Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2014
Nền tảng lý luận của một chính sách phát triển văn hoá
21:56
Hoàng Phong Nhã
No comments
Lữ Phương
I. Cuộc khủng hoảng lần thứ nhất
1.
Cuộc khủng hoảng lần thứ nhất diễn ra vào hậu bán thế
kỷ 19 khi hệ thống giá trị cổ truyền (văn minh lúa nước, Nho giáo…)
tỏ ra hoàn toàn bất lực trước sức mạnh hiện đại của phương Tây (công
nghiệp, cạnh tranh, phát triển, dân chủ…). Không có khả năng giải
quyết cuộc va chạm trên đây theo hướng đưa đất nước vào con đường
hiện đại hóa (tự phê phán, mở cửa) nhà nước Việt Nam vào lúc bấy
giờ, do lệ thuộc mù quáng vào hệ tư tưởng phương Bắc (Việt Nam có
truyền thống chống xâm lược nhưng lại không bỏ được truyền thống
thần phục phương Bắc về ý thức hệ) nên đã đưa đất nước vào tình
trạng bị phương Tây đô hộ. So với Nhật Bản, Nho học ở Việt Nam, chìm
đắm trong tệ tầm chương trích cú, coi quá khứ là mẫu mực nên đã
không thúc đẩy được giai tầng lãnh đạo xã hội đi vào con đường duy
tân để thích ứng. Ðối diện với một nền văn minh hoàn toàn khác lạ về
chất, truyền thống yêu nước, nghiêng về việc chống lại để tự vệ, đã
tỏ ra không đủ. Cái gọi là “văn hiến”, tích tụ lâu đời nơi các lũy
tre xanh cũng chẳng có tác dụng gì trước tình thế mới. Tất cả những
giá trị đó, đặt trong hệ thống văn hóa cổ truyền, đều chỉ là biểu
hiện của một hình thái xã hội tự bản thân (nội sinh) không tạo ra
được động lực tự phát triển. Cuộc khủng hoảng văn hóa lần thứ
nhất thực chất là sự mở đầu cho cuộc khủng hoảng về phát triển của
dân tộc mà trách nhiệm trước nhất thuộc về giai tầng lãnh đạo xã
hội.
2. Không có khả năng tự nhận thức để
đưa đất nước vào xu thế hiện đại hóa, giai tầng lãnh đạo xã hội cổ
truyền đã biến vấn đề phát triển dân tộc thành vấn đề giải
phóng dân tộc để sau đó rút lui vào hậu trường của lịch sử. Các
thế hệ nối tiếp sau này đã phải giải quyết một lượt hai vấn đề,
không phải lúc nào cũng đi chung được với nhau và không phải lúc nào
cũng có thể đồng ý là: giải phóng và hiện đại dân tộc.
Bất cứ phong trào chính trị nào trong suốt một thế kỷ đã qua đều
nhận thức được vấn đề căn bản đó, nhưng về mặt biện pháp thì lại
phân hóa thành hai xu hướng. Một xu hướng cho rằng vì Việt Nam còn
quá yếu, chưa đủ sức giành độc lập cho nên phải thỏa hiệp với phương
Tây để phát triển, hoặc nếu có vận động độc lập thì cũng theo hướng
đó. Xu hướng khác thì chủ trương ngược lại: cùng với công cuộc canh
tân, mở mang dân trí, phải dùng bạo lực hiện đại (chương trình tranh
đấu, lập chính đảng, tạo vũ khí…) để giành lại độc lập trước tiên.
Người ta thường gọi xu hướng thứ nhất là cải lương, thỏa hiệp, còn
xu hướng sau là cách mạng: thật sự thì cả hai đều là những biện pháp
tranh đấu xuất hiện trong phong trào giải phóng dân tộc, không thể
coi phương pháp nào “đúng đắn” hơn phương pháp nào. Do tình hình đặc
biệt ở Việt Nam, phương pháp bạo lực đã tỏ ra thắng thế, có lẽ một
phần phù hợp với truyền thống đánh giặc của dân tộc.
3. Cùng với sự phân chia thế giới thành hai
“phe”, xu hướng vận động độc lập bằng bạo lực về sau lại phân hóa
thành hai đường lối khác nhau: một bên thực hiện cách mạng tư sản
dân quyền và chỉ dừng lại ở đó, còn bên kia thì coi cách mạng dân
quyền là cần thiết trong giai đoạn chống đế quốc, sau khi độc lập
rồi sẽ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, cả hai giai đoạn đều được
lãnh đạo bởi một chủ thể: đảng cộng sản với học thuyết Mác-Lênin. Ở
nhiều nước bị thực dân xâm lược cũng có hiện tượng “hai đường lối”
như vậy, nhưng riêng ở Việt Nam, chủ nghĩa cộng sản lại giành được
thắng lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc. Không kể đến bản lĩnh
riêng của đảng cộng sản Việt Nam, sự thắng lợi này còn có thể giải
thích bằng những lý do sau đây:
- Tính bạo lực triệt để trong học thuyết Mác
về cách mạng (bà đỡ của xã hội mới, đầu tàu của lịch sử…) là cách
thức đương đầu khá hiệu nghiệm với các thế lực thống trị tàn ác,
ngoan cố (trường hợp thực dân Pháp ở Việt Nam).
- Lý thuyết bạo lực đó, biểu hiện thành tổ
chức tranh đấu rất thích hợp để thực hiện việc cướp chính quyền,
tiến hành chiến tranh: tập trung dân chủ, ngăn cách bí mật, kỷ luật
thép, cách mạng nhà nghề…
- Vạch được chiến lược hiện đại hóa đất nước
lâu dài: sau khi độc lập, đưa dân tộc vượt qua lạc hậu nghèo nàn xây
dựng một nền văn minh cao hơn nhiều lần các nước tư bản hiện đại.
- Có chiến thuật mềm dẻo để tùy lúc tiến
thoái, tranh thủ lực lượng: với các mặt trận, đưa ra các “chương
trình tối thiểu” để lôi cuốn mọi từng lớp, đặc biệt đông đảo nông
dân. Riêng đối với trí thức thì đề cao hết sức khoa học và lý tưởng
công bằng.
Với những yếu tố trên đây, so với những thực
thể chính trị khác, đảng cộng sản đã tỏ ra hơn hẳn về mặt tổ chức
lẫn ý thức hệ.
II. Cuộc khủng hoảng lần thứ hai
1. Xuất hiện trong điều kiện đất nước bị đô
hộ (văn minh phương Tây đồng hóa với thực dân), trong điều kiện dân
trí còn bị ngưng trệ, bưng bít, chủ nghĩa cộng sản đã góp phần không
ít vào nền văn hóa mới đang hình thành: bên cạnh lòng yêu nước
truyền thống đã đã có thêm ý chí công nghiệp hóa và công bằng xã hội
khá mạnh mẽ. Tuy vậy từ khi cách mạng giải phóng dân tộc thành công,
đem chương trình tối đa của đảng ra thực hiện thì những yếu tố tiêu
cực tiềm ẩn trong chủ nghĩa xã hội mácxít đã có dịp để bộc lộ một
cách trầm trọng:
- Mác đã hình dung ra một xã hội siêu phát
triển (hậu tư bản chủ nghĩa) cho loài người, nhưng việc Mác giao
sứ mệnh ấy cho giai cấp vô sản là hoàn toàn huyền hoặc: “giai cấp vô
sản” chỉ là một khái niệm trong hệ thống triết học của Mác, nó không
phải là giai cấp công nhân trong quy trình sản xuất hiện đại,
mà đối với giai cấp này không người mácxít nào không biết luận điểm
của Lênin: để tự nó, giai cấp công nhân chỉ có thể sản sinh ra ý
thức công liên thôi. Vì thế giả định như trong lai sẽ hình thành một
xã hội mang danh là chủ nghĩa xã hội đi nữa thì xã hội ấy cũng không
thể thực hiện được bằng con đường gọi là cách mạng vô sản.
Khái niệm vô sản – cùng với tất cả những gì dẫn xuất từ đó (chuyên
chính, quốc tế…) không phải là một phạm trù khoa học.
- Mác cũng đã đề xuất cho loài người một thứ
chủ nghĩa siêu tập thể, dựa vào tính “trở thành phổ biến” của
giai cấp vô sản từ đó xây dựng nên “thế giới đại đồng” coi đó là
động lực để vượt chủ nghĩa tư bản. Nhưng vì cơ sở của chủ nghĩa
siêu tập thể ấy là khái niệm “giai cấp vô sản” không có thực nên khi
các đảng cộng sản tự cho là “đội tiền phong” lãnh đạo lại giai cấp
vô sản, lãnh đạo nhân dân xây dựng xã hội mới thì tất cả đều chỉ là
nhân danh mà thôi. Thực sự, đảng cộng sản chỉ là một thiểu
số, tập hợp xung quanh một lý thuyết, chỉ đủ đại diện cho bản
thân chứ không được ủy nhiệm bởi một sứ mệnh nào gọi là lịch sử
cả. Trong hoạt động cầm quyền, nếu họ không bị kiểm soát bởi các
định chế dân chủ (nhà nước pháp quyền), mà lại tự cho phép thực hiện
quyền lực bằng chuyên chính thì sự thoái hóa, lạm quyền cũng chỉ là
tất yếu: lòng tốt biến thành sự độc ác, dân chủ thành độc tài, giải
phóng con người thành áp bức con người… Thực tế xây dựng chủ nghĩa
xã hội hiện thực suốt thời gian đã qua đã chứng minh điều đó. Ý chí
vì nhân dân ở đây chẳng biện minh gì được cả.
2. Với những khuyết tật như trên, chủ nghĩa
Mác khi còn là những lời hứa hẹn, đã tỏ ra hấp dẫn và quyện được vào
lòng yêu nước truyền thống để làm cho lòng yêu nước ấy mang thêm màu
sắc lý tưởng và hiện đại thì khi đem ra áp dụng lại tỏ ra bất khả
thi hoàn toàn, dù hết thời này qua thời khác, người ta có “vận dụng”
hoặc “sáng tạo” đến thế nào đi nữa.
- Trong phạm vi một nước, chủ nghĩa siêu tập
thể đã biểu hiện trong việc tập trung mọi hoạt động kinh tế, chính
trị, văn hóa vào tay nhà nước tự cho là do dân, vì dân, của dân,
nhưng thực tế chỉ là nhà nước - đảng, hoàn toàn do đảng đạo diễn lập
ra để thực hiện chương trình của đảng. Nhưng vì đảng là duy nhất,
tuyệt đối, và đồng hóa với nhà nước cho nên nhà nước bị biến thành
một bộ máy quan liêu, thống trị lại nhân dân, thống trị cả giai cấp
mà nó nhân danh (vô sản) thì cũng là điều tất yếu. Ý định muốn dùng
nhà nước như kế hoạch thống nhất hành động và ý chí để phát triển
nhanh đã không thành công.
- Muốn dùng chủ nghĩa siêu tập thể (thay cho
các tập thể bản vị, chủ nghĩa cá nhân) làm động lực đi nhanh
sang xã hội hậu hiện đại (siêu phát triển, phi thị trường…), nhưng
vì thiếu hoàn toàn cơ sở của xã hội hiện đại (kỹ thuật, văn hóa) cho
nên trong thực tế chỉ xây dựng nên một thứ chủ nghĩa công xã tiền
hiện đại, sản xuất cò con, thấp kém, cuối cùng sa vào vũng lầy
trì trệ, không nhấc chân lên nổi. Và khi phát triển đã không có mà
xã hội lại rơi vào tình trạng nghèo khó, thiếu thốn, thì giấc mộng
về công bằng cũng chỉ là ảo tưởng; trước tình trạng mọi của cải đều
tập trung vào những cái gọi là sở hữu công cộng thì để giải quyết
chút ít sự nghèo đói đó, “toàn dân” có châu lại đục khoét chính
những tài sản mệnh danh là của mình thì đó cũng không có gì là khó
hiểu. Mối quan hệ giữa người công dân với nhà nước của mình
(trong lý thuyết) đã trở thành mối quan hệ giữa những người bị trị
với những người cai trị (trong thực tế).
- Các khẩu hiệu “một người vì mọi người,
mọi người vì một người”, “con người là vốn quý nhất”…chỉ là
những chuyện thần thoại hoang đường. Ý muốn tạo nên những “con
người mới” ý thức hoàn toàn về việc thực hiện sự nghiệp cao cả
cuối cùng đã thất bại. Con người trong chủ nghĩa xã hội thực tế là
những con người quá mệt mỏi sau một thời gian hy vọng quá nhiều, nói
quá nhiều và hy sinh quá nhiều; đó là những con người thất vọng
nhưng vẫn cam chịu, tầm thường nhỏ mọn nhưng lại hai mặt, giả hình,
thâm tâm chán ghét mọi cái từ trên đưa xuống nhưng vẫn khúm núm,
nịnh hót: sự bệ rạc về nhân cách đã đi đến chỗ cùng cực. Tệ hại hơn
nữa, những con người ấy đã không ngần ngại sử dụng đến thứ chủ nghĩa
siêu tập thể mà họ chán ghét để sát phạt lẫn nhau, hy vọng kiếm được
một chút lợi lộc nhỏ nhen vốn chẳng dồi dào gì trong một xã hội
“khan hiếm” toàn diện.
- “Văn hóa cho mọi người” trở thành
văn hóa quan phương mà biểu hiện rõ nhất của nó là tính công thức,
giáo điều, huênh hoang và ngạo mạn. Ngôn ngữ của nó cường điệu hết
mực những mĩ từ để ngợi ca “hiện thực”, cho rằng trong cái ta đang
sống đã là tất cả: hiện tại và tương lai, là sự “phản ánh” mà cũng
là “sự sáng tạo” nữa! Chủ nghĩa minh họa xuất phát từ đó để làm xuất
hiện những bài tụng ca trong tất cả mọi lĩnh vực mà tác dụng của
chúng không có gì khác hơn là bảo vệ nguyên trạng bấc lực bế tắc,
dựa vào đó chống lại mọi ý hướng phê phán hiện thực. Tất cả mọi cựa
quậy đi tìm cái mới, mọi nỗ lực chống lại đời sống bị đẩy vào tình
trạng tha hóa, đều không được phép tồn tại trong thế giới quan
phương và do đó đều bị đẩy vào những nơi riêng tư, bí mật, phi nhà
nước. Khẩu hiệu “nhất trí” càng được kêu to bao nhiêu thì sự phân
liệt xã hội càng gay gắt bấy nhiêu.
III. Ðổi mới
Ðường lối “đổi mới” của Việt Nam được điều
chỉnh liên tục từ 1986 đến nay, nhưng điểm cốt yếu của nó cũng khá
rõ rệt: chấp nhận trở về với “cơ chế thị trường” coi đó là cách giải
quyết tốt nhất cuộc khủng hoảng về mô hình của chủ nghĩa xã hội.
Những lĩnh vực khác (chính trị, văn hóa) được hứa hẹn, nhưng thực tế
thì vẫn chưa có gì thay đổi căn bản.
1. Thực sự thì việc cho phép cơ chế thị
trường được hoạt động lại chẳng có gì là mới: từ lâu mọi người đều
làm ăn sinh sống theo cách thức đó, và cũng theo đó tạo thêm của cải
cho xã hội. Khi bị gạt bỏ và thay thế bằng chủ nghĩa siêu tập thể kế
hoạch hóa thì thị trường, cũng như nhiều cái khác, bị nén xuống “thế
giới ngầm”. Vì thế khi được tháo gỡ cho bung ra, nó đã bung ra với
một sức mạnh vô cùng hoang dã. Cơ chế luật pháp, quản lý trước đây
lập ra để đối phó với nó, trước tình hình mới đã tỏ ra hoàn toàn bất
lực: guồng máy kinh tế trước đây tập trung vào một mối, nay đã phân
tán ra từng bản vị nhỏ (cá nhân, gia đình, xí nghiệp, địa phương…)
mạnh ai nấy lao vào cuộc lừa dối nhà nước để tìm lợi nhuận. Một thứ
“xã hội công dân” của thời tích lũy ban đầu đang được hình thành từ
lĩnh vực kinh tế và đang lan sang các lĩnh vực khác. Sự cạnh tranh
mang tính thực dụng, chụp giật đang có xu hướng thống trị đời sống
tinh thần của xã hội, trước hết là trong những bộ máy hoạt động kinh
tế của đảng và nhà nước.
2. Lý luận kinh tế thị trường “có sự điều
tiết vĩ mô của nhà nước”, mượn từ lý thuyết tân cổ điển đã được sử
dụng để đối phó với tình trạng đó. Nhưng với tư duy mácxít vẫn còn
đè nặng việc quản lý nhà nước cho nên thị trường, tuy được xem là
cần thiết để tạo ra động lực phát triển, vẫn bị coi là chứa đựng
những tiêu cực gây rối loạn cho xã hội, vì thế những việc gọi là
“điều tiết” rút lại cũng chỉ là dùng quyền lực của nhà nước chuyên
chính vô sản (đã bị pha loãng, che giấu bớt) - đại diện cho những
giá trị văn hóa gọi là “xã hội chủ nghĩa” - để hạn chế những tiêu
cực ấy. Lênin trước đây cũng đã làm như vậy trong thời NEP và đã coi
đó là một “bước lùi”. Lần này với chủ trương “đổi mới”, người ta
cũng lập lại điều đó, trên một quy mô lớn hơn (các cơ sở quốc doanh
cũng hoạt động theo thị trường), mở cửa rộng hơn với các nước tư bản
(“phe” xã hội chủ nghĩa đã không còn), nhưng lý luận về “bước lùi”
không thấy nhắc đến mà lại được thay bằng khái niệm mệnh danh “chủ
nghĩa xã hội thị trường” (thị trường là của chung), vốn là khái niệm
đã xuất hiện ở một số nước Ðông Âu trong những năm 1960 và đã bị
Liên-xô lúc bấy giờ xem là “xét lại”. Trước bị coi là “xét lại” nay
được coi là “đổi mới”: đối với chủ nghĩa Mác mà tính không tưởng của
nó ngày càng rõ rệt thì việc “vận dụng” ra sao cũng được, miễn là
phải do những người “mác xít chính cống” đề xuất!
3. Tính thực dụng về chính trị có thể giải
thích được sự khập khiễng về lý luận, nhưng đứng về bản thân lý
luận, và rộng hơn nữa, về cuộc sống văn hóa thì đó chính lại là tai
họa. Văn hóa vẫn tiếp tục bị sử dụng làm “công cụ”, trước đây “phục
vụ” cho chủ nghĩa siêu tập thể thì nay “điều tiết” kinh tế thị
trường – tất cả đều được định hướng bằng những nguyên lý giá trị “xã
hội chủ nghĩa” do đảng nắm giữ. Cũng giống như trong kinh tế, những
người làm công tác văn hóa, hiểu rõ hơn ai hết sự phá sản từ lâu của
những giá trị ấy, đã tìm cách “xé rào” để đến với quần chúng qua thị
trường; và để làm được điều đó họ đã phải dùng đến những thủ đoạn
lừa dối các cấp quản lý bên trên của mình: đối với một thị trường
làm ăn theo kiểu úp mở, lén lút như vậy, một thứ thị trường không có
nhiều xu hướng khác nhau để cạnh tranh thì làm sao không sản xuất ra
phần nhiều chỉ là những thứ phó sản, đen đúa, vớ vẩn? Nguyên nhân
đâu phải tại bản thân thị trường mà chính là do sự quản lý mang tính
thực dụng với thị trường: những giá trị dân chủ, đặc biệt khuynh
hướng thể nghiệm, phê phán xuất hiện một cách đương nhiên trong thị
trường, ở đây đã bị chèn ép, trấn áp đến không tồn tại được. Cái tai
hại của việc đồng nhất hóa văn hóa với chính trị đã diễn ra theo
hướng ngược lại: nếu trước đây buộc phải xưng tụng trực tiếp thì nay
không nên đụng tới thế “ổn định” của một chế độ.
4. Cuộc “đổi mới” hiện nay chỉ có tác dụng
nhất thời về mặt sách lược chính trị: mục đích của nó chỉ là nhân
nhượng để đừng mất tất cả, nó không giải quyết được toàn bộ sự khủng
hoảng của cả một mô hình xã hội tạo nên bằng ngộ nhận và độc đoán,
vì lẽ đó cũng không thể giải quyết được cuộc khủng hoảng về văn hóa
hiện nay. Cũng có nhiều điểm giống như giai tầng lãnh đạo cổ truyền
trước đây, giai tầng lãnh đạo hiện nay, vì không có khả năng tạo ra
cái riêng biệt cho mình nên đã mượn một thứ ý thức hệ ngoại lai, ban
đầu để cướp chính quyền, nhưng sau đó để bảo vệ vai trò cầm quyền.
Không có khả năng nhìn xa trông rộng để tự đổi mới, sự đổi mới của
họ chỉ là kết quả của những cái từ bên ngoài: khi bên ngoài thất bại
thì họ lúng túng và không biết dựa vào đâu ngoài những thủ đoạn
chính trị đã tích lũy được trong cướp và giữ quyền để đối phó. Thái
độ thực tiễn chính trị ấy hoàn toàn hiểu được, nhưng nếu một lần nữa
lại căn cứ vào đó để làm chuẩn mực cho văn hóa thì một lần nữa sẽ
lại đưa văn hóa vào con đường suy đồi hơn nhiều lần. Không có được
sự tồn tại độc lập để tạo ra một ý thức mới và hiện đại cho sự phát
triển của đất nước, văn hóa sẽ chỉ là những cây tầm gửi dựa vào một
đường lối chính trị không có gì bảo đảm sự vững vàng. Sự tồn tại của
văn hóa như sự phát triển toàn diện về đời sống đã bị phủ định.
IV. Một chính sách văn hóa
1. Không còn nghi ngờ gì nữa, một chính sách
văn hóa tích cực, thúc đẩy được sự phát triển toàn diện của dân tộc,
không thể hình thành được trong những điều kiện thực tế hiện nay
trên đất nước khi chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn được coi là hệ thống giá
trị chi phối tất cả các lĩnh vực. Và điều đó thì hoàn toàn không phù
hợp với thực tế: sau một thời gian dài đem ra thí nghiệm, hệ thống
giá trị ấy, nương theo chủ nghĩa yêu nước truyền thống, nếu đã thành
công trong việc giải phóng dân tộc thì lại hoàn toàn bất lực trong
sự nghiệp hiện đại hóa xã hội. Nhận thức được sự bất lực ấy hoàn
toàn không dẫn đến sự phủ định toàn diện những gì mà chủ nghĩa
Mác-Lênin đã đóng góp cho văn hóa Việt Nam mà chính là đưa những
nhân tố tích cực của nó vào một hệ thống giá trị mới phù hợp
với thời đại, tạo ra được tiềm lực mới để dân tộc đổi mới bản thân
trong quá trình đổi mới đất nước. Theo chiều hướng đó, sự phê phán
lại toàn bộ những giá trị cũ, trong đó việc trực tiếp phê phán những
phần phi thực, huyễn hoặc trong chính chủ nghĩa Mác-Lênin là cực kỳ
quan trọng, cần thiết. Công việc này không khác gì mấy về ý nghĩa
với công việc của những nhà trí thức ở Châu Âu vào thế kỷ 18, ở Châu
Á vào đầu thế kỷ 20, và gần đây xu hướng “cải tổ” trong các nước xã
hội chủ nghĩa hiện thực. Ðây là phần việc của những người hoạt động
văn hóa, những triết gia, những nhà tư tưởng, những văn nghệ sĩ…
không thể nhầm lẫn với những thủ đoạn “tiến lùi” của những hoạt động
chính trị, lại càng không thể dựa vào sự thành công hay thất bại
nhất thời của những thủ đoạn ấy để phủ định việc nhận thức lại các
giá trị, là điều cực kỳ quan trọng cho sự phát triển của đời sống.
Và đó chính là cách tiếp cận vấn đề theo cung cách riêng của văn
hóa: văn hóa không chỉ là sự thủ đắc, truyền đạt kinh nghiệm mà
chính yếu là sáng tạo, đổi mới không ngừng. Chỉ có theo phương hướng
ấy mới giải quyết được một cách thỏa đáng giữa truyền thống và hiện
đại, giữa hội nhập với giữ gìn bản sắc, giữa bảo tồn với phát triển…
và hàng loạt những vấn đề khác đặt ra trong việc hoạch định chính
sách.
2. Tôi cho rằng hệ thống giá trị mới có thể
chấp nhận để phát triển dân tộc trong thời kỳ mới không có gì khác
hơn là những giá trị mà nhân loại đã đạt được trong quá trình văn
minh hóa cơ chế thị trường với những biểu hiện sau đây:
- chấp nhận sự đa nguyên của nhiều xu hướng,
nhiều bản vị khác nhau về quyền lợi, ý kiến, từ đó chấp nhận sự cạnh
tranh tự do của những xu hướng để tạo ra tính năng động đổi mới
không ngừng cho xã hội.
- tạo ra cơ chế dân chủ hợp hiến để những xu
hướng trên đây giải quyết những mâu thuẫn trong hòa bình, phi bạo
lực, tôn trọng pháp luật dưới sự trọng tài của nhà nước.
- nhà nước chỉ thể hiện ý chí chung của xã
hội phải được xã hội kiểm soát bằng những cơ chế thiết thực (phân
quyền trong phạm vi nhà nước, giữa nhà nước với xã hội) để tránh mọi
lạm quyền.
- chấp nhận quyền tồn tại của thiểu số bất
đồng với đa số, đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật
giống như các quyền tự nhiên của con người trong việc chọn lựa các
giá trị thích hợp để định hướng cho cuộc sống riêng…
Các giá trị trên đây, tạo nên một hệ thống
nhất quán, rõ rệt không phải là một thứ lý tưởng, không hứa hẹn chấm
dứt một lần cho xong mọi mâu thuẫn của đời sống, cũng không có tham
vọng tạo ra một tương lai muôn phần tốt đẹp: chúng chỉ là những quy
ước mà trong trình độ phát triển hiện nay, loài người chưa tìm được
những cái hoàn hảo hơn trong thực tế để giải quyết mối quan hệ xã
hội của mình. Hệ thống ấy đã dựa trên cái trục căn bản là thị trường
và dân chủ ngày càng phát triển theo hướng xóa bớt dần những mặt
tiêu cực của buổi ban đầu. Chỉ thấy nơi cái trục ấy sự mù quáng, hỗn
loạn đó là lối nhìn của Các Mác cách đây hơn 150 năm, và điều đó thì
không còn đúng với xu thế của đời sống hiện đại nữa.
3. Các giá trị trên đây cũng đã hình thành ở
Việt Nam trong suốt cả 100 năm qua khi Việt Nam giao tiếp với phương
Tây bằng nhiều con đường (từ sự áp đặt kiểu thực dân – cũ và mới –
đến sự giao lưu bình đẳng khi đã độc lập), nhưng do hàng loạt những
điều kiện bất lợi (sự đô hộ của thực dân, chiến tranh giải phóng)
vẫn chưa tạo thành một hệ thống được khẳng định một cách minh bạch
và có ý thức để tạo ra sự thúc đẩy cho sự nghiệp phát triển. Ngày
nay, với sự chấm dứt hoàn toàn chủ nghĩa thực dân, sự tiến bộ nhanh
chóng về đời sống ở nước phát triển cùng với sự phá sản của giải
pháp mác xít ảo tưởng về hiện đại hóa, lại có điều kiện mở rộng cửa
để giao lưu, xu hướng trên đang có triển vọng định hình càng rõ nét
trong một tương lai rất gần, nhất là khi xã hội hiện nay, trong sự
chuyển động của nó, đang tạo ra một lớp người mới có những suy nghĩ
thiết thực hơn về con đường đi tới của dân tộc. Và bản lĩnh dân tộc
ở đây, đặt trong xu thế ấy, không có gì khác hơn là sự thích ứng, sự
thông minh để tìm ra các biện pháp phát triển nhanh chóng, với những
hy sinh tối thiểu, các giá trị nhân đạo. Những nước lân cận với
chúng ta hoặc cùng xuất phát từ một nền văn hóa cổ truyền như chúng
ta, tất cả trước sau đều đã đi theo con đường chuyển biến ấy, mỗi
nước một cách khác nhau. Riêng chúng ta (và cả người láng giềng
phương Bắc mà chúng ta nhiều lần thần phục về văn hóa) vì mất quá
nhiều thì giờ chìm đắm trong giấc mộng mác xít siêu hiện đại, nên
cuối cùng đã bị đời sống đẩy lùi về phía sau một cách thảm hại. Muốn
khỏi muộn màng một lần nữa, không có cách nào khác hơn: phải nhìn
lại bản thân, mổ xẻ không thương tiếc những giấc mơ hoang tưởng.
4. Dân tộc chúng ta liệu có thực hiện được
cuộc canh tân mới lần này để đưa đất nước vào kỷ nguyên hiện đại hay
không. Câu trả lời không thể có được bằng mấy chữ “quyết tâm” quen
thuộc, nó đòi hỏi hàng loạt những dữ kiện mà chúng ta chưa có đầy
đủ, tuy vậy trong số các dữ kiện ấy, mọi người đều nhận thấy vai trò
cực kỳ quan trọng của đảng cộng sản: đảng cộng sản sẽ làm gì trước
nhu cầu phát triển của xã hội và khi mà nhu cầu chuyển động ấy trực
tiếp đụng chạm đến sự tồn tại của đảng? Về vấn đề này chúng ta có
thể giả thiết các trường hợp sau đây:
Một:
Ðảng sẽ tiếp tục đường lối “đổi mới” hiện nay, tập trung vào phát
triển kinh tế bằng cơ chế thị trường, nhưng vẫn giữ nguyên vẹn
phương pháp quản lý kiểu chuyên chính vô sản (có pha loãng, che giấu
bớt) đối với chính trị, văn hóa. Với phương pháp này cái bánh ga-tô
kinh tế có thể sẽ lớn ra (“tăng trưởng”!) nhưng sự suy đồi về xã hội
sẽ cũng theo đó mà phát triển (đĩ điếm, xì ke, tội ác, tham nhũng…),
đặc biệt sẽ đục khoét ruỗng nát khu vực công quyền làm cho nền văn
hóa quan phương hoàn toàn phá sản. Trước tình hình đó, cái gọi là
nhà nước chuyên chính (giấu mặt) đóng vai trò “điều tiết” kinh tế sẽ
đơn thuần là một thứ nhà nước quan liêu, độc tài, bất lực, được đội
dưới cái lốt của một thứ ý thức hệ xã hội chủ nghĩa mang tính sơ
khai. Mọi người đều biết, tuy tồn tại bằng bạo lực nhưng sự ổn định
sẽ không kéo dài: nuôi trong bản thân sự đè nén, sự bùng nổ cũng sẽ
không tránh khỏi. Sớm hay muộn, dưới một hình thức nào đó, cái vỏ
chuyên chính về chính trị và văn hóa cũng sẽ chấm dứt với một hậu
quả cực kỳ tai hại cho đất nước: nó tạo ra một cái thay thế
nó, mang danh phi cộng sản, nhưng vẫn ngạo mạn, độc đoán, bảo thủ
không kém.
Hai:
Cũng với đường lối như trên, nhưng ý thức được rõ rệt tính
chất khập khiễng, không vững chắc của nó để từ đó từng bước chuẩn
bị chuyển đảng của chủ nghĩa xã hội mác xít thành đảng của chủ
nghĩa xã hội không mác xít, trong khái niệm chủ nghĩa xã hội
mới này (mệnh danh là gì là điều không quan trọng), khái niệm
“chuyên chính vô sản” hoang tưởng và tai hại sẽ hoàn toàn bị loại
bỏ, và cái ý hướng căn bản của Mác về sự nhân đạo hóa, văn hóa
hóa các hoạt động kinh tế, chính trị, chinh phục tự nhiên của
con người sẽ được đưa lên hàng đầu. Với viễn cảnh của một thứ chủ
nghĩa xã hội như vậy, các giá trị do thị trường tạo ra cũng sẽ thống
nhất với nền chính trị dân chủ và xu hướng công bằng xã hội mang
tính đạo đức, tất cả đều có thể thực hiện được ngay hôm nay và
bây giờ bằng một nhà nước pháp quyền và phúc lợi, chứ không phải
đợi đến một ngày mai mịt mùng nào đó. Song song với việc chuẩn bị
cho sự hóa thân của đảng, một chương trình chuẩn bị giao
lại quyền lực cho xã hội cũng được lập ra, từng bước nới rộng
dân chủ trong một số lĩnh vực hẹp (tư nhân hóa trường học, xuất
bản…), được phát biểu và truyền bá tự do các tư tưởng khác nhau
trong các trường đại học, cơ quan nghiên cứu, các đoàn thể xã hội…
mục đích là để ấp ủ cho sự ra đời của một xã hội công dân lành mạnh,
đặc biệt tạo ra những hạt nhân ưu tú, có kiến thức, thực tế và óc
trách nhiệm để tham gia giai tầng lãnh đạo về sau. Sự chuyển giao
quyền lực có kế hoạch ấy sẽ không đầy đủ nếu không đi kèm với
việc chuẩn bị hình thành một mặt trận nhân dân có thực chất: lấy dân
làm gốc (bỏ chủ nghĩa siêu tập thể vô sản) để phát triển dân chủ,
phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, và dùng định hướng
đó như là nơi hội tụ tất cả những người Việt Nam trong giai đoạn mới
- tất cả những tham vọng biệt phái về giai cấp, tôn giáo, địa
phương, mọi mưu toan độc tôn về ý thức hệ, nhất là sự cuồng tín… đều
không được chấp nhận.
Mọi người đều thấy sự khó khăn, đau đớn như
thế nào của những người cộng sản trước sự chọn lựa quyết liệt đó,
nhưng dù thế nào đi nữa thì chắc chắn sẽ không phải là giải pháp đau
đớn nhất – so với những giải pháp đau đớn khác. Khi đã có dũng khí
chấp nhận điều quyết liệt ấy rồi, tất cả những còn lại, theo tôi
nghĩ, chỉ là bản lĩnh và kinh nghiệm mà thôi.
3.6.1993
L.P
Diễn đàn số 27 (01.02.1994)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét