999:   A witchcraft craze lasting more than 400 years – from the 14th through the 17th centuries – caused the deaths of millions in Europe, the great majority of them women.  The craze arose in the Middle Ages and lasted well into the Age of Reason.  Long after, in the 20th century, the Nazi dictator, Adolf Hitler, led an organized campaign of persecution – often called a witch-hunt – of the Jews in Germany and Europe that led to the deaths of six million men, women, and children.

The Bible of witch-hunting appeared in 1486..  It was a book of great length called the Malleus Maleficarum, or Hammer of Witches.  The first printed encyclopedia of magic and witchcraft, it was written by two Dominician priests of Germany, Heinrich Kramer and Jacob Sprenger.

   Two years earlier, Pope Innocent VIII had authorized the two priests to wipe out witchcraft in Germany.  Their manual on persecution was a tool in the hand of every judge and witch-hunter for three centuries.  The Malleus was reprinted in 14 editions very quickly.  It became one of the most influential of all early printed books.  The Malleus begins by challenging the opinion that witches do not really exist.  The true faith, it says, “teaches us that certain angels fell from heaven and are now devils” who “by their very nature…can do many wonderful things we cannot do.”  The authors state that Satan and demons can do harm by themselves, or by acting with or through witches.  It dealt in much detail with the practice of witchcraft and with the judicial procedures to be used against it.

   The two priests spoke from experience, for they themselves had tried 50 people for witchcraft, 48 of whom were women.  The Malleus became the authoritative guide to organized witch-hunting.  The hunts were initiated, and carried out by church and state…The Malleus told how to use torture to force confession and further accusations.  The common practice was to strip the accused naked, shave off all her body hair, subject her to thumbscrew and the rack, to spikes and bone-crushing devices, and to beat her and starve her.

   When the whirlwind of persecution descended in the 15th century, the toll was immense. Nicholas Remy, a judge from Lorraine, France, who presided over witch trials, wrote that after spending much time grilling witches, he knew that “they are justly to be subjected to every torture and put to death in the flames.. and that its very awfulness may serve as an example and a warning to others.”  Remy sent between two and three thousand victims to the stakes between 1595 and 1616…

   Torquemada (1420-1498), the Spanish churchman known as the Grand Inquisitor, is credited personally with burning more than ten thousand people and with condemning another 97 thousand in less than two decades.

   For 12 years, from 1581 to 1593, witch persecutions raged through the cathedral city of Trier in Germany.  The bishop of Trier, Peter Binsfield, ordered the death of some 6000 people..

   In the 1620s the area of Wurzburg, Germany, saw spectacular examples of wholesale extermination.  The bishop of Wurzburg burned 900 people for witchcraft…The archbishop of Trier burned 268 witches from 22 villages between 1587 and 1593.  In two of these villages, by 1595 only one woman was left alive.

   Jews were another group that suffered especially during the height of the witch-hunts.  In the New Testament, John 8:44 calls the Devil the father of the Jews.  It is in Revelation 2:9 and 3:9 that the “synagogue of Satan” is first mentioned.  Church leaders accused Jews of worshiping Satan and giving their children to the demons..

   In England, under the Protestant rulers Henry VIII and Elizabeth I, persecution was severe.  And they were not the only Protestant rulers to break bones on the rack or brand with hot irons.  In the Netherlands, too, the whip, steel pincers, and burning at the stake were much in evidence.

   Martin Luther, who lived from 1483 to 1546 and was the founder of Protestantism, reinforced the superstition of his time.  His writings testify to the Devil’s assaults upon him, and he often refers to the evil actions of witches – among them he includes his opponents.  He thought the power of witches was awesome; he once wrote, “I should have no compassion on these witches, I would burn all of them.”

   Spurred on by the Malleus, Germany had the worst history of witchcraft persecution, but other countries – France, Switzerland, Sapin, Sweden, Scotland – all swelled the total number of murders.  When the terror reached its peak, doubters felt obliged to voice a belief in witches.  Denying the existence of witchcraft placed people in great danger of themselves being accused.

2.  James A. Haught, Holy Horrors: An Illustrated History of religious Murder and Madness, Prometheus Books, New York, 1990, p.73-76:  During the 1400, the Holy Inquisition shifted its focus toward witchcraft, and the next three centuries witnessed a bizarre orgy of religious delusion.  Agents of the Church tortured untold thousands of women, and some men, into confessing that they flew through the sky on demonic missions, engaged in sex with Satan, turned themselves into animals, made themselves invisible, and performed supernatural evils.  Virtually all the accused were put to death. 

   Pope Gregory IX originally authorized the killing of witches in the 1200s, and random witch trials were held, but the craze didn’t catch fire until the 15th century.  In 1484 Pope Innocent VIII issued a bull declaring the absolute reality of witches – thus it became heresy to doubt their existence.  Prosecutions soared.  The inquisitor Cumanus burned 41 women the following year, and a colleague in the Piedmont of Italy executed 100.

   Soon afterward, two Dominician inquisitors, Jakob Sprenger and Heinrich Kramer, published their infamous Malleus Maleficarum (Withches’ Hammer) outlining a lurid litany of magical acts performed by witches and their imps, familiars, phantoms, demons, succubi, and incubi.  It described how the evil women blighted crops, devoured children, caused disease, and wrought spells.  The book was filled with witches’ sexual acts and portrayed women as treacherous and contemptible.  “All witchcraft comes from carnal lust, wich is in women insatiable,” they wrote.  Modern psychology easily perceives the sexual neusoris of these priests – yet for centuries their book was the official manual used by the inquisitors sending women to horrible deaths.

   Witch-hunts flared in France, Germany, Hungary, Spain, Italy, Switzerland, Sweden, and nearly every corner of Europe – finally reaching England, Scotland, and the Massachusetts Bay Colony.  Most of the victims were old women whose eccentricities roused  suspicions of neighbors.  Others were young, pretty women.  Some were men.  Many in the continental Europe were simply citizens whose names were shrieked out by torture victims when commanded to identify fellow witches. 

   The standard Inquisition procedure of isolating and grilling suspects was followed – plus an added step: the victims were stripped naked, shaved of all body hair, and “pricked”.  The Malleus Maleficarum specified that every witch bore a numb “devil’s mark”, which could be detected by jabbing with a sharp object.  Inquisitors also looked for “witches’ tits”, blemishes that might be secrets nipples whereby the women suckled their demons.

   If the body search failed, the torture began.  Fingernails were pulled out.  Red-hot tongs were applied to breasts.  “The women’s sex organ provided special attraction for the male torturer,” researcher Nancy Van Vuuren wrote.  Bodies were stretched on racks and wheels.  “Arms came out of sockets and trysts with the Devil came out of the unlikeliest mouths”, novelist Erica Jong wrote.  Virtually every mangled and broken victim confessed – and was executed on the basis of the confession.

   In the Basque region of Spain, church records dutifully report that Maria of Ituren admitted under torture that she and sister witches turned themselves into horses and galloped through the sky.  In a district of France, 600 women confessed to copulating with demons.

  The complete death toll is impossible to learn.  Some historical records exist; others are gone.  Various accounts say 5000 witches were killed in the province of Alsace, 900 in the city of Bamberg, about 2000 in Bavaria, 311 in Vaud, 167 at grnoble, 157 at Wurzburg, 133 in a single day in Saxony.  Some entire villages were exterminated.

   The mania continued until the 18th century.  In Scotland, an old woman was burned in 1722 after being convicted of turning her daughter into a pony and riding her to a witches’ coven.  In Germany, a nun was burned alive in the marketplace of Wurzburg in 1749 after other nuns testified that she climbed over convent walls in the form of a pig.  The last legal execution of a witch occurred in Switzerland in 1782.  By that time, various scientists and scholars had raised enough doubt about the reality of witchcraft to bring an end to the madness.

   A profound irony of the witch-hunts is that they were directed, not by superstitious savages, but by learned bishops, judges, professors, and other leaders of society.  The centuries of witch obsession demonstrated the terrible power of supernatural beliefs.

3.  Helen Ellerbe, The Dark Side Of Christian History, Chapter 8, The Witch Hunts, pp. 114-138:  The Church created the elaborate concept of devil worship and then, used the persecution of it to wipe out dissent, subordinate the individual to authoritarian control, and openly denigrate women…

   It took the Church a long time to persuade society that women were inclined toward evil witchcraft and devil worship… In the 13th century the Church began depicting the witch as a slave of the devil…

   Pope John XXII formalized the persecution of witchcraft in 1320 when he authorized the Inquisition to prosecute sorcery.  Thereafter papal bulls and declarations grew increasingly vehement in their condemnation of witchcraft.   In 1484 Pope Innocent VIII issued the bull Summis Desiderates authorizing two inquisitores Kramer and Sprenger, to systematize the persecution of witches.  Two years later their manual, Malleus Maleficarum, was published with 14 editions following between 1487-1520 and at least 16 editions between 1574-1669.  A papal bull in 1488 called upon the nations of Europe to rescue the Church of Christ which was “imperiled by the arts of Satan”.  The papacy and the Inquisition had successfully transformed the witch from a phenomenon whose existence the Church had previously rigorously denied into a phenomenon that was deemed very real, very frightening, the antithesis of Christianity, and absolutely deserving of persecution.

   It was now heresy not to believe in the existence of witches.  As the authors of the Malleus Maleficarum noted, “A belief that there are such things as witches is so essential a part of Catholic faith that obstinately to maintain the opposite opinion savors of heresy.”  Passage in the Bible such as “Thou shalt not suffer a witch to live” were cited to justify the persecution of witches.  Both Calvin and Knox believed that to deny witchcraft was to deny the authority of the Bible.  The 18th century founder of Methodism, John Wesley, declared to those skeptical of witchcraft, “The giving up of witchcraft is in effect the giving up of the Bible.  And an  eminent English lawyer wrote, “To deny the possibility, nay, actual existence of witchcraft and sorcery, is at once flatly to contradict the revealed word of God in various passages both of the Old and New Testament.
   The persecution of witchcraft enabled the Church to prolong the profitability of the Inquition.   The Inquisition had left regions so economically destitute that the inquisitor Eymeric complained, “In our days there are no more rich heretics..it is a pity that so salutary an institution as ours should be so uncertain of its future.”  By adding witchcraft to the crimes it persecuted, however, the Inquisition exposed a whole new group of people from whom to collect money.  It took every advantage of this opportunity.  The auther Barbara Walker notes:
   “Victims were charged for the the very ropes that bound them and the wood that burned them.  Each procedure of torture carried its fee.  After the execution of a wealthy witch, officials usually treated themselves to a banquet at the expense of the victim’s estate”
   In 1592 Father Cornelius Loos wrote:
   “Wretched creatures are compelled by the severity of the torture to confess things they have never done.. and so by the cruel butchery innocent lives are taken; and, by a new alchemy, gold and silver are coined from human blood.”

4.  Malise Ruthven, Torture: The Grand Conspiracy, Weidenfeld and Nicolson, London, p. 119:

The bible of these macabre killers was the infamous Malleus Maleficarum (Hammer of Witches), a book written by two fanatical Dominican priests and published in 1486. For the book's authors no deceit was too devious, no torture too extreme to be used in the pursuit of confessions. Nor was there any room for skepticism or moderation; "Not to believe in witchcraft," read the book's motto, "is the greatest of heresies."

One of the most famous of the Malleus was the French lawyer-philosopher Jean Bodin (1529-96). Possibly the first to formulate a "legal" definition of a witch ~ "someone, who, knowing God's laws, tries to bring about some act through an agreement with the Devil"

Bodin was hideously efficient in his prosecution of suspected witches. He personally tortured young children and invalids in the effort to extract confessions, and proclaimed that burning condemned witches brought death too quickly ~ in not much more than half an hour. In 1580, towards the end of his life, Bodin wrote a book of his own, Demonomanie. Harsher and more insidiously circumstantial even than the Malleus, it was well received and widely read.

The inquisitor of Lorraine, Nicholas Remy, was Bodin's contemporary and, if not his intellectual equal, certainly his persecutional peer. During 15 years of judging witchcraft cases he was responsible for the execution of approximately 900 people.

When his eldest son died in 1582, Remy inevitably suspected witchcraft, later accusing and condemning a beggar whom he had turned away shortly before his son's death. As Remy explained, "Witches have a most treacher manner of applying their poison, for having their hands smeared with it, they take hold of...a man's garment as it were to entreat and propitiate him." Like Bodin, Remy retired an honoured man and wrote a book about his experiences. His main regret in life, he confessed, was that he did not kill more witch children.

By far the most lethal of the witch hunters was Jesuit-trained Peter Binsfeld, Suffragan Bishop of Trier, Germany, in the late 16th century.

A relentless witch prosecutor who insisted that "light" torture amounted to no torture at all. Binsfeld is said to have been responsible for the deaths of about 6,500 men, women and children.

His Treatise on Confessions by Evildoers and Witches was considered by many of his contemporaries to be one of the great legal works of it's day. Few voices were raised in opposition to the bloody business of witch hunting. When Dutch scholar Cornelius Loos, horrified at the enormity of Binsfeld judicially sanctioned murders, attempted to protest in the name of humanity, he was condemned and made to recant publicly.

The fact that most of the witch hunters sincerely believed in the rightness of their murderous pursuits does not make their perverse logic, immoderate prejudice and inhumam methods any less horrifying today.

Henri Bogeut (1550-1619), a French lawyer credited with exterminating about 600 "witches", was, for example, able to help condemn one pious suspect on the grounds that the crucifix she wore on her rosary had a minute flaw in it ~ a clear indication, said Boguet, that she was in league with the devil.

