(và một số bài tranh luận)
Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014
Lại Một Bóng Ma Của Marx
23:28
Hoàng Phong Nhã
No comments
TƯỞNG
NHỚ MỘT NGƯÒI ANH EM
(và một số bài tranh luận)
(và một số bài tranh luận)
Lữ Phương
2. Lại Một Bóng Ma Của Marx
Anh Phan thân,
Đã nhận được Thời đại mới, tư tưởng mới
của Hoàng Tùng anh gửi cùng với thư đề nghị tôi cho biết ý
kiến.
Chắc anh đã nhận thấy những sai lầm đầy dẫy trong bản
thảo chưa sửa chữa của tài liệu nói trên, về đánh máy, câu cú, dẫn
chứng, tên tác phẩm, tác giả, năm tháng v.v… và chắc cũng thấy rất
khó có thể coi đó là một công trình nghiên cứu nghiêm chỉnh. Điều mà
chúng ta quan tâm ở đây có lẽ là những vấn đề lý luận về chủ nghĩa
xã hội do tác giả gợi ra. Những vấn đề này lại liên quan đến việc
Đảng cộng sản đang chuẩn bị Đại hội 10 sắp tới, trong việc chuẩn bị
này, vấn đề “đổi mới” chủ nghĩa xã hội vẫn là rất quan trọng – nếu
không tìm cách làm rõ thêm thì sẽ không thể nào tiếp tục biện minh
cho được “sứ mệnh lịch sử” của Đảng trong hoàn cảnh mới của đất
nước.
Tài liệu vì vậy cũng đáng để mọi người chú ý.
I
Tôi thấy tác giả đã đưa ra một số luận điểm quan
trọng như sau:
1. Phải khắc phục những sai lầm thiếu sót trong việc
thực hiện chủ nghĩa xã hội mácxít bằng cách từ bỏ chính cái mô hình
chủ nghĩa xã hội hiện thực nhân danh Marx bắt đầu áp dụng từ
1917 với cuộc Cách mạng Nga.
Chủ nghĩa Stalin với tính chất toàn trị đặc biệt của
nó được tác giả nêu đích danh để nói về cái xã hội khép kín, trì
trệ, bị dân chúng oán ghét và những tội ác do chuyên quyền gây ra.
Tác giả đã đưa ra sự so sánh mà ít có ai thuộc “phe ta” từ trước đến
nay dám hé môi: “Gengis Khan, Napoléon,
Hitler không thể sánh vai với Stalin; Tần Thuỷ Hoàng, Hán Cao Tổ,
Đường Thái Tôn không thể sánh với Mao Trạch Đông…!
2. Giải thích những sai lầm ấy, tác giả đã nêu ra
những khiếm khuyết nằm ngay trong cái hệ thống lý luận tạo ra chúng:
đó là những khiếm khuyết xuất phát từ học thuyết của Marx với những
nội dung chủ đạo như chuyên chính vô sản, cách mạng bạo
lực .
Giao tất cả quyền lực vào tay giai cấp vô sản là biệt
phái, không tập hợp được lực lượng rộng rãi trong đấu tranh và xây
dựng. Mặt khác khái niệm ấy quá nghiêng về sức mạnh của cơ bắp, xem
thường vai trò của trí thức (mà theo tác giả mới là động lực chủ yếu
thúc đẩy phát triển).
Quá đề cao bạo lực, chuyên chính cũng dẫn đến những
hậu quả nguy hiểm. Nó là nguồn gốc của những hành động phiêu lưu,
tàn ác, độc đoán với quy mô chưa từng có trong lịch sử.
