Success is the ability to go from one failure to another with no loss of enthusiasm. Thành công là khả năng đi từ thất bại này đến thất bại khác mà không mất đi nhiệt huyết (Winston Churchill ). Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo anh ta nhầm lẫn, khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo anh ta ăn cắp. Tục ngữ IRan. Tiền thì có nghĩa lý gì nếu nó không thể mua hạnh phúc? Agatha Christie. Lý tưởng của đời tôi là làm những việc rất nhỏ mọn với một trái tim thật rộng lớn. Maggy. Tính ghen ghét làm mất đi sức mạnh của con người. Tục ngữ Nga. Men are born to succeed, not to fail. Con người sinh ra để thành công, không phải để thất bại. Henry David Thoreau. Thomas Paine đã viết: Bất lương không phải là TIN hay KHÔNG TIN. Mà bất lương là khi xác nhận rằng mình tin vào một việc mà thực sự mình không tin .

Thứ Tư, 30 tháng 9, 2015

Mọi người đang lầm to: Facebook không tạo nút “Dislike”

Nút “Dislike – Không thích” là chức năng được rất nhiều người dùng Facebook muốn có từ rất lâu.
Vì thế khi trả lời trong một buổi Hỏi đáp được truyền hình trực tiếp, Mark Zuckerberg cho biết công ty đang nghiên cứu để tìm ra cách thức thể hiện sự đồng cảm với nạn nhân trong các vụ thiên tai, tai nạn hoặc những việc khác mà nút Like không phù hợp để thể hiện.
Các hãng tin trên thế giới đã nhanh nhảu diễn dịch thông điệp thành “Facebook sẽ sớm đáp ứng mong ước của người dùng”. Thế nhưng đừng uổng công chờ đợi nút “Dislike” nào xuất hiện. Zuckerberg nói rõ ràng đó không phải là những gì Facebook đang làm.
Vậy chính xác Zuckerberg đã nói gì?
Facebook đang tạo một nút chức năng mới.
“Tôi nghĩ mọi người đã muốn có nút Dislike trong nhiều năm… Hôm nay, tôi đứng đây để nói rằng chúng tôi đang nghiên cứu về chức năng đó và sẽ sớm thử nghiệm trong nay mai”.
Nhưng nó không phải là nút Dislike.
“Chúng tôi không muốn tạo nút Dislike bởi vì chúng tôi không muốn biến Facebook thành một diễn đàn nơi mà mọi người có thể nâng lên hoặc hạ xuống bài viết của người khác. Dường như đó không phải kiểu cộng đồng chúng tôi muốn tạo ra”.
 
Có một khoảng trống trong cơ chế phản hồi của Facebook.
“Mọi người không tìm kiếm cách thức để hạ bệ bài viết của người khác. Những gì họ thực sự muốn là khả năng thể hiện sự đồng cảm. Không phải mọi thời điểm đều là khoảnh khắc tốt, phải không? Và nếu bạn chia sẽ một điều gì đó làm bạn rất buồn, như cuộc khủng hoảng người tị nạn hoặc một thành viên trong gia đình bạn vừa mất, người đọc có thể không cảm thấy thoải mái để Like bài viết đó”.
Vì thế, Facebook đang tạo một giải pháp.
“Bạn bè của bạn và mọi người muốn có khả năng bày tỏ họ hiểu và họ muốn ở bên bạn”.
Điều này hoàn toàn hợp lý. Nếu Facebook tạo nút Dislike, nó có khả năng sẽ làm nguyên nhân sự hiểu lầm. Nếu tôi chia sẽ bài viết về nạn nhân trong một thảm họa tự nhiên, và bạn nhấn nút Dislike/ Không thích, điều đó có nghĩa bạn không thích thảm kịch vừa xảy ra? Hay bạn không thích các nhạn nhân? Hay bạn không thích những gì tôi vừa đưa lên? Điều đó cực kỳ mơ hồ, xung đột trực tiếp cách thức Facebook tạo dựng các sản phẩm.
Làm thế nào Facebook có thể tạo nút “Sorry – Rất tiếc”
Một chức năng nào đó thể hiện sự đồng cảm, thông cảm với tác giả bài viết hoặc thể hiện cảm xúc trong những tình huống khác nhau sẽ có ý nghĩa hơn nhiều.
Thực tế, Facebook đã có một phiên bản của chức năng này, gọi là “Recommend – Gợi ý”. Các website có thể dùng chức năng này thay vì nút Like để giúp mọi người chia sẻ các câu chuyện bi kịch. Nhưng giờ Facebook đang tạo một chức năng mới để chia buồn.
Cho dù Facebook chọn từ nào để thể hiện điều đó thì từ đó phải có những đặc tính như: dễ hiểu, có khả năng chuyển thành nhiều ngôn ngữ khác nhau, súc tích và rõ nghĩa.
 
Khả năng nút chức năng mới sẽ được gọi là “Sorry – Rất tiếc” hoặc một từ nào đó gần nghĩa. Một từ mà khi bạn nhìn vào, bạn biết người đọc thấu hiểu nỗi buồn, chia sẻ với bạn và nạn nhân.
Để hiện thực hóa điều này, Facebook có thể cho người dùng lựa chọn thay thế nút Like bằng các nút Cảm xúc khi đăng bài viết hoặc bổ sung thêm bên cạnh nút Like. Nhiều khả năng Facebook có thể gợi ý các nút cảm xúc sẽ xuất hiện tùy thuộc vào nội dung bài viết của bạn. Ví dụ, nếu Facebook phát hiện bạn đang viết về chuyện buồn bởi vì bạn có sử dụng các cụm từ như “chết”, “đi xa”, “đau lòng”, “sa thải”, “chia tay” hoặc bạn đăng bài có kèm đường dẫn tới các tin tức bi kịch.
Bằng cách này, nếu bạn chia sẻ một chuyện buồn, mọi người không phải đắn đo về việc Like hay không. Bởi vì việc nhấn nút Like như vậy có thể tạo dấu ấn sai. Hoặc nếu bạn không nhấn, hành động này có thể đánh lừa thuật toán sắp xếp tin trên News Feed – Tin mới bởi vì nó nghĩ bài viết này không thú vị. Nút chức năng đồng cảm sẽ là đầu vào cho các thuật toán sắp xếp ưu tiên hiển thị, một bài viết không thể Like nhưng vẫn quan trọng để xuất hiện.
 
Dưới đây là toàn văn câu trả lời của Mark Zuckerberg khi được yêu cầu phải có nút Dislike:
Tôi nghĩ mọi người đã muốn có nút Dislike trong nhiều năm và rất nhiều người đã hỏi về điều này. Hôm nay, tôi đứng đây để nói rằng chúng tôi đang nghiên cứu về chức năng đó và sẽ sớm thử nghiệm trong nay mai.
Bạn biết đó, chúng tôi mất khá thời gian để tìm giải pháp. Bởi vì như các bạn biết, chúng tôi không muốn tạo nút Dislike bởi vì chúng tôi không muốn biến Facebook thành một diễn đàn nơi mà mọi người có thể nâng lên hoặc hạ xuống bài viết của người khác. Dường như đó không phải kiểu cộng đồng chúng tôi muốn tạo ra. Bạn không muốn khi bạn vừa chia sẻ những khoảnh khắc ý nghĩa với cá nhân mình vừa diễn ra trong ngày và có ai đó nhảy vào bôi nhọ nó. Đó không phải là những gì chúng tôi muốn xây dựng ở thế giới này.
Nhưng trong suốt nhiều năm người dùng liên tục yêu cầu như vậy, chúng tôi nhận ra mọi người không tìm kiếm khả năng bôi xấu bài viết người khác. Những gì họ thực sự muốn là khả năng thể hiện sự đồng cảm.
Không phải mọi thời điểm đều là khoảnh khắc tốt, phải không? Và nếu bạn chia sẻ một điều gì đó làm bạn rất buồn, như cuộc khủng hoảng người tị nạn hoặc một thành viên trong gia đình bạn vừa mất, người đọc có thể không cảm thấy thoải mái để Like bài viết đó. Nhưng bạn bè của bạn và mọi người muốn có khả năng bày tỏ họ hiểu và họ muốn ở bên bạn.
Tôi nghĩ điều quan trọng là cho mọi người có nhiều lựa chọn thể hiện cảm xúc và chia sẻ những gì họ đang cảm thấy về bài viết một cách nhanh chóng thay vì chỉ đơn thuần có một nút Like, vì thế chúng tôi đã dành thời gian nghiên cứu về vấn đề này. Cực kỳ phức tạp để chuyển hóa những tương tác cảm xúc mà bạn muốn để thể hiện một cách đơn giản. Nhưng chúng tôi có một ý tưởng có thể sẵn sàng được thử nghiệm trong thời gian ngắn sắp tới, và tùy thuộc vào những phản hồi, chúng tôi sẽ cho áp dụng rộng rãi hơn.
Nhưng thực sự rất cảm kích phản hồi của các bạn trong suốt những năm qua, tôi nghĩ cuối cùng thì chúng tôi đã lắng nghe và tìm giải pháp cho những gì các bạn muốn. Hy vọng chúng tôi có thể đem đến điều gì đó phù hợp nhu cầu cộng đồng của chúng ta.
Mai Trâm
Theo Trí Thức Trẻ

Facebook giúp các startup thăng hoa như thế nào?

Nhà điều hành cấp cao Facebook đã tiết lộ cách mạng xã hội này trở thành hệ sinh thái số, giúp nhiều nhà phát triển ứng dụng xây dựng thành công ty tỷ USD với xuất phát điểm khởi nghiệp chỉ từ tầng hầm – và lý do vì sao mức định giá như “trên trời” dành cho các công ty khởi nghiệp dạng như vậy lại hợp lý.

Không thể đếm được hết số lượng các công ty công nghệ cung cấp dịch vụ nền tảng giúp các công ty khởi nghiệp mọc lên như nấm từ khắp mọi nơi, trở thành mối đe dọa ăn dần mòn thị phần và lợi luận của các ông lớn lâu đời có truyền thống trong ngành, điển hình như Uber, Spotify, Netflix và Airbnb.
Nhưng ẩn đằng sau tất cả startup là một siêu quyền lực, cung cấp nhiên liệu giúp nền kinh tế ứng dụng bay cao: Facebook.
Mạng xã hội khổng lồ chính là một trong những lực lượng chính góp phần thay đổi cục diện các mô hình kinh doanh truyền thống bằng cách cung cấp cho các nhà phát triển công cụ phân tích và sáng tạo, để họ có thể xây dựng, phát triển và kiếm tiền từ ý tưởng khác thường của mình. Tất cả nhờ vào cây đũa thần Facebook Platform (nền tảng Facebook).
Và người đang ở trung tâm ấy chính là Julien Codorniou, với mái tóc và giọng nói nhỏ nhẹ, dường như đối lập với hình dung về người dân ở vùng làng chài Gruissan phía nam nước Pháp, cũng là người đang nắm giữ sức mạnh tối thượng.
Codorniou hiện đang là Giám đốc đối tác nền tảng toàn cầu Facebook, chịu trách nhiệm liên kết với vô số công ty đang sử dụng nền tảng Facebook nhằm tiếp cận hơn 1,5 tỷ người dùng của mạng xã hội này.
Julien Codorniou, Giám đốc đối tác nền tảng toàn cầu Facebook.
Facebook Platform ra đời năm 2007 với mục đích cho phép nhà phát triển sáng tạo nội dung nhưng game, tin tức để người dùng có thể chơi và mua bán ngay trên trang Facebook.com. Chỉ trong 1 năm, khoảng 30.000 ứng dụng đã được tạo ra trên Facebook. Sau đó, nhận thấy được tiềm năng khổng lồ, công ty có trụ sở ở Menlo Park đã mở cổng, cho phép các nhà phát triển có thể thiết kế ứng dụng hoạt động độc lập ngoài website Facebook.com.
Ngày nay, bất kỳ ứng nào kết nối với cộng đồng sử dụng Facebook – 1,49 tỷ người dùng hàng tháng, chiếm khoảng 20% dân số toàn cầu – đều được xem là một phần nền tảng Facebook. Nơi mà chỉ với 1 công cụ đơn giản như “Đăng nhập với Facebook – Login with Facebook” đã cho phép hàng triệu ứng dụng có thể đứng trên vai người khổng lồ, sẵn sàng tiếp cận 50% người dùng internet toàn cầu.
Facebook, doanh thu 4 tỷ USD lần đầu tiên trong quý vừa rồi, có mức tăng trưởng người dùng hàng tháng ở mức 13% trong cả năm 2014 và tăng trưởng người dùng hàng ngày 17%. Theo thống kê, số lượng người dùng điện thoại thông minh ở Mỹ dùng 20% thời gian sử dụng điện thoại của họ cho 1 ứng dụng Facebook.
“Mọi người thường nghĩ nền tảng Facebook là dành cho game trên web, kiểu như Farmville hay Candy Crush”, Codorniou nhận định. “Không ai kết nối được các dấu chấm để thấy Facebook đứng đằng sau các công ty như Airbnb, Uber và Spotify. Nhưng tham vọng chính là chỗ chúng tôi muốn thúc đẩy tăng trưởng của họ, ngay cả khi điều đó vô hình với người dùng”.
Codorniou và nhà sáng lập kiêm CEO Facebook, Mark Zuckerberg, chụp năm 2012.
Codorniou và nhà sáng lập kiêm CEO Facebook, Mark Zuckerberg, chụp năm 2012.
Những công cụ đơn giản của nền tảng, bao gồm công cụ cho phép người dùng đăng nhập với tài khoản Facebook, cho phép người dùng chia sẻ nội dung như một câu chuyện mới hay một kết quả trắc nghiệm trên Facebook cá nhân và mời bạn bè dùng ứng dụng để đổi lấy phần thưởng, thường là miễn phí.
Facebook Platform bán quảng cáo hướng đối tượng cho các nhà phát triển dựa vào miêu tả mục tiêu của ứng dụng như hướng vào thói quen nào đó của người dùng hoặc cho người dùng đang có biết thông tin về bản cập nhật. Facebook cũng sẽ thu 30% phí cho mỗi lần thanh toán trong ứng dụng thông qua hệ thống thanh toán của mình.
Dĩ nhiên, những ứng dụng này cũng có thể chọn các nền tảng khác như iOS của Apple hay Android của Google, nhưng Codorniou tin rằng có sự khác biệt lớn giữa các hệ điều hành này và nền tảng của Facebook.
“Lợi thế độc nhất của chúng tôi chính là hệ thống phân phối, chúng tôi cung cấp cơ hội tiếp cận hơn 1 tỷ người dùng trên bất kỳ thiết bị nào mà không ai có thể đạt được trước đó”, Codorniou tự tin. “Và chúng tôi chắc chắn là công ty cung cấp nền tảng duy nhất trên thế giới có năng lực tạo hệ sinh thái đa nền tảng xuyên suốt”.
Facebook tuyên bố có 3,5 tỷ ứng dụng chỉ phát triển trên nền tảng này được cài đặt qua máy tính và thiết bị di động trong năm 2014 và hơn 5 tỷ nội dung đến từ ứng dụng đối tác thứ 3 được chia sẻ qua nền tảng Facebook vào năm ngoái.
8 tỷ USD chính là con số Facebook đã thanh toán cho các nhà phát triển trong hơn 5 năm vừa qua.
Lợi ích kinh tế các quốc gia do nền tảng sinh thái Facebook đem lại trong năm 2014. Nguồn: Báo cáo kiểm toán Deloitte thực hiện theo ủy nhiệm từ Facebook, công bố tháng 01/ 2015. Đơn vị tính: Tỷ USD.
Theo một báo cáo được Deloitte công bố gần đây theo sự ủy quyền từ Facebook, đã tiết lộ mức đóng góp của nền tảng Facbook trong năm 2014 cho nền kinh tế toàn cầu ở mức 29 tỷ USD và 660.000 việc làm, hầu hết trong số đó đến từ ứng dụng bên thứ ba được phát triển bên ngoài Facebook.
Các nước Châu Âu là nơi được hưởng lợi lớn nhất từ hiệu ứng kinh tế của nền tảng này, thúc đẩy kinh tế của khối với mức đóng góp 10,5 tỷ USD và hỗ trợ 198.000 việc làm có liên quan, chiếm hơn một phần ba.
Điều này có nghĩa nếu bạn là một startup non trẻ đang kiếm tăng trưởng thần kỳ, việc bạn cần làm được đó là đem công ty của mình đặt trước mặt Codorniou.
Một số công ty khởi nghiệp thành công nhất Châu Âu đều nhận được lợi ích do nền tảng Facebook mang lại, bao gồm King, tác giả làm nên game Candy Crush Sage, đạt mức vốn hóa thị trường 4,9 tỷ USD sau khi niên yết tại sàn London năm ngoái; Spotify, công ty khởi nghiệp được định giá cao nhất Châu Âu, 8,5 tỷ USD; và SuperCell, studio Phần Lan đứng sau game di động đem về doanh thu cao nhất thế giới, Clash of Clans, được một số nhà phân tích định giá rất cao, 11 tỷ USD.
“Tôi gọi đó là sự trỗi dậy của các siêu startup Châu Âu”, Codorniou, vốn vẫn làm việc tại London, nhận định. “Nhiệm vụ của chúng tôi là nhận diện và kết nối với những công ty như vậy càng sớm càng tốt. Chúng tôi luôn tìm kiếm nhân tố tiềm năng kế tiếp. Ai sẽ là King.com trong lĩnh vực thương mại điện tử ở Trung Quốc? Ai sẽ là King.com trong lĩnh vực hẹn hò ở Thụy Điển? Đây là một phần của những gì chúng tôi đang làm và tôi rất lạc quan về khả năng ở Châu Âu”.
Nhà sản xuất game Clash of Clans, Supercell, thu được 1,5 tỷ USD nhờ bán 51% cổ phần cho Softbank và GungHo vào năm 2013.
Codorniou nhấn mạnh đem đến sự thành công cho những công ty như King, vốn được gọi là “ví dụ nổi tiếng nhất” về hiệu quả của nền tảng Facebook, là trong tầm với của ông lớn mạng xã hội này.
“Nếu bạn nhìn vào việc làm của các công ty khởi nghiệp như huy động vốn, niêm yết và bị thâu tóm – tất cả đều có điểm chung là đang dùng nền tảng Facebook để xây dựng, tăng trưởng và kiếm tiền cho ứng dụng của mình”, Codorniou cho biết.
Nhà sáng lập và cũng là Giám đốc sáng tạo của King, Sebastian Knutsson, cho rằng việc gia nhập là một quyết định xoay chuyển vận mệnh, ngang ngửa quyết định mở rộng sang lĩnh vực di động.
Tuy nhiên, các câu hỏi hoài nghi về mức định giá cao ngất ngưỡng dành cho các công ty vẫn đang ở giai đoạn trứng nước và làm thế nào những công ty như Uber, công ty khởi nghiệp mới chỉ 6 năm tuổi và vẫn ở giai đoạn thua lỗ có thể chạm mức giá trị 50 tỷ USD. Hay như Airbnb, website cho thuê nhà mới chỉ 7 năm tuổi và không sở hữu bất cứ bất động sản nào, có thể được định giá 25,5 tỷ USD, cao hơn cả mức vốn hóa của thương hiệu quản lý khách sạn hàng đầu Marriott.
Thế nhưng Codorniou, người từng có thời gian làm việc trong quỹ đầu tư mạo hiểm trước khi trở thành giám đốc phát triển khách hàng doanh nghiệp tại Microsoft, sau đó chuyển đến Facebook, tin rằng các mức định giá không tưởng liên tục được xác lập, đi đầu là Facebook, là vì các doanh nghiệp này hoặc là có thể thu hút hàng trăm triệu người dùng trên toàn cầu cực kỳ nhanh hoặc là khách hàng bỏ rất nhiều thời gian sử dụng sản phẩm của họ.
“Supercell là một doanh nghiệp Phần Lan với chỉ 150 nhân viên làm ra được 3 game nhưng lại đem về 1,7 tỷ USD doanh thu vào năm ngoái. Mức định giá được xác lập dựa trên khả năng của Super, mức độ gắn kết người dùng và lợi nhuận làm ra là quan điểm rất mới”.
Tác giả game di động Flappy Bird kiếm được 50.000 USD mỗi ngày. Nguồn ảnh: cnet.com.
Cách đây một thập kỷ - khi Facebook còn là một website được xây dựng trong trường đại học với tên gọi thefacebook.com – một startup sẽ phải chi hàng đống tiền để lập trình phần mềm từ đầu, tuyển dụng nhân sự và xây dựng hệ thống phân phối của riêng mình.
Ngày nay, bất kỳ ai cũng có thể tạo một ứng dụng với giá rất thấp, đưa lên một nền tảng như Facebook, iOS hay Android và chỉ sau một click chuột, ứng dụng đã có thể được tìm thấy ở bất kỳ đâu trên thế giới.
“Rào cản gia nhập ngành chưa bao giờ thấp như vậy, bất kỳ ai trên thế giới cũng có thể tạo một ứng dụng tuyệt vời cực kỳ dễ dàng và trở thành một công ty tiềm năng tỷ USD”, Codorniou hào hứng.
Điển hình như Flappy Bird, một game đơn giản nhưng lại gây nghiệm – được một nhà phát triển Việt Nam hoàn thành chỉ trong vài ngày – có thời điểm đã trở thành game được tải nhiều nhất trong hệ thống Apple Store.
“Flappy Bird có 50 triệu người dùng với chỉ 1 lập trình viên ở Việt Nam và anh ta có được thu nhập 50.000 USD mỗi ngày”, Codorniou cho biết. “Thế giới hiện nay là thế giới phẳng, mọi người cạnh tranh với nhau và được đối xử công bằng trong các kho ứng dụng khắp thế giới”.
Giá trị huy động vốn và số thương vụ liên quan đến các công ty khởi nghiệp công nghệ ở Châu Âu từ quý II năm 2012 đến quý 2 năm 2015. Đơn vị tính: Tỷ Euro.
Châu Âu, nơi mà các công ty khởi nghiệp đi đầu không có nguồn lực, kinh nghiệm, vốn như các startup ở Mỹ, đã hưởng lợi rất nhiều nhờ Internet đã đem lại khả năng tiếp cận các nguồn lực một cách công bằng hơn.
Trong khoảng thời gian từ tháng 4 đến tháng 6, các quỹ đầu tư mạo hiểm chống lưng các công ty startup ở Châu Âu đã huy động được nguồn vốn hơn 3 tỷ Euro, tăng 12% so với Quý đầu tiên của năm 2015 và tăng 31% so với cùng kỳ năm ngoái, theo dữ liệu từ Dow Jones Venture Source cho biết.
“Thị trường mới nổi cũng sẽ được hưởng lợi. Nơi đâu có tài năng công nghệ, nơi đó sẽ có các công ty tỷ USD”, Codorniou nhận định.
Facebook muốn mình trở thành trung tâm, bao xung quanh là những con kỳ lân, là những công ty dùng công nghệ để phá vỡ trật tự cũ ở các ngành khác nhau, với mở đầu từ các công ty sản xuất game. “Khi Facebook Platform ra mắt, chúng tôi trở thành nền tảng phát triển game lớn nhất thế giới một cách rất tình cờ - đó không phải là điều chúng tôi trông đợi từ đầu”.
Codorniou dùng thử thiết bị đeo thực tế ảo Oculus Crescent Bay tại hội nghị Web Summit ở Dublin năm 2014.
Mạng xã hội Facebook đã tiến hóa từ một website sang một hệ điều hành rồi lại thành hệ sinh thái, muốn được chuẩn bị tốt hơn để đón tiếp làn sóng kế tiếp: Trước tiên là các dịch vụ trò chuyện (chat), với động thái ra mắt nền tảng Messenger Platform. Sau đó là thực tế ảo, mở đầu với thương vụ 2 tỷ USD thâu tóm Oculus, công ty mà Codorniou tự tin sẽ trở thành nền tảng không chỉ cho game mà còn cho giáo dục, giải trí, mua sắm và thể thao.
“Làn sóng này không chỉ đang diễn ra trong thế giới game mà đang lan ra nhiều ngành khác như thương mại điện tử, truyền thông, giải trí, du lịch, hẹn hò. Và đó chỉ là mới bắt đầu”, Codorniou hào hứng. “Mỗi ngành đều nhận thấy được cơ hội và sức mạnh của nền tảng – thậm chí có cả ngân hàng, dịch vụ chuyển phát thức ăn, dịch vụ vệ sinh – tất cả đều rất mới”.
Theo MAI TRÂM

Facebook Messenger và “cuộc chiến hạt nhân” với các đối thủ OTT

ới trợ lí ảo M cho ứng dụng chat Messenger, Facebook đang leo thang cuộc chiến với các đối thủ OTT. Nếu thành công, đây sẽ là một bước tiến có thể khiến đối thủ không thể nào bắt kịp.

Trợ lí ảo M cho Facebook Messenger.
Trên thị trường hiện có rất nhiều ứng dụng nhắn tin khác nhau, và không như ít năm trước đây, các ứng dụng này đã không còn giống nhau về mặt tính năng. Cách đây ít năm, gần như không có gì khác biệt giữa SMS và các ứng dụng chat như WhatsApp, WeChat, Kik, Line, KakaoTalk và Facebook Messenger. Tuy nhiên, mỗi ứng dụng dần dần đã tự tìm đường đi riêng cho mình. Có ứng dụng tập trung vào sự đơn giản, lại có phần mềm hướng tới kết nối với doanh nghiệp, hay tập trung vào game, sticker... và các chức năng khác.
Tuy nhiên, Facebook mới đây vừa quyết định "leo thang" trong cuộc chiến ứng dụng chat bằng việc ra mắt M, một trợ lí ảo dành cho Facebook Messenger. M có khả năng thực hiện các công việc như mua hàng, gửi quà, đặt chỗ trong các quán ăn, lên lịch trình du lịch... hay bất cứ công việc nào mà bạn yêu cầu nó.
Khái niệm trợ lí ảo đã không còn xa lạ - khi mà chúng ta đã từng biết tới Google Now, Apple Siri, hay Microsoft Cortana. Tuy nhiên, các trợ lí này đã được "máy móc hóa" nên chúng chỉ trả lời được các câu trả lời có sẵn và được học "thuộc lòng" từ trước. Trợ lí M của Facebook lại khác, nó trở nên đặc biệt vì được xây dựng và phát triển bởi cả những con người thực thụ, không đơn thuần chỉ là trí thông minh nhân tạo. Facebook đã kí hợp đồng với con người thật để giúp M trả lời các câu hỏi của người dùng, đồng thời cải tiến công nghệ để xử lí các công việc một cách tự động, trong tương lai. Hiện cũng đã có các trợ lí cá nhân như Magic và Operator sử dụng con người để trả lời các câu hỏi phức tạp, tuy nhiên, chúng là các ứng dụng độc lập với quy mô người dùng rất nhỏ, không thể "đọ" lại được Facebook Messenger.
M hiện vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, do đó, hiện vẫn còn quá sớm để đánh giá liệu nó có thể giúp Facebook thực hiện được tham vọng rất lớn của mình hay không. Tuy nhiên, nếu thành công, Facebook Messenger sẽ tạo ra một bước tiến cực lớn khiến các đối thủ của nó không thể nào bắt kịp.
Trợ lí này kết hợp sức mạnh của phòng lab về trí tuệ nhân tạo hàng đầu thế giới, với tính cơ động của những người thật ngoài đời (mà Facebook bỏ tiền thuê) để phục vụ 700 triệu người dùng Messenger. Điều này tạo sự khác biệt cho dịch vụ Facebook M so với sản phẩm tương tự của cả Apple hay Google vốn chỉ tập trung vào khoa học thuần của trí tuệ nhân tạo. Có lẽ, sản phẩm làm được gần giống M nhất là ứng dụng WeSecretary được phát triển cho WeChat. WeSecretay cho phép người dùng WeChat yêu cầu sự giúp đỡ từ người thật để giúp mình làm một việc nào đó.
Để trợ lí M trở thành một dịch vụ có ích cho tất cả người dùng Facebook Messenger có thể cần rất nhiều thời gian; và thậm chí Facebook sẽ phải bỏ ra những khoản chi phí không hề nhỏ. Tuy nhiên, đây có thể sẽ là sự đầu tư đáng giá. Xét cho cùng, mục đích của Facebook cũng là sẽ phát triển để M hoạt động tự động, và sự tham gia của con người thật sẽ là tối thiểu.
Để đạt được mục đích đó, Facebook cần thời gian để các "nhà thầu" mà mình bỏ tiền thuê dạy cho trợ lí M làm cách nào để giải quyết vấn đề, trả lời câu hỏi theo cách tốt nhất. Nếu chỉ thuê một lượng nhân sự nhỏ, Facebook sẽ tốn nhiều thời gian hơn cho nhiệm vụ; còn nếu mở rộng quy mô, mức chi phí họ phải bỏ ra là rất lớn. Tuy nhiên, Facebook có tiền để hiện thực tham vọng của mình. Dù không nhiều tiền bằng Google hay Apple, nhưng với 4 tỉ USD doanh thu và khoảng 700 triệu USD tiền lãi chỉ tính riêng trong quý trước, Facebook có nguồn lực để đầu tư cho dịch vụ mới.
Facebook cũng có cả thời gian. Lượng người dùng của cả Facebook Messenger lẫn Whatsapp (ứng dụng nhắn tin được Facebook mua lại năm 2014 và hiện có 800 triệu người dùng) là vô cùng lớn, đủ giúp Facebook trở thành kẻ đi đầu ở thị trường nhắn tin. Mạng xã hội này không phải lo lắng mình sẽ bị tụt lại phía sau đối thủ trong thời gian tập trung vào nghiên cứu và phát triển (R&D). Có cho mình một lượng người dùng khổng lồ đó cũng chính là nguồn lực thuộc hàng tốt nhất để Facebook xây dựng, phát triển trợ lí cá nhân của mình.
Kiếm tiền từ đâu?
Làm thế nào để Facebook thu lại nguồn đầu tư khổng lồ này? Trên thực tế Facebook sẽ có rất nhiều cách để kiếm tiền từ M. Một số ví dụ: Facebook có thể thiết lập các mối quan hệ với một số nhà sản xuất sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ, mời gọi các doanh nghiệp này chi tiền để trở thành nhà cung cấp dịch vụ cho các yêu cầu của người dùng. Đó là chưa kể tới khả năng Facebook sẽ tính phí trực tiếp từ người dùng, mặc dù đó không phải là "phong cách" kinh doanh truyền thống của mạng xã hội này.
Một lợi thế tuyệt vời nữa của Facebook đó là công ty không bị áp lực phải kiếm tiền trực tiếp từ trợ lí ảo hay Facebook Messenger. Trong khi các ứng dụng nhắn tin khác phải "lăn lê bò toài" tìm đủ mọi cách để kiếm tiền, Messenger giao nhiệm vụ này cho ứng dụng Facebook chính. Tất cả những gì Facebook cần làm với M là tìm cách giúp Messenger ngày càng hữu ích hơn để Messenger ngày càng có nhiều người dùng hơn nữa. Ứng dụng chat sẽ khóa người dùng vào mạng xã hội của Facebook, và những quảng cáo ngập tràn trên News Feed sẽ là cỗ máy kiếm tiền thực sự cho công ty.
Theo ICTnews.

6 lỗi startup thường mắc khi gặp nhà đầu tư

Bất cứ startup nào cũng cần trình bày kế hoạch trước nhà đầu tư (NĐT) để huy động vốn. Mọi sai lầm trong lúc này đều khiến bạn đánh mất cơ hội quý giá này.
Buổi trình bày kế hoạch kinh doanh rất giống với việc bạn đang chào bán sản phẩm với khách hàng. Vì thế, bạn cần thể hiện như một nhà bán hàng chuyên nghiệp, trình bày thu hút và thuyết phục NĐT tin tưởng vào sản phẩm, công ty và bản thân bạn để quyết định rót vốn. Dưới đây là 6 sai lầm bạn cần tránh để buổi trình bày đề án kinh doanh hiệu quả, chuyên nghiệp hơn.
1. Bạn không biết gì về NĐT
Nhiều startup đến với buổi trình bày mà không có thông tin gì về NĐT. Bạn không biết vì sao NĐT cảm thấy hứng thú với các sản phẩm của bạn, tính tình họ như thế nào, sở thích, mối quan tâm của NĐT. Bạn không thể cung cấp những thông tin hữu ích cho ai đó khi bạn không biết gì về họ.
Sự hiểu biết về NĐT giúp bạn biết cách làm “mát lòng” họ, khiến việc gọi vốn có nhiều cơ hội thành công hơn.
2. Gửi kế hoạch mà không có bất cứ lời giới thiệu nào
Một NĐT lý tưởng sẽ nhận được rất nhiều những lời đề nghị cấp vốn từ mọi ngõ ngách của thế giới. Vì vậy, nếu bạn chỉ đơn thuần gửi về một bản kế hoạch kinh doanh mà không có bất cứ lời giới thiệu, hay một cách gây ấn tượng nào khác, bản kế hoạch của bạn dù hoành tráng đến đâu thì NĐT cũng không “để mắt” đến.
Muốn tiếp cận NĐT, các startup cần hiểu rõ tâm lý này. Bằng mọi cách, bạn cần để NĐT thấy công ty, dự án, sản phẩm của bạn có mối liên hệ với họ, cho họ biết vì sao cần đầu tư vào công ty startup của bạn.
3. Không chuẩn bị cho một cuộc trò chuyện bình thường
Bạn tập trung để trình bày kế hoạch, số liệu, bản vẽ… khiến buổi gặp NĐT rất khô khan, nặng nề. Bạn không hề chuẩn bị tinh thần cho một buổi trò chuyện bình thường, trình bày bản kế hoạch bằng sự tâm huyết, chân thành.
Đôi khi, NĐT muốn gặp startup chỉ để xem cách họ nói chuyện, ứng xử và đánh giá thái độ, cách làm việc của bạn. Đó là yếu tố quan trọng để NĐT quyết định có “rót vốn” cho một startup hay không. Khi quá sa đà vào trình bày các vấn đề chuyên môn, bạn không giao tiếp được với NĐT. Bạn nên nhớ, máy tính và tài liệu chỉ là công cụ để củng cố cho các buổi nói chuyện của bạn và đừng quá tập trung vào nó.
4. Bài thuyết trình quá dài
Chắc chắn NĐT sẽ cố gắng lắng nghe cho đến khi bạn trình bày xong, tuy nhiên một bài trình bày dài dòng sẽ khiến người nghe mệt mỏi và không thể biết được đâu là điều bạn muốn nhấn mạnh. Điều này đồng nghĩa với việc NĐT có thể bỏ qua rất nhiều thông tin hay, mang tính quyết định xem họ có nên đầu tư cho dự án của bạn hay không. Bạn nên chọn lọc những thông tin cần thiết nhất và bài trình bày của bạn chỉ nên kéo dài 10 – 15 phút.
5. Không đầy đủ dữ liệu
Bạn không thể “nói suông” với NĐT rằng dự án của bạn rất hay, đáp ứng nhu cầu thị trường mà không có bất kỳ con số nào chứng minh cho điều đó.
Bạn cần tính toán thật cẩn thận những yếu tố như: tuổi thọ của sản phẩm/dịch vụ, quy mô thị trường, doanh thu, chi phí dự kiến… Đây là những dữ liệu rất cần thiết để NĐT đánh giá dự án của bạn có khả thi không và bạn thấu hiểu lĩnh vực của mình đến mức nào. Bạn hãy chắc chắn những con số giả định chi tiết và dựa trên nền tảng thực tế.
6. Không nghe lời gợi ý
Bạn cần giữ sự cởi mở khi tiếp cận NĐT, nhất là khi họ góp ý và chỉ ra những khuyết điểm của bạn. NĐT có thể yêu cầu bạn thay đổi một số yếu tố và bạn không nên cố chấp từ chối ngay những lời đề nghị này.
NĐT là những người rất nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực của họ, trải nghiệm trên thương trường cũng khiến họ nhìn thấy nhiều nguy cơ hay tiềm năng phát triển của sản phẩm, dịch vụ. Vì vậy, thay vì bác bỏ, bạn hãy tiếp nhận những lời đề nghị như một bài học quý và xem xét kỹ lưỡng xem có thể áp dụng cho doanh nghiệp startup của mình không. Biết lắng nghe, bạn sẽ có nhiều cơ hội để nhận được đầu tư hơn.
Nguồn: doanhnhansaigon

Tuyên bố trách nhiệm: Bài viết được lấy nguyên văn từ nguồn tin nêu trên. Mọi thắc mắc về nội dung bài viết xin liên hệ trực tiếp với tác giả. Chúng tôi sẽ sửa, hoặc xóa bài viết nếu nhận được yêu cầu từ phía tác giả hoặc nếu bài gốc được sửa, hoặc xóa, nhưng vẫn bảo đảm nội dung được lấy nguyên văn từ bản gốc.

5 cách xây dựng văn hóa doanh nghiệp cho startup

Công ty nào cũng cần xây dựng văn hóa để kết nối nhân viên và phát triển bền vững. Tuy nhiên, nhiều công ty startup đã không quan tâm đúng mức vấn đề này, xem đây là công việc lãng phí thời gian, tiền bạc. Đây là quan niệm sai lầm cần được khắc phục.
Dưới đây là 5 cách để xây dựng văn hóa công ty, mà nhà sáng lập như một nhạc trưởng điều hành, giữ vững công ty phát triển đúng theo định hướng.
1. Là một nhà lãnh đạo từ bi
Là nhà sáng lập, bạn là một mắt xích quan trọng trong công ty. Bạn cần hiểu rõ từng yêu cầu, thuận lợi hay khó khăn của tất cả các vị trí trong công ty. Từ đó, bạn hiểu được kỳ vọng, mục tiêu phấn đấu của từng nhân viên. Và khi có sự cố xảy ra, bạn có thể đứng ở vị trí của nhân viên để nhìn nhận vấn đề, cùng họ giải quyết những khó khăn.
Với phương pháp này, bạn thể hiện mình là một người sếp tâm lý, thấu hiểu nhân viên, thông cảm và khuyến khích nhân viên hoàn thành công việc, mang lại kết quả công việc tốt. Đây là bước đầu tiên để bạn xây dựng văn hóa công ty.
2. Thử việc nhân viên trong 3 tháng
Với kinh nghiệm của mình, CEO Aihui Ong của công ty startup Love with Food chia sẻ, các doanh nghiệp nên thử việc nhân viên mới trong 3 tháng. Đây là khoảng thời gian lý tưởng để bạn kiểm tra năng lực, hiệu suất làm việc. Đây cũng là khoảng thời gian đủ để nhân viên nhìn nhận đầy đủ về môi trường làm việc mà họ có ý định gắn bó.
Với 3 tháng, công ty và ứng viên đều có thời gian để kiểm tra xem đối phương có phù hợp với văn hóa và các nguyên tắc của mình không. Một cái nhìn thực tế và toàn diện sẽ giúp sự hợp tác giữa công ty và ứng viên bền vững và hiệu quả hơn.
3. Tổ chức chuyến du lịch công ty
Hãy tận dụng cơ hội để tổ chức chuyến du lịch cho công ty. Những nhà đồng sáng lập, nhân viên của bạn đã “đồng cam cộng khổ” trong suốt thời gian khó khăn, vất vả để xây dựng công ty nên họ xứng đáng được nghỉ ngơi.
Chi phí cho chuyến du lịch cho toàn công ty sẽ khá tốn kém. Tuy nhiên, bạn hãy cố gắng thực hiện điều này vì nó tạo ra sự gắn kết giữa các nhân viên. Mối quan hệ “người bạn thân thiết” sẽ giúp mọi người hỗ trợ nhau làm việc, hết lòng cống hiến cho công ty tốt hơn mối quan hệ “ông chủ – làm thuê”.
Aihui Ong chia sẻ trên Entrepreneurs: “Khi có buổi giới thiệu về công ty tại lễ hội ẩm thực tại Hawaii năm 2012, tôi đã đưa nhóm startup gồm 6 người đi cùng. Chúng tôi cùng nhau thuê một căn hộ trong 4 ngày, cùng nấu ăn với nhau. Và đó là một trải nghiệm đáng nhớ của chúng tôi”.
4. Thiết lập truyền thống
Hãy tự tạo nên một truyền thống cho công ty của bạn. Ví dụ, bạn có ngày kỷ niệm thành lập công ty, chuyến tặng quà cho trẻ em kém may mắn, cắm trại hàng năm… Bất cứ việc gì khiến bạn và nhân viên cảm thấy thoải mái, tự hào cũng có thể trở thành hoạt động truyền thống của doanh nghiệp.
Đây là chiếc “phao” hữu hiệu để kéo nhân viên và chính bạn thoát khỏi những căng thẳng của công việc hàng ngày. Bạn không phải lo lắng giá cổ phiếu, vốn đầu tư hay những chuyện bất hòa vụn vặt giữa các đồng nghiệp trong khoảng thời gian này và nó khiến mọi người gắn bó và biết chia sẻ nhiều hơn.
5. Luôn cố gắng tạo ra nụ cười
Cho dù công ty của bạn thuộc lĩnh vực gì thì nhân viên của bạn cũng cần vui vẻ mới có thể làm việc tốt. Do đó, bạn hãy cố gắng tạo ra tiếng cười, không khí làm việc vui vẻ ngay trong văn phòng. Nhân viên sẽ được giải tỏa căng thẳng và có thể nảy sinh ra nhiều ý tưởng hay từ chính những cuộc nói chuyện vui vẻ này.
Nhà lãnh đạo công ty startup không nên đặt quá nhiều nguyên tắc hay giới hạn về hành xử trong môi trường làm việc. Điều này sẽ khuyến khích các nhân viên mạnh dạn bày tỏ quan điểm, thể hiện khả năng hài hước và khiến môi trường làm việc trở nên thân thiện, gần gũi, mang lại hiệu quả công việc cao.
TĂNG KHÁNH

Tác động chính trị của toàn cầu hóa

Nguồn: Suzanne Berger (2000). “Globalization and Politics”, American Review of Political Science, No. 3, pp. 43-62.
Biên dịch: Phạm Thị Thu Hà | Hiệu đính: Phạm Thị Huyền Trang
Bài liên quan: #28 – Hãy suy nghĩ lại: Toàn cầu hóa 
Chương này tập trung vào các vấn đề quan trọng được công chúng và các học giả quan tâm hiện nay, đó là ảnh hưởng của sự thay đổi kinh tế thế giới đến chính trị và xã hội của các quốc gia. Trong hai thập kỷ qua, đã có sự tăng trưởng đáng kể của vốn đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp nước ngoài và trao đổi thương mại qua biên giới song song với việc nhiều rào cản thương mại về hàng hóa và dịch vụ giữa các quốc gia được gỡ bỏ. Sự thay đổi này đặt ra nhiều câu hỏi mới về ảnh hưởng của thương mại và sự dịch chuyển dòng vốn đối với quyền tự chủ của chính phủ các quốc gia – dân tộc (nation-state) và quyền lực tương đối của các nhóm trong xã hội. Những dấu hiệu đầu tiên về việc tổ chức lại trong và giữa các đảng phái chính trị của cả hai cánh tả và hữu về các vấn đề độc lập quốc gia và mở cửa thương mại đặt ra một lĩnh vực chính trị mới phong phú cần được tìm hiểu.
Giới thiệu
Mối quan tâm của công chúng cũng như của các nhà nghiên cứu về toàn cầu hóa và chính trị ngày một tăng lên là một hiện tượng mới. Trong suốt thập kỷ qua, sự tự do hóa thương mại, tài chính và đầu tư trên phạm vi toàn cầu đã mở ra nhiều lĩnh vực hoạt động mới cho các chủ thể kinh tế năng động. Sự gia tăng thu nhập của các quốc gia đang phát triển đã tạo ra nhiều thị trường tiêu thụ mới rộng lớn. Sản xuất xuyên biên giới quốc gia đã chuyển các hoạt động nghiên cứu, phát triển và chế tạo liên quan đến các trình độ kỹ thuật cũng như giá trị được sản xuất ra ngày càng cao hơn sang các xã hội khác. Song song với đó,các thể chế kinh tế cũng đang biến đổi. Các công ty từng hợp nhất theo chiều ngang nay giảm phạm vi kinh doanh và chỉ tập trung vào thế mạnh cốt lõi của mình. Những quan hệ đối tác, chuỗi hàng hóa, liên minh và sáp nhập mới kết nối các nhà sản xuất, nhà cung cấp và khách hàng. Làm thế nào chúng ta có thể đánh giá được tác động của những chuyển dịch phức tạp này đối với xã hội của mình khi mà các rủi ro, lợi ích và an ninh trong nền kinh tế toàn cầu đang được tái phân phối? Làm thế nào chúng ta có thể hiểu được tác động của sự thay đổi này tới nền chính trị thế giới?

Trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, rất ít nhà quan sát chú ý đến các tác động tới chính trị trong nước bởi sự tăng trưởng mạnh mẽ của dòng vốn xuyên biên giới, lượng người di cư, FDI cùng với công nghệ vận tải, công nghệ thông tin mới, những yếu tố đẩy nhanh tốc độ truyền tải thông tin cũng như lưu thông hàng hóa giữa các quốc gia. Nhưng ý tưởng toàn cầu hóa làm suy yếu sự tự chủ và ảnh hưởng của các quốc gia – dân tộc thực sự đã xuất hiện trong nhiều văn bản trước cả giai đoạn quốc tế hóa. Angell(1913:54-55) đã nghiên cứu về vấn đề này ngay trước thềm thế chiến và ông đã hình dung trước rằng toàn cầu hóa sẽ diễn ra như ngày nay.
Sự phụ thuộc lẫn nhau thiết yếu này… vốn cắt giảm các biên giới đã diễn ra ngày càng phổ biến trong vòng 40 năm vừa qua. [Đó là] kết quả của sự phát triển của nền văn minh mà chúng ta đã cố gắng thiết lập trước đó – thư tín nhanh chóng, sự phổ biến của thông tin tài chính thương mại nhờ vào điện báo và tốc độ tăng trưởng chóng mặt của công nghệ thông tin nói chung đã khiến 6 thủ đô lớn của các nước theo đạo Thiên chúa gắn bó chặt chẽ với nhau hơn nữa trên phương diện tài chính, và thậm chí mối liên hệ này còn mật thiết hơn cả mối liên hệ giữa những thành phố lớn của Anh khoảng 100 năm trước.
Từ sự phụ thuộc lẫn nhau về tài chính, Angell đã suy ra tính vô nghĩa, thực tế là khả năng khó xảy ra, của chiến tranh –bởi ông cho rằng chiến tranh là quá tốn kém đối với cơ cấu giao lưu kinh tế quốc tế nên không thể là một lựa chọn khả dĩ. Chính các dự đoán sai lệch giống như của Angell và thực tế các nền kinh tế quốc dân bị đóng cửa trong khoảng thời gian xảy ra chiến tranh đã khiến cho phạm vi ảnh hưởng của học thuyết về chính trị của các nền kinh tế mở đã giảm xuống ngay khi mới xuất hiện. Từ Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất đến những năm 1980, các hoạt động trao đổi kinh tế xuyên biên giới vẫn ở mức thấp hơn nhiều so với mức đã đạt được ở đầu thế kỷ XX. Khi thương mại, đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn đầu tư ngắn hạn xuyên biên giới quốc gia đã tăng vùn vụt từ những năm 1970, các nhà khoa học xã hội đã quay trở lại nghiên cứu các câu hỏi của Angell.
Trong lượng văn liệu xuất hiện trong những năm 1990 này, nhận thức chung về khái niệm toàn cầu hóa được hiểu là một loạt sự thay đổi trong kinh tế thế giới vốn có xu hướng tạo ra một thị trường thế giới chung đối với hàng hóa, dịch vụ, vốn và lao động. Trong một nghiên cứu tái hiện toàn bộ các góc nhìn về toàn cầu hóa, Glyn và Sutcliffe định nghĩa toàn cầu hóa như là “một ý tưởng cho rằng thế giới ngày nay là một nền kinh tế đơn nhất nếu nhìn theo hướng vĩ mô. Có nghĩa là yếu tố quyết định tới thu nhập và việc làm ngày nay có thể chỉ được hiểu ở phạm vi toàn cầu và không còn ở mức độ quốc gia nữa.” (Glyn & Sutcliffe 1992:77). Tuy nhiên, ngoài khái niệm trên, gần như không có bất kỳ quan điểm thống nhất nào về toàn cầu hóa. Các nhà nghiên cứu bất đồng cả về những đặc điểm cơ bản nhất của quá trình toàn cầu hóa. Tình hình trên cho thấy có sự phân chia trong quan điểm của các nhà nghiên cứu này, các cuộc tranh luận tập trung khá nhiều vào những vấn đề chưa được giải quyết trong đó có các hệ quả chính trị của quá trình toàn cầu hóa.
Trước hết, nếu sự gia tăng của các dòng chảy kinh tế xuyên quốc gia như là một phần của nền kinh tế thế giới còn gây nhiều tranh cãi, thì hiện tượng này có nên được diễn giải như là sự xuất hiện của toàn cầu hóa hay chỉ là sự mở rộng và tăng cường của các mô hình quốc tế hóa và khu vực hóa (trước đây)? Hiện nay quan điểm coi toàn cầu hóa như một hiện tượng mới và không thể đảo ngược được công nhận bởi hầu hết các bài viết dành cho đông đảo độc giả. Người tiên phong trong vấn đề này là Ohmae (1990), ông đã lập luận rằng “nền kinh tế liên kết” (interlinked economy) đã xóa bỏ các đường biên giới quốc gia. “Trên bản đồ chính trị thế giới, những đường ranh giới giữa các quốc gia từ trước đến nay vẫn rất rõ ràng. Nhưng trên bản đồ cạnh tranh (competitive map), bản đồ thể hiện dòng dịch chuyển thực sự của hoạt động tài chính và công nghiệp, những đường biên giới này đã và đang biến mất trên phạm vi rộng lớn” (Ohmae 1990:18). Hay, theo một nhà bình luận Anh, “Các quyền hạn[của nhà nước] đối với tỷ giá hối đoái … mức thuế, chính sách công nghiệp và tỷ lệ thất nghiệp đã bị bào mòn” (Economist, 1995).
Các nhà quan sát này khẳng định rằngtoàn cầu hóa làm suy yếu chính phủ các quốc gia không chỉ bằng cách thu hẹp các nguồn lực nằm dưới sự quản lý của nhà nước để kiểm soát tình hình kinh tế xã hội mà còn bằng cách làm giảm tính chính danh và quyền lực của chính phủ trong mắt công chúng. Nhìn tổng thể những quốc gia công nghiệp phát triển trong hai thập kỷ qua, ta có thể thấy một sự xói mòn lòng tin của công chúng đối với chính phủ trung ương. Ngay cả khi những nhà phân tích đề cập đến vai trò của các nguyên nhân mang tính quốc gia cụ thể của sự mất lòng tin này, họ vẫn có xu hướng nhấn mạnh đến tính phổ quát của những thay đổi này – làm thế nào toàn cầu hóa ở mọi nơi đã phá hủy quyền kiểm soát các dòng chảy thông tin của nhà nước, từ đó làm suy yếu khả năng tác động tới công chúng của chính phủ. Các ảnh hưởng của việc quốc tế hóa truyền thông, hoạt động tiếp thị và xuất khẩu văn hóa Hoa Kỳ và sự bãi bỏ quy định về kiểm soát thông tin, tất cả tổng hợp lại làm suy yếu các giá trị và truyền thống quốc gia, từ đó làm cạn kiệt sự ủng hộ đối với các hành động ở quy mô quốc gia. Ảnh hưởng của các thay đổi này trong nền kinh tế quốc tế được biết đến qua việc các nhà lãnh đạo quốc gia đang dần đánh mất quyền kiểm soát đối với những nguồn lực quyết định sự phồn vinh của một quốc gia cũng như các phương tiện giúp đạt được những nhận thức chung của công chúng về sự thịnh vượng của nước nhà. Trong quan điểm phổ biến về trật tự chính trị tương lai này, sự giảm sút vui trò của các quốc gia – dân tộc là một thực tế trung tâm.
Quan điểm này về toàn cầu hóa không chỉ xuất hiện trên các bài viết của những người có tư tưởng lạc quan về ảnh hưởng của những thay đổi này tới xã hội, như Ohmae và Friedman (Friedman 1999), mà còn bởi những nhà nghiên cứu cảm thấy mối đe dọa từ những thay đổi này(Grieder 1997). Ví dụ như cuốn L’Horrerur Economique, cuốn sách cảnh báo nhưng hậu quả vô cùng đáng ngại của toàn cầu hóa tới việc làm và sự tồn tại của quốc gia, đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất ở Pháp (Forrester 1996).
Khi miêu tả toàn cầu hóa như một thực tại toàn diện, những công trình nghiên cứu nổi tiếng đã chấp nhận kết quả coi toàn cầu hóa là một xu hướng mạnh mẽ và hầu như không thể đảo ngược mà nhiều học giả đã tìm hiểu một cách thận trọng hơn. Các nhà phân tích này có quan điểm không đồng nhất về tầm quan trọng của các yếu tố khác nhau trong việc giải thích sự giảm sút khả năng kiểm soát nền kinh tế của chính phủ và sự gia tăng đột biến các dòng chảy thương mại và vốn đầu tư xuyên biên giới. Một vài người nhận định rằng động lực chính của quá trình trên là sự xuất hiện của các công nghệ thông tin mới (Castells 1996); những người khác lại nhấn mạnh vai trò của sự tự do tài chính và việc xóa bỏ các luật lệ, cũng như lợi ích chính trị và hệ tư tưởng đã tạo nên sự thành công của các thay đổi chính sách này tại những quốc gia phát triển nhất (Scharpf1991, Hellerner 1994, Wadw 1996, Strange 1997). Trong khi đó, những người còn lại tập trung vào tác động chính trị của các lợi ích được hình thành bởi “sự mở rộng ra bên ngoài của thương mại” (exogenous easing of trade) – các thay đổi trong luật lệ, công nghệ, hoặc giá cả đã gỡ bỏ các hàng rào trong trao đổi quốc tế hoặc gia tăng lợi nhuận từ hoạt động thương mại này, từ đó tạo ra các cơ hội sinh lời mới đối với một vài nhóm trong xã hội tham gia mua bán qua biên giới quốc gia (Frieden & Rogowski 1996). Theo quan điểm này, dù bắt nguồn từ đâu, thì quá trình tự do hóa này cũng tăng tốc khi có những chủ thể kinh tế đã nhận ra khả năng sử dụng tài sản của mình một cách có lợi hơn trong các thị trường mở.
Cụ thể, từ góc nhìn này, chúng ta vẫn có thể đạt được các tác động từ toàn cầu hóa mà không cần phải đưa các yếu tố sản xuất qua biên giới. Ví dụ, để làm giảm tiền lương tại Hoa Kỳ, các công ty không cần nhập khẩu lao động từ Mexico hay di chuyển nhà máy tới Mexico. Họ đơn giản chỉ cần có khả năng (đe dọa) sẽ thực hiện điều này. Khả năng thay thếnhân công và sản xuất ở trong nước bằng nhân công và sản xuất ở nước ngoài làm suy giảm quyền mặc cả của người lao độngbằng cách làm cho cầu về nhân công trong nước trở nên co giãn hơn (Rodrick 1997: 16-27, Slaughter 1997). Trong một nền kinh tế mở toàn cầu, ngay cả nhữnggia tăng trong thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài chỉ có đôi chút liên hệ tới quy mô của nền kinh tế nội địa cũng có thể gây ra những tác động lớn đến các yếu tố chi phí và giá cả sản phẩm, như quan điểm Wood (1994) và Rodrick đã đưa ra. (Feenstra 1998). Dần dần, toàn cầu hóa có thể  gây ảnh hưởng lớn tới kinh tế và chính trị quốc gia ngay cả ở những quốc gia mà phần lớn vốn đầu tư thuộc về chính phủ và hàng hóa hay dịch vụ được sản xuất và phục vụ tiêu dùng trong nước lấn át hẳn các hoạt động xuất nhập khẩu. Mặc dù có sự khác nhau trong ảnh hưởng của các yếu tố tạo ra nền kinh tế toàn cầu hóa, tất cả các phân tích về toàn cầu hóa này đều có chung một điểm cốt lõi, đó là sự suy giảm vai trò của các đơn vị kinh tế quốc gia.
Trái ngược với những người xem sự phát triển của kinh tế toàn cầu như một quá trình mang tính quyết định của đời sống kinh tế, những học giả khác lại cho rằng sự thay đổi trong vòng 20 năm qua là biểu hiện của quá trình quốc tế hóa hoặc khu vực hóa. Hirst và Thompson (1996) đã phân biệt giữa nền kinh tế quốc tế, tại đó những thành phần cơ bản vẫn thuộc về quốc gia, và một nền kinh tế toàn cầu, tại đó “các nền kinh tế quốc gia được gộp vào và nối lại với nhau thành một hệ thống thông qua các quy trình và giao dịch quốc tế” (1996:7-13). Theo quan điểm của họ, sự tăng lên của chu chuyển quay vốn, thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài trong hai thập kỷ qua nên được hiểu là sự tương tác tăng cường giữa các thực thể vẫn còn mang tính quốc gia đặc trưng. Trên thực tế, ngay cả những công ty lớn nhất được tự do đầu tư nguồn vốn và phát triển hoạt động kinh doanh ở hầu hết khắp nơi trên thế giới vẫn phải tiếp tục tập trungmột phần lớn nhân công, vốn đầu tư, các nghiên cứu phát triển, sản lượng và doanh thu tại chính các nước chủ nhà;và do đó những công ty này được gọi là các công ty đa quốc gia chứ không phải là các công ty xuyên quốc gia (Hirst và Thompson 1996:76-98). Phần lớn các hoạt động kinh tế không phải là thương mại xuyên biên giới, mà sự sản xuất cho thị trường trong nước và các dịch vụ phi thương mại vẫn là các hoạt động chính tại tất cả các thị trường trừ một số quốc gia – thành phố nhỏ như Singapore và Hồng Kông (Krugman 1994).
Các nhà phân tích, những người nhìn nhận sự thay đổi của nền kinh tế thế giới là sự gia tăng ảnh hưởng sâu rộng của các mô hình quốc tế hóa lâu đời chứ không phải là quá trình toàn cầu hóa, cũng thắc mắc liệu có sự phát triển mới về bản chất nào đang diễn ra hay không. Nếu chúng ta xem xét giai đoạn từ giữa thế kỷ XIX đến nay, chúng ta có thể học được gì về sự biến đổi theo thời gian của các cấp độ trao đổi hàng hóa, thông tin, vốn và lao động xuyên biên giới quốc gia? Nếu các cấp độ trao đổi nguồn lực này đã từng xuất hiện trước đó, chúng ta có thể học được gì về khả năng điều tiết sự dịch chuyển kinh tế của chính phủ các quốc gia vàrộng hơn là về sự sinh tồn của chính trị quốc gia trong một nền kinh tế quốc tế?
Nghiên cứu về nền kinh tế quốc tế trong hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX đã đặt ra thách thức nghiêm trọng đối với quan điểm thường thức mới về nền kinh tế toàn cầu hóa khi chỉ ra quá trình quốc tế hóa đã từng diễn ra rất mạnh mẽ. Năm 1913, tại hầu hết các quốc gia phát triển, các cấp độlưu chuyển vốn và dịch chuyển lao động vượt biên giới quốc gia đã gần như có thể so sánh với cấp độ hiện tại (Zenvin 1992, Strikwerda 1993, Bairoch 1996, Wadw 1996, Williamson 1998, Wade 2000). Cable (1995: 24,29) chỉ ra rằng chỉ trong những năm 1979 và 1980, tỷ lệ thương mại trong tổng thu nhập quốc nội (GDP) ở nhiều nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) mới bằng mức đã đạt được trong năm 1913. Hoạt động đầu tư nước ngoài ước tính chiếm 9% GDP toàn cầu vào năm 1913, sau đó giảm hơn một nửa, và đến năm 1990, tỷ lệ này vẫn chưa trở lại mức đã đạt được trong năm 1913. Theo khảo sát của tờ Economist tại các quốc gia và nền kinh tế quốc tế nói chung,các dòng vốn trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất đã ở mức độ như ngày nay và thậm chí sự chu chuyểnvốn ròng còn cao hơn rất nhiều so với ngày nay(Economist 1995:5,9).
Tất nhiên, có thể có sai sót khi giả định mối quan hệ giữa kinh tế quốc tế và hệ thống chính trị tại các quốc gia phát triển trong năm 1913 và ngày nay là như nhau. Đã có những sự thay đổi trong thị trường vốn toàn cầu, liên quan đến mức độ hội nhập đạt được trước khi xảy ra khủng hoảng trong hai cuộc chiến tranh thế giới và Đại Suy thoái. Tốc độ và tổng lượng vốn ngày nay đang ở một mức độ cao hơn rất nhiều so với giai đoạn đầu thế kỷ XX. Những công cụ tài chính mới, các công nghệ truyền thông mới và sự tập hợp các chủ sở hữu rộng lớn hơn cùng với sự phát triển của những nhà đầu tư tổ chức đã tạo nên một môi trường mới.
Krugman (1995) chỉ ra một vài khác biệt quan trọng giữa mô hình thương mại đương đại và mô hình thương mại trong giai đoạn quốc tế hóa mạnh mẽ trước Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất. Các hoạt động trao đổi ngày nay bao gồm một phần đáng kể các hoạt động thương mại nội ngành. Năng lực ngày càng cao của các quốc gia đang phát triển đã làm gia tăng hoạt động xuất khẩu từ các xã hội có mức lương thấp đến nơi có mức lương cao cũng như những cơ hội mới trong việc mở rộng hoạt động đầu tư ra nước ngoài và thuê ngoài từ các nền kinh tế có mức lương cao đến các nền kinh tế có mức lương thấp. Sự phân mảnh sản xuấtnày được bắt nguồn từ những công nghệ thông tin và giao thông vận tải mới và đang làm biến đổi các tổ chức công nghiệp tại các quốc gia phát triển. Cuối cùng, trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, ngược lại với giai đoạn trước, số lượng các quốc gia giao thương đã gia tăng cùng với một tỷ lệ đóng góp rất lớn của thương mại trong tổng GDP (Krugman 1995:331-37). Mặc dù có sự khác biệt này, góc nhìn dài hạn hơn khôngcho thấy một tiến trình không thể đảo ngược tiến tới các mức độ quốc tế hóa chưa từng có và thậm chí lớn hơn (vào đầu thế kỷ XX). Thay vào đó, bức tranh kinh tế thế giới cho thấy sự hoạt động mạnh mẽ của thương mại vào lúc khởi phát Chiến tranh Thế giới lần thứ nhất, theo sau đó là một sự đổ vỡ mạnh mẽ các mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia phát triển, sau đó lại là quá trình dần tái tạo mạng lưới kinh tế quốc tế, và cuối cùng là một sự quay lại (tại thời điểm bước sang thế kỷ XXI) một thế giớiquốc tế với cácràng buộc và cơ hội quốc gia, điều mà một vài bậc tiền bối của chúng ta đã từng chứng kiến.
Nếu như có một sự thay đổi cấp tiến nào đó trong nền kinh tế toàn cầu, thì một vài người cho rằng đó không phải là toàn cầu hóa mà là khu vực hóa (Zysman và Schwartz 1998). Sự phát triển của thương mại và đầu tư trong bất cứ nhóm nào thuộc bốn nhóm kinh tế lớn nhất– Liên minh châu Âu, Bắc Mỹ, khu vực Mỹ Latinh và Đông Á– đều lớn hơn hẳn sự phát triển của hoạt động trao đổi giữa bốn nhóm trên với nhau và với phần còn lại của thế giới (Lawrence 1996). Nếu hiện tượng này được giải thích là quá trình khu vực hóa chứ không phải toàn cầu hóa thì sẽ hoàn toàn hợp lý khi tập trung vào vai trò của chính trị trong việc xây dựng các hiệp định thương mại khu vực (ví dụ Hiệp định Tự do Thương mại giữa Liên minh châu Âu và khu vực Bắc Mỹ) hơn là tập trung vàocác thay đổi trong công nghệ thông tin liên lạc và giao thông vận tải hay là các lý thuyết kinh tế về lợi thế so sánh, bất kể là theo các biến thểlý thuyết của Heckscher-Ohlin hay Ricardo-Viner.
Những học giả nghiên cứu các nền kinh tế quốc nội của những quốc gia phát triển nhất lập luận rằng sự thay đổi lớn nhất trong 20 năm qua không phải là sự tăng lên của hoạt động thương mại quốc tế (nhập khẩu cộng xuất khẩu) mà là sự gia tăng công ăn việc làm trong ngành dịch vụ so với ngành chế tạo (Iversen và Wren 1998). Các thay đổi về công nghệ có thể giải thích cho sự chuyển dịch của các cơ cấu kinh tế xã hội của từng quốc gia hơn là cho sự quốc tế hóa.
Tóm lại, mặc dù các học giả có chung quan điểm về định nghĩa toàn cầu hóa hoặc tương lai toàn cầu hóa, họ vẫn không thống nhất được liệu sự thay đổi hiện tại trong môi trường kinh tế quốc tế bắt nguồn từ toàn cầu hóa hay từ những nguyên nhân khác. Trong những lý thuyết nghiên cứu về các nguyên nhân khác, sự quốc tế hóa, khu vực hóa và sự gia tăng của nền kinh tế dịch vụ được đề cập nhiều nhất.
Toàn cầu hóa có tái định hình chính trị trong nước hay không?
Hình ảnh thứ hai bị đảo ngược
Nghiên cứu về ảnh hưởng của toàn cầu hóa tới chính trị trong nước dựa trên mô hình khoa học chính trị mà Gourevitch (1978) đã gọi một cách phù hợp là “hình ảnh thứ hai bị đảo ngược” (the second immage reversed), một tham chiếu về các mô hình lý thuyết quan hệ quốc tế của Waltz (1959)(Theo Waltz, chính trị quốc tế bị tác động ở ba cấp độ, bởi các cá nhân lãnh đạo [Waltz gọi hình ảnh thứ nhất], bởi chính trị trong nước của các quốc gia [hình ảnh thứ hai], và bởi tính chất của hệ thống quốc tế [hình ảnh thứ ba]. Vì vậy, “hình ảnh thứ hai bị đảo ngược” chỉ tác động của chính trị quốc tế tới chính trị trong nước – NBT). Waltz đã nghiên cứu tìm kiếm những lý thuyết lý giảicách thức sự thay đổi trong các yếu tố quốc tế tác động đến đời sống trong nước như thế nào. Sự thay đổi của kinh tế quốc tế ảnh hưởng tới các chủ thể trong nước ra sao? Có phải những sự thay đổi giống nhau sẽ tạo ra những kết quả giống nhau đối với chính trị các quốc gia hay không? Theo nghiên cứu của Gourevitch (1986) về phản ứng của các quốc gia đối với các cuộc khủng hoảng quốc tế chung, cơ chế mà nhờ đó sự thay đổi của thị trường thế giới tác động tới chính trị quốc gia là một quá trình chuyển dịch thông qua sự thay đổi của các mức giá mà các nhà sản xuất trong nước phải chi trả và được nhận về. Gourevitch nhấn mạnh khả năng các chính trị gia xây dựng những liên minh lợi ích quốc nộitừ các nhóm vốn bị tác động bởi các biến động trong đời sống do sự chuyển dịch của kinh tế thế giới gây nên. Ở những quốc gia Gourevitch đã nghiên cứu trong suốt thời kỳ khủng hoảng 1873-1896, 1929-1949 và những năm 1970, “các chủ thể xã hội” hay các nhóm lợi ích cơ bản đều giống nhau: nông dân, các nhà tư bản tài chính, công nhân, các nhà tư bản công nghiệp. Tuy nhiên, các mô hình thỏa hiệp mà các nhóm lợi ích này hướng đến, dưới áp lực từ các sự kiện bên ngoài, và các chính sách kinh tế mà các liên minh này ủng hộ lại có sự khác biệt rất lớn từ nước này sang nước khác. Các chính sách của chính phủ, các kết cấu nhà nước, các tổ chức trung gian và các nhà chính trị đã xây dựng nên các liên minh khác nhau từ các nhóm xã hội (giống nhau).
Nếu nghiên cứu của Gourevitch về bản đồ các nhóm lợi ích xã hội chỉ ra giới hạn trong sự hiện diện và tầm quan trọng của một vài nhóm trong các xã hội có cùng mức độ phát triển kinh tế, thì quan điểm của ông về chính trị tại các xã hội này lạirộng mở hơn rất nhiều. Nông dân Thụy Điển và Đức trong những năm 1930 có thể muốn được bảo hộ ở mức độ như nhau, nhưng cuối cùng người Thụy Điển đã hỗ trợ một liên minh Dân chủ-Xã hội với công nhân, trong khi người Đức lạichìm trong chủ nghĩa Đức quốc xã (Gourevitch 1986:124-81). Trong nghiên cứu tương tự, tác phẩm của Katzenstein (1985) về xu hướng tân tập đoàn hóa (neo-corporatism – xu hướng hình thành chính sách kinh tế dựa trên đàm phán giữa các nhóm lợi ích, bao gồm giới doanh nghiệp, nghiệp đoàn công nhân, và nhà nước – NBT)tại những nền kinh tế nhỏ và mởcũng tập trung vào sự đa dạng trong phản ứng của các nhóm xã hội dưới áp lực chung từ nền kinh tế quốc tế, tùy thuộc vào các cơ cấu và chính sách chính trị (Katzenstein 1985). Cho dù có sự tương đồng trong các lợi ích kinh tế tại các xã hội ở các giai đoạn phát triển kinh tế giống nhau, phản ứng chính trị đối với sự biến đổi và những cú sốc của nền kinh tế quốc tế là không thể xác định được vì chúng được điều chỉnh bởi các đảng phái chính trị, hệ tư tưởng, chiến lược và hành động tùy thuộc của giới lãnh đạo.
thuyết thương mại quốc tế
Trong khi văn liệu về “hình ảnh thứ hai bị đảo ngược” được xây dựng trên một quan điểm nguyên thủy của Mác về các chủ thể xã hội và một loạt hậu quả chính trị có thể xảy ra dưới các áp lựckinh tế thế giới, các nghiên cứu bắt nguồn từ lý thuyết thương mại quốc tế đã đưa ra một bản đồ nhóm lợi ích đơn giản hơn và những dự đoán đáng tin cậy hơn về phản ứng của các nhóm đối với sự thay đổi của nền kinh tế toàn cầu. Các lý thuyết thương mại quốc tế nổi tiếng như Heckcher-Ohlin, Stolpor-Samuelson và Ricardo-Viner đã làm sáng rõ học thuyết cơ bản của Ricardo về lợi thế so sánh tương đối với tư cách là lý do mà các quốc gia tìm thấy lợi ích từ việc trao đổi. Những lý thuyết này dự đoán các mô hình thương mại dựa trên sự phân bổ khác nhau về các yếu tố sản xuất ở các quốc gia, và chỉ ra rằng các nhóm xã hội, tùy thuộc vào lợi ích bị ảnh hưởng của họ trong các yếu tố sản xuất, sẽ có tài sản bị thay đổi theo những chiều hướng có thể dự đoán được thông qua việc mở cửa hoặc bảo hộ thương mại (Jones 1971, Magee 1978). Nếu các nhóm lợi ích trong các mô hình được xác định bởi quyền sở hữu các yếu tố sản xuất (đất, lao độngvà vốn), và các yếu tố này được phép di chuyển qua biên giới các quốc gia, theo mô hình của Heckscher-Ohline, hoặc trở thành hàng hóa và dịch vụ được trao đổi, theo mô hình của Stolpoer-Samuelson, thì có thể dự đoán rõ ràng về nhóm nào sẽ ủng hộ và nhóm nào sẽ phản đối việc mở cửa nền kinh tế. Tại những xã hội có nguồn vốn dư thừa hay có lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu vốn hoặc xuất khẩu sản phẩm cần nhiều vốn, các nhà tư bản sẽ ủng hộ việc mở cửa thương mại và người lao động sẽ phản đối nó (Rogowski 1987, Scheve và Slaughter 1998).
Làm thế nào để định nghĩa các yếu tố sản xuất và cácchủ thể xã hội là câu hỏi chính trong nghiên cứu này. Ví dụ, chúng ta có nên coi lao động như là một yếu tố sản xuất đơn nhất và mô tả xã hội là có ít hay nhiều lao động, hay chúng ta nên tách biệt lao động có trình độ tay nghề cao với lao động có trình độ tay nghề thấp và mô tả lợi thế so sánh tương đối của các xã hội dựa trên mức độ dồi dào của lao động có tay nghề cao? Nếu chúng ta quan niệm rằng các yếu tố sản xuất là tài sản khan hiếm, các nhà phân tích có nên xem xét cả những tài sản khác nếu chúng có thể tạo ra những lợi ích khác nhau khi mở cửa hay đóng cửa thương mại hay không? Gần đây, Scheve và Slaughter (1998) đã nghiên cứu các ảnh hưởng của quyền sở hữu nhàở tại các quốc gia cócác ngành công nghiệp hướng đến thương mại mở lên quan điểm về thương mại nói chung.
Có một sự phân chia rõ ràng giữa những học giả phân tích chính trị dựa trên phản ứng của các nhóm lợi ích khác nhau đối với kinh tế toàn cầu. Một bên là những nhà phân tích, trong đó có cả Rogowski và Scheve & Slaughter, những người mô tả các yếu tố sản xuất độc lập với lĩnh vựcsử dụng các yếu tố này, và những người tin vào sự dịch chuyển tương đối dễ dàng của các yếu tố giữa các ngành công nghiệp với nhau. Bên còn lại là những người coi các yếu tố là cá biệt đối với từng ngành công nghiệp cụ thể và không dễ dàng dịch chuyển từ một lĩnh vực này sang lĩnh vực khác, như mô hình lý thuyết thương mại Ricardo-Viner (Frieden 1991, Frieden& Rogowski 1996). Đối với những học giả thuộc nhóm sau, biến số quan trọng đối với các phản ứng chính trị tác động tới sự mở cửa thương mại là lĩnh vực mà tại đó các nhà tư bản đã đầu tư hoặc tại đó công nhân được thuê làm việc, vì thế, ví dụ nhưcác nhà sản xuất giày và những công nhân trong ngành sản xuất giày có thể phản đối việc loại bỏ những hàng rào thương mại để tạo điều kiện cho các nhà sản xuất với chi phí thấp gia nhập thị trường. Những nhà sản xuất giày sẽ không thể nhanh chóng bán nhà máy sản xuất giày mà vẫn có lợi nhuận, rồi tái đầu tư vào lĩnh vực mới, những công nhân đã quen với các kỹ năng chuyên biệt trong sản xuất giày không thể chuyển sang làm một nghề khác. Trong nghiên cứu này, vấn đề quan trọng là tính đặc thù của các tài sản đặc biệt (xem Altet al 1996, bản tóm tắt nghiên cứu dựa trên các mô hình Heckscher-Ohlin và Ricardo-Viner). Nếu như các dự đoán của Heckcher-Ohlin dựa trên loại yếu tố (lao động, vốn hay đất) là quá rộng nên không thể nắm bắt quy luật lợi ích kinh tế, thì chúng ta phải cần bao nhiêu chi tiết về ngành công nghiệp để có thể phân tích động lực của các phản ứng chính trị? Ngay cả trong một ngành công nghiệp, khi nhìn vào một yếu tố, có rất nhiều đặc trưng quan trọng tiềm tàng. Chúng ta nên phân biệt các nhà tư bản nắm giữ cổ phần của công ty cung cấp giày dép với những nhà tư bản sở hữu nhà máy sản xuất, hoặc chúng ta nên phân biệt những người sản xuất giày dành riêng cho những thị trường đặc biệt (giày dép thời trang cao cấp, giày chỉnh hình, giày bảo hộ lao động) với những nhà sản xuất giày dép hàng loạt (giày thể thao và các loại giày tương tự).
Hai hướng nghiên cứu lý thuyết thương mại trên dẫn đến hai dự đoán riêng biệt về sự ưu tiên và các hành động chính trị. Trong một thử nghiệm sử dụng cảhai mô hình này, Scheve và Slaughter (1998) đã đặt câu hỏi liệu các ưu tiên chính trị-thương mại riêng lẻ có được giải thích tốt hơn bởi các loại yếu tố (factor type) (được xác định bằng trình độ tay nghề của công nhân) hay bởi ngành công nghiệp sử dụng lao động (được xác định bởi mức độ chịu tác động của mở cửa thương mại). Họ nhận ra rằng trình độ tay nghề của người lao động là yếu tố dự báo về các hạn chế thương mại chuẩn xác hơn so với yếu tố lao động trong một ngành công nghiệp bị tác động bởi mở cửa thương mại. Kết quả này phù hợp với mô hình các loại yếu tố Heckscher-Ohlin (factor-type model). Tuy nhiên, những nghiên cứu thực nghiệm khác lại ủng hộ mô hình Ricardo-Viner (Irwin 1996, Magee 1978). Frieden (1991) cho rằng trong ngắn hạn, mô hình các yếu tố đặc trưnglý giải tốt hơn các phản ứng đối với thương mại, mặc dù trong dài hạn, mô hình Heckscher-Ohlin có thể chiếm ưu thế. Sự hội nhập đang tăng lên của các thị trường thế giới có thể dẫn tới sự đồng nhất về lợi ích giữa các loại yếu tố, vì thế rốt cuộc đấu tranh chính trị về toàn cầu hóa có thể trở thành mâu thuẫn giữa lao động và nguồn vốn (tư bản) hơn là giữa lao động/giới chủ trong một ngành công nghiệp với lao động/giới chủ trong một ngành khác.
Những ràng buộc mang tính cấu trúc lên chính phủ trong một nền kinh tế toàn cầu
Nếu chính sách công được coi là kết quả của áp lực nhóm lợi ích, thìcác mô hình chính trị bắt nguồn từ lý thuyết thương mại lại đưa ra một vài dự đoán đơn giản về tương lai của nhà nước trong một nền kinh tế toàn cầu. Sự lưu chuyển nguồn vốnngày một tăng lên và sự ổn định tương đối của lao động có thể làm các chính phủ phản ứng nhanh nhạy hơn với các nhóm lợi ích tư bản. Nếu thuế, chính sách công nghiệp, luật môi trường hay các mối quan hệ công nghiệp tại bất cứ xã hội nào quá cao hoặc quá gò bó, nhà đầu tư sẽ rút và chuyển vốn đến nơi khác; trong khi đó, người lao động lại không dễ dàng dịch chuyển. Vì thế, kết quả dự báo của việc hạn chế đánh thuế đối với nguồn vốn là người lao động sẽ phải chịu một phần gánh nặng thuế lớn hơn và khả năng chi trả cho phúc lợi xã hội sẽ giảm xuống.
Sự lên xuống của cán cân quyền lực ở trong nước giữa tư bản và lao động được toàn cầu hóa mang lại bằng cách thúc đẩy các yếu tố di động sẽ dẫn đến một nền chính trị thăng trầm trong nước. Chế độ dân chủ xã hội khó có khả năng xảy ra hơn vì các động lực để tư bản thỏa hiệp với các giai cấp khác sẽ bị suy giảm do quyền lực ngày một tăng lên của nó. Ngay cả khi những người ủng hộ chủ nghĩa xã hội giành được phần lớn phiếu bầu cử, như Mitterrand đã làm được tại Pháp năm 1981, một nền kinh tế mở (trong trường hợp của Pháp là nền kinh tế Châu Âu) sẽ đem lại cho những người nắm giữ tài sản lưu động cơ hội đạt được mong muốn của mình bằng cách đe dọa rút vốn chuyển qua nước khác. Mặc dù sự dịch chuyển nguồn vốn gần như không phải là một vấn đề mới đối với các chính phủ cánh tả, từ đầu thế kỷ này, những công cụ chính trị để giải quyết vấn đề này ngày càng hạn chế hơn bao giờ hết.
Toàn cầu hóa thu hẹp nhà nước bởi nó tăng cường nguồn lực chính trị của các nhóm trong xã hội, những người mong muốn giới hạn quyền lực của chính phủ trong việc điều chỉnh đầu ra trên thị trường. Nó cũng kiềm chế khả năng của các lực lượng chính trị mà hệ tư tưởng của những lực lượng này ủng hộ sự can thiệp của chính phủ vào hoạt động sản xuất và tái phân phối. Theo quan điểm này, khó có thể đánh giá liệu phe cánh tả hay phe cánh hữu sẽ trúng cử, những hạn chế của nền kinh tế quốc tế sẽ buộc một trong hai bên phải thực hiện những chính sách tài chính tiền tệ giống nhau hoặc phải đối mặt với sự đánh mất năng lực cạnh tranh quốc gia và những khoản đầu tư.
Toàn cầu hóa và chủ nghĩa tân tự do
Người ta không cần nhìn thế giới thông qua lăng kính của thuyết thương mại quốc tế mới nhận ra mối liên kết giữa toàn cầu hóa và sự thu nhỏ của các quốc gia – dân tộc. Trong khi những nhà kinh tế chính trị, những người đã phát triển mô hình chính trị dựa trên lý thuyết lợi thế cạnh tranh,đã nhìn thấy sự mở cửa có mối liên kết với sức mạnh của nhà nước do tác động của mâu thuẫn lợi ích trong nước, những người khác nhìn nhận toàn cầu hóa như là kết quả của sự thay đổi hệ tư tưởng vốn làm biến đổi chính phủ các quốc gia. Sự lan rộng ra toàn cầu của các học thuyết tân tự do (neoliberalism – tư tưởng nhấn mạnh tự do kinh tế, hạn chế sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, xuất hiện trở lại thời kỳ những năm 1970, 1980, sau thời kỳ phổ biến của học thuyết Keynes – NBT) ở tất cả mọi nơi đã làm giảm tính hợp pháp trong sự can thiệp của chính phủ nói chung vào nền kinh tế cũng như khả năng của từng chính phủ trong việc định hình hay tránh khỏi các tác động của thị trường (Evan 1997). Làn sóng của việc phi điều tiết hóa vốn đã cuốn đi sức mạnh của chính phủ ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới trong hai thập kỷ qua có nguồn gốc từ những thay đổi giá trị sâu xa và phức tạp. Đầu tiên, những thay đổi này đã thu hút sự chú ý của phe cánh hữu, tuy nhiênkhi “những cuộc cách mạng” của Thatcher và Reagan được tái thực hiện, nó đã khiến ngay cả phe cánh tả cũng phải chối bỏ quan điểm này thậm chí còn mạnh mẽ hơn (Scharpf 1991, Kitschelt 1994, Gray 1996, Vandenbroucke 1998).
Đồng thời, sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh và sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã mở ra một địa thế mới cho chủ nghĩa tự do kinh tế. Theo Wes, trong năm 1978, 1/3 nguồn lao động thế giới sống ở những nền kinh tế tập trung (trích trong Vandenbrouke 1998:13). Trong suốt thập kỷ vừa qua, những nền kinh tế này đã hội nhập vào thị trường thế giới. Ngay cả Trung Quốc, đất nước xã hội chủ nghĩa lớn duy nhất còn lại, chủ nghĩa tư bản và nguyên lý thị trường tự do đã tạo ra những tiến bộ to lớn. Mặc dù có thể có những tranh luận về tốc độ “chuyển dịch” sang kinh tế thị trường, nhưng dường như không còn bất kỳ sự lựa chọn thay thế hợp lý nào khác ngoài nền kinh tế thị trường. Ở cả các nước có nền dân chủ tự do và chủ nghĩaxã hội – nhà nước trước đây, sức hấp dẫn chính trị của chủ nghĩa xã hội hoặc các học thuyết cánh tảvốn mở rộng quyền lực của nhà nước trong việc kiểm soát nền kinh tế đã biến mất. Ở những quốc gia nơi mà các đảng cộng sản tái nổi lên, chức năng chủ yếu của họ chỉ là những phương tiện truyền bá thái độ phản kháng dựa trên chủ nghĩa dân túy.
Sự lan rộng của chủ nghĩa tân tự do được thúc đẩy không chỉ bởi sự thất bại của chủ nghĩa xã hội mà còn bởi sự hỗ trợ của Hoa Kỳ. Ở vị trí thống trị độc tôn trong hệ thống thương mại và tài chính toàn cầu, Hoa Kỳ đã thúc đẩy việc chấm dứt kiểm soát nguồn vốn trên thế giới và khiến cho sự trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Thế giới và Ngân hàng Thế giới phụ thuộc vào sự chấp thuận của nước nhận giúp đỡđối với các giới hạn rõ ràng về vai trò của chính phủ trong nền kinh tế (Wade 2000). Trước viễn cảnh này, toàn cầu hóa không phải phản ảnh sự lan rộng tự phát của các thị trường thế giới và sự phá bỏ các hàng rào bởi các thành phần kinh tế khát khao những cơ hội mới, mà là một câu chuyện được thúc đẩy bởi các lý do chính trị, đó là sự thay đổi hệ tư tưởng, sự sụp đổ ngẫu nhiên của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa và sức mạnh của Hoa Kỳ trên thế giới.

Hồ Chí Minh cầu viện năm 1950

1



Hồ Chí Minh và VMCS lại cầu viện Trung Cộng để chống Pháp. Thật là ngu xuẩn khi HCM và đảng CSĐD nhờ một tên cướp đuổi một tên trộm. Tên trộm bỏ chạy thì tên cướp chiếm nhà. Hậu quả đó di căn cho đến ngày nay. Muốn chấm dứt di căn nầy, thì phải cắt bỏ khối ung thư CS trong cơ thể Việt Nam. Đó là con đường duy nhất để thoát khỏi hiểm họa Trung Cộng.

*

Sau khi Hồ Chí Minh (HCM) cùng Mặt trận Việt Minh (VM) do đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) lãnh đạo, cướp chính quyền và thành lập chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ngày 2-9-1945, Pháp trở lui Việt Nam. Hồ Chí Minh liền thương thuyết và ký hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) tại Hà Nội, đồng ý cho quân đội Pháp vào Bắc Kỳ. Sau đó, HCM ký Tạm ước tại Paris (14-9-1946) để cho Pháp tái tục các hoạt động kinh tế, tài chính, giao thông, văn hóa trên toàn quốc Việt Nam. Quân Pháp đến Hà Nội càng ngày càng đông, và áp lực nhà cầm quyền VM phải để cho Pháp kiểm soát an ninh Hà Nội.

Nếu để cho Pháp kiểm soát an ninh Hà Nội, thì HCM, lãnh đạo CS ĐD và VM sẽ nằm trong tay Pháp. Vì vậy, để thoát khỏi Hà Nội, Trung ương đảng CSĐD họp trong hai ngày 18 và 19-12-1946, tại Vạn Phúc (Hà Đông) quyết định phát động chiến tranh chống Pháp trên toàn quốc. (Lê Mậu Hãn chủ biên, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 2001, tr. 48. Từ điển bách khoa quân sự Việt Nam, Hà Nội: Nxb. Quân Đội Nhân Dân, 2004, tt. 503-504.)

Lực lượng VM bất ngờ tấn công Pháp tối 19-12-1946. Hồ Chí Minh và các lãnh tụ CS có lý do chính đáng rút đi mật khu mà tránh bị mang tiếng trốn chạy. Từ đó, VM thua chạy dài cho đến năm 1949. Trong năm nầy, hai sự kiện chính trị quan trọng xảy ra. Thứ nhứt chính phủ Quốc Gia Việt Nam được thành lập do Cựu hoàng Bảo Đại làm Quốc trưởng sau Hiệp định Élysée ngày 8-3-1949. Thứ hai, đảng Cộng Sản Trung Hoa (Trung Cộng) thành công và chiếm lục địa Trung Hoa. Chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Hoa di tản ra Đài Loan (Taiwan). Mao Trạch Đông (MTĐ) tuyên bố thành lập chính phủ Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (CHNDTH), định đô ở Bắc Kinh, ngày 1-10-1949.

1. Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh

Sau khi CHNDTH được thành lập, Hồ Chí Minh gởi hai đại diện là Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy đến Bắc Kinh xin viện trợ cuối năm 1949. Lưu Thiếu Kỳ (Liu Shaoqi), xử lý công việc bộ Chính trị đảng CSTH, cử La Quý Ba (Luo Guibo), ủy viên trung ương đảng CSTH, làm đại diện đảng CSTH bên cạnh đảng CSĐD. (Qiang Zhai, China & Vietnam Wars, 1950-1975, The University of North Carolina Press, 2000, tt. 13, 15.) Tháng 01-1950, La Quý Ba qua Việt Nam làm cố vấn. (La Quý Ba, “Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản”, trong Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, Dương Danh Dy hiệu đính, Montreal: Tạp chí Truyền Thông số 32 và 33, Hạ-Thu 2009, tr. 19.)

Theo sự thỏa thuận giữa hai bên, chính phủ VNDCCH thừa nhận chính phủ CHNDTH ngày 15-1-1950. Ngay sau đó, CHNDTH thừa nhận trở lại chính phủ VNDCCH ngày 18-1-1950. Gần nửa tháng sau, Liên Xô thừa nhận chính phủ VNDCCH ngày 30-1-1950. Các nước cộng sản khác ở Đông Âu tiếp tục thừa nhận VNDCCH sau Liên Xô.

Cũng ngày 30-1-1950, HCM bí mật đến Bắc Kinh cầu viện. Theo tài liệu của CSVN, tại Bắc Kinh, HCM “đã hội đàm với Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Mao Trạch Đông hứa sẽ tích cực chi viện cho cuộc kháng chiến của Việt Nam…”(Lê Mậu Hãn chủ biên, sđd. tt. 68-69.)

Tài liệu của một người tự xưng đã “từng viết tiểu sử Hồ Chí Minh”, cũng xác nhận khi HCM đến Bắc Kinh thì MTĐ đang ở Bắc Kinh. Tài liệu nầy còn hé lộ thêm rằng HCM “kiểm thảo, trình bày các cái ta chủ trương và làm, Lưu Thiếu Kỳ nhận xét… chính sách tiêu thổ kháng chiến toàn bàn của Việt Nam là không cần thiết và lãng phí…” (Trần Đĩnh, Đèn cù, California: Người Việt Books, 2014, tr. 49.)

Theo tác giả nầy, “báo cáo coi như kiểm điểm”; mà lại kiểm điểm tất cả “các cái ta chủ trương”, ít nhất kể từ khi VM thực hiện tiêu thổ kháng chiến tức từ năm 1946 đến năm 1949. Câu hỏi đặt ra là tại sao HCM phải kiểm thảo? Vai vế của một nước nhỏ trong Đệ tam Quốc tế CS, hay vai vế một chư hầu? Một tay sai? Hơn nữa, tuy MTĐ có mặt ở Bắc Kinh, nhưng tại sao cuộc kiểm thảo của HCM do Lưu Thiếu Kỳ nhận xét (tức phê bình). Tại sao không phải là MTĐ nhận xét, mà lại là Lưu Thiếu Kỳ?

Theo các tài liệu trên đây của CSVN, HCM đến Bắc Kinh gặp MTĐ. Tuy nhiên, các tài liệu khác, kể cả tài liệu Trung Cộng, thì MTĐ không có ở Bắc Kinh khi HCM đến Bắc Kinh, mà MTĐ đã qua Moscow.

Trước hết, theo Qiang Zhai, giáo sư đại học North Carolina, một người gốc Trung Hoa, ngay khi hai đại diện của HCM là Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy đến Bắc Kinh cuối năm 1949, thì MTĐ đã qua Moscow. “Mao công bố thành lập CHNDTH ngày 1-10-1949. Không lâu sau đó, Hồ Chí Minh gởi hai đại diện, Lý Bích Sơn và Nguyễn Đức Thủy, đi Bắc Kinh tìm kiếm hậu thuẫn trong cuộc chiến đấu chống Pháp. Vào lúc đó, Mao đã ở Moscow thương thuyết một hiệp định liên minh. Trong thời gian Mao vắng mặt khỏi Bắc Kinh (giữa 16-12-1949 và 17-2-1950), Lưu Thiếu Kỳ, quyền chủ tịch Ủy ban Trung ương đảng CSTH, phụ trách công việc hàng ngày của đảng.” (Qiang Zhai, sđd. tr. 13)

Theo La Quý Ba, cố vấn Trung Cộng bên cạnh HCM, trong bài “Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản” (Truyền Thông, bài đã dẫn, báo đã dẫn, tr. 20), thì lúc đó MTĐ và Chu Ân Lai đang ở Moscow để thương thuyết với Stalin.

Tài liệu về tiểu sử MTĐ, quyển The Unknown Story MAO thì MTĐ bắt đầu đi qua Moscow bằng tàu hỏa ngày 6-12-1949, tham dự lễ sinh nhật thứ 70 của Stalin ngày 21-12-1949. (Jung Chang, The Unknown Story MAO, New York: 2005, tr. 350.)

Trong hồi ký của mình, Nikita Khrushchev cũng viết rằng Mao đến Moscow tham dự sinh nhật thứ 70 của Stalin ngày 21-12-1949. (Khrushchev Remembers The Last Testament, Translated and Edited by Strobe Talbott, Boston-Toronto: Little, Brown and Co., 1974, tr. 239.)

Theo các tài liêu trên đây, kể cả tài liệu của Khrushchev, rõ ràng MTĐ có mặt ở Moscow tham dự sinh nhật thứ 70 của Stalin, thì không thể có chuyện MTĐ có mặt ở Bắc Kinh gặp HCM vào tháng 1-1950 theo như các tài liệu CSVN. Chuyện nầy giải thích vì sao sách Đèn cù viết rằng Lưu Thiếu Kỳ, xử lý thường vụ đảng CSTH, nhận xét về báo cáo của HCM, chứ không phải MTĐ.

Lý do đơn giản giải thích việc các tài liệu CSVN viết rằng HCM đã gặp MTĐ ở Bắc Kinh là vì HCM thường sử dụng hình tượng các nhân vật quan trọng để lòe đám cộng sản tay chân chung quanh HCM, như đã có lần vào năm 1945, HCM xin một tấm ảnh của đại tướng Hoa Kỳ là Claire Chennault, rồi treo ở trụ sở chiến khu Tân Trào cho mọi người thấy, nhằm chứng tỏ rằng Hoa Kỳ ủng hộ HCM và mặt trận VM. Các nhà viết sử đảng CS chỉ viết theo tuyên truyền hoặc lời kể của cấp trên mà thôi.

2. Hồ Chí Minh cầu viện

Sau Bắc Kinh, HCM đến Moscow tối 6-2-1950. Bộ chính trị đảng CSLX mở tiệc chào mừng HCM, nhưng Joseph Stalin không tham dự. Stalin chỉ tiếp HCM tại văn phòng làm việc, với sự có mặt của của Malenkow, Molotow, Bulganin, và đại sứ Trung Cộng tại Liên Xô, Vương Gia Tường. Stalin nói với HCM: “Đảng Cộng Sản Liên Xô và nhân dân Liên Xô hoàn toàn nên viện trợ cho cuộc đấu tranh chống Pháp của các đồng chí. Song, chúng tôi đã trao đổi với các đồng chí Trung Quốc, công việc viện trợ chiến tranh chống Pháp của Việt Nam chủ yếu do Trung Quốc phụ trách thích hợp hơn…” (Trương Quảng Hoa, “Quyết sách trọng đại Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp”, đăng trong sách Hồi ký những người trong cuộc…, tạp chí Truyền Thông, báo đã dẫn, tr. 45.)

Quyết định của Stalin giao cho Trung Cộng phụ trách viện trợ CSVN có thể bắt nguồn từ hai lý do: Thứ nhứt Stalin và Liên Xô chưa có quyền lợi gì ở Đông Nam Á nên không muốn can thiệp vào Việt Nam, trong khi đó Liên Xô bận lo củng cố vùng Đông Âu mới chiếm được sau năm 1945. Thứ hai MTĐ qua Moscow trước HCM. Khi HCM đến Bắc Kinh xin viện trợ, Lưu Thiếu Kỳ (xử lý thường vụ ở Bắc Kinh) thông báo mục đích chuyến đi của HCM cho MTĐ. Mao Trạch Đông thảo luận trước với Stalin, và hai bên đồng ý để chuyện Việt Nam cho Trung Cộng phụ trách. Phải chăng vì Stalin giao Việt Nam cho Trung Cộng viện trợ, mới có sự hiện diện của viên đại sứ Trung Cộng khi Stalin tiếp kiến HCM?

Ngày 14-2-1950, Joseph Stalin và MTĐ ký “Hiệp ước hữu nghị, liên minh và hỗ tương Trung-Xô” (Sino-Soviet Treaty of Friendship, Alliance and mutual Assistance) gồm 6 điều khoản và giá trị trong 30 năm. Ngày 16-2, trong buổi tiệc khoản đãi MTĐ trước khi phái đoàn Trung Cộng về nước, nhân lúc Stalin vui chuyện, HCM xin Stalin ký một hiệp ước với VNDCCH như đã ký với CHNDTH. Vì HCM bí mật qua Liên Xô, Stalin hỏi lại HCM: “Thế người ta hỏi đồng chí từ đâu ra? Chúng tôi giải thích như thế nào?”. Hồ Chí Minh nói: “Điều đó rất dễ, đồng chí cho máy bay chở tôi lượn một vòng trên trời, sau đó cho người ra sân bay đón tôi, đưa một tin trên báo, không được sao?” Stalin cười lớn nói: “Đó quả là sức tưởng tượng đặc biệt của người phương Đông các anh.” Rất nhiều người dự tiệc cũng đều cười vang.” (Trương Quảng Hoa, bđd., sđd. tr. 46.)

Ngày 17-2-1950 (mồng 1 Tết canh dần), MTĐ cùng Châu Ân Lai rời Moscow, trở về Bắc Kinh bằng tàu hỏa. Hồ Chí Minh cũng tháp tùng theo đoàn tàu nầy. Khi về đến biên giới Liên Xô – Trung Cộng, tuyệt vọng về phía Liên Xô, HCM tìm đến toa tàu của MTĐ và dùng tiếng Tàu cầu viện MTĐ.

Hồ Chí Minh nói: “Stalin không chuẩn bị viện trợ trực tiếp cho chúng tôi, cũng không ký hiệp ước với chúng tôi, cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam từ nay về sau chỉ có thể dựa vào viện trợ của Trung Quốc.”

Mao Trạch Đông trả lời: “Chúng ta là đảng anh em, lại là láng giềng! Về vật tư quân sự, cố gắng hết sức viện trợ cho các đồng chí là điều phải làm; tất nhiên đó là ý kiến cá nhân tôi, còn phải do Trung ương quyết định.” (Trương Quảng Hoa,bđd., sđd. tr. 47.)

Tại Bắc Kinh, một hiệp ước phòng thủ hỗ tương giữa VNDCCH và CHNDTH được ký kết, theo đó hai bên hợp tác để tiễu trừ thổ phỉ. (Bernard Fall, Le Viet-Minh, Paris: Max Leclerc et Compagnie, 1960, tr. 119.) Thổ phỉ ở đây ám chỉ biệt kích Pháp và nhất là tàn quân Quốc Dân Đảng Trung Hoa, đã vượt qua biên giới Việt Hoa trốn tránh sau khi Tưởng Giới Thạch thất bại. Có thể MTĐ quan tâm đến tình hình biên giới Việt Hoa, cũng có thể MTĐ mượn lý do tiễu trừ thổ phỉ, ký hiệp ước với VM, nhằm tránh sự phản đối về ngoại giao của Pháp và Quốc Gia Việt Nam.

Trước khi rời Bắc Kinh ngày 11-3-1950 trở về nước, HCM chỉ định Hoàng Văn Hoan làm đại diện đảng CSĐD và nhà nước VNDCCH ở Bắc Kinh. (Ngày HCM rời Bắc Kinh, theo bài thơ “Ly Bắc”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, xuất bản lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 19.)

3. Kết quả cầu viện

Sau chuyến cầu viện Moscow thất bại, HCM chỉ có thể trông cậy vào Trung Cộng. Tháng 4-1950, HCM gởi đến Bắc Kinh danh mục xin viện trợ, đồng thời đề nghị Trung Cộng lập một trường võ bị ở Trung Cộng, gởi cố vấn quân sự sang Việt Nam và xin giúp thêm quân nhu, quân cụ, súng ống. (Qiang Zhai, sđd. tr. 18.) Từ đó, Trung Cộng viện trợ và đáp ứng tối đa cho nhu cầu của VM, mà theo Lưu Thiếu Kỳ, VM sẽ trả lại sau, một khi VM có thể sản xuất hàng hóa. (Qiang Zhai,sđd. tr. 19.) Phải chăng HCM đã hứa trả lại viện trợ với Lưu Thiếu Kỳ trong khi cầu viện đầu năm 1950?

Ngoài ra, Trung Cộng còn bổ nhiệm cố vấn quân sự từ cấp tiểu đoàn cho quân đội VM. Trong thời gian nầy, VM gởi 22,000 quân sang Trung Cộng huấn luyện và trang bị. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập B, Houston: Nxb. Văn Hóa: 1997, tr. 164.) Lãnh thổ Trung Cộng trở thành hậu cứ bất khả xâm phạm cho du kích VM trốn tránh, dưỡng quân và huấn luyện. Quân đội Pháp không vượt biên giới để truy kích VM vì sợ gây hấn với Trung Cộng.

Ngày 27-6-1950, trong cuộc tiếp kiến phái bộ cố vấn quân sự Trung Cộng sẽ được gởi sang giúp CSVN, MTĐ giao cho phái bộ nầy hai nhiệm vụ chính: 1) Giúp VM thành lập quân đội chủ lực. 2) Giúp quân đội VM thiết lập kế hoạch hành quân, và cùng tham chiến với VM. Cuối tháng 7-1950, Bộ Tư lệnh Cố vấn Quân sự Trung Cộng chính thức được hình thành, lúc đầu gồm 281 người (trong đó có 79 cố vấn và 202 tùy viên), do tướng Vi Quốc Thanh (Wei Guoqing) làm tư lệnh, với hai phụ tá là Mai Gia Sinh (Mei Jiasheng) và Đặng Dật Phàm (Deng Yifan). (Chính Đạo,sđd. tt. 177, 186, 267.)

Sau chuyến đi cầu viện của HCM vào đầu năm 1950, từ tháng 4 đến tháng 9-1950, CHNDTH gởi qua viện trợ cho VM như sau: 14,000 súng lục và súng trường, 1,700 súng liên thanh và súng không giựt, 150 súng cối, 60 đại pháo, 300 ba-dô-ka (bazooka), cùng với trang thiết bị quân sự, thuốc men, dụng cụ truyền tin, áo quần và 2,800 tấn thực phẩm. (Qiang Zhai, sđd. tr. 20.)

Nhờ sự cố vấn, viện trợ của Trung Cộng, VM bắt đầu phản công từ năm 1950. Tháng 9-1950, VM thu được thắng lợi đầu tiên tại Đông Khê do tướng Trần Canh (Trung Cộng) cố vấn. Sau đó, Trung Cộng càng ngày càng tăng cường giúp đỡ, kể cả trực tiếp chỉ huy chiến trường, nên cuối cùng VM cộng sản thành công năm 1954.

Kết Luận

Sau khi cướp được chính quyền, hội nghị Trung ương đảng CSĐD tại Hà Nội ngày 11-9-1945 đưa ra nguyên tắc căn bản là đảng CSĐD nắm độc quyền điều khiển mặt trận VM, và một mình thực hiện cách mạng. (Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952, Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr. 143.) Đảng CSĐD nắm độc quyền mặt trận VM. Mặt trận VM đang nắm chính quyền, cai trị đất nước. Như thế có nghĩa là đảng CSĐD độc quyền cai trị đất nước.

Việt Minh CS sẵn sàng thỏa hiệp với Pháp để duy trì quyền lực. Tuy nhiên, khi bị Pháp đe dọa, không còn cách nào thỏa hiệp với Pháp được nữa, và bị Pháp truy bức đến cùng, Trung ương đảng CSĐD quyết định tấn công Pháp vào tối 19-12-1946, để rút lui khỏi Hà Nội trong danh dự.

Điều đáng nhấn mạnh là đảng CSĐD mở cuộc chiến tranh chống Pháp năm 1946 không phải vì tổ quốc lâm nguy mà vì VM và đảng CSĐD lâm nguy, không phải vì bảo vệ nền độc lập dân tộc, mà vì bảo vệ sự sống còn của đảng CSĐD. Đây là cuộc chiến giữa VM và đảng CSĐD với Pháp, lợi dụng chiêu bài chống Pháp giành độc lập, đổ gánh nặng chiến tranh lên vai dân tộc Việt Nam. Khi cai trị thì nắm độc quyền. Khi nguy biến thì bắt dân chúng Việt Nam gánh chịu.

Hồ Chí Minh và VMCS lại cầu viện Trung Cộng để chống Pháp. Thật là ngu xuẩn khi HCM và đảng CSĐD nhờ một tên cướp đuổi một tên trộm. Tên trộm bỏ chạy thì tên cướp chiếm nhà. Hậu quả đó di căn cho đến ngày nay. Muốn chấm dứt di căn nầy, thì phải cắt bỏ khối ung thư CS trong cơ thể Việt Nam. Đó là con đường duy nhất để thoát khỏi hiểm họa Trung Cộng.

(Toronto, 23-7-2015)