Pierre de Lancre, French King Henry 1V's official witch hunter in the Basque country, was equaly skilled at detecting the presence of of Satanism. For reasons that are obscure but that seem to have had morbid sexual undertones, de Lancre became convinced that all 30,000 (including priests) inhabitants of the Labourd district were witches.

When news of de Lancre's conclusions became known, thousands fled their homes, some emigrating as far as Newfoundland to escape the inevitable conflagration. In the space of four months de Lancre burned some 600 of the people who remained, then returned to Paris in triumph to be made state counselor by a grateful King Henry.

The most notorious of the English witch hunters was a puritanical, failed lawyer named Matthew Hopkins.

Unlike some of his counterparts on the Continent, Hopkins, who flourished for a relatively brief period in the 1640s, only managed to kill about 600 people. In addition, because of a parliamentary decree, he was obliged to forgo his early method of identifying witches ~ throwing the suspects, trussed, into a river to see if they floated, if they did they were considered guilty, as the devil was supporting them…

One of the methods he used most successfully was a form of psychogical torture, in which victims were forced to walk constantly, without food or sleep, until, exhausted or delirious, they confessed to witchcraft.

5. (Aldous Huxley, The Devils of Loudun, 1952, Harper and Brothers, N.Y.): The scariest part is the fundamentalist mind that could justify such cruelty, for any cause, most ironically, a 'spiritual' one.

Fundamentalist ignorance and superstition reached a peak in the 1600's, instigated by the church, who taught that the Devil was everywhere, and that any undesireable manifestation could be and probably was the result of witchcraft and devils. Hail, wind, lice, sour milk, or a difficult mule could all be blamed on the woman next door. Expressing doubt about the existence of witches was tantamount to being a witch, and anyone voicing opposing opinions was suspect, to be watched, and targeted.

The Christian obsession with the Devil and witchcraft actually fostered and propagated what they tried so hard to repress; and as it was then, it is today.

"In order to justify their behavior, they turn their theories into dogmas, their bylaws into First Principles, their political bosses into Gods and all those who disagree with them into incarnate devils. This idolatrous transformation of the relative into the Absolute and the all too human into the Divine, makes it possible for them to indulge their ugliest passions with a clear conscience and in the certainty that they are working for the Highest Good. And when the current beliefs come, in their turn, to look silly, a new set will be invented, so that the immemorial madness may continue to wear its customary mask of legality, idealism, and true religion."
 

Tài Liệu Tham Khảo:
 

AI = Arthur Frederick Ide, Unzipped The Popes Bare all:  A Frank Study of Sex & Corruption in the Vatican,  AAP, Inc., Austin, Texas, 1987.

BB = Joanne Carlson Brown & Carole R. Bohm, Editors, Christianity, Patriarchy, and Abuse:  A Feminist Critique, The Pilgrim Press, Cleveland, Ohio, 1989.

EB = Ernie Bringas, Going By The Book, Past and Present Tragedies of Biblical Authority, Hampton Roads Publishing Company, Inc., Charlottesville, VA, 1996.

GW = Gary Wills, Papal Sin, Doubleday,New York, 2000

HE = Helen Ellerbe, The Dark Side of Christian History, Morningstar and Lark, Orlando, FL., 1995

I = Internet, Tài liệu trên Internet

JD = John Dollison, Pope-Pouri, A Fireside Book, New York, 1994

JH = James A. Haught, Holy Horrors: an Illustrated History of Religious Murder and Madness, Prometheus Books, New York, 1990.

JS = John Shelby Spong, Rescuing the Bible From Fundamentalism: A Bishop rethinks The Meaning of Scripture, Harper, San Francisco, 1991.

MM = Milton Meltzer, Witches and Witch-Hunts: A History of Persecution, The Blue Sky Press, New York, 1999.

MR = Malise Ruthven, Torture: The Grand Conspiracy, Weidenfeld and Nicolson, London, p. 119

NC = Norman Cohn, Europe’s Inner Demons, Paladin Book, Sussex University Presss, Great Britain, 1975

PR = Peter de Rosa, Vicars of Christ:  The Dark Side of the Papacy, Crown Publishers, Inc., New York, 1988.

TQN = Trần Quý Nhu, Búa Phù Thủy [Chuyển ngữ từ cuốn Malleus Maleficarum của hai linh mục Heinrich Kramer và James Sprenger], Giao Điểm, 2003.
UH = Uta Ranke-Heinemann, Eunuchs For The Kingdom of Heaven,  The Book that accuses the Roman Catholic Church of degrading women and undermining the sexuality of believers, Penguin Books, New York, 1990.
 

0 nhận xét:

Đăng nhận xét