3. Từ những nhận định trên đây, tác giả đã phân tích
một số bài học và đề xuất phương hướng chấn chỉnh, như làm kinh tế
thị trường, giảm nhẹ đấu tranh giai cấp, thừa nhận và hợp tác với
nhiều thành phần xã hội khác, xây dựng một thể chế chính trị dân chủ
nhân dân, cởi mở, ôn hoà, tự do tư tưởng, ngôn luận v.v…Đối với Đảng
cộng sản, tác giả đã gợi ra một số chuẩn mực để cải tổ:
– từ bỏ bạo lực, nóng vội, quá khích để theo đường
lối hoà bình, cải lương
– không dựa vào một tầng lớp riêng biệt nào mà phải
tập hợp cho được trí tuệ, văn hoá của toàn dân tộc
– dân chủ, khoan dung, tự do, công khai, cởi mở chứ
không phải độc tài, khắc nghiệt, dấm dúi, bí mật
– mở cửa với thế giới văn minh, hội nhập và hợp tác
chứ không tự cô lập mình trong sự nghi ngờ, mặc cảm và sợ hãi
– theo đuổi đường lối tự chủ và độc lập, chấp nhận
nhiều trung tâm, nhiều con đường khác nhau chứ không lệ thuộc vào
một thứ “chủ nghĩa quốc tế” dưới bất cứ danh nghĩa nào…
4. Tất cả những luận điểm phê phán và canh tân trên
đây đều dựa trên nhận định của tác giả về chủ nghĩa Marx: trên nền
tảng, chủ nghĩa Marx vẫn là một “khoa học”, so với nhiều học thuyết
xuất hiện trong thế kỷ 20, vẫn “chưa có học thuyết nào hơn hẳn
học thuyết Marx” trong việc tìm ra cho nhân loại con đường có
thể thay thế chủ nghĩa tư bản để xây dựng tương lai.
Những sai lầm thiếu sót trong học thuyết Marx, xét
cho cùng, vẫn chỉ là những khiếm khuyết của “một khoa học đích
thực”, có thể bổ sung, nâng cao và làm cho hoàn thiện, để trở thành
một học thuyết Marx canh tân, đã được khắc phục những sai lầm, sửa
chữa những thiếu sót (từ bỏ những nội dung tả khuynh, nôn nóng, bạo
lực, từ chối đối thoại…) để đáp ứng với những biến đổi của hoàn
cảnh.
II
So với quan điểm chính thống của Đảng cộng sản Việt
Nam về “chủ nghĩa Mác-Lênin” chúng ta dễ dàng nhận ra ở đây
“một cái nhìn lại” khá triệt để, táo bạo. Tuy vậy khi đối chiếu giữa
lý luận và thực tế, tôi thấy tài liệu có rất nhiều gượng ép và thiếu
nhất quán.
1. Tác giả xác quyết rằng, trước hoàn cảnh mới của
đất nước Đảng cộng sản cần phải thay đổi về cả một mô hình chứ không
phải là vá víu lại cái cũ. Nhưng đối với một đảng cộng sản thoát
thai từ chính cái mô hình cũ (chủ nghĩa Stalin, Mao Trạch Đông, Quốc
tế Ba…), kế hoạch thay đổi phải như thế nào cho triệt để (nhất là về
phương thức hoạt động…) thì không hề nghe tác giả nói đến.
Làm sao để một đảng mà bản chất là chuyên chế, khắc
nghiệt, coi chân lý chỉ thuộc về mình có thể trở thành một
đảng của khoan dung, đối thoại, dân chủ, nhân đạo, trong sáng,
minh bạch? Làm sao một đảng như vậy có thể chuyển thành “người tiêu
biểu cho trí tuệ của dân tộc và xã hội” khi những màn thường trực về
“Đảng cử dân bầu” vẫn được trình diễn, việc bỏ tù, khuấy rối những
trí thức lẻ loi đang vượt qua sợ hãi để bày tỏ trách nhiệm của mình
trước vận mệnh chung của đất nước vẫn cứ tiếp tục?
Làm sao có thể thực hiện cái mà tác giả gọi là “dân
chủ chính trị” định nghĩa là một “nền dân chủ nhân dân” trong khi
Đảng chưa chịu xoá bỏ vai trò độc tôn của mình bằng Điều 4 của Hiến
pháp và vẫn tiếp tục sử dụng điều 4 đó để bảo vệ sự độc tôn cho cái
hệ tư tưởng gọi là “chủ nghĩa Mác-Lênin”mà tác giả đã phê bình?
2. Sự tin tưởng mà tác giả dành hầu như tuyệt đối cho
Hồ Chí Minh, với khẳng định rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi chỉ
đường cho các thế hệ chúng ta”, cũng gây ra cho người đọc (ngay cả
những người ủng hộ tác giả) cái cảm giác về một lập luận có khá
nhiều gượng ép. Khẳng định đó là không nhất quán với sự phê phán
triệt để của tác giả về cái mô hình Stalin, Mao Trạch Đông đầy sai
lầm.
Làm sao có thể gạt Hồ Chí Minh ra ngoài cái mô hình
ấy khi tác giả đã đi ngược lại những cứ liệu lịch sử tạo nên Hồ Chí
Minh với tư cách là một nhân vật của cả một phong trào quốc tế trong
suốt thế kỷ 20: một học trò trung thành của Lenin, một nhân vật
trong Quốc tế Ba, một người đã đem chủ nghĩa Stalin và chủ
nghĩa Mao Trạch Đông về Việt Nam trong quá trình chống thực dân và
giành quyền lực cho Đảng cộng sản?
Làm sao tác giả không biết rằng những sai lầm mà Đảng
cộng sản Việt Nam đã mắc phải cũng chính là những sai lầm khi Hồ Chí
Minh đang là lãnh tụ cao nhất của Đảng và đang phất cao ngọn cờ
“tiến lên chủ nghĩa xã hội” của Đảng? Hàng loạt những chính sách
nhân danh cuộc “tiến lên” ấy đem đến không biết bao đau thương cho
nhân dân như cải cách ruộng đất, hợp tác hoá, cải tạo tư sản, đấu
tố, chỉnh huấn, Nhân Văn Giai phẩm, Chống xét lại..., diễn ra trên
đất nước ngay thời Hồ Chí Minh còn sống chẳng đã chứng minh cho điều
đó hay sao?
III
Theo tôi, những gượng ép, bất nhất trên đây đã bắt
nguồn từ cái tổng kết về lý luận của tác giả.
1. Tác giả tỏ ra quá dễ dãi khi vẫn khẳng định học
thuyết Marx là một “khoa học” sau khi đã phê phán những bất toàn
trong học thuyết đó. Đối với những người nghiên cứu đứng ra
được bên ngoài hệ tư tưởng Stalin, thì học thuyết Marx không hề tự
chứng tỏ được là một khoa học về giải phóng xã hội mà chỉ là những
suy lý triết học về sự giải phóng đó.
Nó được xây dựng từ những sự kiện có nguồn gốc trong
thực tại (cuộc đấu tranh giữa chủ và thợ) nhưng đã vượt khỏi thực
tại để trở thành những khái niệm của một hệ thống tư biện về thực
tại (sự xung đột sinh tử giữa tư bản và vô sản) từ đó phóng chiếu
thành sự vận động chung cuộc cho lịch sử con người.
Chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản trong học
thuyết Marx về thực chất chỉ là những sản phẩm của cuộc vận động
triết học ấy: sự sụp đổ của cái này tất yếu sẽ dẫn đến cái lôgích
sinh thành cho cái kia, đó chỉ là sụp đổ và sinh thành của những
khái niệm, không phải là “quy luật khách quan” của thế giới hiện
thực. [Tôi đã chứng minh tính chất tư biện này một cách chi tiết
trong Chủ nghĩa Marx và Cách mạng vô sản Việt Nam.]
2. Không nhìn học thuyết Marx như một hệ thống, trong
khi đó lại từ bỏ những điều cốt yếu làm nên ý nghĩa đặc trưng cho hệ
thống ấy (giai cấp vô sản, bạo lực cách mạng) tác giả đã biến nó
thành một học thuyết cải cách tầm thường với những lời ta thán tầm
thường: chủ nghĩa tư bản sẽ không thể tồn tại được vì nó “quá béo”,
quá độc ác hoặc quá béo vì quá độc ác.
Có thêm vào đó cái lập luận cho rằng chủ nghĩa tư bản
đó cũng sẽ phải chết là do “cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại đang chuẩn bị một xã hội thay thế nó” thì sự việc cũng không vì
thế mà trở nên nghiêm trang hơn. Chỉ là những khẳng định vu vơ, mờ
mịt, kiểu “thành trụ hoại không”, chẳng có gì đáng gọi là “khoa học”
cả.
3. Thực sự thì khi đưa ra những phê phán và cải tổ
chủ nghĩa Marx như trên, tác giả đã làm một công việc rất quan
trọng: ông đã gỡ bỏ cái kíp nổ làm cho chủ nghĩa Marx gọi được là
cách mạng. Cái ngòi nổ ấy, đối với Marx, ai cũng biết, đó là giai
cấp vô sản.
Và khi làm như vậy, ông đã làm cho cuộc cách mạng vô
sản của Marx trở thành cuộc cách mạng không có chủ thể và cái thế
giới tương lai của Marx trở thành một khoảng trống mịt mùng. Một thế
giới chỉ tồn tại trong huyễn hoặc và đã bị từ bỏ như một huyễn hoặc.
Ngoại trừ một số điều còn có thể giữ lại theo truyền
thống tư duy của một xu hướng trí thức khuynh tả nào đó. Một tiếng
“không” với mọi nguyên trạng còn đầy dẫy bất toàn và một hy vọng về
một tương lai tốt hơn có thể đạt được bằng cải cách hoà bình.
IV
Tôi cho rằng những biện luận của tác giả về tiền đồ
chủ nghĩa Marx như vậy tất yếu sẽ dẫn đến một hình thức nào đó
của chủ nghĩa Marx bị xét lại.
1. Hiện tượng này không mới đối với phong trào cộng
sản hiện đại, nội dung chủ yếu của nó là gạt ra khỏi cương lĩnh cải
tạo xã hội của mình cái phần cốt yếu tạo nên chủ nghĩa Marx: giai
cấp vô sản dùng bạo lực lật đổ giai cấp tư sản, thực hiện chuyên
chính vô sản trong thời kỳ quá độ. Lý luận này đã ra đời từ cuối thế
kỷ 19 ở châu Âu, nhưng sau khi Liên xô và Đông Âu sụp đổ, nó đang
được những nhà lý luận cộng sản Trung quốc đem ra sử dụng lại.
Đây là một điều mới thực sự. Những thứ lý luận này
của Trung quốc đã được giới thiệu vào Việt Nam khá nhiều, gần đây,
có cuốn Chủ nghĩa xã hội, bước ngoặt sáng tạo của Tiêu Phong
(Thế giới dương đại xb, 2003) được dịch làm tài liệu tham khảo phổ
biến trong giới nghiên cứu ở Việt Nam.
Tôi thấy lập luận của Hoàng Tùng đã tiếp cận khá thân thiết
với khuynh hướng cải cách chủ nghĩa Marx theo con đường của các tác
giả Trung quốc: về mặt lý luận có thể gọi đó là chủ nghĩa xã hội
dân tộc, cải lương, để đối lập với thứ chủ nghĩa xã hội cũ
quốc tế và cách mạng.
2. Nhưng theo tôi, thứ chủ nghĩa dân tộc cải lương
này, tuy có nhiều điểm giống với Bernstein hoặc Kautsky, nhưng, xuất
hiện trong điều kiện thế giới hiện nay, ý nghĩa của nó rất đặc biệt.
Nó được đưa ra không phải để giành chính quyền mà là để củng
cố việc nắm quyền của đảng cộng sản trong điều kiện chủ nghĩa xã hội
sau hơn nửa thể kỷ thí nghiệm đã phá sản hoàn toàn.
Với tính toán ấy, khi nói đến tính chất “khoa học”
của nghĩa Marx người ta chỉ cố giữ cho được hai vế kết luận
gắn liền nhau: chủ nghĩa tư bản tất yếu sẽ sụp đổ cùng với sự ra đời
tất yếu của chủ nghĩa cộng sản. Nhưng trước câu hỏi “chủ nghĩa tư
bản sẽ chết như thế nào, chừng nào sẽ chết” để chủ nghĩa cộng sản ra
đời thì câu trả lời lại rất vu vơ: có thể vài thế kỷ, cũng có thể
hơn nữa hoặc chỉ biết nói “hồi sau sẽ rõ” là xong!
Trong khi chờ đợi một tương lai mờ mịt như vậy thì để
sống còn, các đảng cộng sản đương quyền được phép làm tất cả: học
tập chủ nghĩa tư bản, trở về với Quốc tế Hai, lấy các tầng lớp trung
lưu tư sản làm chỗ dựa, lấy quyền lợi dân tộc làm chuẩn mực cao nhất
trong quan hệ quốc tế. Và cứ như thế mà tồn tại trong cơ chế một
đảng cầm quyền, không ai thay thế được, vĩnh viễn cùng với quá trình
chờ đợi sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản để “tiến lên”!
3. Chắc anh cũng đồng ý với tôi rằng thứ lý luận về
canh tân trên đây, mới nghe qua thì thấy táo bạo, hấp dẫn, thực chất
vẫn là một thứ chủ nghĩa Lênin “vận dụng” vào một hoàn cảnh mới: vì
lợi ích của cách mạng vô sản, trong những tình thế nghiệt ngã, những
người cộng sản phải biết lùi bước và phải biết thoả hiệp với
tất cả những thế lực nào có thể thoả hiệp.
Mục đích không có gì khác là cố gắng duy trì cho được
quyền lực độc tôn của đảng cộng sản đối với xã hội. Mọi thứ thao tác
ý thức hệ (chủ nghĩa Marx khoa học, vay mượn lý luận của Quốc tế
Hai, học tập chủ nghĩa tư bản…) đều nhằm mục đích đó: tạo ra một
nhân danh mới, một tính chính đáng mới (dễ chịu hơn) cho một đảng
cộng sản đã ra đời từ cái mô hình Quốc tế Ba, với một quá khứ
đầy tai tiếng. Do vẫn chưa vượt ra khỏi những toan tính đó, những
bất cập trong lập luận đi đôi với thái độ nửa vời của tác giả đã nói
ở trên là không tránh khỏi.
4. Tôi thấy ở Việt Nam đã có những đề xuất minh bạch,
nhất quán hơn tác giả rất nhiều: nếu thật sự muốn canh tân chủ
nghĩa xã hội theo con đường dân chủ và ôn hoà thì cũng phải chuyển
hoá đảng cộng sản thành đảng dân chủ xã hội, chấm dứt toàn trị, chấm
dứt độc tôn, hoạt động dưới sự kiểm soát của một nhà nước pháp
quyền, một chế độ chính trị đa nguyên, thực hiện những chính sách
phúc lợi, ưu tiên bảo vệ những người lao động… Không thể khác hơn,
vì chỉ có trong điều kiện đó mới có thể nói đến chủ nghĩa xã hội có
cái đuôi “thị trường” đi theo và tiếp tục viện dẫn Marx với cái học
thuyết Marx đã được canh tân. Những đề nghị có nội dung như vậy đã
xuất hiện ngày càng nhiều, nhưng rất tiếc, lại không được tác
giả tham khảo, thừa kế.
V
Để kết luận, tôi cho rằng Thời đại mới, tư tưởng
mới của Hoàng Tùng có giá trị không cao về mặt lý luận: nó không
đẩy sự phê phán khởi điểm đến những kết luận tương xứng, không tạo
ra được một hệ thống lập luận nhất quán, chặt chẽ. Dù vậy, cùng với
sự lên tiếng của nhiều trí thức khác gần đây, những ý kiến của tác
giả trong tình hình hiện nay vẫn có tác dụng tích cực. Chúng tạo
thành một sức ép tổng hợp buộc những người lãnh đạo Đảng phải quan
tâm đúng mực đến những báo động tiềm tàng từ lâu nay đã bộc phát
thành những tiếng nổ: mô hình xây dựng cũ đã hoàn toàn phá sản, phải
thay bằng một mô hình mới trong đó nhu cầu dân chủ hoá đời sống văn
hoá-chính trị gắn liền vớí nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội đang
trở nên cấp bách chưa bao giờ như bây giờ.
[…..]
Thân
11-4-05
L.P
talawas 16.4.2005
0 nhận xét:
Đăng nhận xét