Thứ Bảy, 26 tháng 9, 2015
Việt Nam dính “bẫy tiền” hay “bẫy thanh khoản”
07:49
Hoàng Phong Nhã
No comments
Bẫy thanh khoản là gì ?
· Lãi suất danh nghĩa tiến gần tới mức
bằng 0 nên khi NHTW chủ ý tăng cung tiền, tăng thanh khoản để giảm lãi
suất thực nhằm tăng tín dụng cho nền kinh tế qua đó tăng nhu cầu đầu tư,
tiêu dùng và cuối cùng là tăng GDP, mở rộng sản xuất và giảm thất
nghiệp, nhưng mục tiêu cuối cùng (GDP, việc làm) không tăng, mục tiêu
trung gian (M), số nhân tiền tệ giảm mạnh và tiền quay vào lại tài khoản
NHTW.
· Lãi suất tiền gửi ở NHTW quá cao trong
khi lãi suất thị trường không giảm xuống mức mục tiêu, số nhân tiền tệ
giảm mạnh, tức là cung tiền cơ sở tăng nhưng tín dụng hay và M2 không
tăng hoặc điều chỉnh giảm.
Trong cả hai trường hợp, chính sách tiền tệ đóng vai trò kích thích nền kinh tế đều mất tác dụng.
Bẫy thanh khoản sẽ dẫn tới suy thoái vì:
· Nếu lãi suất thấp nó sẽ làm:
(1) Giảm phát kỳ vọng làm tăng giá trị thực của các khoản nợ
(2) Khả năng trả nợ của người vay yếu đi do mức tiêu dùng và đầu tư giảm sâu hơn
(3) Ngân hàng gia tăng các khoản nợ xấu và do vậy họ phải cắt giảm tín dụng kéo thu chu trình giảm đầu tư và tiêu dùng.
· Nếu lãi suất cao nó sẽ làm tăng việc nắm giữ các tài sản tài chính và qua đó làm tăng rủi ro của hệ thống tài chính.
Mỹ: Cuộc khủng hoảng dưới
chuẩn của Mỹ nổ ra vào năm 2007, giá nhà đất sụt giảm mạnh, bảng cân đối
tài sản của các NHTM xấu đi, nhiều NHTM phá sản. Fed sử dụng cách sau:
lãi suất chính sách ở mức cận zero nhằm bơm vốn ngắn hạn giá rẻ, QE1
dùng để mua lại nợ xấu, làm sạch bảng cân đối các NHTM, QE2 mua trái
phái phiếu chính phủ trung và dài hạn nhằm hạ lãi suất dài hạn xuống,
Operation Twist sử dụng cách mua trái phiếu dài hạn và bán ngắn hạn.
Điều này sẽ làm lợi suất trái phiếu dài hạn giảm xuống và ngắn hạn tăng
lên. Trong khi không làm bảng cân đối của Fed phình to hơn, tức là không
in thêm tiền để tạo áp lực lên lạm phát (Chỉ làm thay đổi thời gian đáo
hạn bình quân của danh mục trái phiếu mà Fed đang nắm giữ. Mục tiêu của
Fed là tăng cung tiền giá rẻ, qua đó các NHTM có vốn giá rẻ và đưa vào
cho vay, tín dụng tăng tiêu dùng tăng, doanh nghiệp có vốn giá rẻ sẽ mở
rộng sản xuất và thất nghiệp sẽ giảm. Nhưng về cơ bản hiện tại các gói
này chưa phát huy nhiều tác dụng. Các NHTM sau khi có vốn giá rẻ thì họ
quay trở lại gửi NHTW để ăn chênh lệch lãi suất hoặc mua trái phiếu
chính phủ trong khi đó GDP vẫn tăng chậm và thất nghiệp vẫn duy trì ở
mức cao.
Châu Âu: Các nhà lãnh đạo
châu Âu đã vô tình tạo ra một cơ chế phản hồi tiêu cực lớn nhất thế giới
tài chính. ECB thực hiện bơm vốn giá rẻ bằng hoạt động tái cấp vốn dài
hạn (LTRO) với các điều kiện lên đến ba năm Các ngân hàng châu Âu dùng
tiền đó mua trái phiếu chính phủ của các quốc gia trong khu vực. Với
nhiều trái phiếu Tây Ban Nha và Ý có kỳ hạn nằm trong khoảng từ 5-10 năm
với lợi suất đang tăng mạnh được mua trong thời gian vừa qua vô tình có
thể đẩy chương trình LTRO kéo dài thêm vài năm nữa cho đến khi các nền
kinh tế ở Ý và Tây Ban Nha phát triển trở lại hay nói cách khác nó là
khả năng mà LTRO của ECB sẽ bị buộc phải tiếp tục cho đến khi châu Âu là
không còn trong suy thoái kinh tế và và nhu cầu mua trái phiếu Ý và Tây
Ban Nha được mở rộng đầy đủ. Có thể nói mục tiêu bơm vốn giá rẻ nhằm
mục tiêu giúp kích thích tăng trưởng kinh tế không đạt được trong khi đó
dòng vốn này lại đổ vào nắm giữ các tài sản tài chính là trái phiếu
chính phủ của các quốc gia có nguy cơ vỡ nợ. Nếu các quốc gia này vỡ nợ,
rủi ro của hệ thống tài chính sẽ rất lớn khi bảng cân đối tài sản các
ngân hàng thương mại sẽ xấu đi nhanh chóng.
Việt Nam: Trong những tháng
đầu năm các NHTM nhóm G12 hiện tại cũng dư thanh khoản và họ cũng quay
trở lại mua trái phiếu chính phủ và gửi vượt dữ trự bắt buộc tại NHNN
hay mua tín phiếu của NHNN phát hành. Tín dụng vì thế vẫn tăng trưởng âm
và gần đây nhiều lo ngại cho rằng Việt Nam đang dính bẫy thanh khoản.
Có một vài điểm khác biệt ở Việt Nam:
(1) Việt Nam trong giai đoạn vừa qua
không có định hướng tăng cung tiền để tăng GDP và việc làm mà mục tiêu
chính của giai đoạn vừa qua chủ yếu là để đảm bảo thanh khoản cho các
NHTM. Do vậy không thể gọi là dính bẫy được vì thiếu yếu tố đầu tiên.
(2) Nền kinh tế các nước Phương Tây phụ
thuộc chủ yếu vào tiêu dùng đặc biệt là tiêu dùng tư nhân do năng lực
sản xuất dư thừa. Người dân các nước Phương Tây chủ yếu tiêu dùng bằng
tín dụng (Tiêu dùng trước trả nợ sau), do vậy khi nền kinh tế suy thoái,
nguy cơ thất nghiệp tăng cao thì người dân tại các nước này có xu hướng
phòng thủ chứ không tăng tiêu dùng. Trong khi đó, vấn đề của Việt Nam
phải đối mặt là các khoản đầu tư công không hiệu quả, việc chi tiêu quá
mức vào các hàng hóa xa xỉ, hàng lâu bền được trả góp và điều này đã đẩy
lạm phát tăng cao trong khi lãi suất danh nghĩa lại không tăng tương
ứng khiến lãi suất thực là số âm. Lãi suất thực âm làm cho các tài sản
tài chính, tài sản thực trở nên kém hấp dẫn khiến các nhà đầu tư chuyển
sang nắm giữ các tài sản như vàng, bất động sản, ngoại tệ mạnh. Với việc
thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ thặt chặt trong hơn 1 năm qua
vừa qua đã giúp lạm phát quay trở lại mức 1 con số và lãi suất thực đã
dương trở lại. Việc lạm phát giảm là do sự cắt giảm tổng cầu: (i) Lãi
suất danh nghĩa cao đã cắt giảm đầu tư công kém hiệu quả. (ii) Cắt giảm
chi tiêu hàng hóa xa xỉ. (iii) Cắt giảm hoạt động đầu cơ vào các lĩnh
vực bất động sản, vàng, ngoại tệ… Vì vậy, việc tăng trưởng giảm trong
ngắn hạn do mức cầu giảm chứ không phải do tổng cung suy sụp. Như vậy,
với việc lạm phát ổn định ở mặt bằng thấp như thời gian qua và lãi suất
giảm xuống thấp hơn chỉ số ROIC thì lúc đó sức tăng trưởng sẽ bắt đầu
hồi phục sẽ phục hồi trở lại khi đầu tư tư nhân sẽ được mở rộng.
Tóm lại, các biểu hiện của nền kinh tế Việt Nam rõ ràng không phải là một quốc gia rơi vào tình trạng bẫy thanh khoản.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét