Quỹ đầu tư tư nhân:
Do một số tổ chức và cá nhân góp vốn và thuê Công ty quản lý Qũy nhằm
mục đích đầu tư vốn của mình một cách có lợi nhất và đảm bảo quản lý
chặt chẽ vốn đầu tư. Do việc huy động vốn của Quỹ chỉ hạn chế trong một
số tổ chức và cá nhân nên họ có thể đầu tư vào những dự án dài hạn, có
tiềm năng phát triển cao và mức độ rủi ro lớn. Các Quỹ này thường đầu tư
vào chứng khoán của những công ty chưa niêm yết. Khi những công ty này
phát triển đến mức độ nhất định, họ bán lại những chứng khoán nắm giữ để
thu hồi vốn. Quỹ đầu tư tư nhân thường mang hình thái của Quỹ đầu tư
vốn mạo hiểm.
Quỹ đầu tư tập thể: Chứng
chỉ góp vốn của Quỹ đầu tư tập thể được phép mua bán rộng r•i trên thị
trường. Do số lượng người góp vốn rất nhiều và phần lớn là các cá nhân -
những nhà đầu tư không chuyên nên hầu hết các nước đều có những quy
định hết sức chặt chẽ nhằm bảo vệ quyền lợi của những người đầu tư.
Phân loại theo đối tượng đầu tư
1. Quỹ đầu tư cổ phiếu (stock fund):
- Quỹ đầu tư tăng trưởng (growth fund)
theo đuổi sự tăng trưởng vốn, thu nhập cổ tức không phải là yếu tố
chính yếu. Các Quỹ này đầu tư vào cổ phiếu thường của các công ty có
chiều hướng tăng trưởng cao.
- Quỹ đầu tư vốn mạo hiểm (venture capital fund hay hedging fund)
theo đuổi sự tăng trưởng tối đa về vốn, thu nhập cổ tức không phải là
yếu tố chính yếu. Các Quỹ này đầu tư vào các cổ phiếu của công ty mới,
công ty đang gặp khó khăn hay thuộc các ngành tạm thời không được ưa
chuộng. Các Quỹ này có thể sử dụng các kỹ thuật đầu tư đòi hỏi mức rủi
ro cao hơn trung bình.
- Quỹ đầu tư tăng trưởng và thu nhập (growth and income fund)
theo đuổi sự tăng trưởng vốn dài hạn và thu nhập hiện tại. Các Quỹ này
đầu tư vào cổ phiếu thường của các công ty có giá trị cổ phần tăng lên
và có một tiền sử trả cố tức vững chắc.
- Quỹ đầu tư vàng và kim loại quý (precious metals/ gold fund)
theo đuổi sự tăng trưởng vốn. Danh mục đầu tư của các Quỹ này gồm chủ
yếu các chứng khoán kết hợp với vàng và các kim loại quý khác.
- Quỹ đầu tư chọn vốn (capital selection fund)
theo đuổi sự tăng trưởng vốn. Các Quỹ này lựa chọn đầu tư cổ phiếu theo
quy mô vốn của công ty, có thể là công ty vốn lớn, trung bình hoặc vốn
nhỏ.
- Quỹ đầu tư chọn ngành (industry selection fund) theo
đuổi sự tăng trưởng vốn. Các Quỹ này lựa chọn đầu tư cổ phiếu theo vị
thế của ngành hoặc theo một số tiêu chuẩn riêng của Quỹ. Hình thức đầu
tư này đi ngược lại nguyên tắc đa dạng hoá danh mục đầu tư, nó tạo những
rủi ro không thể lường trước.
- Quỹ đầu tư chỉ số (index fund)
theo đuổi mức thu nhập hiện tại cao. Danh mục quản lý của các Quỹ này
được quản lý theo một chỉ số chứng khoán nhất định. Danh mục chứng khoán
của Quỹ luôn giữ một tỷ lệ theo sự thay đổi của chỉ số đó.
- Quỹ đầu tư quốc tế (international fund) theo đuổi tăng trưởng trong giá trị các khoản đầu tư. Danh mục đầu tư gồm chủ yếu các cổ phiếu của các công ty nằm ngoài nước.
- Quỹ đầu tư toàn cầu (global equity fund)
theo đuổi tăng trưởng trong giá trị các khoản đầu tư. Các Quỹ này đầu
tư vào các cổ phiếu được giao dịch trên toàn thế giới, kể cả các cổ
phiếu trong nước.
- Quỹ đầu tư thu nhập - vốn cổ phần (income-equity fund) theo đuổi mức thu nhập cao bằng việc đầu tư chủ yếu vào các cổ phiếu và công ty có tiền sử trả cổ tức tốt.
2. Quỹ đầu tư trái phiếu và thu nhập (bond and income fund):- Quỹ đầu tư trái phiếu chuyển đổi (convertible bond fund)
theo đuổi mức thu nhập hiện tại và sự tăng trưởng vốn trong tương lai.
Các Quỹ này đầu tư vào các trái phiếu kèm theo quyền được chuyển đổi
sang cổ phiếu thường theo các điều kiện cam kết.
- Quỹ đầu tư thu nhập - trái phiếu (income-bond fund) theo đuổi mức lợi nhuận hiện tại cao. Các Quỹ này đầu tư vào một tập hợp các trái phiếu công ty và trái phiếu chính phủ.
- Quỹ đầu tư thu nhập chính phủ (government income fund)
theo đuổi lợi nhuận hiện tại. Các Quỹ này đầu tư vào nhiều loại chứng
khoán chính phủ bao gồm trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái
phiếu thế chấp...
- Quỹ đầu tư trái phiếu toàn cầu (global bond fund)
theo đuổi một mức thu nhập cao. Danh mục đầu tư của các Quỹ này chủ yếu
gồm các chứng khoán nợ của các công ty và các quốc gia trên toàn thế
giới, kể cả các chứng khoán nợ quốc gia.
- Quỹ đầu tư trái phiếu công ty (corporate bond fund)
theo đuổi một mức thu nhập cao. Danh mục đầu tư của các Quỹ này chủ yếu
gồm các trái phiếu công ty và một tỷ lệ trái phiếu kho bạc nhất định.
- Quỹ đầu tư trái phiếu lợi suất cao (high-yield bond fund)
theo đuổi một lợi suất cao nhưng chứa đựng một mức rủi ro cao hơn các
Quỹ trái phiếu công ty. Danh mục đầu tư của các Quỹ này gồm chủ yếu các
trái phiếu của các công ty bị đánh giá thấp.
- Quỹ đầu tư trái phiếu địa phương dài hạn (municipal bond fund-long-term)
theo đuổi thu nhập không bị đánh thuế bởi chính phủ. Các Quỹ này đầu tư
vào các trái phiếu do chính quyền địa phương phát hành nhằm cung cấp
vốn cho các công trình địa phương như trường học, bệnh viện, cầu
đường...
3. Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ (money market fund)- Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ chịu thuế (taxable money market fund)
theo đuổi việc duy trì một giá trị tài sản thuần bền vững. Các Quỹ này
đầu tư vào các chứng khoán hảo hạng, ngắn hạn được bán trên thị trường
tiền tệ như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi của các ngân hàng lớn
và thương phiếu. Kỳ hạn trung bình của danh mục đầu tư các Quỹ này
thường được giới hạn từ 3 tháng trở xuống.
- Quỹ đầu tư thị trường tiền tệ miễn thuế (tax-exempt money market fund)
theo đuổi thu nhập không bị đánh thuế bởi chính phủ với mức rủi ro thấp
nhất. Các Quỹ này đầu tư vào các chứng khoán địa phương với kỳ hạn
tương đối ngắn.
4. Một số Quỹ khác:- Quỹ đầu tư danh mục linh hoạt (flexible portfolio fund)
cho phép các nhà quản lý tham gia hoặc phản ứng với các thay đổi điều
kiện thị trường bằng việc đầu tư và cổ phiếu, trái phiếu hay các công cụ
của thị trường tiền tệ.
- Quỹ đầu tư cân đối (balanced fund)
nói chung theo các nguyên tắc của các nhà đầu tư, thu nhập hiện tại và
đạt tăng trưởng dài hạn. Danh mục đầu tư của các Quỹ này là tập hợp các
trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường.
Phân loại theo cơ cấu huy động vốn
Quỹ đầu tư dạng đóng (closed-end fund):
Không mua lại các chứng chỉ mà Quỹ đã phát hành, Quỹ đóng huy động vốn
thông qua phát hành chứng chỉ từng lần một. Nhà đầu tư không mua được
chứng chỉ Quỹ ở các lần phát hành tập trung thì chỉ có thể mua lại ở thị
trường chứng khoán thứ cấp từ những cổ đông hiện tại giống như giao
dịch các cổ phiếu. Quỹ không có liên quan gì tới những giao dịch này. Vì
vậy, Quỹ đóng còn có tên là Quỹ giao dịch công cộng (publicly-traded
fund). Chứng chỉ Quỹ đóng có thể được niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán hoặc chỉ được giao dịch trên thị trường chứng khoán phi tập trung
OTC (Over The Counter ) và được giao dịch giống như cổ phiếu thường.
Quỹ
đóng có cơ cấu vốn ổn định nên có lợi thế trong việc đầu tư vào các dự
án dài hạn và các chứng khoán có tính thanh khoản thấp. Tuy vậy, chứng
chỉ Qũy đóng không có tính thanh khoản cao nên thị giá thường thấp và
thời gian thu hồi vốn lâu.
Quỹ đầu tư dạng mở (open-end fund):
Phát hành chứng chỉ liên tục để huy động vốn và sẵn sàng mua lại chứng
chỉ mà Quỹ đã phát hành theo giá trị tài sản ròng. Việc mua bán chứng
chỉ Quỹ có thể thực hiện trực tiếp giữa người đầu tư và công ty quản lý
Quỹ, không phải thông qua thị trường chứng khoán với giá mua = giá trị tài sản ròng của Quỹ + phí bán. Phương pháp tính giá mua sẽ được nêu ở phần Hoạt động của Quỹ đầu tư.
Do
cơ cấu vốn không ổn định vì người đầu tư có thể rút vốn bất kỳ lúc nào
nên Quỹ mở phải đầu tư vào rất nhiều loại chứng khoán khác nhau. Vì vậy,
góp vốn vào Quỹ mở, người đầu tư có thể nắm giữ một danh mục đầu tư hết
sức đa dạng. Người đầu tư có thể nhận cổ tức hoặc tái đầu tư vào Quỹ
bằng cách yêu cầu được mua thêm chứng chỉ mới. Quỹ mở thường được gọi
phổ biến là Quỹ hỗ tương (mutual fund).
Ngoài ra còn có một số dạng khác xuất phát từ hai hình thái trên:- Quỹ bán mở:
có sự hạn chế hơn so với Quỹ mở. Nhà quản lý Quỹ đồng ý mua cổ phiếu từ
các cổ đông tại mức giá trị tài sản ròng trên mỗi cổ phiếu tại các thời
gian định trước.
- Quỹ tín thác đơn vị UIT (unit investment trust):
được thành lập theo một chứng thư uỷ thác hay một công cụ tương đương
về tính pháp lý. Vốn đóng góp cũng như mọi đầu tư bằng vốn đóng góp sẽ
do cá nhân hoặc tổ chức được uỷ thác giữ. Ban đầu, khi thành lập Quỹ,
nhà tư vấn đầu tư thu xếp gộp vào trong một danh mục đầu tư rồi phân ra
thành các đơn vị (giống như các cổ phần thường) để bán cho người đầu tư
qua môi giới. Các đơn vị thường được bán theo giá trị tròn số (Mỹ:
1.000USD) trong lần phát hành đầu tiên. Các nhà môi giới, bảo lãnh phát
hành sẽ đồng thời là người duy trì hoạt động mua bán các đơn vị đó. Giá
các đơn vị sẽ tuỳ thuộc vào giá các chứng khoán trong danh mục đầu tư
của Quỹ. Người mua các đơn vị đầu tư này phải trả một khoản phí ban đầu
cho người môi giới bán, thường là 4%. Chính khoản phí cao như vậy mà các
nhà đầu tư ngắn hạn thấy không có lợi khi đầu tư vào loại quỹ này.
Phân loại theo cơ chế quản lý Quỹ
Có hai mô hình quản lý Quỹ đầu tư: mô hình công ty (corporate) và mô hình tín thác (contractual)
Mô hình công ty:
Quỹ đầu tư có tư cách pháp nhân đầy đủ, được thành lập dưới hình thức
công ty đầu tư cổ phần, có điều lệ hoạt động, vốn huy động từ các nhà
đầu tư bằng cách phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu của Quỹ có thể được giao
dịch trên Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC.
Những
người góp vốn vào Quỹ sẽ trở thành những cổ đông được quyền hưởng cổ
tức và biểu quyết bầu Hội đồng quản trị cũng như các vấn đề cơ bản của
Quỹ như các cổ đông trong một công ty cổ phần truyền thống.
Điểm
đặc trưng của công ty đầu tư là Hội đồng quản trị đại diện cho các cổ
đông đứng ra thuê công ty quản lý Quỹ và Ngân hàng bảo quản. Hội đồng
quản trị sẽ giám sát hoạt động của 2 tổ chức này theo kiểu “tam quyền
phân lập”: Hội đồng quản trị đề ra chính sách và giám sát, Công ty quản
lý Quỹ thực hiện đầu tư còn Ngân hàng bảo quản nắm giữ tài sản.
Việc
phân quyền như vậy nhằm đảm bảo việc tài sản không thuộc quyền định
đoạt hoàn toàn của bất kỳ ai. Công ty quản lý Quỹ, với vai trò của nhà
đầu tư chuyên nghiệp, sẽ tối ưu hoá hiệu quả đầu tư. Bên cạnh đó, việc
bảo đảm an toàn và lưu giữ các tài sản, đặc biệt là chứng khoán, một
cách khoa học cũng như việc tiến hành thu - chi, thanh toán thì không ai
khác ngoài một ngân hàng có thể đảm đương được. Bên cạnh đó, việc phân
quyền cũng nhằm đảm bảo quyền lợi cho các nhà đầu tư vì các Quỹ đầu tư
được bắt đầu từ con số “0” và khối lượng vốn huy động là không hạn chế
trong khi các ngân hàng hay các loại hình công ty khác luôn phải có mức
vốn tự có tối thiểu để hoạt động.
Tuy là một công
ty cổ phần nhưng công ty đầu tư không chỉ chịu sự điều chỉnh của Luật
công ty mà còn phải chịu sự điều chỉnh khá phức tạp của các luật liên
quan tới tín thác đầu tư chứng khoán.
Mô hình tín thác:
Quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân. Với mô hình này, Quỹ đầu tư chỉ
được coi là một khối lượng tiền do các nhà đầu tư góp vốn để sử dụng
dịch vụ quản lý đầu tư chuyên nghiệp nhằm thu lợi nhuận. Quỹ không có
Hội đồng quản trị, hoạt động trên cơ sở Chứng thư tín thác (trust deed)
được ký kết giữa công ty quản lý Quỹ và Ngân hàng giám sát bảo quản.
Chứng thư tín thác, được sự phê chuẩn của Bộ tài chính hoặc cơ quan chức
năng, quy định mọi vấn đề đối với hoạt động của Quỹ nhằm đảm bảo quyền
lợi cho các nhà đầu tư.
Công ty quản lý Quỹ khi
thành lập phải chuẩn bị Bản cáo bạch phát hành để cung cấp những thông
tin cần thiết về Công ty quản lý Quỹ và các thông tin về việc phát hành
chứng chỉ Quỹ đầu tư, giá bán, phương tức định giá, số lượng phát hành,
thuế và các thủ tục hành chính ...
Người đầu tư
vào Quỹ đầu tư theo mô hình tín thác không được gọi là một cổ đông vì họ
chỉ có quyền nhận lợi tức từ số vốn góp mà không có quyền bầu cử và các
quyền khác như mô hình công ty. Vì thế, người đầu tư lúc này được gọi
là người thụ hưởng (beneficiary) và chứng chỉ Quỹ đầu tư được gọi là
chứng chỉ hưởng lợi.
Do không có Hội đồng quản
trị, chức năng giám sát và đề ra chính sách sẽ được san sẻ cho Công ty
quản lý Quỹ và Ngân hàng giám sát bảo quản. Cụ thể là Công ty quản lý
Quỹ nắm quyền quản lý và đề ra chính sách còn Ngân hàng sẽ nắm quyền
giám sát và bảo quản tài sản.
Trên đây đề cập nhiều tới tín thác đầu tư. Vậy tín thác đầu tư là gì?
Tín
thác đầu tư chứng khoán là việc đầu tư một tài sản đã được uỷ thác của
Quỹ đầu tư theo mô hình tín thác do người được uỷ thác tiến hành đầu tư
vào một số chứng khoán nhất định và được tuân thủ theo sự chỉ dẫn của
người quản lý nhằm tạo điều kiện cho một số người có quyền hưởng lợi từ
hoạt động liên quan tới tài sản được uỷ thác.
Trong
mô hình tín thác, Công ty quản lỹ Quỹ cần phải có vốn lớn. Quỹ đầu tư
mô hình tín thác chỉ chịu sự điều chỉnh của các Luật liên quan tới tín
thác đầu tư chứng khoán.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét