Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Sáu, 25 tháng 9, 2015

Bảy Cuộc Chiến Tranh Chống Hồi Giáo Của Những Đoàn Quân Chữ Thập




Tiếng La-tinh CRUX có nghĩa là Thánh Giá hoặc Chữ Thập, biểu tượng của đạo Ki-tô. Từ chữ Crux phát sinh ra danh từ CRUSADE, có nghĩa là cuộc viễn chinh của đoàn quân Công giáo từ Âu Châu kéo qua các nước lân cận để tấn công những người Hồi giáo trong thời Trung cổ. Những người lính trong đoàn quân viễn chinh Công giaó này đều mang huy hiệu chữ thập ở phía trước ngựcvà phía sau lưng nên được gọi là Thập Tự Quân (Crusaders). Suốt trong hai thế kỷ 11 và 13 (1096- 1291) những đoàn quân Thập tự này đã gieo rắc biết bao kinh hoàng tang tóc cho những người Hồi giáo Ả-rập. Hình ảnh tàn bạo mang rợ của đoàn quân Công giáo Âu châu đã in sâu vào tim óc của thế giới Hồi giáo nói chung và của những người Hồi giáo Ả-rập nói riêng. Đến nỗi ngaỳ nay, người Hồi giáo đã đồng hóa Công giáo với chủ nghĩa thực dân đế quốc. Mỗi khi lên án hành động bành trướng bá quyền củaTây phương họ thường tố cáo hành vi đó là “Tân chiến tranh Thập tự” (Néo-Crusade).
Cổ nhân thường nói “ôn cố tri tân”, chúng ta hãy coi lại lịch sử của hai thế kỷ chiến tranh đẩm máu do những đoàn quân chữ Thập Công giáo La-mã phát động chống những người Hồi giáo ở Trung đông trong hai thế kỳ 11 và 13. Những bài học lịch sử sẽ soi sáng cho chúng ta trong nhiều vấn đề thời cuộc hôm nay và cũng để hiểu thêm thực chất của một tôn giáo thường hay vỗ ngực tự xưng là đạo của “Công bằng Bác ái”!. Để trình bày về đề tài này, chúng tôi tham khảo các tài liệu sau đây:
1. The Crusades, by Brenda Staleup, Green haven Press xuất bản 2000.
2. The Oxford Illustrated History of Medieval Europe, by George Holmes, Oxford University press 1986.
3. The Cross and the Crescent, by Malcoms Billing Sterling Publication 1988.
Nguyên Nhân Chiến Tranh.
Có hai nguyên nhân dẫn đến chiến tranh thảm khốc giữa hai tôn giáo anh em (fraternal faiths) kéo dài 195 năm và sự tranh chấp lãnh thổ giữa hai tôn giáo (nhưng thực chất cả hai đều là đế quốc).

I. Sự Xung Đột Về Giáo Lý
Mặc dầu kinh Koran là kinh thánh của đạo Hồi (Koran: The Muslim Gospel) công nhận Jesus là vị tiên tri đứng hàng thứ hai sau Muhammad, nhưng Koran phủ nhận tính cách thiêng liêng của Jesus. Koran gọi các phép lạ của Jesus là những trò học mót ở Babylon (magic and such things as come down at babylon) – Koran 2:102). Kinh Koran hoàn toàn phủ nhận tội tổ tông , hoàn toàn phủ nhận cái chết của Jesus trên thập giá. Koran khẳng định người Do thái không giết và không đóng đinh Jesus (The Jews killed him not, nor cruxified him – Koran 4:157).
Muhammad thù ghét Công giáo vì đạo này thờ ảnh tượng, vi phạm điều răng thứ hai của Maisen. Một điều nữa mà Muhammad ghét cay ghét đắng là thuyết Thiên Chúa ba ngôi của đạo Ki-tô. Đối với Muhammad, Ki-tô là đạo Đa thần giáo, đi ngược là chủ thuyết độc thần của tổ phụ Abraham. Hồi giáo và Do thái giáo là hai đạo độc thần đúng nghĩa vì chỉ thờ một Thiên Chúa Duy Nhất (Monotheist Religion = Only-One-God Religion). Công giáo La-mã thờ ảnh tượng, thờ ba Thiên Chúa, quá tôn sùng bà Maria và các thánh do họ tự phong... do đó Công giáo là một tà đạo đa thần chứ không phải là đạo Thiên Chúa đúng nghĩa.
Muhammad cũng ghét đạo Do thái vì Do thái gọi Thiên Chúa bằng số nhiều Elohim (số nhiều của El), đạo Hồi gọi Thiên Chúa bằng số ít. Danh từ El trong tiếng Ả-rập là Il. Đi liền với Il có chữ “ah” là một mạo tự (article) trong ngôn ngữ Ả-rập. Vì thế Il thành Il-ah. Khi chuyển sang Anh ngữ, các chữ I thành A, vì thế Il-ah thành ALLAH (cũng như Ibrahim trong tiếng Ả-rập đổi thành Abraham trong tiếng Anh).
Muhammad gọi chung những người thao đạo Do thái và Ki-tô giáo là “những tín đồ của các sách Thánh kinh” (The people/ the followers of the Books) hoặc gọi chung là “những kẻ không tin Thiên Chúa Allah” (The unbelievers). Riêng với các tín đồ Công giáo, Muhammad gọi là “những kẻ thời thần tượng” (The idolers).
Trong kinh Koran, Muhammad công khai kêu gọi các tín đồ Hồi giáo phải chiến đấu chống lại những kẻ theo đạo Do thái, đạo Ki-tô và tất cả những ai không tin theo đạo Hồi. Trong vùng kiểm soát của Hồi giáo, bất cứ một ai ngoại đạo phải nạp thuế thân và phải chấp nhận một địa vị thấp kém trong xã hội (Fight those who do not believe God and His Messenger, those who among the People of the Books, fight them until they personally pay tax on non-Muslims ackowledging their inferiority – Koran, Sura 9).
Những người Công giáo thờ ảnh tượng bị coi là hạng người dơ bẩn và bị cấm vào các đền thờ Hồi giáo (The idolers are nothing but unclean, so they shall not approach the sacred mosque – Koran 9:28). Các người Do thái và Ki-tô bị cấm không được xây nhà thờ mới hay sửa chữa nhà thờ cũ, cấm đeo thánh giá trước ngực, không được đọc kinh to tiếng và cấm ngặt rước kiệu trên đường phố. Người Ki-tô giáo bị coi là đa thần giáo có thể bị sát hại bất cứ lúc nào. Kinh Koran chương 9 câu 5 đã quy định: “Khi những tháng thánh qua đi, các ngươi hãy giết những kẻ đa thần bất cứ nơi nào bắt gặp chúng, hãy phục kích để bắt chúng” (When the sacred month have passed away then kill the polytheists wherever you saw them, take them captives and wait for them in every ambush – Koran Sura 9: verse 5).
Người Tây phương gọi những câu thơ nói trên là “những câu thơ của đao binh” (The verse of the swords). Trong thực tế, những câu thơ của kinh Koran đã tạo nên sự dũng mãnh của những đoàn quân Hồi giáo trong công cuộc mở mang nước Chúa Allah (The Kingdom of Allah). Chỉ trong một thế kỷ, đoàn quân Hồi giáo đã chiếm hết Bắc Phi, Trung Đông, một phần Âu Châu và tràn tới Trung Á, tới tận biên giới Trung Quốc. Nhưng đồng thời những câu thơ nói trên cũng đã gây hận thù sâu sắt giữa các tôn giáo anh em và cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến các cuộc thánh chiến.

II. Sự Tranh Chấp Lãnh Thổ Giữa Hai Tôn Giáo
Từ thế kỷ thứ nhất cho đến thế kỷ thứ 6, toàn vùng Bắc Phi và Trung Đông thuộc về lãnh thổ của các giáo phái Ki-tô. Nhưng đến đầu thế kỷ thứ 7, đạo Hồi xuất hiện với sự bành trướng với tốc độ vũ bão chưa từng thấy khiến cả thế giới phải ngạc nhiên.
Chỉ trong 10 năm kể từ khi Muhammad qua đời, quân Hồi chiếm trọn bán đảo Ả-rập bao la (bằng 4 lần tiểu bang Texas hoặc 8 lần Việt Nam) chiếm các nước Iraq, Syria, Palestine, Ai-cập và phía tây của nước Iran. Hai năm sau, quân Hồi chiếm Bắc Phi, Carthage và Hy-lạp.
Qua đầu thế kỷ thứ 8 (711-716) quân Hồi dám đánh chiếm một nước Âu châu nổi tiếng sùng đạo Công giáo, đó là nước Tây-ban-nha. Trong thời gian đó, kỵ binh Hồi giáo chiếm trọn Ba-tư (Iran) và từ đây xuất quân chiếm trọn các nước Trung Á ở phía nam nước Nga, chiếm trọn vùng Bắc Ấn (tức Pakistan va Afghanistan ngày nay) đánh qua biên giới Trung Quốc và đụng trận với quân nhà Đường trên sông Talas năm 751.
Ki-tô giáo bị mất rất nhiều đất và đồng thời cũng mất rất nhiều tín đồ. Tuy nhiên, trong thời gian đó đế quốc La-mã và Ki-tô giáo bị lâm vào tình trạng chia rẽ và suy yếu nên không dám thực hiện một hành vi trả đũa nào cả!
Qua đầu thế kỷ 11, Ki-tô giáo chia thành hai giáo phái vời hai giáo đô thù nghịch nhau. Đó là Công giáo La-mã (Roman Catholic) đóng đô tại Vatican và Giáo hội Chính thống giáo (The Eastern Orthodox Church) đóng đô tại Byzantine, còn được gọi là Constantinople tức Istambul, thủ đô của Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay.
Năm 1091, quân Hồi tấn công Byzantine. Hoàng đế Alexius Comnenus đứng đầu giáo hội Chính thống giáo tuy không ưa Công giáo nhưng cũng đành phải văn thư chính thức yêu cầu Giáo hoàng La-mã đem quân đến cứu giúp. Vatican lúc đó muốn giúp Vatican thì ít nhưng điều quan tâm hàng đầu là tái chiếm thánh địa Jerusalem để giáo dân toàn Âu Châu được tự do đến đó hành hương. Mối thù lớn nhất của dân Công giáo Âu Châu đối với đạo Hồi là trong thời gian chiếm đóng Jerusalem, quân Hồi đã triệt phá Nhà thờ Kính Mộ Chúa (Church of the Holy Sepulchure). Tội triệt phá nhà thờ Kính Mộ Chúa đã trở thành lý do chính cho cuộc thánh chiến trả thù của Công giáo. Lý do thứ hai được nêu lên là vụ người Hồi giáo hành hạ những người Công giáo Âu châu đi hành hương ở Jerusalem năm 1076. Những người di hành hương sống sót trở về Âu châu đã kể nhiều chuyện về sự ngược đãi của người Hồi khiến cho dân Âu châu rất phẩn nộ.
Tu sĩ Peter Hermit là người hết sức cuồng nhiệt vận động quần chúng tín đồ Công giáo ở các nước Âu châu tham gia cuộc thánh chiến chống Hồi giáo. Các giáo dân Âu châu đa số thời đó đa số là những nông dân thất học và cuồng tín nhất là giới thanh thiếu niên, trong số đó có rất nhiều trẻ vị thành niên đã mù quáng ghi tên tham gia vào đoàn quân chữ thập. Lịch sử Âu châu đã gọi đoàn quân chữ thập này là “Đoàn quân nông dân” hoặc “Đoàn quân con nít” (Popular Crusade – The Children’s Crusade). Vào thời kỳ đó, Âu châu đang ở trong bóng tối tinh thần (The Dark Age) nên từ vua tới dân, từ tu sĩ đến các bổn đạo, tất cả đều không có một sự hiểu biết nào về Hồi giáo, không có một chút kiến thức nào về tình hình chính trị xã hội và địa thế của các nước phương Đông. Sự thiển cận về kiến thức và tinh thần cuồng tín tôn giáo đã mau chóng biến việc tái chiếm Jerusalem khỏi tay quân Hồi thành một khát vọng thiêng liêng vô cùng cuồng nhiệt. Chẳng mấy chốc đã có hàng trăm ngàn nông dân ghi tên, trong số đó có ít nhất là 60.000 trẻ vị thành niên !

Cuộc Thập Tự Chiến Thứ Nhất (1096-1099)
Như trên đã trình bày, sự vận động cho cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân Thập tự khởi đầu từ những năm 1091 do sự cầu viện của hoàng đế Byzantine, nhưng mãi tới năm 1096, tức 5 năm sau mới thực hiện được.
Đoàn quân Thập tự gồm hàng trăm ngàn người được điều khiển bởi các hiệp sĩ chuyên nghiệp, xuất phát từ hai nước Ý và Pháp. Đoàng quân của Pháp chia làm hai nhánh: nhánh quân ở miền Bắc tập trung tại Normandie, nhánh quân ở miền Nam tập trung tại Toulouse. Cả hai nhánh này tiến quân thẳng tới Constantinople.
Trên đường hành quân, khi đi ngang qua đồng bằng sông Rhin, đoàn quân Thập tự của Pháp đã lùng bắt những người Do thái rồi đưa họ ra bãi hoang chém giết tập thể. Hiện nay tại những vùng đồng bằng sông Rhin thuộc nước Đức có nhiều nơi vẫn còn ghi dấu bằng những bia đá ghi tên những người Do thái bị sát hại trong dịp này.
Vào mùa thu năm 1096, một đạo quân thứ ba của Pháp tập trung tại Clairmont đi thẳng đến Rome để kết hợp với 50.000 quân Ý. Sau đó liên quân Pháp-Ý cũng kéo đến Constantinople. Vua và triều đình Byzantine vô cùng ngạc nhiên khi thấy đoàn quân Thập tự chỉ là một đám nông dân rách rưới bẩn thỉu và có quá nhiều trẻ vị thành niên ngơ ngác. Vua Byzantine lập tức ra lệnh cho quân đội ngăn chận không cho đoàn quân ô hợp này vào thành phố. Tuy nhiên, nhà vua cung cấp cho đoàn quân này số lương thực, lương thực và cho quân đội áp tống đám Thập tự quân này đến Boporus thuộc miền Nam Thổ-nhĩ-kỳ.
Trong lúc đoàn quân này trú đóng tại Boporus thì bị quân Hồi giáo Thổ-nhĩ-kỳ bất thần tấn công giết chết rất nhiều. Đoàn quân còn laị thì tiếp tục đi tới Anatolia, một thành phố thuộc phần đất Á châu của Thổ-nhĩ-kỳ rồi đến bao vây thành phố Hồi giáo Antioch ở phía cực nam nước Thổ. Trong lúc đang bao vây thành Antioch, đoàn Thập tự quân bất ngờ bị quân Hồi giáo Iraq kéo đến bao vây vòng ngoài từ ngày 21-10-1097 đến ngày 3-6-1098. Đoàn Thập tự quân bị kẹt ở giữa vì thành Antioch quá kiên cố không thể xâm nhập, trong khi đó đoàn quân Iraq lại quá hùng hậu nên Thập tự quân không thể phá được vòng vây. Sau hơn 5 tháng bị vây hãm quá chặt, Thập tự quân bị cạn hết lương thực nên bị chết đói rất nhiều. Cuối cùng, ngày 3-6-1098, đoàn quân Thập tự buộc lòng phải chấp nhận một trận quyết tử để mở đường máu phá vỡ vòng vây của quân Hồi giáo Iraq.
Đoàn quân chữ Thập tiếp tục lên đường trong hơn một năm mới tới được Jerusalem. tại thành phố thánh địa này lúc đó có rất ít quân Hồi phòng thủ nên đoàn quân Thập tự quân đã chiếm thành phố thánh địa một cách dễ dàng vào ngày 15-7-1099. Sau khi chiếm Jerusalem, Thập tự quân ra lệnh cấm người Hồi giáo không được leo lên tháp cao ở đền thờ để kêu gọi mọi người đọc kinh, không được ăn chay trong thánh Ramadan, không được xây đền thờ mới và cấm sửa chữa đền thờ cũ. Tất cả những tín đồ Công giáo cải sang đạo Hồi đều bị tử hình.
Chỉ trong vòng vài tuần lễ đầu chiếm đóng Jerusalem, đoàn Thập tự quân tàn sát những đàn ông Do thái và ngưởi Hồi giáo Ả-rập tổng cộng lên đến 30.000 người. Thánh địa của cả ba tôn giáo lớn biến thành một nhà xác khổng lồ. Lý do là số người chết nhiều hơn số quân số của Thập tự quân tại Jerusalem, và không có ai lo chuyện chôn người chết cả. Cho tới 5 tháng sau, các cống rãnh và các thung lũng ở jerusalem vẫn còn sặc mùi hôi thối của các xác chết.
Cuộc chiến tranh thứ nhất của Thập tự quân Công giáo La-mã (The First Crusade) là một ấn tượng ghê tởm nhất đối với người Hồi giáo và Do thái giáo, và là một bài học kinh nghiệm nhớ đời cho toàn thế giới Hồi giáo về sự man rợ khủng khiếp của bọn tín đồ Công giáo cuồng tín.
Tuy nhiên, cũng do cuộc chiến tranh này mà người Âu châu đã có cơ hội hiểu biết về thế giới Ả-rập và Hồi giáo. Họ không ngờ thế giới Hồi giáo quá rộng lớn, bao trùm một vùng lãnh thổ từ Bắc Phi qua Âu châu tới tận Viễn Đông. Họ không ngờ Hồi giáo cũng là một nền văn minh, trong đó có nhiều bộ môn khoa học, toán học, triết học tiến bộ vượt xa Âu châu. Cũng từ đó, người Âu châu đã dần dần tự giác ngộ để tự giải thoát ra khỏi Thời đại Đen tối (The Dark Age).
Về thành tích giết người tàn bạo của Thập tự quân tại jerusalem trong những ngày đầu của cuộc thánh chiến hiện nay vẫn còn một chứng tích lịch sử độc đáo. Đó là bức thư của vị tướng tổng chỉ huy Thập tự quân gửi từ Jerusalem về Vatican để báo cáo các tin mừng chiến thắng lên Giáo hoàng Urban II. Bức thư này hiện được lưu trữ tại Văn khố của Tòa thánh. Trong thư có đoạn viết như sau: “Đức thánh cha có biết chúng con đã đối xử với kẻ thù của chúng ta ở Jerusalem ra sao không? Tại cổng thành Solomon và trong Đền thánh, đoàn kỵ binh của chúng con phải đi qua những cũng máu dơ bẩn của quân Hồi giáo Saracenes ngập cao đến đầu gối của những con ngựa”. (‘Deceptions and Myths of the Bible’, by Lloyd Graham, trang 462).
Kết quả lớn nhất của cuộc viễn chinh đầu tiên của đoàn quân chữ thập là sự hình thành một vương quốc trực thuộc Vatican. Vương quốc này trải dài 800km dọc theo bờ biển Địa Trung Hải mang tên “Vương quốc La-tinh Jerusalem” (Latin Kingdom of Jerusalem) bao gồm: Hai tỉnh Antioch và Edessa ở phía đông nam Thổ-nhĩ-kỳ, nước Syria, nước Liban, xứ Judea và xứ Gallilee, trong đó có thành phố thánh địa Jerusalem.
Tòa thánh Vatican trực tiếp cai trị bằng cách phong vương cho người đứng đầu vương quốc này. Nhưng thay vì gọi là “vua” của vương quôc, toà thánh gọi là “Người bảo vệ Mộ Chúa” (Protector of the Holy Sepulchere). Vương quốc La-tinh Jerusalem tồn tại được 88 năm (từ 1099 đến 1187) qua 7 đời vua do Vatican chọn lựa và tấn phong. Trong 88 năm cai trị vương quốc Jerusalem, quân Thập tự đã tàn sát rất nhiều người Hồi giáo và Do thái giáo, bất kể họ là người già, phụ nữ hay trẻ em. Quân Thập tự cũng xây cất rất nhiều phaó đài và lâu đài phòng thủ kiên cố để bảo vệ vương quốc, đến nay vẫn còn những di tích lịch sử để lại tại các nước Trung Đông dọc theo bờ biển Địa Trung Hải.

Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Hai (1147-1149)
Nguyên nhân dẫn đến cuộc Thập tự chinh thứ hai (The Second Crusade) là do biến cố quân Hồi giáo thuộc giáo phái Sunni từ các nước Ả-rập và Thổ-nhĩ-kỳ tấn công tái chiếm tỉnh Edessa thuộc Vương quốc La-tinh Jerusalem. Để thực hiện quyết tâm phục thù, Vatican ra lệnh cho vua Pháp là Louis VII và vua Ý là Conrad III phối hợp với nhau tổ chức cuộc Thập tự chinh thứ hai. Năm 1147, Liên quân Pháp-Ý trong đoàn quân chữ thập lên đướng đến Thổ-nhĩ-kỳ để chiếm lại Edessa nhưng đã hoàn toàn bị đánh bại. Tàn quân rút chạy về phía nam thuộc lãnh thổ Liban và Syria. Đến năm 1149, toàn bộ đám tàn quân này bị quân Hồi tiêu diệt tại Damacus (thủ đô Syria ngày nay).

Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Ba (1190-1192)
Đối với Do thái giáo và Ki-tô giáo thì Jerusalem là thánh địa duy nhất củahọ. Đối với người Hồi giáo thì thánh địa quan trọng nhất là Mecca (thủ đô của nước Ả-rập Saudi). Thánh địa thứ hai là Medina, một thành phố cách thủ đô Mecca 250 dặm về phía bắc. Và Jerusalem là thánh địa thứ ba của Hồi giáo vì tương truyền rằng Muhammad đã lên trời từ thành phố này.
Quân Thập tự của Vatican chiếm Jerusalem năm 1096 là một kỷ niệm ô nhục và đau đớn cho thế giới Hồi giáo. Người Hồi giáo đã phải nuốt hận chịu đựng trong gần một thế kỷ mới có cơ hội phục thù. Cái nhân của cơ hội phục thù là sự xuất hiện của một nhân vật lừng danh thế giới, đó là vị tướng bách chiến bách thắng Saladin (1137-1193) gốc người Kurd theo giáo phái Sunni. Ông được dân Ai-cập và Syria tôn lên làm vua (Sultan). Nhân vật Saladin trở nên một nhân vật huyền thoại trong nhiều tác phẩm văn chương của các nước Âu châu thời đó. Quả thật, Saladin đã thu phục được nhân tâm của nhiều dân tộc theo đạo Hồi. Dưới sự lãnh đạo của ông, quân Hồi đã tái chiếm Jerusalem và nhiều phần đất khác của vương quốc La-tinh vào năm 1187. Toàn thế giới Hồi giáo Ả-rập vui mừng vì thánh địa thứ ba đã được tái chiếm và danh dự của Hồi giáo đã được phục hồi.
Nỗi vui mừng chiến thắng của Hồi giáo càng lớn bao nhiêu thì nỗi đau của Vatcian và Giáo hội Công giáo cáng thấm thía và ê chề bấy nhiêu. Do rút tỉa của những kinh nghiệm thất bại trước đây, lần này Vatican chuẩn bị chu đáo hơn với sự hội ý của ba ông vua đầy quyền lực tại Âu châu là vua Pháp, vua Đức và đặc biệt là vua Anh Richard I – người được mệnh danh là “Richard Trái tim Sư tử” (Richard The Lion-Hearted). Cũng xin nói thêm đây là Giáo hội Công giáo Anh tách rời khỏi giáo quyền Vatican do vua Henri VIII chủ xướng vào năm 1534. Trước đó, các vua Anh đều thần phục giáo quyền Vatican như hầu hết các vua khác ở Âu châu.
Cuộc Thập tự chinh thứ ba có tới 3 hoàng đế Âu châu điều khiển nên các sử gia thường gọi cuộc Thập tự chinh này là “Cuộc Thập tự chinh của các vua” (The Crusade of the Kings). Vua Anh đích thân điều khiển cuộc viễn chinh từ 1190 cho đến khi chiến dịch kết thúc vào năm 1191. Trong hai năm chinh chiến, đoàn quân chữ thập tái chiếm hầu hết lãnh thổ của Vương quốc La-tinh Jerusalem. Nhưng thành phố quan trọng nhất là thánh địa Jerusalem thì lại không chiếm được. Quân Hồi chận đứng đoàn quân chữ thập của Richard I tại thành phố Acre ở phía bắc Jerusalem. Trong thời gian trú đóng tại Acre (1191-1192) vua Anh Richard ‘The Lion-Hearted’ đã ra lệnh chém đầu tập thể trên 3000 người Hồi giáo Ả-rập. Vụ này đã đi vào lịch sử Hồi giáo như một bằng chứng về tội ác diệt chủng của Giáo hội Công giáo La-mã (The Cross and the Crescent, by Malcom Billing, trang 116). Hiện nay, tại thư viện Quốc gia của Pháp có lưu trữ một bức họa thời Trung Cổ vẽ cảnh vua Richard I ngồi trên khán đài chứng kiến đoàn quân thập tự chém đầu tập thể những người Hồi giáo.

Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Tư (1201-1204)
Giáo hội Công giáo La-mã rất thù ghét Giáo hội Chính thống giáo là một giáo hội Ki-tô tách rời khỏi giáo quyền Vatican vào giữa thế kỷ 11. Trong thời gian thập tự quân chiếm đóng Jerusalem, các tín đồ đạo Chính thống ở Âu châu bị cấm không được hành hương đến thánh địa. Các giáo dân và tu sĩ đạo Chính thống tại Jerusalem đều bị ngược đãi tàn tệ. Đó chính là những lý do khiến cho hoàng đế Byzantine và Giáo hội Chính thống không thể ngồi yên trước sự lộng hành của Vatican. Để tránh bị lâm vào thế “lưỡng đầu thọ địch”, hoàng đế Byzantine và Giáo hội Chính thống thương thuyết với vua Hồi giáo Thổ-nhĩ-kỳ, kết quả hai bên đạt tới việc ký kết hòa ước cam kết không gây chiến tranh xâm chiếm lẫn nhau.
Hòa ước Byzantine – Thổ-nhĩ-kỳ làm cho mối bất hòa giữa Vatican và Chính thống giáo càng trở nên sâu sắc. Bọn diều hâu ở Âu châu lúc đó là các hiệp sĩ (Knights) trong những nước Công giáo cuồng tín đã lập những kiến nghị yêu cầu tòa thánh Vatican phát động cuộc Thập tự chinh thứ tư để tiêu diệt đế quốc Byzantine và Chính thông giáo. Cuộc viễn chinh lần này được Vatican uỷ nhiệm cho các thủ lãnh hiệp sĩ Ý và Đức thực hiện.
Trên danh nghĩa, cuộc Thập tự chinh thứ tư nhằm trừng phạt Byzantine và Chính thống giáo nhưng mục tiêu chính là để tiêu diệt một đồng minh tương lai của Hồi giáo. Cuộc chiến kéo dài trong 3 năm từ 1201 đến 1204, đoàn quân thập tự chiếm trọn lãnh thổ đế quốc Byzantine. Vatican đặt tên cho lãnh thổ này là “Đế quốc La-tinh Constantinople”. Vatican chia đế quốc này thành nhiều thái ấp (feuds) và phong chức lãnh chúa cho các hiệp sĩ có công để cai trị các thái ấp đó. Vatican đã biến toàn vùng đế quốc Byzantine xưa thành một xã hội phong kiến. Các lãnh chúa thu thuế của dân và trích ra một phần để nộp cho Vatican. Đế quốc La-tinh Constantinople tồn tại được 57 năm (1204-1261).

Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Năm (1217-1221)
Cuộc Thập tự chinh thứ năm không có một nguyên nhân chính trị hay tôn giáo nào mà hoàn toàn do sự bốc đồng của vua Andrew nước Hungary. Hungary chì là một nước nhỏ nằm ở giữa châu Âu. Vua Andrew là người cuồng tín cà có quá nhiều ảo vọng quyền lực. Ông ta đã không lượng trước sức của mình, tự ý thành lập một đạo quân thập tự rồi kéo quân đến tấn công một nước xa xôi là Ai-cập. ông ta may mắn thành công trong việc chiếm thành phố Dannietta của Ai-cập. Người Ai-cập nhân danh Hồi giáo thương thuyết với Andrew là nếu nhà vua chịu trả lại thành phố Dannietta cho Ai-cập thì Hồi giáo sẽ trả lại Jerusalem cho Giáo hội Công giáo. Vua Andrew đã kiêu hãnh bác bỏ đề nghị này và kéo quân tiến đánh thủ đô Cairo của Ai-cập. Quân Hồi giáo Ai-cập hết sức phẩn nộ đã mãnh liệt phản công tiêu diệt hoàn toàn quân xâm lược của Andrew vào năm 1221.

Cuộc Thập Tự Chinh Thứ Sáu (1228-1229)
Cuộc Thập tự chinh lần này do Vatican giao cho vua Đức Frederic II thực hiện để trả thù cho Andrew. vatican đã cấp cho vua Frederic một ngân khoản rất lớn để võ trang thật hùng hậu cho đoàn quân thập tự. Tuy nhiên, vua Frederic là một nhà quân sự bất tài, đã phạm phải những lỗi lầm nghiêm trọng về chiến thuật nên toàn bộ đoàn quân chữ thập mới đặt chân lên đất Ai-cập đã bị tiêu diệt. Riêng bản thân vua Frederic II bị quân Hồi giáo Ai-cập bắt sống. Vatican đã phải trả một số tiền rất lớn để chuộc mạng cho Frederic, y được quân Hồi phóng thích cho về nước an toàn.

Cuộc Thập Tự Chinh Cuối Cùng (1248-1254)
Lý do dẫn đến cuộc Thập tự chinh thứ 7 là vụ quân Hồi định chiếm thánh địa Jerusalem vào năm 1244. Vatican trao nhiệm vụ tổ chức cuộc thánh chiến cho vua Pháp Louis IX. Nhà vua tuân lệnh và nhận tiền của Vatican chuẩn bị tổ chức cuộc viễn chinh thập tự lần thứ 7 trong vòng 4 năm.
Năm 1248, vua Louis IX đích thân chỉ huy cuộc viễn chinh , kéo quân qua các nước Syria, Liban, Palestine... đi tới đâu đều bị quân Hồi phục kích tấn công đến đó. Cuộc chiến dai dẳng không phân thắng bại, khiến binh sĩ vô cùng chán nản. Sáu năm sau, đoàn quân thập tự vẫn không tời được Jerusalem. Đến năm 1254, quân Hồi tổng phản công khắp nơi khiến cho đoàn quân thập tự của Louis IX phải bỏ chạy, những kẻ sống sót tìm đường trở lại Âu châu.
Đến năm 1291, quân Hồi chiếm lại tất cả những phần đất đã mất về tay đoàn quân chữ thập trước đây, chấm dứt hoàn toàn Vương quốc La-tinh Jerusalem sau 195 năm tồn tại. Cũng xin nói thêm ở đây là trong lịch sử các cuộc viễn chinh thập tự có hai vua Pháp tên Louis tham dự. Vua Louis VII bị thất bại nhục nhã trong cuộc thập tự chinh lần thứ hai (1147-1149) và vua Louis IX bị thất bại trong cuộc thập tự chinh cuối cùng (1248-1254). Tuy nhiên, Louis IX đã được lòng Vatican nên ông này đã được Vatican phong thánh. Vì thế, người Pháp không còn gọi Louis IX là vua nữa mà gọi là Saint Louis. Tên của ông đã được dùng để đặt tên cho một thành phố lớn tại Hoa Kỳ vì thành phố này có nhiều người Mỹ gốc Pháp.

Những Điều Đáng Ghi Nhớ Về Các Cuộc Thập Tự Chinh


1. Vấn đề có bao nhiêu cuộc Thập tự chinh?
Khi nghiên cứu về những cuộc viễn chinh của đoàn quân chữ thập thời Trung cổ, chúng ta sẽ gặp nhiều tài liệu sử học đưa ra những con số khác nhau về những cuộc chiến tranh của thập tự quân. Có tài liệu nói là 6 trận, có tài liệu nói 7, 8 hoặc nhiều hơn. Lý do chính yếu làm cho các sử gia bối rối không thể nêu lên con số chính xác về cuộc chiến của thập tự quân kéo dài gần 2 thế kỷ (195 năm). Trong thời gian dài dằng dặc đó đã xảy ra nhiều cuộc chuyển quân của thập tự quân giả dạng làm những đoàn người đi hành hương hoặc đoàn người đi buôn bán... nhưng sau đó vẫn có thể thực hiện được những cuộc tấn công vào quân Hồi giáo. Một điều phức tạp hơn nữa là sau thế kỷ II, nhiều giáo hội Công giáo Âu châu tách rời khỏi giáo quyền Vatican như Chính thống, Anh giáo và Tin Lành. Vatican tổ chức những đoàn quân cũng mang danh là Thập tự quân đi đàn áp những kẻ ly khai đó. Trường hợp rõ nét nhất là cuộc Thập tự chinh lần thứ tư (1201-1204) Vatican đánh chiếm hoàn toàn lãnh thổ đế quốc Byzantine của Chính thống giáo. vậy có nên coi cuộc Thập tự chinh này là một trong những cuộc thập tự chinh chống Hồi giáo hay không ? Nhiều sử gia trả lời là có vì mục tiêu chính của Vatican là triệt hạ một đồng minh mới của Hồi giáo.
2. Nhiều con cháu của Thập tự quân trở thành Hồi giáo
Những thập tự quân Âu châu đến Jerusalem trong cuộc viễn chinh đầu tiên năm 1096, sau mấy chục năm định cư tại đây họ dần dần hiểu được thực tại và tĩnh ngộ chứ không còn cuồng tín như trước. Vì tại Jerusalem không có phụ nữ Âu châu nên lính thập tự đều lấy vợ Ả-rập Hồi giáo. Từ thế hậ thứ hai, thứ ba trở đi, hầu hết con cháu của thập tự quân đều thành người Hồi giáo. Do đó, khi xảy ra cuộc thập tự chinh lần thứ hai (1147 tức 51 năm) và thập tự chinh lần thứ ba (1190, tức sau lần thứ nhất gần một thế kỷ) những con cháu của thập tự quân đợt đầu đã trở thành những người Âu lai Ả-rập Hồi giáo rất thù ghét những người Âu đến sau. Họ là những chiến sĩ Hồi giáo chống đối mãnh liệt nhất những đợt thập tự chinh 2 và 3.
3. Nạn buôn nô lệ
Các cuộc chiến tranh của thập tự quân tại Trung Đông đã làm cho tệ nạn buôn bán nộ lệ trở thành một kỹ nghệ phát đạt. cả hai phe Hồi giáo cũng như thập tự quân đều chú tâm bắt sống tù binh và bắt thường dân ở các vùng chiếm đóng để đem bán tại các chợ ở khắp miền Trung Đông. Các thiếu nữ đẹp luôn luôn là món hàng đắt giá nhất được các nhà giàu hoặc các quan quyền mua về làm tì thiếp hay nô lệ tình dục.
4. Giá máu quá đắt cho một chuyện hoang đường
Trong suốt năm 1095, Giáo hoàng Urban II đi khắp các nước Công giáo Âu châu kích động quần chúng tín đồ đầu quân tham gia đoàn quân thập tự hoặc đóng góp tiền bạc để tài trợ cho cuộc chiến thần thánh nhằm bảo vệ ngôi mộ của Chúa. Những “ngôi mộ của Chúa” chỉ là chuyện hão huyền vì nó chẳng bao giờ có. Nếu Chúa đã sống lại và lên trời thì làm gì có mộ của Chúa? Còn nếu Chúa đã bị quân La-mã đóng đinh trên thập giá thì theo luật của La-mã là mọi tử tội đã chết trên thấp giá phải bị vứt xác ra bãi hoang cho kên kên và chó hoang ăn thịt. Trong lịch sử La-mã tuyệt đối không có chuyện xác tử tội được trao cho người nhà đem về chôn cất tử tế ở trong mồ. Jesus bị quân La-mã xếp vào loại tử tội nguy hiểm chẳng lẽ lại được La-mã dành cho một đặc ân ngoại lệ duy nhất là trao cho người nhà đem về chôn trong mồ hay sao? Chuyện ngôi mộ của Jesus là một chuyện hão huyền của bọn đại bịp. Nhưng câu chuyện hão huyền ấy đã làm đổ máu của ba triệu người, trong số đó có ít nhất là 60 ngàn trẻ em.
Sử gia Lloyd M. Graham đã viết về vấn đề này như sau: “Chúng ta hãy quan tâm đến những cuộc chiến tranh của thập tự quân, đó là những cuộc chiến tranh khủng khiếp nhằm bảo vệ “ngôi mộ thánh của Chúa” mà nó chẳng bao giờ có, thế mà ba triệu người đã bị giết một cách vô ích, trong số đó có sáu mươi ngàn trẻ em” (‘Deceptions and Myths of the Bible’, trang 350).
Ba triệu sinh mạng là giá máu quá đắt mà nhân loại đã phải trả cho một chuyện hoang đường của tà đạo đa thần Công giáo La-mã. Ba triệu người đã tức tưởi chui xuống những nấm mồ có thật chỉ vì một nấm mồ không có thật của một người được mệnh danh là Chúa Cứu Thế !

                        Charlie Nguyễn
                                            Thu 2002

0 nhận xét:

Đăng nhận xét