Động thái của Trung Quốc trước cuộc tấn công
Vẫn chưa có những tài liệu chắc chắn
nào cho thấy lúc nào và như thế nào Bắc Kinh đã ra quyết định tiến hành
chiến tranh chống Việt Nam. Nayan Chanda,
phóng viên Đông Nam Á kỳ cựu của Tạp Chí Kinh Tế Viễn Đông đã chỉ đưa ra
được vài chi tiết cho rằng cấp lãnh đạo Trung Quốc đã ra quyết định “dạy
cho Việt Nam bài học” vì thái độ “vô ơn và ngạo mạn” trong một cuộc họp
Bộ Chính Trị hàng tuần vào đầu tháng Bảy năm 1978. Tuy nhiên ông ta lại
cho rằng trong cuộc họp đó cấp lãnh đạo Trung Quốc, khi thông qua quyết
định tấn công Việt Nam, có vẻ như họ đã được thuyết phục rằng việc này
chỉ để nhằm “làm suy yếu vị thế của Xô-viết trong thế giới thứ ba”. Các
nguồn tin mới đây từ Trung Quốc thì lại giả thiết rằng sự tính toán đến
các phản ứng quân sự đối với cuộc khủng hoảng giữa Việt Nam và Trung
Quốc là một quá trình hết sức chậm chạp vì khá lâu sau đó cũng không có
một quyết định nào được thông qua. Hơn nữa, cuộc chiến khởi đầu được coi
như là một xung đột cục bộ giữa hai nước chứ không phải là một phần của
chiến lược chống bá quyền toàn cầu của Trung Quốc. Trong những năm đầu
của thời kỳ hậu Mao, Bắc Kinh áp dụng chính sách lãnh đạo thừa kế. Chính
sách lãnh đạo thừa kế này liên quan đến việc gia hạn năm công tác với
chức năng tư vấn không chính thức cho các lãnh tụ cao cấp và các cấp
thấp hơn như các viên chức chính phủ và sĩ quan quân đội để họ đảm nhận
các vấn đề trước khi có quyết định cuối cùng.
Châu Đức Lễ (Zhou Deli), tham mưu
trưởng quân khu Quảng Châu, kể lại rằng vào tháng Chín năm 1978 đã có
một cuộc họp được tổ chức trong bộ tổng tham mưu QGPND bàn về vấn đề
“làm sao đối phó với nạn xâm chiếm lãnh thổ của quân đội Việt Nam”.
Mối quan tâm ban đầu là vấn đề xung đột biên giới. Vấn đề này lúc
đó đã được coi như nguyên nhân chính dẫn đến căng thẳng ngày càng gia
tăng giữa hai nước từ năm 1976.
Một đề xuất sơ bộ đề
nghị tiến hành một chiến dịch quy mô nhỏ nhằm vào một trung đoàn bộ đội
địa phương thuộc huyện Trùng Khánh của Việt Nam nằm sát đường biên giới
với tỉnh Quảng Tây. Tuy nhiên, sau khi một báo cáo của tình báo cho biết
cuộc xâm lăng Campuchia của Việt Nam sắp xảy ra thì đa số người tham gia
đều đồng ý rằng bất kỳ một hành động quân sự nào được tiến hành cũng đều
phải gây được ảnh hưởng đáng kể với Hà Nội và tình hình ở Đông Nam Á.
Mọi người đều khuyến cáo phải tiến công vào các đơn vị quân đội chính
quy của Việt Nam trên một địa hình rộng lớn. Mặc dầu cuộc họp kết thúc
mà không đưa ra bất cứ quyết định cụ thể nào nhưng nó đã cho thấy hình
hài của một kế hoạch chiến tranh có thể xảy ra của Trung Quốc nhằm vào
Hà Nội và có thể nó là những bằng chứng đầu tiên có liên quan đến những
hoạt động quân sự của Trung Quốc trên biên giới phía bắc của Việt Nam
nhằm tạo áp lực lên thái độ được coi là hiếu chiến của Việt Nam tại khu
vực Đông Nam Á.
Tuy nhiên, một chiến
dịch quân sự quy mô lớn có thể làm xấu đi hình ảnh của Trung Quốc trên
trường quốc tế trong khu vực lẫn thế giới. Họ Đặng đã lập kế hoạch thăm
chính thức Thái Lan, Mã Lai và Sinh-ga-po vào đầu tháng 11 năm 1978 nhằm
dò xét và tìm sự hậu thuẫn của các nước này đối với chính sách của Trung
Quốc lên Việt Nam. Trong chuyến thăm viếng, Đặng đã thuyết phục các nước
chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực chống lại sự xâm lược của Việt
Nam nếu nước này tấn công Campuchia. Trong nước, các phương tiện truyền
thông đều đăng xã luận và bình luận về việc trừng phạt sự xâm lăng của
Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc và cảnh báo về một sự trả đũa có thể
xảy ra.
Ngày 23 tháng 11 năm
1978, Bộ Tổng Tham Mưu Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp khác. Tại
đây một kịch bản mới về chiến tranh đã được bàn bạc kỹ lưỡng. Sau khi
cân nhắc các khuyến cáo trước đó, Bộ Tổng Tham Mưu đã quyết định mở rộng
quy mô và thời gian của chiến dịch. Các kế hoạch đã nhằm vào các vị trí
quân sự chính của Việt Nam và các thành phố bên kia biên giới của Vân
Nam và Quảng Tây như các mục tiêu cần tấn công, ngăn chặn nhằm làm nhụt
ý chí xâm lược của Việt Nam. Có một số ý kiến cho rằng các chiến dịch
như thế không đủ rộng lớn vì
mới chỉ đến các vùng hẻo lánh và không đủ sức răn đe tức thời Hà Nội.
Tuy nhiên cuối cùng không có sự phản đối vì họ cho rằng ban lãnh đạo
Trung ương đã cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề. Cuộc họp chỉ định hai quân khu
Quảng Châu và Côn Minh sẽ thực hiện chiến dịch này. Ngoài ra cuộc họp
cũng khuyến cáo về việc chuyển giao một lực lượng dự bị chiến lược QGPND
bao gồm 4 quân đoàn và 1 sư đoàn lấy từ quân khu Vũ Hán và Thành Đô để
củng cố cho mặt trận Quảng Tây và Vân Nam.
Ngày 7 tháng 12 năm 1978, Quân ủy
Trung ương Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp, kéo dài khoảng 4 đến 5
giờ và quyết định phát động một cuộc chiến tranh hạn chế trên tuyến
biên giới phía nam Trung Quốc để “giáng trả” Việt Nam. Ngày kế tiếp là
việc chỉ thị cho hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh tiến hành chiến dịch
quân sự này với các đơn vị đã sẵn sàng chiến đấu từ ngày 10 tháng Giêng
năm 1979. Chỉ thị này nêu rõ cuộc chiến tranh được hạn chế nghiêm ngặt
trong vòng bán kính 50km từ đường biên giới và kéo dài trong 2 tuần.
Binh pháp truyền thống của QGPND đã được nhấn mạnh đó là việc dùng hai
đội quân nhằm “Tập trung biển người để bao vây quân địch từ hai bên sườn
nhằm tiêu diệt từng bộ phận quân địch bằng những trận đánh hủy diệt theo
phương thức đánh nhanh rút gọn”. Tuy thời điểm cho mệnh lệnh này được
hiểu là Trung Quốc phản ứng lại với sự xâm lăng Campuchia sắp xảy ra của
Việt Nam, nhưng bằng cách dựng lên một chiến dịch quân sự lớn thậm chí
trước khi quân đội Việt Nam vượt sông Mê-kông cũng đã thể hiện sự giận
dữ từ nhiều năm do thái độ vô ơn của Việt Nam gây nên.
Đặng Tiểu Bình ra quyết định
Mặc dầu cỗ máy chiến tranh của Trung
Quốc đã được khởi động từ đầu tháng 12 năm 1978, nhưng ngày tấn công
chính xác vẫn chưa được ấn định. Những nghiên cứu ban đầu đã suy diễn
rằng quyết định tấn công của Bắc Kinh đã xuất hiện từ Hội Nghị Công
Tác
Trung Ương vào khoảng 10 tháng 11 đến 15 tháng 12 năm 1978. Thực
tế, cuộc họp này đã kêu gọi xem xét một nghị trình cải cách kinh
tế trong vòng 10 năm, chấm dứt việc đề cập đến những di sản của Cách
Mạng
Văn Hóa. Đến nay vẫn chưa được biết là đã có cuộc thảo luận quan trọng
về tình hình Đông Dương hay không. Tuy thế, cuộc họp đã củng cố vị trí
của họ Đặng trong ban lãnh đạo, cho phép ông ta, dù chỉ là một trong
năm phó
chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhưng kiêm chức Tổng
tham mưu trưởng quân đội, trở thành người ra quyết định về vấn đề Việt
Nam.
Trong cuộc họp Quân ủy Trung ương vào
trước đầu năm Dương lịch, họ Đặng đã chính thức đề xuất một cuộc chiến
tranh trừng phạt Việt Nam. Tất cả những người tham gia cuộc họp bao gồm
cả chủ tịch ĐCSTQ Hoa Quốc Phong, theo như báo chí đã đưa tin,
cũng ủng hộ đề xuất này. Cũng tại cuộc họp này Đặng đã chỉ định Hứa Thế
Hữu (Xu Shiyou) làm chỉ huy chiến dịch ở đông Quảng Tây và Dương Đắc
Chí (Yang Dezhi), tư lệnh quân khu Vũ Hán, chỉ huy ở miền tây Vân Nam,
không dùng Vương Tất Thành (Wang Bicheng), tư lệnh quân khu Côn Minh. Để
đáp ứng với việc thay đổi các cấp chỉ huy chiến trường, Đặng đã cử hai
phó tổng tham mưu trưởng của ông ta đến Côn Minh để giám sát việc chuyển
giao quyền lực và chuẩn bị chiến tranh. Không có một bộ tư lệnh trung
tâm, hai quân khu sẽ tiến hành chiến đấu một cách độc lập không có phối
hợp hoặc hiệp đồng.
Cuộc họp cũng nhắc lại rằng cuộc tấn công phải được tiến hành chớp
nhoáng và tất cả các đơn vị phải rút về sau khi đạt được mục tiêu của
chiến dịch.
Các tài liệu hiện nay đều đưa ra giả
thiết là có một vài lãnh tụ Trung Quốc đã phản đối việc tấn công Việt
Nam, nhưng các tài liệu đó đã không thống nhất được là những lãnh tụ nào
đã phản đối và phản đối theo hình thức nào. Khi Đặng đã là kiến trúc sư
trưởng của kịch bản thì khó có ai dám thách thức được quyết định của ông
ta, một con người đầy uy tín cũng như thâm niên trong đảng. Kiểm soát
được Bộ Tổng Tham Mưu Đặng đã có được các phương tiện thuận lợi nhất để
thúc cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc vận hành trước khi ban lãnh đạo
Trung ương đưa ra một quyết định chính thức. Hành động giống như Mao,
Đặng đã tham khảo ý kiến của các đồng sự tin cậy trong chỗ riêng tư
trước khi ra quyết định và sau đó chỉ thực hiện quyết định khi đã có sự
tán thành của Bộ Chính Trị. Một trong những đồng sự gần gũi nhất của
Đặng là Trần Vân (Chen Yun), một phó chủ tịch khác của ĐCSTQ và
cán bộ trung kiên của đảng, đã có những đóng góp quan trọng cho quyết
định tấn công Việt Nam.
Có một số quan tâm hàng đầu trong Bộ
Chính Trị: liệu Liên Xô có phản ứng bằng cách tấn công từ phía bắc khiến
quân đội Trung Quốc phải chiến đấu trên hai mặt trận; liệu Liên Xô có
nhân cơ hội để trục lợi từ tình hình chăng? Thế giới sẽ phản ứng lại thế nào?
Và liệu chiến tranh với Việt Nam có làm trở ngại đến nghị trình mới của
Trung Quốc là hiện đại hóa nền kinh tế? Mối lo lớn nhất là phản ứng của
Liên Xô. Theo các phân tích tình báo của Bộ Tổng Tham Mưu, Matx-cơ-va có
thể sẽ tung ra 3 chiến dịch quân sự nhằm đáp trả cuộc xâm lăng của Trung
Quốc và Việt Nam: một cuộc đột kích quân sự lớn bao gồm cả tấn công trực
diện vào thủ đô Bắc Kinh; xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số có vũ
trang đang lưu vong ở Liên Xô quay về tấn công vào các tiền đồn Trung
Quốc ở Tân Cương (Xinjiang) và Nội Mông (Inner Mongolia); hoặc sử dụng
các cuộc giao tranh nhỏ gây ra sự căng thẳng biên giới giữa hai nước.
Tuy nhiên, khi mà Liên Xô chưa có lực lượng đầy đủ để tiến hành bất cứ
các hoạt động quân sự lớn nào chống lại Trung Quốc một cách ngay lập tức
thì các lãnh tụ đảng, đặc biệt là Đặng, đã tin rằng một cuộc chiến tranh
vào Việt Nam chớp nhoáng, có giới hạn, và mang tính tự vệ sẽ không kích
thích đủ sự can thiệp của Matx-cơ-va hay một
làn
sóng phản đối quốc tế nào. Hai cuộc
xung đột biên giới trước đó với Ấn Độ (1962) và Liên Xô (1969) đã minh
chứng cho lập luận này. Ý định về một cuộc chiến tranh nhanh gọn cũng đã
thuyết phục được một số phản đối trong nội bộ và biện hộ cho sự lựa chọn
chính sách của Bắc Kinh. Tuy nhiên các lãnh tụ Trung Quốc cũng không dám
lơ là cảnh giác bằng cách đồng thời ra lệnh cho các đơn vị quân đội ở
các quân khu miền bắc và tây bắc luôn ở vào tư thế sẵn sàng chiến đấu
trong trường hợp Liên Xô tấn công.
Cuộc họp vào ngày lễ Giáng Sinh đã quyết định
hoãn lại thời điểm tấn công Việt Nam. Các nhà phân tích phương Tây đã cho
rằng lý do Bắc Kinh vẫn còn đắn đo là vì lo sợ phản ứng quốc tế. Chuyến
công du nằm trong kế hoạch của Đặng đến Mỹ và Nhật đã được thu xếp để
“thăm dò phản ứng dư luận”. Tuy nhiên những đồng sự thân cận
của Đặng đã cho
rằng ngay cả những sự chống đối của quốc tế, nếu có, cũng không ngăn cản
được ông ta vì Đặng chưa bao giờ nhân nhượng bất cứ điều gì một khi ông ta đã
quyết. Các lãnh tụ Trung Quốc cũng rất lo lắng vì không biết lực lượng
của họ có đủ thời gian để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc chiến tranh hay
không. Binh lính Trung Quốc chưa tham gia vào bất cứ cuộc chiến tranh
lâu dài nào, trong khi nhiều người trong quân đội không thể hiểu được vì
sao cuộc chiến sắp xảy ra lại nhằm vào một đồng minh truyền thống và là
một quốc gia láng giềng nhỏ bé. Không lâu sau cuộc họp lễ Giáng Sinh,
Đặng đã cử Dương Dũng (Yang Yong), tổng tham mưu phó, và Trương Chấn
(Zhang Zhen), chủ nhiệm tổng cục hậu cần lần lượt đến Vân Nam và Quảng
Tây để thị sát điều kiện chiến đấu của bộ đội. Lo sợ binh lính chưa sẵn
sàng chiến đấu, Trương đã lập tức đề nghị hoãn cuộc chiến lại một tháng.
Sau này ông ta có kể lại rằng Quân ủy Trung ương đã đồng ý để lùi thời
gian tấn công lại đến giữa tháng Hai. Dương đã làm một báo cáo trong đó
có những đề xuất về kế hoạch cho chiến tranh, để trình bày ngày 22 tháng
Giêng tại tư gia của họ Đặng trước sự hiện diện của các lãnh tụ chủ chốt
của Quân ủy Trung ương. Có thể trong cuộc họp này các lãnh tụ Trung Quốc
đã tái khẳng định quyết định tấn công của họ và định ra một khung thời
gian cho “ngày N”. Ngày tiếp theo, Bộ Tổng Tham Mưu lại tổ chức một cuộc
họp khác, tại đây kế hoạch chiến tranh được thông qua lần cuối và quân
đội được lệnh sẵn sàng khởi sự vào ngày 12 tháng Hai. Để đề phòng tình
hình có thể vượt ngoài tầm kiểm soát, ban lãnh đạo Trung ương đã yêu cầu
Hứa Thế Hữu phải dừng ngay các chiến dịch quân sự và rút lui ngay khi
quân đội của ông ta chiếm được Lạng Sơn và Cao Bằng là hai thành phố
chính
của Việt Nam nằm gần biên giới.
Ngày 11 tháng Hai 1979, hai ngày sau
khi Đặng trở về Bắc Kinh từ chuyến đi Mỹ và Nhật, cuộc họp Bộ Chính Trị
mở rộng đã được triệu tập. Đặng trình bày rõ ràng lý do căn bản để đánh
Việt Nam, và sau đó mệnh lệnh phát động cuộc tấn công Việt Nam vào ngày
17 tháng Hai năm 1979 đã được gửi tới các tư lệnh quân khu Quảng Tây và
Vân Nam. Đây là ngày họp mà các thành phần không phải chủ chốt được tham
dự lâu trong đó một số lý lẽ được đưa đẩy rằng thời điểm tấn công có thể
liên quan mật thiết đến yếu tố thời tiết: vào mùa mưa, thường từ tháng
Tư trở đi, nó có thể bất lợi cho việc tiến hành các chiến dịch quân sự,
hoặc nếu tấn công sớm quá thì quân đội Liên Xô có thể dễ dàng vượt qua
những con sông dọc biên giới Trung-Xô khi đó đang còn đóng băng. Đặng và
các lãnh tụ khác đã tính toán một cách cẩn thận tất cả các khả năng có
thể có một khi quân đội của họ đã vượt qua biên giới Việt Nam. Họ đã
giới hạn phạm vi, thời gian, và không gian cho một cuộc chiến tranh đã
được gắn cái tên là “cuộc phản công tự vệ” để cố gắng giảm thiểu những
phản ứng tiêu cực từ trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, khi chiến tranh
đã nổ ra, Đặng vẫn theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến xảy ra, vẫn ban hành
những chỉ thị và mệnh lệnh đặc biệt (điều này khác hẳn với phong cách
lãnh tụ của Mao).
Gerald Segal (tác giả cuốn Trung
Hoa tự vệ-ND) cho rằng động cơ đầu tiên của Trung Quốc khi tấn công
Việt Nam là nhằm ngăn chặn tham vọng và ý đồ xâm lăng Đông Nam Á cùng
với mối đe dọa của Việt Nam đang nhằm vào an ninh của Trung Quốc, lật
tẩy sự nhu nhược của Liên Xô. Nhưng tính toán chính trị sai lầm đã cho
thấy rằng các lãnh tụ Trung Quốc đã đặt chính họ vào thế khó khăn khi
xây dựng một chiến lược trừng phạt Việt Nam mà không bao giờ có cơ hội
thành công. Ý đồ đã
được tuyên bố của Trung Quốc là “dạy cho Việt Nam bài học” đã biến mục
tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một “hành động trả thù”. Từ
đầu, Bắc Kinh đã giới hạn mục đích và chỉ đạo để cuộc chiến không vượt
quá giới hạn của một cuộc xung đột biên giới tay đôi. Bộ chỉ huy quân sự
ở Quảng Châu và Côn Minh được yêu cầu phải xây dựng các chiến lược tác
chiến sao cho không chỉ hoàn thành mục tiêu là trừng phạt mà còn phải
giới hạn chiến sự về thời gian lẫn không gian.
Câu hỏi thực tế cho những người lập kế
hoạch quân sự Trung Quốc địa phương là đến chừng mực nào thì mục tiêu
dạy cho Việt Nam bài học mới đạt được và đo lường được. Phương thức tác
chiến thông thường của QGPND luôn luôn tạo nên một áp lực đặc biệt trong
vấn đề tiêu diệt sinh lực địch (yousheng
liliang). Một trong những
truyền thống tác chiến của QGPND là chiến thuật biển người để đảm bảo
thắng lợi. Khoảng giữa tháng Giêng 1979 hơn một phần tư quân đội thường
trực của QGPND đã được đưa đến biên giới Trung-Việt, tổng cộng khoảng
hơn 320.000. Theo kinh nghiệm chiến đấu của mình và dựa trên các bài bản
chiến thuật của QGPND trong quá khứ, Hứa Thế Hữu đã trả lời những yêu
cầu chiến tranh của ban lãnh đạo Trung ương bằng một chiến thuật gọi là niudao
shaji (ngưu đao sát kê - dùng dao mổ trâu để
cắt tiết con gà).
Nguyên tắc chủ đạo khi giao chiến gồm ba điểm: tập trung tấn công vào vị
trí quan trọng nhưng không phải điểm mạnh của quân địch; sử dụng lực
lượng và hỏa lực áp đảo (tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự
của địch tại những những điểm mấu chốt; các đơn vị xung kích phải hết
sức nhanh chóng thọc sâu và tấn công tất cả các con đường dẫn đến sào
huyệt kẻ thù. Theo cách này Hứa tin rằng quân đội của ông ta có thể cắt
nhỏ hệ thống phòng thủ của Việt Nam thành từng mảnh, đập tan mọi sự
kháng cự, và sau đó tiêu diệt hết quân địch.
Theo tinh thần và chiến thuật đó, các
quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã xây dựng những kế hoạch tác chiến
riêng của họ trong đó nhấn mạnh đến việc tiêu diệt các sư đoàn quân
chính quy của Việt Nam dọc biên giới Trung-Việt. Chiến tranh có thể chia
thành hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, hai mũi nhọn tấn công và Cao
Bằng và Lào Cai nhằm bao vây và tiêu diệt các sư đoàn của quân đội Việt
Nam tại đó đồng thời phát động các cuộc tấn công ở Đồng Đăng để ly gián
Hà Nội về mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc. Sau đó lực lượng QGPND ở
Quảng Tây sẽ tập trung tấn công vào Lạng Sơn trong khi các cánh quân bạn
ở Vân Nam sẽ giao chiến với sư đoàn quân Việt Nam ở Sa Pa. Tổng cộng 8
quân đoàn QGPND sẽ đồng thời tham gia tác chiến, một quân đoàn được giữ
lại làm lực lượng trừ bị.
Bắc Kinh cũng tính đến khả năng tham
chiến của không quân. Không quân của QGPND sẽ cam kết dùng 18 trung đoàn
và 6 phi đội tăng phái để chuẩn bị hỗ trợ cho các chiến dịch mặt đất. Để
tránh leo thang xung đột, Quân ủy Trung ương ra lệnh không lực chỉ trợ
chiến bên trong lãnh thổ Trung Quốc, trong khi đó lại ra lệnh các đơn vị
không quân sẵn sàng yểm hộ cho các chiến dịch dưới đất “nếu cần”, mặc
dầu không đưa ra định nghĩa chính thức tình hình thế nào và bao giờ được
coi là “cần”. Mệnh lệnh đã quy định rằng bất cứ chiến dịch nào bên ngoài
không phận Trung Quốc đều phải được phép của Quân ủy Trung ương. Dựa trên
những nguyên tắc này, một chiến lược yêu cầu các đơn vị không quân sẵn
sàng chiến đấu để bảo vệ vùng trời và yểm trợ cho mặt đất. Khi chiến
dịch dưới đất bắt đầu, cùng lúc không quân được lệnh xuất kích với tần
suất cao trên không phận biên giới nhằm ngăn chặn không quân Việt Nam
tham chiến.
Nhân viên kiểm soát và điều hành hàng không cũng như các nhóm chỉ huy
tác chiến đã được cử đến sở chỉ huy tiền phương của hai quân khu ở Quảng
Châu và Côn Minh, các chỉ huy của các đơn vị không quân và một vài đơn
vị phục vụ mặt đất cũng sẽ tham gia vào nhiệm vụ tấn công chính
Từ cuối tháng 12 năm
1978 đến hết tháng Giêng năm 1979 binh lính Trung Quốc bị cuốn hút vào
các hoạt động huấn luyện chiến đấu và diễn tập. Vì trước đó hầu hết quân
đội Trung Quốc chỉ tham gia vào sản xuất nông nghiệp trong một thời gian
dài, những nỗ lực điên rồ vào giờ phút cận kề như vậy, dù là có ích,
chắc chắn cũng không thể đủ được. Huấn luyện quân sự được tập trung
nhiều vào những kỹ năng cơ bản của người lính như bắn, ném lựu đạn. Chỉ
một vài đơn vị có khả năng tiến hành các cuộc huấn luyện có ý nghĩa về
chiến thuật hoặc diễn tập cấp trung đoàn hoặc sư đoàn. Nhiều sĩ quan báo
cáo rằng họ không thể đảm bảo các binh sĩ của họ có khả năng tác chiến.
Việc các đơn vị bộ đội của QGPND chỉ được huấn luyện một cách sơ sài và
không đầy đủ cho một cuộc chiến tranh hiện đại nhằm vào quân đội Việt
Nam, những người đã có 25 năm kinh nghiệm chiến đấu trước khi có cuộc
chiến tranh này dường như không được giới lãnh đạo Trung Quốc quan tâm.
Mặc dầu nhu cầu huấn luyện là cấp
bách, nhưng QGPND vẫn tiếp tục với truyền thống quân sự của mình là sử
dụng học thuyết chính trị để nâng cao tinh thần và để cải thiện hiệu
năng chiến đấu. Cỗ máy tuyên truyền đã được thiết lập để thuyết phục
binh lính rằng quyết định của ban lãnh đạo Trung ương là cần thiết và
đúng đắn. Việt Nam đã thay đổi một cách xấu xa trở thành “Cuba ở phương
đông”, tên “côn đồ ở châu Á” và “chó săn của Liên Xô”, đang cố theo
đuổi tham vọng bành trướng. Chủ thuyết chính trị của Mác, mặc dầu được
cả hai nước suy tụng cũng không ngăn cản được việc Trung Quốc phát động
một cuộc “chiến tranh tự vệ” chống lại quốc gia làng giềng nhỏ bé một
khi quyền lợi dân tộc tối cao bị đe dọa. Các bài giảng, các cuộc họp quy
tội Việt Nam với các bằng chứng, hiện vật, cũng như tranh ảnh được trưng
bày nhằm gia tăng chủ nghĩa yêu nước và lòng căm thù kẻ địch. Ít nhất
người ta cũng đã đưa ra một cách giải thích nghe có vẻ có lý cho những
người lính bình thường, ít học về lý do tại sao lại cần phát động cuộc
tấn công quân sự vào Việt Nam, một đất nước từ lâu đã là anh em, đồng
chí.
Chiến dịch quân sự
Cuộc tấn công được gọi là tự vệ của
QGPND được tiến hành trong 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu từ 17 đến 25 tháng
Hai. Trong thời gian đó quân đội Trung Quốc theo dự tính sẽ đập tan
tuyến phòng ngự đầu tiên của Việt Nam và đánh chiếm các thị xã Cao Bằng
và Lào Cai, các thị trấn biên giới quan trọng là Cam Đường và Đồng Đăng,
cửa ngõ ra vào Lạng Sơn. Giai đoạn hai từ 26 tháng Hai đến 5 tháng Ba là
chiến dịch đánh Lạng Sơn và các vùng phụ cận phía tây, vùng Tây Bắc Sa
Pa, và Phong Thổ. Giai đoạn cuối là nỗ lực bổ sung để dẹp yên các lực
lượng địch còn sót lại trong quá trình phá hủy hệ thống quân sự tại khu
vực biên giới với Trung Quốc trước khi hoàn thành việc rút quân vào ngày
16 tháng Ba. Các chiến dịch quân sự đã được thực hiện bên trong lãnh thổ
Việt Nam dọc theo biên giới kéo dài đến 900 km từ đông sang tây. Trong
30 ngày,
quân Trung Quốc đã tiến hành những trận đánh đẫm máu nhất kể từ chiến
tranh Triều Tiên.
Cuộc tấn công của Trung Quốc đã khiến
Hà Nội bất ngờ. Tình báo Việt Nam dường như thất bại trong việc giúp ban
lãnh đạo Hà Nội chuẩn bị trước cho cuộc xâm lược của Trung Quốc. Mặc dầu
màn giễu võ dương oai (saber-rattling) của Bắc Kinh đã có từ trước đó
vài tháng, nhưng lãnh đạo Việt Nam cũng không thể tin nổi “một nước Xã
hội Chủ nghĩa
anh em” lại có thể đi xâm lược mình. Khi một số lượng lớn quân Trung
Quốc đã vượt qua biên giới, thủ tướng Phạm Văn Đồng và tổng tham mưu
trưởng QĐND Việt Nam Văn Tiến Dũng còn đang ở Phnom Pênh. Mức độ dàn trải
của chiến dịch của QGPND cũng đã đánh lừa được Bộ Tư Lệnh tối cao của
quân đội Việt Nam trong việc nhận dạng các mũi nhọn và mục tiêu thực của
cuộc tấn công. Trong lúc yêu cầu cấp bách Matx-cơ-va thực thi nghĩa vụ
theo hiệp ước hữu nghị và hợp tác mới ký giữa hai nước, phản ứng tức
thời của Hà Nội là “để đáp trả ngay lập tức, sử dụng bất cứ sự kháng cự
nào nhằm làm giảm ưu thế của quân Trung Quốc” Các trận đánh quan trọng
đã xảy ra xung quanh các thị trấn biên giới như Sóc Giàng, Đồng Hệ, Đồng
Đăng, Cao Bằng, Lào Cai và Cam Đường, qua việc tranh giành từng ngọn đồi
từng căn hầm. Cả hai bên đều thể hiện ý chí quyết liệt tiến công và phản
công mặc cho thương vong nặng nề. Vào ngày 20 tháng Hai, cố vấn Liên Xô
đã kết luận rằng lực lượng phòng thủ dân quân tự vệ của Việt Nam sẽ
không thể ngăn chặn được bước tiến của quân Trung Quốc. Đã có một khuyến
cáo thiết lập cầu hàng không để chuyên chở ngay lập tức 30 000 quân từ
Campuchia về để tăng cường cho tuyến phòng thủ Lạng Sơn và Hà Nội. Theo
tài liệu của Xô Viết các cố vấn của họ đã có những nỗ lực phi thường để
tìm và thuyết phục các lãnh tụ Việt Nam có những biện pháp đối phó cấp
bách với tình hình. Không hiểu mục tiêu chiến tranh của Bắc Kinh, Hà
Nội đã có những phản ứng hết sức chậm chạp đối với những diễn biến nhanh
chóng trên chiến trường.
Mặc dầu QGPND đã chọc thủng phòng
tuyến ngay từ đầu nhưng địa hình, đặc biệt là thiếu đường sá, cộng với
sự kháng cự quyết liệt của quân chính quy, các đơn vị biên phòng, bộ đội
địa phương Việt Nam nên quân Trung Quốc đã bị rơi vào thế bị động. Chính
tình trạng này đã bộc lộ những điểm yếu và thiếu khả năng của quân Trung
Quốc trong chỉ huy tác chiến, liên lạc và hậu cần bắt nguồn từ truyền
thống binh pháp của QGPND. Trong một vài trường hợp, các chỉ huy mặt
trận Trung Quốc đã thúc giục sự yểm trợ của không quân khi các giao
tranh dưới mặt đất gặp sự kháng cự quyết liệt của quân đội Việt Nam.
Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc đã không cho phép, thay vào đó
là mệnh lệnh cho hải dựa vào sự hỗ trợ hỏa lực của pháo binh. QGPND cùng
với những tướng lĩnh của nó được sinh trong một thể chế truyền thống,
chỉ quen với tiền pháo hậu xung và biển người. Khẩu hiệu “Tinh thần của
lưỡi lê”
(The spirit of the bayonet) lại tiếp tục được đề cao.
Kết quả cho thấy cuộc chiến tranh Việt-Trung năm 1979 là một cuộc chiến
tranh đẫm máu và tàn bạo.
Thành công của cuộc chiến tranh trừng
phạt của QGPND phụ thuộc vào các chiến thuật xâm nhập, tấn công sườn và
bao vây Cao Bằng. Tuy nhiên, hai sư đoàn đột kích thọc sâu đã không hoàn
thành được dự định trong vòng 24 giờ. Địa hình núi non, với những cánh
rừng rậm rạp lại không có đường và bị bộ đội địa phương và dân quân du
kích Việt Nam phục kích đã khiến cho quân Trung Quốc gặp khó khăn không
ngờ. Vì sự chậm trễ này mà Hứa Thế Hữu đã quyết định quay lại lập tức
tấn công Cao Bằng, mặc dầu một quân đoàn của phó tư lệnh Ngô Trung (Wu Zhong)
đã áp sát thành phố từ phía đông và phía nam. Tuy nhiên, do một cuộc
điều tra về lý lịch chính trị trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa đang tiến
hành, Vũ đã bị cách chức chỉ huy vào khoảng thời gian giữa chiến dịch.
Qua đường dây nói, ngày 20 tháng 2, 1979, Hứa đã khẳng định lại việc bổ
nhiệm trước đó rằng chiến dịch vẫn sẽ tiếp tục dưới sự chỉ huy của một
cấp phó khác của ông thay vì dưới quyền chỉ huy của họ Ngô, thậm chí sau
đó và quân đoàn ông ta vẫn chiến đấu theo đường của họ để tới Cao Bằng
từ phía bắc. Ba ngày sau khi đến nơi, Hứa và các sĩ quan tham mưu của
ông ta vẫn không nhận ra rằng chỉ có một số rất ít bộ đội Việt Nam đã
chiến đấu để bảo vệ để cơ quan đầu não và chính quyền tỉnh rút lui. Sau
đó ông đã ra lệnh tấn công vào thành phố. Chỉ sau vài giờ chiến đấu,
quân Trung Quốc đã chiếm được thành phố.
Việc chậm trễ tiếp quản
Cao Bằng đã làm đảo lộn kế hoạch ban đầu của QGPND. Kế hoạch này được
thiết kế nhằm tìm kiếm những trận giao chiến nhanh chóng và quyết định.
Quân đội Việt Nam phân tán thành những toán nhỏ và các đơn vị cỡ trung
đội, ẩn trên núi non, rừng rậm và hang động, và tiếp tục phát động các
cuộc phản công. Sự kháng cự không hề nao núng của bộ đội và dân quân
Việt Nam buộc Trung Quốc phải thay đổi chiến thuật hoạt động của họ bằng
cách chia quân thành những đơn vị cỡ tiểu đoàn để tham gia vào các hoạt
động tìm kiếm và tiêu diệt tại Cao Bằng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh và các
khu vực Quảng Hòa. Các chiến thuật mới bao gồm khóa đường, lùng sục các
ngọn đồi, tìm kiếm những hang động, săm soi mặt đất và cho nổ các hầm
hào. Giao chiến dữ dội liên tục khiến hàng trăm chiến sĩ Việt Nam và dân
thường bị giết. Cho đến ngày 06 Tháng Ba, theo các tài liệu tiếng Việt
thu được đã cho thấy, thì dường như sư đoàn QĐND Việt Nam có nhiệm vụ bảo
vệ Cao Bằng vẫn chưa bị tiêu diệt. Không tính đến việc chưa hoàn toàn
kiểm soát được Cao Bằng, những tổn thất nặng nề của QGPND trong giai
đoạn đầu đã cho thấy rằng chiến dịch gặt hái rất ít thành công.
Bắc Kinh ngày càng trở
nên lo lắng về tiến triển của cuộc chiến nên hối thúc tư lệnh chiến
trường ở Quảng Tây khởi sự càng nhanh càng tốt trận đánh quyết định vào
Lạng Sơn, một cửa ngõ làm lá chắn cho Hà Nội từ phía bắc. Dường như
không hài lòng với những gì đã xảy ra tại Cao Bằng, họ Hứa đã tổ chức
lại kế hoạch tác chiến và kêu gọi binh lính tăng thêm sức chiến đấu
trong trận đánh Lạng Sơn. Sáu sư đoàn quân Trung Quốc tham gia vào trận
đánh quyết định này, bắt đầu vào ngày 27 tháng hai, được mở màn bằng một
trận pháo kích dữ dội. Sau các trận chiến ác liệt, quân Trung Quốc lần
đầu tiên kiểm soát chắc chắn được các điểm cao xung quanh và sau đó đánh
chiếm phần phía bắc của thành phố vào ngày 02 Tháng Ba, ngày mà theo
lịch trình sẽ ngưng các hoạt động quân sự. Do bộ máy tuyên truyền của Hà
Nội không thừa nhận thất bại của họ ở Lạng Sơn, Hứa đã quyết định tiếp
tục đánh, thúc quân của ông ta vượt sông Kỳ Cùng, là ranh giới phân chia
thành phố Lạng Sơn thành các huyện phía Bắc và phía Nam, để đánh chiếm
toàn bộ thành phố, và sau đó phát triển xa về phía nam để đe dọa Hà Nội.
Mặc dù quyết định của Hứa đã được Bắc Kinh thông qua, nhưng nó đã bị hủy
bỏ vào ngày 05 tháng 3, ngay sau khi quân đội Trung Quốc chiếm phần phía
nam của Lạng Sơn, với lý do được tuyên bố là họ đã đạt được các mục tiêu
chiến tranh ban đầu.
Đánh giá cuộc chiến tranh của Trung Quốc với Việt Nam
Cuộc chiến Việt-Trung
năm 1979 là một hoạt động quân sự lớn nhất mà QGPND đã đề xướng kể từ
sau chiến tranh Triều Tiên. Dựa trên chiến lược của Mao là “trong mỗi
trận đánh, tập trung một lực lượng tuyệt đối vượt trội so với kẻ thù”,
Bắc Kinh đã triển khai chín quân đoàn chính quy cùng với các đơn vị đặc
biệt và địa phương, tạo nên một đội quân hơn 300.000, tiến hành cuộc
chiến tranh trừng phạt Việt Nam trong một tháng. Các đơn vị không quân
chiến đấu đã xuất kích 8.500 phi vụ tuần tra vùng trời, trong khi đó các
đơn vị vận tải và trực thăng đã xuất kích 228 lần làm nhiệm vụ không
vận; Hải quân cử một lực lượng đặc nhiệm (bao gồm hai tàu khu trục tên
lửa và ba hải đội tàu trang bị tên lửa và ngư lôi tấn công nhanh) ra đảo
Hoàng Sa (Xisha) nhằm đối phó với sự can thiệp của hải quân Liên Xô nếu
có. Ngoài ra, Các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam còn huy động hàng chục ngàn
dân quân và dân công để hỗ trợ các chiến dịch quân sự. Trong thời gian
chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm ba thị xã của Việt Nam và hơn một
chục thành phố nhỏ và thị trấn dọc biên giới, họ tuyên bố đã giết và làm
bị thương 57.000 bộ đội Việt Nam, đánh thiệt hại nặng bốn sư đoàn quân
chính quy và mười trung đoàn trực thuộc khác, cùng với việc chiếm một
lượng lớn vũ khí. Bắc Kinh khẳng định rằng cuộc chiến chống Việt Nam
1979 đã kết thúc với thắng lợi thuộc về Trung Quốc.
Tuy nhiên, hầu hết các
nghiên cứu ngày nay đều thừa nhận rằng quân Việt Nam “đã trên tay” quân
Trung Quốc trên chiến trường vì khả năng tác chiến yếu kém của QGPND và
thương vong quá nặng như đã được báo cáo chính thức. Hà Nội cho rằng chỉ
có dân quân và các lực lượng địa phương đã tham gia vào cuộc xung đột,
và không áp dụng một chiến thuật phòng thủ nào nhưng đã tấn công liên
tục chống lại quân xâm lược Trung Quốc. Họ chỉ chịu mất Lạng Sơn và một
số thành phố khác sau khi đã gây thương vong và thiệt hại nặng nề cho
quân Trung Quốc. Đài Hà Nội vào thời gian đó đã thông báo rằng Việt Nam
đã tiêu diệt và làm bị thương 42.000 quân Trung Quốc. Chỉ có một vài tài
liệu chính thức của Việt Nam có giá trị cho các nhà nghiên cứu khi tìm
hiểu về hiệu suất chiến đấu và thất bại của họ trong cuộc xung đột,
trong khi đó các thông tin được đăng tải bởi các cá nhân trên mạng khi
nói về con số tham gia thực tế và thương vong nặng nề của quân chính quy
Việt Nam thì trái ngược hoàn toàn. Mặc dù đánh giá lại cuộc chiến Việt
Trung năm 1979 mà chỉ dựa trên nguồn thông tin từ Trung Quốc là phiến
diện nhưng dầu sao điều này cũng có thể soi sáng một số vấn đề.
Một phương pháp đánh
giá cái được cái mất của Trung Quốc là tập trung vào thương vong. Lúc
đầu Bắc Kinh thừa nhận là có 20.000 binh sĩ Trung Quốc bị chết hoặc bị
thương trong cuộc xung đột biên giới với Việt Nam. Một xu hướng mang
tính học thuật hiện nay nghiêng về con số ước tính khoảng 25.000 QGPND
thiệt mạng trong khi làm nhiệm vụ và 37.000 người khác bị thương. Gần
đây có nguồn từ Trung Quốc đã phân loại thiệt hại của QGPND là 6.900
người chết và 15.000 người bị thương, tổng cộng thương vong là 21.900
thương vong trong một cuộc chiến với hơn 300.000 lính tham chiến. Trong
bất cứ trường hợp nào thì thương vong của Trung Quốc trong cuộc chiến
tranh ngắn như vậy là quá cao, điều đó cho thấy một trong những đặc tính
cố hữu trong chiến thuật và chiến dịch của QGPND là: sẵn sàng thí quân
cho chiến thắng. Lãnh đạo Trung Quốc xem xét thương vong là một tiêu chí
tương đối không quan trọng khi đánh giá thành công trong quân sự miễn
sao họ tin rằng tình hình chiến lược tổng thể nằm trong tầm kiểm soát
của họ.
Theo quan điểm của
Trung Quốc, cuộc chiến 1979 với Việt Nam là một biện pháp quân sự có
tính toán nhằm trả đũa chính sách thù nghịch với Trung Quốc và sự bành
trướng của Việt Nam tại Đông Nam Á cũng như tham vọng toàn cầu của Liên
Xô. Mặc dù chiến dịch này bộc lộ nhiều điểm yếu của QGPND trong học
thuyết quân sự hiện đại và chiến thuật, từ khởi đầu đến kết thúc, nhưng
Trung Quốc đã nhanh chóng nắm giữ thế chủ động và nhịp độ của cuộc xung
đột. Bắc Kinh đã gây bất ngờ cho Hà Nội không chỉ vì quy mô của chiến
dịch, mà còn ở việc rút lui nhanh chóng và không bị sa lầy ở Việt Nam.
Trung Quốc cũng đã thành công trong việc tiên liệu đúng phản ứng của
Liên Xô qua việc bất lực và thiếu thiện chí đối với Việt Nam. Sự trông
cậy vào Liên Xô trong hiệp ước hữu nghị về an ninh rõ ràng là một bài
học chua xót cho Việt Nam. Điều quan trọng hơn cả cuộc chiến Việt-Trung
1979 là khởi đầu cho một chính sách của Bắc Kinh làm “chảy máu” Việt Nam
trong nỗ lực ngăn chặn sự bành trướng của Hà Nội ra Đông Nam Á. Việc
Việt Nam rút quân khỏi Campuchia sau cuộc tấn công của Trung Quốc là
điều lãnh đạo của Trung Quốc mong mỏi nhưng họ không tiên liệu được rằng
cuộc triệt thoái đã không diễn ra ngay lập tức mặc cho Trung Quốc tấn
công Việt Nam ở phía bắc. Sau này Trung Quốc vẫn thi hành một lựa chọn
chiến lược là duy trì áp lực quân sự lên Việt Nam kể cả sự đe dọa liên
tục bằng lời nói về một cuộc tấn công thứ hai, và đôi khi tăng cường
pháo binh bắn phá và những trận đánh lớn ở biên giới trong hầu hết thập
kỷ 1980. Một nghiên cứu đầu thập niên 1990 đã kết luận: “Cuộc chiến
tranh đã đạt được thành công nhất định khi nó được xem như một chiến
thuật trong chiến lược chiến tranh tiêu hao kéo dài của Trung Quốc”.
Tương tự như thế, cuộc
chiến tranh Việt-Trung năm 1979 đã không để lại hậu quả đáng kể cho
Trung Quốc trên trường quốc tế mặc dù việc sử dụng vũ lực quân sự chống
lại Việt Nam cũng đã dấy lên những nghi ngờ của Indonesia và Malaysia,
những nước luôn cảnh giác với ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Sự
chiếm đóng của Việt Nam ở Campuchia đã đe dọa Thái Lan, khiến làn sóng
chống đối Việt Nam của các nước ASEAN tiếp tục gia tăng. Về mối quan hệ
Trung-Mỹ, cuộc xâm lược trừng phạt Việt Nam của Trung Quốc thể hiện thành công
phần nào khi khi Washington vừa công khai lên án cả cuộc xâm lược của
Việt Nam vào Campuchia và cả cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam
lại vừa chia sẻ mối quan tâm của Trung Quốc trong việc ngăn chặn ảnh
hưởng của Liên Xô tại Đông Nam Á. Ý chí sẵn sàng sử dụng vũ lực của Bắc
Kinh, bất chấp gánh chịu thương vong, đã biến Trung Quốc thành “một bức
tường ngăn chặn có giá trị” chủ nghĩa bành trướng Xô-Việt;
Washington vào thời điểm đó đã tiếp tục tìm kiếm một mối quan hệ chặt
chẽ với Trung Quốc để cân bằng cán cân với Liên Xô.
Giới lãnh đạo Việt Nam
dường như không bao giờ hiểu hết các động thái chiến lược và mục tiêu
chiến tranh của Trung Quốc, nhưng lại khăng khăng quan điểm cho rằng
cuộc xâm lược năm 1979 đã trở thành màn mở đầu của một kế hoạch xâm lược
dài hạn của Bắc Kinh vào chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam. Sau khi
Trung Quốc tuyên bố rút quân ngày 5 tháng 3, Hà Nội kêu gọi tổng động
viên toàn quốc cho chiến tranh, thúc đẩy việc xây dựng các vị trí phòng
thủ trong và xung quanh Hà Nội. Mặc dù đến cuối tháng 5, quân đội
Trung Quốc đã trở lại trạng thái bình thường, Việt Nam vẫn tiếp tục đề
phòng, duy trì số lượng lớn của quân đội dọc theo biên giới phía Bắc đối
diện với Trung Quốc vào thời điểm mà nền kinh tế của Việt Nam đang “ở
trong một tình trạng tồi tệ hơn lúc nào hết kể từ sau năm 1975”. Kết quả
là, Hà Nội phải dồn hết nỗ lực cho hai cuộc chiến tranh cùng một lúc,
một ở Campuchia và một ở biên giới phía Bắc, dẫn đến một chi phí rất lớn
của xã hội và kinh tế quốc gia, thu hút mọi nỗ lực của Hà Nội cần có cho
việc hiện đại hóa nền kinh tế, và, quan trọng hơn, làm giảm tham vọng về
địa chính trị của họ. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Việt Nam không hề nhận ra
tính chất nghiêm trọng của tình hình, tiếp tục phụ thuộc vào Liên bang
Xô viết cho đến khi nó sụp đổ vào năm 1991. Nếu có bất kỳ bài học mà
người Việt Nam cần rút ra từ cuộc chiến 1979 với Trung Quốc, thì đó là
Việt Nam, như một vị tướng Việt Nam sau này đã nhận xét, “phải học cách
sống chung với anh hàng xóm to lớn”.
Nhắc đến vấn đề tại sao
Trung Quốc phải nóng
lòng
khi sử dụng một lực lượng đã được chuẩn bị sẵn để chống lại Việt Nam vào
năm 1979, các phân tích ở đây cũng phù hợp với khẳng định của các nghiên
cứu khác là mối lo ngại
về tính toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền đã đóng vai trò đặc biệt quan
trọng đối với Bắc Kinh, đủ để thúc đẩy QGPND không chỉ trong trách nhiệm
bảo vệ mà còn phải tấn công nếu cần. Tranh chấp lãnh thổ và căng thẳng
biên giới có vẻ như là yếu tố kích thích để thúc đẩy Bắc Kinh xem xét
đến việc sử dụng vũ lực chống lại láng giềng phía nam của họ. Hơn thế
nữa, cùng với sự cuồng phát của chủ nghĩa dân tộc đầy cảm tính đã hướng
tới việc củng cố thêm tinh thần Đại Hán, theo đó cần phải có một sự
trừng phạt nào đó với một đồng minh cũ đã dám phản bội và quay lưng lại
với Trung Quốc. Tâm lý này cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc
mang lại một sự đồng thuận rộng rãi giữa các nhà lãnh đạo chính trị và
quân sự của Trung Quốc để hỗ trợ Đặng, kẻ đóng vai trò trung tâm trong
việc đưa ra các quyết định triển khai quân sự chống lại Việt Nam. Về các
vấn đề chủ quyền lãnh thổ, điều luôn luôn làm nảy sinh những phản ứng
thái quá của người Trung Quốc, quan điểm quân sự dường như đã trở thành
yếu tố kiên quyết trong các quyết định để khởi đầu cho mọi thù địch hiện
nay. Hội nghị cán bộ tháng Chín năm 1978, từ việc cung cấp các khuyến
cáo cho ban lãnh đạo trung ương để đối phó với tình hình quan hệ xấu đi
giữa Trung Quốc và Việt Nam, đã là điểm khởi đầu cho một hoạt động quân
sự lớn. Các phân tích quân sự về phản ứng có của Liên Xô cũng giúp làm
sáng tỏ những lo ngại về rủi ro nếu có. Tuy nhiên, quân đội đã phải hy
sinh chính họ cho tham vọng của ban lãnh đạo trung ương. Một khi quyết
định đã được đưa ra để thực hiện cuộc xâm lăng trừng phạt Việt Nam, các
tướng lĩnh đã hăm hở thực hiện nhiệm vụ của mình với sự thích thú triển
khai tối đa lực lượng.
Những bài học được rút tỉa
Bất kể thành công về
chiến lược của Trung Quốc như thế nào, một số vấn đề quan trọng vẫn
cần
được bàn lại. Ví dụ QGPND đã nhận thức thế nào về hiệu năng chiến đấu
của họ ở Việt Nam, bài học nào đã rút ra từ chiến dịch, kinh nghiệm
này
đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của QGPND về tương lai của họ đến mức nào.
Là
một phần trong truyền thống của QGPND, tất cả các binh sĩ tham gia vào
cuộc xung đột đã được lệnh phải viết tóm lược kinh nghiệm chiến đấu
của
họ. Nhìn lại cuộc chiến, bộ chỉ huy QGPND cũng thấy những mâu thuẫn
nội
tại. Trong khi tuyên bố rằng Trung Quốc đã giành chiến thắng, họ cũng
phải thừa nhận cái giá quá cao mà QGPND đã phải trả. Trong quan điểm của
bộ chỉ huy QGPND, ở một chừng mực nào đó cần có đánh giá phần nào
khách
quan về những yếu kém của QGPND. Tuy nhiên, họ lại e ngại khuynh hướng
đánh giá quá cao khả năng và hiệu năng chiến đấu của quân đội Việt
Nam.
Cùng chiều hướng đó, nên niềm tự hào dân tộc và định kiến văn hóa của
họ
chắc chắn sẽ ngăn cản họ đưa ra những kết luận thẳng thắn về kinh
nghiệm
của QGPND trong chiến tranh. Những kinh nghiệm đó có thể được tổng hợp
thành sáu chủ đề sau:
Một trong những châm
ngôn truyền thống của QGPND là “biết địch biết ta trăm trận trăm thắng”.
Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cho thấy QGPND quan tâm rất ít đến binh
pháp và chiến thuật của QĐND Việt Nam trước khi họ tấn công Việt Nam. Kết
quả là, quân đội Trung Quốc đánh giá thấp khả năng chiến đấu của các đối
thủ của mình. Có thể từ chỗ lo sợ vì đã tung hô quá nhiều danh tiếng của
quân đội Việt Nam, nên tài liệu quân đội QGPND đã kết luận rằng lực
lượng chính quy của kẻ địch thiếu kiên trì trong tiến công và phòng ngự
và có rất ít các chiến dịch hiệp đồng, nhưng lại thừa nhận rằng chiến
thuật kiểu du kích, công binh và dân quân tự vệ của Việt Nam đã thành
công đáng kinh ngạc trong việc kìm chân quân Trung Quốc giảm thế cân
bằng khi họ lo tìm kiếm những trận đánh quyết định với quân chính quy
của QĐND Việt Nam trong một cuộc chiến hạn chế. Một sĩ quan Mỹ khi tổng
kết kinh nghiệm của người Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, đã ghi nhận
rằng không thể “để xâm nhập, vòng sườn, hoặc bao vây” vị trí cố thủ của
quân đội Việt Nam “mà không bị thương vong rất nặng”. Chiến thuật của
QGPND, thúc thật nhiều bộ binh tấn công xáp lá cà vào vị trí đối phương
bất chấp tử vong cao, đã giải thích tại sao Trung Quốc dám khẳng định
rằng quân đội Việt Nam không có khả năng trong phòng thủ bảo vệ vị trí
của họ.
Những khó khăn bất ngờ
trong tác chiến đã khiến người Trung Quốc rút ra bài học thứ hai từ cuộc
xung đột liên quan đến tình báo và lập kế hoạch. Thiếu thốn thông tin từ
lâu về một đồng minh truyền thống đã là một thách thức lớn cho việc lập
kế hoạch chiến tranh và kế hoạch tác chiến của Trung Quốc. Các đánh giá
về địa lý và địa hình của miền Bắc Việt Nam của QGPND thường dựa trên
các bản đồ và thông tin địa lý đã lỗi thời, trong khi khả năng trinh sát
chiến trường lại bị hạn chế. Một trong những sai lầm lớn của quân đội
Trung Quốc là đánh giá sai số lượng lực lượng dân quân rất lớn trong dự
đoán về sức mạnh quân sự Việt Nam. Kinh nghiệm của QGPND cho thấy, dân
quân Việt thể hiện sức đề kháng không hề nao núng và thực hiện các cuộc
tấn công bất ngờ hơn vào các quân xâm lược hơn cả bộ đội chính quy
QĐND Việt Nam. Lúc đầu các nhà kế hoạch quân sự của QGPND tin rằng họ đã
tập hợp được một lực lượng vũ trang vượt trội với tỷ lệ 8:1 để tấn công
quân Việt Nam. Nhưng chỉ tính riêng tại khu vực Cao Bằng đã có 40.000
cho đến 50.000 dân quân khiến tỷ lệ lực lượng Trung Quốc chỉ còn hơn Việt
Nam là 2:1. Trong suốt chiến dịch, QGPND không bao giờ cho thấy khả năng
đè bẹp đối phương bằng mức vượt trội về quân số. Cuộc chiến tranh này
còn cho thấy sự khó khăn như thế nào khi thực hiện các chiến dịch quân
sự ở nước ngoài nếu dân chúng địa phương được huy động vào việc kháng
cự.
Bài học thứ ba là về
khả năng chiến đấu của QGPND vì đây là lần đầu tiên Trung Quốc áp dụng
tác chiến phối hợp với nhiều binh chủng gồm xe tăng, đại bác, bộ binh
cùng với một lực lượng không quân và hải quân yểm trợ. Lạc hậu trong
binh pháp và chiến thuật khiến quân đội Trung Quốc không thể phối hợp
một cách bài bản trong tác chiến. Trong khi đó ở Bắc Kinh, sự ràng buộc
chính trị và tư duy quân sự lạc hậu đã bác bỏ phương án yểm trợ tác
chiến của không quân. Các lực lượng mặt đất cũng cho thấy sự thiếu đồng
bộ giữa bộ binh, xe tăng và các đơn vị pháo binh để có thể triển khai
việc phối hợp tác chiến sao cho hiệu quả. Một ví dụ rõ ràng là bộ binh
đã không bao giờ được huấn luyện kiến thức đầy đủ về phương án tấn công
phối hợp với các đơn vị xe tăng. Lính bộ binh, những người bị buộc bằng
dây thừng vào tháp pháo xe tăng để khỏi ngã khi hành quân đã bị mắc kẹt
khi bị quân địch bắn hạ. Mặt khác, các đơn vị xe tăng thường phải chiến
đấu không có bộ binh tháp tùng và thiếu liên lạc trực tiếp giữa hai bên
nên đã phải chịu nhiều thiệt hại và tổn thất khôn lường. Kinh nghiệm của
cuộc chiến tranh 1979 đã dạy cho QGPND bài học giá trị về kỹ năng phối
hợp tác chiến đa binh chủng.
Bài học thứ tư là về
hiệu năng chỉ huy và điều khiển mà phần lớn bắt nguồn từ truyền thống và
văn hóa của QGPND. Mối quan hệ cá nhân giữa sĩ quan chỉ huy và chiến sĩ,
vốn đã được vun trồng trong quá khứ, vẫn tạo nhiều rắc rối trong hàng
ngũ QGPND. Khi mà mối quan hệ giữa các cá nhân trở nên quan trọng hơn cả
điều lệnh thì chẳng ngạc nhiên khi biết rằng các chỉ huy của Quân Khu
Quảng Châu sau này thừa nhận rằng họ cảm thấy khó chịu khi chỉ huy quân
sĩ được chuyển từ Quân khu Vũ Hán và Thành Đô đến trong thời gian phục
vụ chiến dịch. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng nghe nhiều cấp dưới phàn
nàn về phong cách chỉ huy của họ Hứa (Hứa Thế Hữu - ND) vì trước đó ông ta chưa từng chỉ
huy họ. QGPND còn gặp khó khăn do nhiều sĩ quan chưa có kinh nghiệm trận
mạc. Mặc dù nhiều sĩ quan có cấp bậc cao hơn và có thâm niên chiến đấu
đã được cử đến để chỉ huy các đơn vị cấp thấp hơn để giúp đỡ chấp hành
mệnh lệnh, nhưng khả năng tác chiến của QGPND vẫn thất bại vì các sĩ
quan cấp thấp vẫn còn thiếu khả năng quyết đoán độc lập và phối hợp tác
chiến trong những thời điểm quyết định. Tuy nhiên, cuộc chiến 1979 với
Việt Nam đã khai sinh ra một thế hệ mới các cán bộ quân đội Trung Quốc
có kinh nghiệm chiến trường, và nhiều người trong số họ hiện nay đang
phục vụ tại các vị trí cao cấp của QGPND
QGPND thiếu một hệ
thống và cơ cấu cung cấp hậu cần hiện đại, để hỗ trợ cho những chiến
dịch quân sự đòi hỏi di chuyển nhanh và ở vùng xa xôi. Các số liệu thống
kê cho thấy trung bình mỗi ngày tiêu thụ đạn dược và nhiên liệu là 700
tấn cho mỗi loại. Hoạt động hậu cần là một lĩnh vực lớn để QGPND rút ra
bài học. Vì không có đầy đủ dự trữ và phương tiện giao thông vận tải,
khiến cả Quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã phải đặt dưới cùng một hệ
thống cung cấp, mà hệ thống đó chẳng bao giờ hoạt động thông suốt và
hiệu quả. Một số lượng đáng kể các nguồn cung cấp bị mất hoặc là do quản
lý kém hay bị Việt Nam phá hoại. Khi lực lượng của họ tiến sâu hơn vào
lãnh thổ Việt Nam, để bảo vệ mình, các sĩ quan hậu cần đã phải rất khó
khăn để giữ liên lạc không bị trệch hướng với đại quân. QGPND đã kết
luận rằng cần thiết phải tạo ra bộ chỉ huy về giao thông vận tải để đối
phó với các vấn đề mà bộ đội của họ đã phải đối mặt trong chiến dịch.
Kinh nghiệm này có vẻ vẫn còn giá trị cho Trung Quốc đến tận hôm nay khi
cựu phó chỉ huy của Đại học Quốc phòng QGPND Trung Quốc phát biểu tại
một hội nghị chuyên đề về “kiểm soát truyền thông” vào năm 2002.
Bài học cuối cùng là
làm thế nào để có thể diễn giải một học thuyết cũ về chiến tranh nhân
dân vào các cuộc xung đột diễn ra bên ngoài biên giới Trung Quốc. Một
trong những nguyên tắc của học thuyết chiến tranh nhân dân của Trung
Quốc là việc huy động dân thường để hỗ trợ cho chiến tranh. Những kinh
nghiệm chiến tranh 1979 đã chỉ ra rằng hầu như không thể đưa một lực
lượng khổng lồ QGPND hoạt động ở nước ngoài mà không có sự ủng hộ chiến
tranh của nhân dân trong nước. Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh đã đánh
thức lòng yêu nước của công chúng và lòng tự hào về người lính Trung
Quốc. Biểu hiện mạnh mẽ của lòng yêu nước đã giúp QGPND nhận được hỗ trợ
trực tiếp cho các hoạt động từ người dân sống tại hai tỉnh biên giới.
Tại riêng tỉnh Quảng Tây, hơn 215.000 cư dân địa phương đã được huy động
để làm người vận chuyển, nhân viên bảo vệ và khuân vác để hỗ trợ tiền
tuyến; và hơn 26.000 dân quân từ khu vực biên giới đã thực sự tham gia
vào các hoạt động chiến đấu trực tiếp. QGPND vào thời điểm đó chỉ có một
hệ thống cung cấp vá víu đòi hỏi các đơn vị phải tự túc hệ thống cung
cấp trên chiến trường theo kiểu “hậu cần bán lẻ”. Chính quyền địa phương
đã làm mọi việc dễ dàng cho binh lính bằng cách đơn giản hoá thủ tục,
giúp họ nhận được đầy đủ vật chất và thực phẩm tươi trong thời gian ngắn
nhất có thể. Kinh nghiệm này đã thuyết phục bộ chỉ huy QGPND rằng huy
động chính quyền địa phương và dân chúng để hỗ trợ cho một cuộc chiến
tranh vẫn là chìa khóa cho chiến thắng.
Những bài học mà Trung
Quốc đã rút tỉa được từ cuộc chiến 1979 với Việt Nam có thể không được
liền lạc, thiếu toàn diện và khó mà khách quan vì QGPND không đánh giá
sự thành công về chiến dịch quân sự của họ trên cơ sở kết quả tác chiến
mà là trên cơ sở các tác động của cuộc xung đột đến tình hình chung.
Chịu ảnh hưởng sâu sắc lời dạy của Mao là chiến tranh về cơ bản là một
vụ kinh doanh chính trị, miễn là Trung Quốc cho là họ đã thành công
trong việc đạt được mục tiêu quân sự và chiến lược đề ra, còn các vấn đề
gây ra từ thất bại của chiến thuật chỉ là thứ yếu. Đây cũng là lý do tại
sao các bài học đó đã có những khác biệt đáng kể so với các nghiên cứu của phương
Tây nơi mà nhiều thông tin tương đối khả tín, mặc dầu đôi khi vẫn thấy
xuất hiện đây đó một chút thái quá do lạm dụng các nguồn tin hạn chế để
kết luận về một vấn đề cực kỳ phức tạp. Các nghiên cứu của QGPND nhìn
nhận rằng cuộc Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976) đã tạo bất lợi và hủy hoại
những truyền thống tốt đẹp của QGPND, và kết quả là, các lực lượng của
Trung Quốc thực hành tác chiến tồi tệ trong chiến tranh. Những bài học
rút ra của QGPND đã tập trung nhiều vào cấp độ chiến thuật của chiến
tranh với sự nhấn mạnh vào chỉ huy và kiểm soát, phối hợp tác chiến giữa
các đơn vị, cơ cấu lực lượng và vũ khí hơn là chiến lược và triết lý
mang tính học thuyết. Trong quá trình đánh giá kinh nghiệm chiến tranh
1979, QGPND có vẻ như không tìm cách che đậy hoặc bỏ qua thiếu sót về
các hạn chế của họ vào thời điểm đó; tuy nhiên họ đã mắc sai lầm khi
không đề cập đến những khiếm khuyết trong tư duy quân sự và binh pháp
truyền thống.
Các nghiên cứu của
phương Tây đã so sánh những bài học mà QGPND đã rút ra từ cuộc chiến
Việt-Trung 1979 với việc đánh giá lại vào năm 1985 của ban lãnh đạo
Trung Quốc về bản chất của chiến tranh hiện đại và các mối đe dọa đang
rình rập Trung Quốc cộng với những nỗ lực tiếp theo để cải tiến và
chuyên nghiệp hóa QGPND trong suốt những năm 1980. Bài học Việt Nam đối
với QGPND và những cuộc giao tranh vẫn liên tục xảy ra trên biên giới
Trung-Việt trong những năm 1980 đã giúp cho cho ban lãnh đạo Trung Quốc
phải thực hiện những cuộc chuyển đổi chiến lược từ việc nhấn mạnh đến sự
chuẩn bị cho chiến tranh tổng hợp đến việc chuẩn bị cho chiến tranh cục
bộ và chiến tranh hạn chế theo xu hướng của thời gian. Trong quá trình
chuyển đổi QGPND thành một lực lượng hiện đại vào những năm 1980, có rất
ít những nỗ lực được thực hiện nhằm sửa chữa thiếu sót về tư duy quân
sự, đó là thái độ luôn luôn coi nhẹ vai trò của của không quân. Kết quả
là, nếu có điều gì còn chưa trung thực trong việc rút kinh nghiệm của
QGPND thì đó chính là bài học về ưu thế trên không hoặc yểm trợ không
quân. Tài liệu của QGPND vẫn cho rằng việc hạn chế khả năng của lực
lượng không quân Trung Quốc là lý do chính khiến không quân Việt Nam
không tham gia vào xung đột. Nguyên soái Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying)
thậm chí còn nhận xét một cách lố bịch rằng hoạt động giả vờ của không
quân Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại Việt Nam là một “đòn nghi
binh khéo léo trong tác chiến không quân”. Nhận xét đó rõ ràng cho thấy
vẫn còn sai lầm trong giới lãnh đạo Trung Quốc khi họ tiếp tục đánh giá
chưa cao vai trò quan trọng của không quân trong chiến tranh hiện đại.
Tuy nhiên, tổng kết các
kinh nghiệm của QGPND trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam đã cung cấp một
cái nhìn hữu ích về việc giới lãnh đạo Trung Quốc trong việc tiếp cận
vấn đề chiến tranh và chiến lược như thế nào. Cái nhìn này cũng phù hợp
với những phát hiện nằm trong các công trình nghiên cứu gần đây. Trước
tiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thảo luận và tính toán thời
điểm và
như thế nào khi sử dụng sức mạnh quân sự, nhưng đã không ngần ngại quyết
định khởi chiến khi họ cho rằng lợi ích quốc gia của Trung Quốc
đang bị hăm doạ hoặc lâm nguy. Thứ hai, QGPND thể hiện quyết tâm
giành và giữ thế chủ động tác chiến bằng việc triển khai quân số vượt
trội (chiến thuật biển người). Thứ ba, ý thức về chiến thắng quân sự của
Trung Quốc đặt nhiều hơn vào việc đánh giá kết quả địa chính trị khi đem
so với phê phán về hiệu năng tác chiến trên chiến trường. Kể từ sau cuộc
chiến 1979 với Việt Nam, QGPND đã tiến hành sửa đổi sâu rộng trong học
thuyết quốc phòng, chỉ huy và điều khiển, chiến thuật tác chiến, và cơ
cấu lực lượng, trong khi các hoạt động quân sự thế giới cũng đã chuyển
đổi đáng kể từ khi cuộc chiến năm 1979. Ngày nay, không ai nghĩ rằng các
lực lượng vũ trang của Trung Quốc sẽ lặp lại những gì họ đã làm trong
chiến tranh biên giới với Việt Nam. Từ góc độ lịch sử, những nét đặc thù
của người Trung Quốc đã bộc lộ trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam có thể
vẫn còn có giá trị trong các giáo trình của học viện quân sự của Trung
Quốc cũng như đối với những người hằng quan tâm đến phương pháp sử dụng sức
mạnh quân sự của người Trung Quốc, không chỉ trong quá khứ mà cả với
hiện tại và trong tương lai.
Bản
dịch của một cộng tác viên, riêng cho tạp chí Thời Đại Mới.
© Thời Đại Mới
0 nhận xét:
Đăng nhận xét