Trần Chung Ngọc
PHẦN IV :
NÚI
TỘI ÁC THỨ BỐN CỦA CÔNG GIÁO:
[300+]
NĂM SĂN LÙNG PHÙ THỦY
Phần IV (2):
Những Biện Pháp Săn Lùng Và Tiêu Diệt Phù Thủy:
Jakob
Sprenger và Heinrich Kramer, tác giả cuốn Búa Phù Thủy
(Malleus Maleficarum):
“Chưa từng biết có một người vô tội nào bị trừng phạt vì nghi ngờ là phù thủy,
và không còn nghi ngờ gì là Thượng đế sẽ không bao giờ cho phép việc đó xảy ra.”
(It
has never yet been known that an innocent person has been punished on suspicion
of witchcraft, and there is no doubt that God will never permit such a thing to
happen.)
Ronald Seth trong Witches and Their Craft:
“Công lý đã sai lầm và nhiều ngàn nam nữ chết vì những bằng chứng kết tội ngụy
tạo của những kẻ đố kỵ hoặc trả thù ”
(Justice was perverted and thousands of innocent man and women died on the
false evidence of envious or vengeful accusers.)
Mark Twain trong Europe and Elsewhere:
“Có
những phù thủy trong nhiều thời đại. Thánh Kinh viết vậy. Thánh
Kinh ra lệnh không được để cho các phù thủy sống sót. Do đó, Giáo hội thu thập
những giây thòng lọng, những cái kẹp ngón tay, và củi lửa, rồi khởi sự công cuộc
thánh thiện trong sự hăng say nhất.. [để tra tấn, treo cổ và thiêu sống các
nạn nhân] Rồi người ta khám phá ra rằng chẳng có cái gì là phù thủy, và
chưa từng bao giờ có phù thủy. Người ta không biết nên cười hay khóc”
(During many ages there were witches. The Bible said so. The Bible
commanded that they should not be allowed to live. Therefore, the
Church…gathered up its halters, thumbscrews. and firebrands, and set about its
holy work in earnest.. Then it was discovered that there was no such thing as
witches, and never had been. One does not know whether to laugh or cry.)
Clifford
Lindsey Alderman trong The Devil’s Shadow:
“Quy tội (phù thủy) cho hàng trăm nam nữ thật là vô nghĩa, và những phiên
xử án chỉ là những trò hề công lý.”
(The
charges brought against the hundreds of women and men were senseless, and the
trials themselves travesties of justice.)
*
Trong Phần IV (1) viết về nguyên nhân của chủ trương săn lùng và giết hại phù
thủy của giáo hội Công Giáo trong 300 năm ở Âu Châu, tôi đã đưa ra nhận định của
một trí thức đạo gốc, Charlie Nguyễn, như sau:
Giáo hoàng và bọn quan án đạo đã vận dụng cái ngu và cái ác của Thiên
Chúa trong Kinh Thánh hợp với cái ngu và lòng mê tín ác nghiệt của chúng để tạo
thành một căn bản luật pháp tôn giáo. Bọn chúng đã dám dựa
vào cái lòng tin ngu xuẩn của chúng để ra lệnh tàn sát bao nhiêu ngàn sinh linh!
Trong 300 năm, từ 1450 đến 1750, ít nhất cũng có 200,000 phụ nữ bị thiêu sống
dưới cái tội danh “phù thủy” vu vơ, không có thật. Tội danh này thật sự đã được
tạo ra do sự tưởng tượng của những kẻ nặng đầu óc mê tín mà thôi.
Sau đây chúng ta hãy đi vào một số chi tiết về thời kỳ mấy trăm năm săn lùng
và giết hại phù thủy này mà R. H. Robbins đã gọi là: “Cơn ác mộng làm mọi
người sửng sốt, tội ác nhơ nhuốc nhất và sự ô nhục sâu thẳm nhất của nền văn
minh Tây phương” (The shocking nightmare, the foulest crime and deepest
shame of Western civilization), một thời kỳ “đã sinh sản ra một đám kỳ cục
những con quỷ người ~ những người săn lùng phù thủy ~ đặc biệt là những
con quỷ người này thường lại là các giám mục, linh mục, mục sư, nhà thần học,
luật sư, y sĩ v..v.. trong Ki Tô Giáo, những người tự cho là đã ở trong một
“hội Thánh” thánh thiện, trong người tràn đầy Thánh Linh. “
Đọc những tài liệu về “cơn ác mộng” trên, chúng ta không thể tưởng tượng được
là tại sao một tôn giáo, theo định nghĩa là phải có mục đích hướng dẫn tâm
linh con người theo sự thăng tiến của trí tuệ và đạo đức, nhưng ngược lại, lại
nhốt con người vào những tù ngục tâm linh tăm tối, cùng lúc lại có những hành
động vô cùng độc ác đối với nhân loại. Vậy thực chất Ki Tô Giáo có phải là
một tôn giáo hay không, và những tín đồ Ki Tô Giáo nghĩ sao về cái “lịch
sử tội ác nhơ nhuốc nhất và sự ô nhục sâu thẳm nhất” của tôn giáo mà
mình đang theo. Trên thế gian từ xưa tới nay không thiếu gì những sự bạo hành ở
khắp nơi, trong những chế độ phong kiến và quân phiệt, và ngay trong thời đại
này trong sách lược xuất cảng dân chủ của Mỹ. Nhưng tại sao những sự bạo
hành vô tiền khoáng hậu đó lại nằm trong chính sách của một tôn giáo?
Mà tôn giáo này lại do Chúa thành lập, một vị Chúa “quá thương yêu thế gian”
theo như lời rao giảng của giáo hội cho đám tín đồ ở dưới, và một số không nhỏ
các giáo hoàng thừa kế tự nhận là đại diện của Chúa trên trần (Vicars of
Christ) nhưng lại phạm đủ mọi tội ác trên thế gian, những tội ác mà những người
không hề biết đến Chúa không bao giờ có thể phạm. Ai có thể giải thích tại
sao và cho tôi biết thực chất của Ki Tô Giáo là như thế nào, xin lên tiếng.
Phải chăng các tín đồ Ki Tô Giáo đã bị mờ mắt trước những cái bánh vẽ “cứu rỗi”,
“thiên đường” mà không nhìn thấy những sự việc sờ sờ ngay trước mắt trong tôn
giáo của mình?
Giáo hội Công giáo cố che dấu lịch sử của giáo hội, nhưng Giê-su đã từng nói,
Mark 4:22: “Không có gì được che dấu mà không bị phanh phui ra, cũng như
không có gì được giữ bí mật mà không bị đưa ra ánh sáng.” [Mark 4:22:
"For there is nothing hidden which will not be revealed, nor has anything been
kept secret but that it should come to light."]
Vậy, sau đây chúng ta hãy đưa ra ánh sáng một số chi tiết về các cuộc săn
lùng phù thủy của giáo hội Công Giáo thánh thiện tông truyền. Các tài liệu
này đều là của các nghiên cứu gia trong giáo hội cũng như ngoài giáo hội ở Tây
phương, không có một tài liệu nào của Phật Giáo hay của Cộng Sản [Tôi xin
nhấn mạnh điểm này], do đó những luận điệu chống đối lố bịch như nhân danh
Phật Giáo để gây chia rẽ tôn giáo, hay theo sách lược chống Thiên Chúa Giáo của
Cộng Sản v..v… đều chỉ là những luận điệu chụp mũ vu vơ của những kẻ hạ căn,
thiển cận, không thuộc hàng ngũ trí thức. Và đây cũng chỉ là vài tài liệu điển
hình trong số hàng trăm các tài liệu viết về một trang sử ô nhục nhất của Ki Tô
Giáo.
1. Milton Meltzer, Witches and Witch-Hunts: A History of Persecution,
The Blue Sky Press, New York, 1999:
Một cuộc săn lùng phù thủy điên cuồng , kéo dài hơn 400 năm – từ thế
kỷ 14 qua thế kỷ 17 – đã giết hại nhiều triệu người ở Âu Châu, tuyệt đại đa
số là phụ nữ. Sự điên cuồng này khởi sự trong thời trung Cổ và kéo dài cho
tới Thời Đại Lý Trí. Lâu sau đó, trong thế kỷ 20, nhà độc tài Đức Quốc Xã,
Adolf Hitler, đã chỉ đạo một chiến dịch bạo hành có tổ chức – thường gọi là săn
lùng phù thủy – những người Do Thái ở Đức và Âu Châu đưa đến cái chết của 6
triệu người đàn ông, đàn bà và con trẻ.
Cuốn Thánh Kinh chỉ đạo cuộc săn lùng phù thủy xuất hiện năm 1486.. Đó là một
cuốn sách dày gọi là Búa Phù Thủy (Malleus Maleficarum). Đây là cuốn
sách đầu tiên về ảo thuật và phù thủy, viết bởi hai linh mục dòng Đa Minh ở Đức:
Heinrich Kramer và Jacob Sprenger.
Hai năm trước, Giáo Hoàng Innocent VIII đã cho phép hai ông linh mục này
quét sạch phù thủy ờ Đức. Cuốn sách chỉ nam về bạo hành này đã là một dụng
cụ ở trong tay mọi ông tòa xét xử phù thủy và mọi kẻ săn lùng phù thủy trong 3
thế kỷ. Cuốn Búa Phù Thủy đã được tái bản 14 lần. Nó trở thành một cuốn
sách có ảnh hưởng nhất trong những cuốn sách đã được in ra trước đó. Cuốn sách
mở đầu bằng sự phản bác quan niệm về sự không hiện hữu của phù thủy. Cuốn sách
viết, đức tin chân thật dạy rằng có một số thiên thần sa ngã từ thiên đường
xuống và nay trở thành quỷ và do bản chất quỷ của chúng, chúng có thể làm
những việc phi thường mà chúng ta không làm được. Các tác giả trên viết rằng
Satan và các quỷ có thể tự chúng làm những điều tác hại, hoặc cùng với, hoặc qua
các phù thủy để tác hại. Cuốn sách mô tả những chuyện phù thủy có thể làm và
những phương thức chống phù thủy.
Hai linh mục trên viết ra từ những kinh nghiệm của mình, vì chính họ đã
đích thân xử 50 phù thủy trong đó 48 là phụ nữ. Cuốn Búa Phù Thủy
trở thành quyền hành chỉ đạo cho những cuộc săn lùng phù thủy có tổ chức.
Những cuộc săn lùng phù thủy được phát động và thi hành bởi giáo hội và
chính quyền [trong thời mà thần quyền đứng trên chính quyền]. Cuốn Búa
Phù Thủy dạy phải tra tấn nạn nhân như thế nào để cưỡng bách họ phải thú tội
rồi kết án họ ra sao. Cách tra tấn thông thường là lột trần truồng người
phụ nữ bị cho là phù thủy, cạo hết lông trên người, rồi dùng cái kẹp ngón tay,
giá căng người, những hình cụ có đinh dài nhọn hoặc dùng để nghiền gẫy xương, và
đánh đập hoặc bỏ đói.
Khi
cơn lốc bạo hành đi vào thế kỷ 15, số nạn nhân thật nhiều vô kể. Nicholas
Remy, một quan án đạo ở Lorraine, Pháp, chủ tọa các cuộc xử án phù thủy,
viết rằng sau một thời gian tra tấn phù thủy, ông ta biết rằng “chúng xứng
đáng chịu mọi sự tra tấn và rồi thiêu sống… và những cảnh khủng khiếp này có thể
dùng làm gương và cảnh báo cho những người khác.”
Remy đã thiêu sống từ 2000 đến 3000 nạn nhân trong khoảng 21 năm, từ
1595 đến 1616.
Torquemada (1420-1498), Đại Phán Quan (Grand Inquisitor) Tây Ban Nha
được biết là đích thân đã thiêu sống hơn mười ngàn (10000) người và kết án 97
ngàn người khác trong vòng chưa đầy 20 năm. [Theo Bernard Fall trong The Two
Viet-Nams" , Frederik A. Praeger Publisher, New York 1967, trang 236, thì
Ngô Đình Diệm cũng là một loại Phán Quan Tây Ban Nha (Spanish Inquisitor) :
Tính hiếu chiến của ông Ngô Đình Diệm thuộc loại như thế này: Đức
tin của ông ta ít có tính chất từ ái của các tông đồ hơn là tính hiếu chiến tàn
nhẫn của một Đại Phán Quan Tây Ban Nha của Tòa Án Dị Giáo
(Torquemada) (Ngo Dinh Diem's militancy is of that kind: His faith is made less
of the kindness of the apostles, than of the ruthless militancy of the Grand
Inquisitor) ]
Trong 12 năm, từ 1581 đến 1593, những sự bạo hành phù thủy hoành hành khắp thị
trấn Trier đầy nhà thờ ở Đức. Giám mục thị trấn Trier, Peter Binsfield,
tuyên án tử hình khoảng 6000 người.
Năm
1620 ở vùng Wurzburg, Đức, chúng ta có thể thấy những thí dụ ngoạn mục về một sự
tận diệt toàn diện các phù thủy. Giám Mục Wurzburg thiêu sống 900 người vì
tội làm phù thủy..
Tổng giám mục Trier thiêu sống 268 phù thủy trong 22 làng mạc trong khoảng từ
1587 đến 1593. Trong 2 làng trong số này, tới năm 1595 chỉ có một phụ nữ được
sống sót.
Người Do Thái là một nhóm người khác bị bạo hành, nhất là khi những cuộc săn
lùng phù thủy ở cao điểm. Trong Tân ước, John 8:44 gọi quỷ là cha đẻ của dân Do
Thái. Trong Khải Huyền 2:9 và 3:9 có nói đến “giáo đường [nơi người Do
Thái tụ họp cầu nguyện] của Satan”. Những vị lãnh đạo trong giáo hội Ki
Tô Giáo lên án người Do Thái thờ phụng Satan và trao con cái cho các quỷ.
Ở
Anh quốc, dưới triều đại Tin Lành của Henry VIII và Elizabeth 1, sự bạo hành
thật nghiêm trọng. Và đó không phải là những nhà cầm quyền Tin Lành duy nhất đã
kẹp gẫy xương phù thủy trên giá căng hay áp sắt nung đỏ vào người nạn nhân.
Ở Netherland cũng vậy, tra tấn bằng roi, kẹp sắt, và thiêu sống cũng là điều
hiển nhiên.
Martin Luther, 1483-1546, người sáng lập ra giáo phái Chống Đối
[Tin Lành], đã tăng gia sự mê tín trong thời của ông ta. Những tác phẩm
ông viết ra làm chứng cho những sự tấn công của quỷ đối với ông ta, và ông ta
thường cho những hành động ác ôn là của phù thủy – trong số này ông ta gồm những
người đối nghịch với ông. Ông ta nghĩ rằng quyền năng của phù thủy thật đáng
kinh ngạc; đã có lần ông viết: “ Tôi không có sự thương hại nào đối với các
phù thủy, tôi có thể thiêu sống tất cả chúng.”
Thôi
thúc bởi cuốn Búa Phù Thủy, nước Đức [nước của Hitler và của giáo
hoàng đương nhiệm: Benedict XVI] có một lịch sử đen tối nhất về sự bạo hành
phù thủy, nhưng các nước khác – Pháp, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Tô Cách Lan – tất
cả đều nâng cao tổng số sát nhân. Khi cuộc khủng bố đạt tới đỉnh cao [trí tuệ
của Ki Tô Giáo] , những người nghi ngờ bắt buộc phải tỏ sự đồng tình tin là có
phù thủy. Tỏ ý không tin là có phù thủy đặt con người vào nguy cơ là chính họ
sẽ bị tố cáo là phù thủy. 1
2. James A. Haught, Holy Horrors: An Illustrated History of religious
Murder and Madness, Prometheus Books, New York, 1990, p.73-76:
Trong thế kỷ 15, Những Tòa Hình Án Xử Dị Giáo Thánh Thiện [The Holy Inquisition]
chuyển mục tiêu sang các phù thủy, và ba thế kỷ tiếp theo đã chứng kiến sự cuồng
loạn kỳ quái của ảo tưởng tôn giáo. Nhân viên của Giáo Hội đã tra
tấn vô số ngàn người phụ nữ, và một số đàn ông, để bắt họ phải thú nhận
là họ đã bay trên không để thi hành những nhiệm vụ của quỷ, làm tình với Satan,
tự biến thành súc vật, tự làm cho mình trở nên vô hình, và làm những việc ác
siêu nhiên. Hầu như mọi người bị kết án là phù thủy đều bị xử chết.
Mới đầu Giáo Hoàng Gregory IX cho phép giết các phù thủy trong thế kỷ 13,
và những tòa xử phù thủy không nhiều, nhưng sự điên cuồng không bắt lửa cho đến
thế kỷ 15. Năm 1484 Giáo hoàng Innocent VIII ban một sắc lệnh tuyên bố về sự
hiện hữu tuyệt đối có thật của phù thủy – do đó nghi ngờ sự hiện hữu của phù
thủy là lạc đạo [nghĩa là có thể bị các Tòa Hình Án xử dị giáo xử]. Truy tố phù
thủy tăng lên vùn vụt. Quan án đạo Cumanus thiêu sống 41 phụ nữ trong năm tới
và một đồng nghiệp ở Piedmont nước Ý hành quyết 100 người.
Sau đó không lâu, hai quan án đạo dòng Đa Minh, Jakob Sprenger và Heinrich
Kramer, xuất bản cuốn sách ô nhục Malleus Maleficarum (Búa Phù Thủy)
nêu ra một bản kinh cầu khủng khiếp về những hành động quỷ thuật của các phù
thủy và những tiểu yêu , những thân nhân, ma quái, quỷ, quỷ đực, quỷ cái của
chúng. Cuốn sách mô tả những phù thủy đã làm hại mùa màng, ăn thịt trẻ con,
làm ra bệnh tật, và làm phù chú như thế nào. Cuốn sách chứa đầy những
chuyện tình dục của phù thủy và coi phụ nữ như là xảo quyệt và đáng khinh.
Jakob Sprenger và Heinrich Kramer viết: “Mọi phù thủy đều xuất thân từ sự
khao khát xác thịt, điều mà phụ nữ không bao giờ thỏa mãn.” Khoa tâm lý học
hiện đại nhận ra dễ dàng chứng bấn loạn thần kinh của các linh mục này về
tình dục – nhưng trong nhiều thế kỷ cuốn sách của họ đã là cuốn chỉ nam
chính thức cho các quan án đạo để đưa các phụ nữ đến những cái chết khủng
khiếp.
Những cuộc săn lùng phù thủy nở rộ ở Pháp, Đức, Hung Gia Lợi, Tây Ban Nha,
Ý, Thụy Sĩ, Thụy Điển và hầu như trên khắp mọi nơi ở Âu Châu – sau cùng lan tới
Anh, Tô Cách Lan, và vùng thuộc địa Vịnh Massachusetts (Đông Bắc Mỹ). Hầu
hết các nạn nhân là phụ nữ đã già mà những hành động khác thường đã gây nên sự
nghi ngờ trong láng giềng. Một số khác còn trẻ, đẹp. Vài người là đàn ông.
Nhiều người trong lục địa Âu Châu chỉ là những công dân bình thường nhưng tên
của họ là do những nạn nhân bị tra tấn khai ra [vì không chịu nổi sự tra tấn]
khi được lệnh phải khai ra đồng bọn.
Phương thức xử dị giáo tiêu chuẩn là cô lập và tra hỏi những người bị nghi ngờ
là phù thủy – thêm vào một bước: những nạn nhân bị lột trần truồng, cạo hết lông
trên người, và dùng mũi nhọn đâm dò trên người. Cuốn Malleus Maleficarum
chỉ rõ rằng mọi phù thủy đều mang trên người một “dấu của quỷ” không có cảm
giác, mà người ta có thể dò ra được bằng cách đâm để dò bằng một vật nhọn.
Những quan án đạo cũng nhìn vào các đầu núm vú của “phù thủy”, những vết chàm
có thể là những đầu vú bí mật để cho các quỷ bú.
Nếu tìm dò trên người không thấy thì sự tra tấn bắt đầu. Móng tay bị rút
ra. Những miếng sắt nóng đỏ được áp vào ngực. Nhà nghiên cứu Nancy Van
Vuuren viết: “Bộ phận sinh dục của phụ nữ đặc biệt hấp dẫn những người tra
tấn phái nam”. Thân thể bị căng trên giá hay trên bánh xe. Erica Jong viết
“Tay bị trật khớp xương và nạn nhân thường thú nhận có những thỏa thuận hoặc
hội họp với quỷ.” Hầu như mọi nạn nhân bị tra tấn như vậy đều thú tội – và
bị hành quyết dựa trên sự thú tội này.
Ở
vùng Basque, Tây Ban Nha, hồ sơ ghi chép của giáo hội Công giáo ghi rõ là
trong cuộc tra tấn, Maria ở Ituren đã thú nhận chính mình và các chị em phù thủy
đã tự biến thành những con ngựa phi trên trời. Ở một quận trong nước Pháp, 600
phụ nữ thú nhận là đã làm tình với quỷ.
Tổng số phù thủy bị chết không thể biết được. Một vài hồ sơ lịch sử còn hiện
hữu; một số đã mất mát. Các ghi chép viết 5000 phù thủy bị giết ờ tỉnh Alsace,
900 ở thị trấn Bamberg, 2000 ở Bavaria, 311 ở Vaud, 167 ở Grenoble, 157 ở
Wurzburg, 133 trong một ngày ở Saxony. Trong vài làng mạc, phụ nữ bị tận diệt.
Sự
điên cuồng tiếp tục cho đến thế kỷ 18. Ở Scotland, một bà già bị thiêu sống năm
1722 sau khi bị kết tội là đã biến đứa con gái mình thành con ngựa con rồi cưỡi
nó đến dự cuộc họp của các phù thủy. Ở Đức, một nữ tu bị thiêu giữa chợ ở
Wurzburg năm 1749 sau khi các nữ tu khác chứng nhận là nữ tu này trèo qua tường
của tu viện dưới dạng một con heo. Cuộc hành quyết phù thủy cuối cùng là ở
Thụy Sĩ, vào năm 1782. Tới thời kỳ này, nhiều khoa học gia và học giả đã nêu
lên những nghi vấn về sự thực hữu của các phù thủy do đó chấm dứt sự điên cuồng
[tiêu diệt phù thủy của giáo hội].
Một sự khôi hài sâu đậm về những cuộc săn lùng phù thủy là chúng được chỉ
đạo, không phải bởi những người man rợ mê tín, nhưng bởi những giám mục có học
thức, những ông Tòa, giáo sư, và các cấp lãnh dạo khác trong xã hội. Những thế
kỷ ám ảnh bởi phù thủy cho thấy quyền năng khủng khiếp của những niềm tin vào
siêu nhiên. 2
3. Helen Ellerbe, The Dark Side Of Christian History, Chapter 8,
The Witch Hunts, pp. 114-138:
Giáo hội Công giáo đã tạo ra một quan niệm tinh vi về sự thờ phụng quỷ và
rồi dùng sự bạo hành của giáo hội để đối phó và quét sạch những người bất đồng ý
kiến, đưa con người vào vòng kiểm soát độc đoán của giáo hội và công khai hạ
thấp phụ nữ.
Phải mất một thời gian lâu giáo hội mới làm cho xã hội tin rằng phụ nữ thường
có khuynh hướng thờ phụng quỷ và làm những việc ác của phù thủy…Trong thế kỷ 13,
giáo hội bắt đầu miêu tả phù thủy là nô lệ của quỷ..
Giáo hoàng John XXII chính thức hóa sự bạo hành phù thủy năm 1320 khi
ông ta cho phép tòa án xử dị giáo truy tố phù thủy. Sau đó những sắc lệnh và
tuyên ngôn của giáo hoàng càng ngày càng lên án mãnh liệt phù thủy. Năm 1484
giáo hoàng Innocent VIII ban sắc lệnh Summis Desiderates cho phép hai quan án
đạo Kramer và Spencer hệ thống hóa sự bạo hành phù thủy. Hai năm sau, cuốn
Búa Phù Thủy của họ được xuất bản, sau đó với 14 ấn bản trong
khoảng 1487-1520 và ít nhất là 16 ấn bản trong khoảng 1574-1669. Một sắc lệnh
của giáo hoàng năm 1488 kêu họ mọi quốc gia ở Âu Châu hãy cứu giáo hội bị “nguy
hại bởi những nghệ thuật của Satan”. Giáo hoàng triều và cơ quan xử dị giáo
đã thành công biến đổi phù thủy từ một hiện tượng mà trước đó giáo hội cực lực
phủ nhận thành một hiện tượng có thực, rất đáng sợ, đối nghịch với Ki Tô Giáo,
và tuyệt đối đáng bị bạo hành.
Vì những tác giả cuốn Malleus Maleficarum ghi rằng: “Niềm tin vào sự hiện
hữu của các phù thủy là phần cần thiết của đức tin Công Giáo nên bướng bỉnh
không chịu tin như vậy là lạc đạo”. Đoạn trong Thánh Kinh như
“Ngươi không được để cho một phù thủy nào được sống sót” được viện dẫn
để biện minh cho sự bạo hành phù thủy. Cả Calvin và Knox [hai nhà lãnh đạo Tin
Lành] đều tin rằng phủ nhận sự hiện hữu của phù thủy nghĩa là là phủ nhận quyền
năng của Thánh Kinh. Nhà sáng lập hệ phái Tin Lành Giám Lý trong thế kỷ 18,
John Wesley, tuyên bố về những người nghi ngờ sự hiện hữu của phù thủy là: “loại
bỏ sự hiện hữu của phù thủy là loại bỏ Thánh Kinh.” Và một luật sư người Anh
nổi tiếng viết: “Phủ nhận sự khả hữu, không, sự hiện hữu thực sự của phù
thủy, là lập tức dứt khoát tỏ sự mâu thuẫn với những lời mạc khải của thiên
chúa trong nhiều đoạn trong Cựu Ước và Tân ước.”
Sự bạo hành phù thủy đã giúp kéo dài thời gian thu thập những lợi nhuận của
những tòa án xử dị giáo của giáo hội. Những tòa án xử dị giáo đã khiến cho
nhiều vùng suy sụp về kinh tế đến độ quan án đạo Eymeric phải than phiền:
“Trong thời này, không còn những kẻ lạc đạo giầu có nữa.. thật là đáng tiếc là
một định chế có ích lợi như của chúng ta lại không chắc về tương lai của nó.”
Thêm những tội ác của những phù thủy vào những người mà giáo hội bạo hành ngoài
những kẻ dị giáo, những tòa án xử dị giáo có cả một nhóm người mới để có thể thu
vét tiền bạc từ nhóm này và giáo hội lợi dụng tối đa cơ hội này. Tác giả
Barbara Walker ghi nhận:
“Những nạn nhân phải trả tiền cho ngay cả sợi giây thừng trói họ và mớ củi
thiêu sống họ. Mỗi một phương cách tra tấn đều có một giá (mà nạn nhân
phải trả). Sau khi hành quyết một nạn nhân giầu có, các viên chức của
giáo hội thường mở tiệc ăn mừng dùng tiền từ tài sản của nạn nhân.”
Năm 1592, linh mục Cornelius Loos viết: “Những nạn nhân khốn khổ vì bị
tra tấn tàn bạo bắt buộc phải thú nhận những điều họ chẳng bao giờ làm, và do đó
những con người vô tội bị chết bởi cái lò sát sinh độc ác; và bằng thuật luyện
kim mới, vàng bạc được lấy ra từ máu người.” 3
4.
Malise Ruthven, Torture: The Grand Conspiracy, Weidenfeld and
Nicolson, London, p. 119:
Cuốn Thánh Kinh chỉ đạo cho những kẻ sát nhân khủng khiếp này là cuốn
“Búa Phù Thủy” ô nhục, một cuốn sách viết bởi hai linh mục cuồng tín
dòng Đa Minh và xuất bản năm 1486. Đối với các tác giả của cuốn sách, không
có mánh khóe gian dối nào là thủ đoạn, không có sự tra tấn nào là quá mức khi
dùng để lấy lời thú tội. Cũng không có lý do nào được phép nghi ngờ hay
nhân nhượng. Phương châm của cuốn sách là: “Không tin có phù thủy là là lạc đạo
nghiêm trọng nhất.”
Một
trong những “Búa” nổi tiếng nhất là triết gia – luật sư Pháp Jean Bodin
(1529-96). Có lẽ ông ta là người đầu tiên thảo ra định nghĩa “hợp pháp” về một
phù thủy ~ “người đã biết luật của thiên chúa nhưng lại có những hành động với
sự đồng thuận của Quỷ”
Bodin hữu hiệu ghê gớm trong việc truy tố những người bị nghi ngờ là phù
thủy. Đích thân hắn ta tra tấn những em nhỏ và những người tàn tật để moi ra
những lời thú tội, và tuyên bố rằng, thiêu sống những người bị kết án là phù
thủy thì làm cho chúng chết quá mau đi ~ không lâu hơn nửa tiếng đồng hồ.
Năm 1580, vào cuối cuộc đời, Bodin viết cuốn Demonomanie [Hành Động Ác Ôn
Của Quỷ]. Gay gắt và xảo quyệt hơn ngay cả đối với cuốn “Búa Phù Thủy” ,
cuốn đó được nhiều người đón nhận và được nhiều người đọc.
Quan
án đạo ở Lorraine, Nicholas Remy, cùng thời với Bodin và, nếu không ngang hàng
trí tuệ với Bodin, thì chắc chắn là ngang hàng với hắn về bạo hành. Trong 15
năm xử án phù thủy hắn đã chịu trách nhiệm về sự hành quyết khoảng 900 người.
Khi
đứa con cả của hắn chết vào năm 1582, Remy nghi ngờ là do phù thủy làm, sau đó
lên án và kết án một người hành khất mà hắn đã đuổi đi trước khi con hắn chết ít
lâu. Remy giải thích: “Những phù thủy có cách xảo trá nhất để đánh thuốc độc,
vì tay của chúng đã thoa đầy thuốc độc, chúng nắm lấy quần áo của một người và
do đó gài vào để hại người đó.” Giống như Bodin, Remin về hưu với tư cách một
người danh giá và viết một cuốn sách kể lại kinh nghiệm của mình. Hắn ta thú
nhận, điều đáng tiếc nhất trong đời của hắn là hắn không giết được nhiều hơn
những con cái của phù thủy.
Trong số những người đi săn phù thủy, người giết nhiều nhất là Giám mục
dòng Tên Peter Binsfeld ở Suffragan, Trier, nước Đức, vào cuối thế kỷ 16.
Hắn là người năng nổ truy tố phù thủy và nhấn mạnh là tra tấn nhẹ là chẳng
phải là tra tấn. Người ta cho rằng Binsfeld chịu trách nhiệm về cái chết của
6500 đàn ông, đàn bà và trẻ con. Bản Luận Về Những Lời Thú Tội Của Những
Ác Nhân và Phù Thủy được nhiều người cùng thời coi như là một tài liệu hợp
pháp. Ít người dám cất lên tiếng nói để chống đối nghiệp vụ đẫm máu về săn lùng
phù thủy. Khi học giả Hà Lan Cornelius Loos, khủng khiếp trước sự quá độ của
Binsfeld trong việc cho phép giết người theo phán quyết của hắn, toan tính phản
đối nhân danh nhân loại, thì ông ta bị lên án và phải công khai sửa sai trước
quần chúng.
Sự
kiện là hầu hết những người săn lùng phù thủy thành thực tin vào sự chính đáng
của những công cuộc đeo đuổi giết người đó cũng không làm cho cái lôgíc tai ác
của họ, thiên kiến cực đoan và phương pháp bất nhân của họ kém kinh khủng đối
với chúng ta ngày nay.
Henri Boguet (1550-1619), một luật sư người Pháp được biết là đã tiêu diệt
khoảng 600 “phù thủy”, đã giúp kết án một người sùng tín căn cứ trên cây thánh
giá bà ta đeo trên chuỗi tràng hạt có một vết nhỏ trên đó ~ một dấu chỉ rõ ràng
mà Boguet nói rằng cái đó chứng tỏ là bà ta là đồng bọn với quỷ.
Pierre de Lancre, viên chức săn lùng phù thủy trong vùng Basque của Vua Pháp
Henry IV, cũng giỏi trong việc dò ra được sự hiện diện của phe phái Satan. Vì
những lý do mù mờ có vẻ như liên hệ đến vấn đề tình dục, de Lancre tin rằng tất
cả 30000 người dân (gồm cả các linh mục) trong địa phận Labourd đều là phù thủy.
Khi người dân nghe được tin này, hàng ngàn người đã bỏ nhà chạy khỏi, một số
di dân xa đến tận Newfoudland để thoát khỏi cuộc truy tố không thể tránh được.
Trong vòng 4 tháng, de Lancre thiêu sống khoảng 600 người còn lại trong địa
phận, rồi hắn ta vinh quang trở lại Paris và được Vua Henry tạ ơn phong cho
chức cố vấn quốc gia.
Người Anh săn lùng phù thủy nổi tiếng nhất là một luật sư thất bại, theo hệ phái
Thanh Giáo Tin Lành, tên là Matthew Hopkins. Không như các đồng nghiệp săn lùng
phù thủy, trong một thời gian ngắn vào thập niên 1640 hắn chỉ có thể giết vào
khoảng 600 người. Ngoài ra, vì một sắc lệnh của Quốc hội, hắn ta bắt buộc phải
bỏ phương pháp đầu tiên của hắn dùng để tìm ra phù thủy: ném những người bị nghi
ngờ là phù thủy đã bó chặt lại xuống sông xem có nổi hay không, nếu chúng nổi
thì đúng là phù thủy, vì quỷ đã đỡ chúng. [Lẽ dĩ nhiên không có ai nổi và sẽ bị
chết chìm]… Một trong những phương pháp hắn dùng thành công nhất là tra tấn tâm
lý: các nạn nhân bị bắt buộc phải đi không ngừng, không được ăn, ngủ cho đến khi
kiệt sức hay trở thành mê sảng, và thú nhận là phù thủy. 4
Trên
đây chỉ là vài tài liệu trong số hàng trăm tài liệu về vài chi tiết của những
cuộc săn lùng phù thủy của Ki Tô Giáo. Hiển nhiên là tuyệt đại đa số tín đồ Ki
Tô Giáo, Công Giáo cũng như Tin Lành, không hề biết đến những trang sử đen tối
của Ki Tô Giáo nói chung. Vì vậy, họ vẫn hãnh diện tự cho là mình được ở trong
những “Hội Thánh Ki Tô”. Hi vọng ánh sáng của những sự thật lịch sử trong Ki Tô
Giáo sẽ giúp họ hiểu rõ hơn về chính tôn giáo của họ, và từ đó sẽ có một thái độ
khác hơn, khiêm nhường hơn đối với những người phi Ki-Tô và các tôn giáo khác,
những tôn giáo mà lịch sử truyền đạo chưa từng bị vấy một giọt máu.
Để
kết luận, tôi xin trích dẫn nhận định của Aldous Huxley trong cuốn The Devis
of Loudun, xuất bản năm 1952, một cuốn sử viết về quỷ ám, mê tín và cuồng
tín tôn giáo trong thế kỷ 17 ở Pháp, dựa trên những biến cố trong tỉnh nhỏ
Loudun. [It is a historical account of demonic possession, superstition and
religious fanaticism in
seventeenth-century
France,
based on events which took place in the small town of
Loudun]:
Điều
đáng sợ nhất, và lố bịch nhất, là đầu óc của những kẻ bảo thủ Ki Tô Giáo có thể
viện vấn đề “tâm linh” ra để biện minh cho những sự độc ác như vậy, cho bất cứ
nguyên nhân nào.
Sự ngu xuẩn và mê tín của những kẻ bảo thủ Ki Tô Giáo lên cao đến cực điểm vào
thế kỷ 17, được khuyến khích, xúi giục bởi giáo hội, vì giáo hội dạy rằng có
quỷ ở khắp nơi, và bất cứ hiện tượng nào khác lạ đều có thể là kết quả hành động
của quỷ. Mưa đá, gió lớn, rận chấy, sữa trở thành chua, hay một con lừa khó bảo
đều có thể quy trách cho người phụ nữ láng giềng. Tỏ ý nghi ngờ về sự hiện hữu
của các phù thủy thì có giá trị như chính mình là quỷ, và bất cứ người nào tỏ ý
chống đối đều bị nghi ngờ, canh chừng, và coi là phù thủy.
Sự
ám ảnh của Ki Tô Giáo về Quỷ và phù thủy thực sự đã cổ vũ và tăng gia sự đàn áp
của Ki Tô Giáo; và như là trước đây, ngày nay cũng vậy.
“Để biện minh cho những hành động của họ, họ đã biến những lý thuyết của
họ thành những tín điều, những quy chế của họ thành những nguyên lý căn bản,
những lãnh đạo chính trị của họ thành những Thiên chúa, và tất cả những
người không đồng ý với họ đều là hiện thân của quỷ. Sự biến đổi để mà sùng
bái cái tương đối thành cái tuyệt đối, nhân bản thành thần bản, đã làm cho họ có
thể say đắm trong những tình cảm đam mê xấu xa đáng sợ nhất với một lương tâm
yên ổn và trong niềm tin chắc là đang phục vụ cho Thượng đế. Và khi những
niềm tin đó tự chúng trở thành ngu mê, thì một tập hợp những niềm tin mới sẽ
được phát minh ra để cho những sự điên rồ khi xưa có thể tiếp tục mang những bộ
mặt quen thuộc của tính hợp pháp, của lý tưởng, và của tôn giáo chân thật.
5
1.
Milton Meltzer, Witches and Witch-Hunts: A History of Persecution,
The Blue Sky Press, New York, 1999: A witchcraft craze lasting more than 400
years – from the 14th through the 17th centuries – caused
the deaths of millions in Europe, the great majority of them women. The craze
arose in the Middle Ages and lasted well into the Age of Reason. Long after, in
the 20th century, the Nazi dictator, Adolf Hitler, led an organized
campaign of persecution – often called a witch-hunt – of the Jews in Germany and
Europe that led to the deaths of six million men, women, and children.
The
Bible of witch-hunting appeared in 1486.. It was a book of great length called
the Malleus Maleficarum, or Hammer of Witches. The first printed
encyclopedia of magic and witchcraft, it was written by two Dominician priests
of Germany, Heinrich Kramer and Jacob Sprenger.
Two
years earlier, Pope Innocent VIII had authorized the two priests to wipe out
witchcraft in Germany. Their manual on persecution was a tool in the hand of
every judge and witch-hunter for three centuries. The Malleus was reprinted in
14 editions very quickly. It became one of the most influential of all early
printed books. The Malleus begins by challenging the opinion that witches do
not really exist. The true faith, it says, “teaches us that certain angels fell
from heaven and are now devils” who “by their very nature…can do many wonderful
things we cannot do.” The authors state that Satan and demons can do harm by
themselves, or by acting with or through witches. It dealt in much detail with
the practice of witchcraft and with the judicial procedures to be used against
it.
The
two priests spoke from experience, for they themselves had tried 50 people for
witchcraft, 48 of whom were women. The Malleus became the authoritative guide
to organized witch-hunting. The hunts were initiated, and carried out by church
and state…The Malleus told how to use torture to force confession and further
accusations. The common practice was to strip the accused naked, shave off all
her body hair, subject her to thumbscrew and the rack, to spikes and
bone-crushing devices, and to beat her and starve her.
When
the whirlwind of persecution descended in the 15th century, the toll
was immense. Nicholas Remy, a judge from Lorraine, France, who presided over
witch trials, wrote that after spending much time grilling witches, he knew that
“they are justly to be subjected to every torture and put to death in the
flames.. and that its very awfulness may serve as an example and a warning to
others.” Remy sent between two and three thousand victims to the stakes between
1595 and 1616…
Torquemada (1420-1498), the Spanish churchman known as the Grand Inquisitor, is
credited personally with burning more than ten thousand people and with
condemning another 97 thousand in less than two decades.
For
12 years, from 1581 to 1593, witch persecutions raged through the cathedral city
of Trier in Germany. The bishop of Trier, Peter Binsfield, ordered the death of
some 6000 people..
In
the 1620s the area of Wurzburg, Germany, saw spectacular examples of wholesale
extermination. The bishop of Wurzburg burned 900 people for witchcraft…The
archbishop of Trier burned 268 witches from 22 villages between 1587 and 1593.
In two of these villages, by 1595 only one woman was left alive.
Jews
were another group that suffered especially during the height of the
witch-hunts. In the New Testament, John 8:44 calls the Devil the father of the
Jews. It is in Revelation 2:9 and 3:9 that the “synagogue of Satan” is first
mentioned. Church leaders accused Jews of worshiping Satan and giving their
children to the demons..
In
England, under the Protestant rulers Henry VIII and Elizabeth I, persecution was
severe. And they were not the only Protestant rulers to break bones on the rack
or brand with hot irons. In the Netherlands, too, the whip, steel pincers, and
burning at the stake were much in evidence.
Martin Luther, who lived from 1483 to 1546 and was the founder of Protestantism,
reinforced the superstition of his time. His writings testify to the Devil’s
assaults upon him, and he often refers to the evil actions of witches – among
them he includes his opponents. He thought the power of witches was awesome; he
once wrote, “I should have no compassion on these witches, I would burn all of
them.”
Spurred on by the Malleus, Germany had the worst history of witchcraft
persecution, but other countries – France, Switzerland, Sapin, Sweden, Scotland
– all swelled the total number of murders. When the terror reached its peak,
doubters felt obliged to voice a belief in witches. Denying the existence of
witchcraft placed people in great danger of themselves being accused.
2.
James A. Haught, Holy Horrors: An Illustrated History of religious
Murder and Madness, Prometheus Books, New York, 1990, p.73-76: During the
1400, the Holy Inquisition shifted its focus toward witchcraft, and the next
three centuries witnessed a bizarre orgy of religious delusion. Agents of the
Church tortured untold thousands of women, and some men, into confessing that
they flew through the sky on demonic missions, engaged in sex with Satan, turned
themselves into animals, made themselves invisible, and performed supernatural
evils. Virtually all the accused were put to death.
Pope
Gregory IX originally authorized the killing of witches in the 1200s, and random
witch trials were held, but the craze didn’t catch fire until the 15th
century. In 1484 Pope Innocent VIII issued a bull declaring the absolute
reality of witches – thus it became heresy to doubt their existence.
Prosecutions soared. The inquisitor Cumanus burned 41 women the following year,
and a colleague in the Piedmont of Italy executed 100.
Soon
afterward, two Dominician inquisitors, Jakob Sprenger and Heinrich Kramer,
published their infamous Malleus Maleficarum (Withches’ Hammer) outlining
a lurid litany of magical acts performed by witches and their imps, familiars,
phantoms, demons, succubi, and incubi. It described how the evil women blighted
crops, devoured children, caused disease, and wrought spells. The book was
filled with witches’ sexual acts and portrayed women as treacherous and
contemptible. “All witchcraft comes from carnal lust, wich is in women
insatiable,” they wrote. Modern psychology easily perceives the sexual neusoris
of these priests – yet for centuries their book was the official manual used by
the inquisitors sending women to horrible deaths.
Witch-hunts flared in France, Germany, Hungary, Spain, Italy, Switzerland,
Sweden, and nearly every corner of Europe – finally reaching England, Scotland,
and the Massachusetts Bay Colony. Most of the victims were old women whose
eccentricities roused suspicions of neighbors. Others were young, pretty
women. Some were men. Many in the continental Europe were simply citizens
whose names were shrieked out by torture victims when commanded to identify
fellow witches.
The
standard Inquisition procedure of isolating and grilling suspects was followed –
plus an added step: the victims were stripped naked, shaved of all body hair,
and “pricked”. The Malleus Maleficarum specified that every witch bore a
numb “devil’s mark”, which could be detected by jabbing with a sharp object.
Inquisitors also looked for “witches’ tits”, blemishes that might be secrets
nipples whereby the women suckled their demons.
If
the body search failed, the torture began. Fingernails were pulled out.
Red-hot tongs were applied to breasts. “The women’s sex organ provided special
attraction for the male torturer,” researcher Nancy Van Vuuren wrote. Bodies
were stretched on racks and wheels. “Arms came out of sockets and trysts with
the Devil came out of the unlikeliest mouths”, novelist Erica Jong wrote.
Virtually every mangled and broken victim confessed – and was executed on the
basis of the confession.
In
the Basque region of Spain, church records dutifully report that Maria of Ituren
admitted under torture that she and sister witches turned themselves into horses
and galloped through the sky. In a district of France, 600 women confessed to
copulating with demons.
The
complete death toll is impossible to learn. Some historical records exist;
others are gone. Various accounts say 5000 witches were killed in the province
of Alsace, 900 in the city of Bamberg, about 2000 in Bavaria, 311 in Vaud, 167
at grnoble, 157 at Wurzburg, 133 in a single day in Saxony. Some entire
villages were exterminated.
The
mania continued until the 18th century. In Scotland, an old woman
was burned in 1722 after being convicted of turning her daughter into a pony and
riding her to a witches’ coven. In Germany, a nun was burned alive in the
marketplace of Wurzburg in 1749 after other nuns testified that she climbed over
convent walls in the form of a pig. The last legal execution of a witch
occurred in Switzerland in 1782. By that time, various scientists and scholars
had raised enough doubt about the reality of witchcraft to bring an end to the
madness.
A
profound irony of the witch-hunts is that they were directed, not by
superstitious savages, but by learned bishops, judges, professors, and other
leaders of society. The centuries of witch obsession demonstrated the terrible
power of supernatural beliefs.
3.
Helen Ellerbe, The Dark Side Of Christian History, Chapter 8, The
Witch Hunts, pp. 114-138: The Church created the elaborate concept of devil
worship and then, used the persecution of it to wipe out dissent, subordinate
the individual to authoritarian control, and openly denigrate women…
It
took the Church a long time to persuade society that women were inclined toward
evil witchcraft and devil worship… In the 13th century the Church
began depicting the witch as a slave of the devil…
Pope
John XXII formalized the persecution of witchcraft in 1320 when he authorized
the Inquisition to prosecute sorcery. Thereafter papal bulls and declarations
grew increasingly vehement in their condemnation of witchcraft. In 1484 Pope
Innocent VIII issued the bull Summis Desiderates authorizing two inquisitores
Kramer and Sprenger, to systematize the persecution of witches. Two years later
their manual, Malleus Maleficarum, was published with 14 editions
following between 1487-1520 and at least 16 editions between 1574-1669. A papal
bull in 1488 called upon the nations of Europe to rescue the Church of Christ
which was “imperiled by the arts of Satan”. The papacy and the Inquisition had
successfully transformed the witch from a phenomenon whose existence the Church
had previously rigorously denied into a phenomenon that was deemed very real,
very frightening, the antithesis of Christianity, and absolutely deserving of
persecution.
It
was now heresy not to believe in the existence of witches. As the authors of
the Malleus Maleficarum noted, “A belief that there are such things as witches
is so essential a part of Catholic faith that obstinately to maintain the
opposite opinion savors of heresy.” Passage in the Bible such as “Thou shalt
not suffer a witch to live” were cited to justify the persecution of witches.
Both Calvin and Knox believed that to deny witchcraft was to deny the authority
of the Bible. The 18th century founder of Methodism, John Wesley,
declared to those skeptical of witchcraft, “The giving up of witchcraft is in
effect the giving up of the Bible. And an eminent English lawyer wrote, “To
deny the possibility, nay, actual existence of witchcraft and sorcery, is at
once flatly to contradict the revealed word of God in various passages both of
the Old and New Testament.
The persecution of
witchcraft enabled the Church to prolong the profitability of the Inquition.
The Inquisition had left regions so economically destitute that the inquisitor
Eymeric complained, “In our days there are no more rich heretics..it is a pity
that so salutary an institution as ours should be so uncertain of its future.”
By adding witchcraft to the crimes it persecuted, however, the Inquisition
exposed a whole new group of people from whom to collect money. It took every
advantage of this opportunity. The auther Barbara Walker notes:
“Victims were
charged for the the very ropes that bound them and the wood that burned them.
Each procedure of torture carried its fee. After the execution of a wealthy
witch, officials usually treated themselves to a banquet at the expense of the
victim’s estate”
In 1592 Father
Cornelius Loos wrote:
“Wretched creatures
are compelled by the severity of the torture to confess things they have never
done.. and so by the cruel butchery innocent lives are taken; and, by a new
alchemy, gold and silver are coined from human blood.”
4.
Malise Ruthven, Torture: The Grand Conspiracy, Weidenfeld and
Nicolson, London, p. 119:
The
bible of these macabre killers was the infamous Malleus Maleficarum
(Hammer of Witches), a book written by two fanatical Dominican priests and
published in 1486. For the book's authors no deceit was too devious, no torture
too extreme to be used in the pursuit of confessions. Nor was there any room for
skepticism or moderation; "Not to believe in witchcraft," read the book's motto,
"is the greatest of heresies."
One of
the most famous of the Malleus was the French lawyer-philosopher Jean Bodin
(1529-96). Possibly the first to formulate a "legal" definition of a witch ~
"someone, who, knowing God's laws, tries to bring about some act through an
agreement with the Devil"
Bodin
was hideously efficient in his prosecution of suspected witches. He personally
tortured young children and invalids in the effort to extract confessions, and
proclaimed that burning condemned witches brought death too quickly ~ in not
much more than half an hour. In 1580, towards the end of his life, Bodin wrote a
book of his own, Demonomanie. Harsher and more insidiously circumstantial
even than the Malleus, it was well received and widely read.
The
inquisitor of Lorraine, Nicholas Remy, was Bodin's contemporary and, if not his
intellectual equal, certainly his persecutional peer. During 15 years of judging
witchcraft cases he was responsible for the execution of approximately 900
people.
When
his eldest son died in 1582, Remy inevitably suspected witchcraft, later
accusing and condemning a beggar whom he had turned away shortly before his
son's death. As Remy explained, "Witches have a most treacher manner of applying
their poison, for having their hands smeared with it, they take hold of...a
man's garment as it were to entreat and propitiate him." Like Bodin, Remy
retired an honoured man and wrote a book about his experiences. His main regret
in life, he confessed, was that he did not kill more witch children.
By far
the most lethal of the witch hunters was Jesuit-trained Peter Binsfeld,
Suffragan Bishop of Trier, Germany, in the late 16th century.
A
relentless witch prosecutor who insisted that "light" torture amounted to no
torture at all. Binsfeld is said to have been responsible for the deaths of
about 6,500 men, women and children.
His
Treatise on Confessions by Evildoers and Witches was considered by many of
his contemporaries to be one of the great legal works of it's day. Few voices
were raised in opposition to the bloody business of witch hunting. When Dutch
scholar Cornelius Loos, horrified at the enormity of Binsfeld judicially
sanctioned murders, attempted to protest in the name of humanity, he was
condemned and made to recant publicly.
The
fact that most of the witch hunters sincerely believed in the rightness of their
murderous pursuits does not make their perverse logic, immoderate prejudice and
inhumam methods any less horrifying today.
Henri
Bogeut (1550-1619), a French lawyer credited with exterminating about 600
"witches", was, for example, able to help condemn one pious suspect on the
grounds that the crucifix she wore on her rosary had a minute flaw in it ~ a
clear indication, said Boguet, that she was in league with the devil.
Pierre
de Lancre, French King Henry 1V's official witch hunter in the Basque country,
was equaly skilled at detecting the presence of of Satanism. For reasons that
are obscure but that seem to have had morbid sexual undertones, de Lancre became
convinced that all 30,000 (including priests) inhabitants of the Labourd
district were witches.
When
news of de Lancre's conclusions became known, thousands fled their homes, some
emigrating as far as Newfoundland to escape the inevitable conflagration. In the
space of four months de Lancre burned some 600 of the people who remained, then
returned to Paris in triumph to be made state counselor by a grateful King
Henry.
The
most notorious of the English witch hunters was a puritanical, failed lawyer
named Matthew Hopkins.
Unlike
some of his counterparts on the Continent, Hopkins, who flourished for a
relatively brief period in the 1640s, only managed to kill about 600 people. In
addition, because of a parliamentary decree, he was obliged to forgo his early
method of identifying witches ~ throwing the suspects, trussed, into a river to
see if they floated, if they did they were considered guilty, as the devil was
supporting them…
One of
the methods he used most successfully was a form of psychogical torture, in
which victims were forced to walk constantly, without food or sleep, until,
exhausted or delirious, they confessed to witchcraft.
5.
(Aldous Huxley, The Devils of Loudun, 1952, Harper and Brothers,
N.Y.): The scariest part is the fundamentalist mind that could justify such
cruelty, for any cause, most ironically, a 'spiritual' one.
Fundamentalist ignorance and superstition reached a peak in the 1600's,
instigated by the church, who taught that the Devil was everywhere, and that any
undesireable manifestation could be and probably was the result of witchcraft
and devils. Hail, wind, lice, sour milk, or a difficult mule could all be blamed
on the woman next door. Expressing doubt about the existence of witches was
tantamount to being a witch, and anyone voicing opposing opinions was suspect,
to be watched, and targeted.
The
Christian obsession with the Devil and witchcraft actually fostered and
propagated what they tried so hard to repress; and as it was then, it is today.
"In order to justify their behavior, they turn their theories into dogmas, their
bylaws into First Principles, their political bosses into Gods and all those who
disagree with them into incarnate devils. This idolatrous transformation of the
relative into the Absolute and the all too human into the Divine, makes it
possible for them to indulge their ugliest passions with a clear conscience and
in the certainty that they are working for the Highest Good. And when the
current beliefs come, in their turn, to look silly, a new set will be invented,
so that the immemorial madness may continue to wear its customary mask of
legality, idealism, and true religion."
Tài Liệu Tham Khảo:
AI =
Arthur Frederick Ide, Unzipped The Popes Bare all: A Frank Study of Sex &
Corruption in the Vatican, AAP, Inc., Austin, Texas, 1987.
BB =
Joanne Carlson Brown & Carole R. Bohm, Editors, Christianity, Patriarchy, and
Abuse: A Feminist Critique, The Pilgrim Press, Cleveland, Ohio, 1989.
EB =
Ernie Bringas, Going By The Book, Past and Present Tragedies of Biblical
Authority, Hampton Roads Publishing Company, Inc., Charlottesville, VA,
1996.
GW =
Gary Wills, Papal Sin, Doubleday,New York, 2000
HE =
Helen Ellerbe, The Dark Side of Christian History, Morningstar and Lark,
Orlando, FL., 1995
I =
Internet, Tài liệu trên Internet
JD =
John Dollison, Pope-Pouri, A Fireside Book, New York, 1994
JH =
James A. Haught, Holy Horrors: an Illustrated History of Religious Murder and
Madness, Prometheus Books, New York, 1990.
JS =
John Shelby Spong, Rescuing the Bible From Fundamentalism: A Bishop rethinks
The Meaning of Scripture, Harper, San Francisco, 1991.
MM =
Milton Meltzer, Witches and Witch-Hunts: A History of Persecution, The
Blue Sky Press, New York, 1999.
MR =
Malise Ruthven, Torture: The Grand Conspiracy, Weidenfeld and Nicolson,
London, p. 119
NC =
Norman Cohn, Europe’s Inner Demons, Paladin Book, Sussex University
Presss, Great Britain, 1975
PR =
Peter de Rosa, Vicars of Christ: The Dark Side of the Papacy, Crown
Publishers, Inc., New York, 1988.
TQN =
Trần Quý Nhu, Búa Phù Thủy [Chuyển ngữ từ cuốn Malleus Maleficarum của
hai linh mục Heinrich Kramer và James Sprenger], Giao Điểm, 2003.
UH = Uta Ranke-Heinemann, Eunuchs For The Kingdom of Heaven, The Book
that accuses the Roman Catholic Church of degrading women and undermining the
sexuality of believers, Penguin Books, New York, 1990.
Posted in: Tôn Giáo
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét