Thứ Ba, 18 tháng 8, 2015
7 kỳ quan của thế giới cổ đại
08:15
Hoàng Phong Nhã
No comments
1. Vườn treo Babylon.
2. Hải đăng Alexandria.
3. Tượng thần Zeus ở Olympia (chúa tể của các vị thần Hy Lạp do nhà điêu khắc vĩ đại Pheidias tạc).
4. Đền Artemis ở Ephesus, Tiểu Á (Thổ Nhĩ Kỳ) được dựng lên để tôn vinh nữ thần săn bắn và thiên nhiên hoang dã của Hy Lạp.
5. Lăng mộ vua Maussollos tại Halicarnassus, chúa tể xứ Caria vùng vịnh Percic.
6. Bức tượng khổng lồ thần mặt trời Helios do người Hy Lạp dựng lên tại một cảng gần đảo Địa Trung Hải có tên tượng Rhodes.
7. Kim tự tháp Giza, một cấu bằng đá khổng lồ gần thành phố cổ Memphis, nơi chôn pharaoh Ai Cập Khufu.
Kim tự tháp Giza là kỳ quan duy
nhất trong bảy kỳ quan cổ đại còn tồn tại đến hôm nay. Kỳ quan biến mất
sau cùng là hải đăng Alexandria.
I. VƯỜN TREO BABYLON
Vườn treo Babylon, một kiệt tác tiêu biểu
của nền văn minh Lưỡng Hà thời cổ đại và là một công trình kiến trúc
tráng lệ độc nhất vô nhị. Vườn treo Babylon được xây dựng năm 3000 trước
CN bên bờ nam sông Euphrates và cách thủ đô Baghdad, Iraq, 90km về phía
Nam. Từ xa xưa, Babylon đã được mệnh danh là “Cửa Thần” rất linh
thiêng. Trước khi cuộc chiến tranh Iraq nổ ra, mỗi năm có hàng chục vạn
tín đồ, khách du lịch trên khắp thế giới đổ về đây cúng lễ cầu phúc và
du lịch thưởng ngoạn kỳ quan tráng lệ bậc nhất thế giới.
Nhân loại có lẽ còn phải mất nhiều công
sức giải mã mới có thể lý giải nổi câu hỏi, tại sao ở một vùng đất phần
lớn là sa mạc, chỉ có dầu mỏ và ruồi vàng với những người nông dân lại
có thể xây dựng được công trình kiến trúc tráng lệ và bền chắc tồn tại
cùng thời gian suốt 5.000 năm qua? Babylon từng là thủ đô của Vương quốc
Babylon cổ đại và là trung tâm thương mại sầm uất nhất vùng Tây Á, nơi
“con đường tơ lụa” đi qua.
Tổng thể khu vườn treo Babylon là những
tường thành hùng vĩ, cung điện nguy nga tráng lệ, đường sá, cầu cống…
phản ánh trình độ thẩm mỹ, óc sáng tạo, đặc biệt kỹ thuật tính toán xây
dựng rất cao của những người nông dân Lưỡng Hà cổ đại. Chính vì vậy,
vườn treo Babylon được công nhận là một trong 7 kỳ quan của thế giới và
là niềm tự hào không chỉ của nhân dân Iraq mà còn của cả nhân loại.
Và hiện nay, không chỉ các nhà khảo cổ
học mà nhân loại tiến bộ trên thế giới đều hết sức lo lắng và bất bình
trước thông tin báo chí đã nêu gần đây: Vườn treo Babylon ở Iraq, một
trong 7 kỳ quan thế giới đã tồn tại hơn 5.000 năm nay có nguy cơ bị biến
mất. Đúng vậy, vườn treo nổi tiếng này hiện đang dần trở thành đống
hoang tàn vì sự tàn phá của những lính Mỹ tại Iraq. <còn nguyên nhân
vì sao xin được miễn nêu ra vì liên quan đến chính trị, mong các bạn
thông cảm
*******************
II. HẢI ĐĂNG ALEXANDRIA :
Hải đăng Alexandria do triều đại Ptolemy
xây dựng trên đảo Pharos ngoài khơi thành phố Alexandria thủ đô Ai Cập
một thời, nơi có thư viện Alexandria nổi tiếng. Alexandria được mệnh
danh là hòn ngọc lấp lánh của Địa Trung Hải, thành phố lớn thứ hai và là
cảng chính của Ai Cập hiện nay. Alexandria do kiến trúc sư Dinocrates
(332 – 331 TCN) xây dựng tại vị trí của một ngôi làng cổ Rhakotis theo ý
nguyện của Alexander đại đế để bất tử hoá tên ông. Không bao lâu sau,
Alexandria trở thành trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế và tri thức
của Ai Cập. Đến nay nhiều di tích vẫn còn tồn tại, Alexandria là thủ đô
của triều đại Ptolemy với vô số tượng đài, đền miếu. Nơi đây mọc lên hải
đăng Alexandria và thư viện Alexandria. Các nhân vật lịch sử của Ai
Cập, La Mã như Cleopatra, Julias Caesaz, Mark Antony và Octavian đều có
dính líu ít nhiều đến thành phố này. Alexandria nằm ở tây bắc sông Nile
trải dài trên dải đất hẹp giữa Địa Trung Hải và hồ Mariut. Nó có hai xa
lộ lớn và một đường xe lửa đẫn đến Cairo. Thành phố là nơi nghỉ mát mùa
hè nổi tiếng nhất Trung Đông.
Hải đăng Alexandria có lẽ là kỳ quan duy
nhất trong bảy kỳ quan cổ đại được sử dụng vào mục đích phục vụ cuộc
sống hằng ngày. Nó hướng dẫn cho tàu bè đi lại an toàn tại cảng lớn. Đối
với các kiến trúc sư thì hải đăng còn là công trình xây dựng cao nhất
thế giới, và là tấm gương phản chiếu ánh sáng vào ban ngày (ban đêm sử
dụng đèn báo) vẫn còn là điều bí ẩn đối với nhiều nhà khoa học. Theo sử
sách, tấm gương nhìn thấy từ xa 50 km.
Không lâu sau Alexander đại đế mất, vị
tướng Ptolemy Soter của ông lên nắm quyền tại Ai Cập. Chính Ptolemy đã
đôn đốc việc xây dựng thành phố Alexandria, thủ đô mới. Ngoài khơi thành
phố là đảo nhỏ Pharos. Đảo nối với đất liền bằng con đê biển
Heptasđaion được xem là cảng thứ hai của thành phố. Tàu buồm đi lại tấp
nập quanh và trong khu vực cảng nên cần có một ngọn hải đăng hướng dẫn
để không mắc cạn tại dải bờ biển thoai thoải không dốc. Ptolemy vạch kế
hoạch xây dựng ngọn hải đăng vào năm 230 TCN nhưng khi ông mất nó mới
hoàn tất dưới triều đại của Ptolemy Philadelphus, con trai ông.
Sostratus, người cùng thời với Euclid, là kiến trúc sư trưởng công trình
nhưng bản tính toán chi tiết hải đăng và các công trình phụ trợ do thư
viên Alexandria làm. Hải đăng được dâng hai vị thần cứu rỗi : đó chính
là Ptolemy Soter và Berenice, vợ ông. Trong hàng thế kỷ, hải đăng
Alexandria, còn được gọi là đèn biển Pharos phát huy hiệu quả rất tốt
trong việc hướng dẫn tàu bè. Hình ảnh của nó được in trên cả các đồng
tiền La Mã. Khi người Arập chinh phục Ai Cập họ hết sức khâm phục
Alexandria và sự giàu có của thành phố này. Nhưng giới cầm quyền mới dời
thủ đô đến Cairo để cắt đứt sự nối kết với Địa Trung Hải. Tấm gương
trên ngọn hải đăng được tháo ra một cách bất cẩn nên không thể lắp đúng
vào chỗ cũ. Năm 956 SCN, một trận động đất gây thiệt hại nhẹ cho ngọn
hải đăng. Hai trận động đất mạnh sau đó (1303 và 1323) tiếp tục gây
thiệt hại lớn cho công trình. Năm 1449, thương buôn Arập nổi tiếng Ibu
Battuta nói là ông ta không thể đi vào công trình đã đổ nát này. Chương
cuối cùng của hải đăng Alexandria khép lại vào năm 1480 khi phó vương Ai
Cập Mamelouk quyết định củng cố hệ thống phòng thủ của Alexandria bằng
cách xây một công sự kiên cố ngay trên vị trí của ngọn hải đăng bằng
cách sử dụng chính các vật liệu lấy từ nó.
Mô tả chính xác, chi li nhất về hải đăng
Alexandria là mô tả của thương buôn Arập Abou–Haggay Al–Andaloussi. Ghé
thăm hải đăng năm 1166, ông nêu chi tiết sự tráng lệ của lớp đá cẩm
thạch bao quanh ngọn tháp. Theo ông thì tấm gương trên ngọn hải đăng có
công dụng đốt cháy các chiến thuyền của kẻ thù trước khi nó lọt vào
cảng. Ngoài phần bệ, hải đăng có ba tầng : khối vuông thấp nhất cao 55,9
m có lõi tròn, khối giữa cao 27,45 m và khối trên cùng cao 7,3 m có
hình tròn. Chiều cao tổng cộng của ngọn hải đăng là 117 m tính từ cột
mốc số 0 là mực nước biển, tương đương ngôi nhà cao bốn mươi tầng. Trên
nóc hải đăng là tượng thần Poseidon (thần biển cả, có bộ râu trắng, tóc
trắng mắt xanh với dải băng cuốn quanh đầu như thần Zeus). Poseidon là
con của thần Cronus và thần Rhea. Cronus đã nuốt Poseidon vào bụng nhưng
lại nhả ra để ông lớn lên với các anh chị khác. Khi Cronus bại trận
Poseidon trở thành vua biển cả và vua các hòn đảo. Có lúc Poseidon được
mô tả như vị thần trần truồng tay cầm đinh ba mà thần bão Cyclopes đã
cho ông. Cây đinh ba biểu tượng cho vương quốc Poseidon, vương quốc thứ
ba của vũ trụ (tức biển cả).
*******************
III. TƯỢNG THẦN ZEUS Ở OLYMPIA :
Đây là bức tượng của vị thần mà các cuộc
thi tài thể thao Olympic cổ được tổ chức để tôn vinh ông. Tượng đặt tại
thành phố cổ Olympia, nằm ở bờ biển phía tây Hy Lạp hiện nay, cách thủ
đô Athens 150 km. Theo lịch Hy Lạp cổ bắt đầu từ năm 776 TCN thì các
cuộc thi đấu cũng bắt đầu từ năm đó. Bức tượng Zeus kỳ vĩ do kiến trúc
sư Libon thiết kế và được xây dựng vào năm 450 TCN. Vào thời điểm nước
Hy Lạp đang hùng mạnh, ngôi đền kiểu Doric quá tầm thường đơn giản nên
cần có các sửa đổi lớn. Giải pháp là đặt một bức tượng khổng lồ trong
đền. Điêu khắc gia Athens được giao nhiệm vụ “thiêng lieng”^ này. Nhiều
năm sau đó, ngôi đền thu hút số du khách và người hành hương đến từ khắp
nơi trên thế giới. Bước sang thế kỷ II TCN, bức tượng được tu sửa chút
ít rồi đến thế kỷ I SCN, hoàn đế La Mã Caligula tìm cách đưa bức tượng
về Rome nhưng giàn giáo do các nhân công của Caligula xây dựng bị đổ
sụp. Sau khi các cuộc thi đấu Olympic bị cấm năm 391 SCN, hoàng đế
Theodosius cũng ra lệnh đóng cửa đền Zeus. Sau đó thành phố Olympia bị
động đất, trượt đất và ngập lụt tấn công. Đến thế kỷ V SCN, đền lại bị
lửa làm hư hại. Nhưng trước đó, bức tượng đã dược những người Hy Lạp
giàu có chuyển đến Constantinople và tượng đứng vững tại đây cho đến khi
nó bị lửa làm thiệt hại nặng vào năm 462 SCN. Hôm nay bức tượng không
còn lại gì ở ngôi đền cũ, trừ đá và vụn cát cùng nền và những chiếc cột
bị gãy của ngôi đền.
Điêu khắc gia Pheidias bắt đầu xây dựng
bức tượng vào năm 440 TCN. Vài năm trước đó, ông đã phát triển một kỹ
thuật đặc biệt dùng cho việc xây dựng các bức tượng bằng vàng và ngà. Kỹ
thuật này sử dụng các khung gỗ lắp ghép như giàn giáo để phủ những tấm
kim loại quý hoặc ngà voi lên mặt ngoài công trình. Hiện di tích nhà
xưởng của Pheidias ở Olympia vẫn tồn tại. Nó bằng kích cỡ và theo đúng
hướng với ngôi đền Zeus cũ. Tại xưởng này, Pheidias cho đẽo, khắc những
phần khác nhau của tượng trước khi mang đến đền lắp ghép. Nhưng khi bức
tượng hoàn tất, ngôi đền lại quá nhỏ so với nó. Một số người cho rằng
bức tượng không cân xứng với chiều cao dền. Thần Zeus ở trong tư thế
ngồi, nếu ông đứng lên ngôi đền sẽ bị bung mái. Nhưng cũng có người khen
ngợi ý đồ của Pheidias. Chính nguy cơ ngôi đền bị bung mái khi “vua các
vị than”^` đứng lên đã tạo cảm hứng cho nhiều nhà thơ và sử gia. Bệ của
tượng có bề rộng 6,5 m cao 1 m. Tượng cao 13 m tương đương với ngôi nhà
bốn tầng. Bức tượng cao đến nỗi các du khách chỉ có thể mô tả về chiếc
ngai vàng thần Zeus ngồi chớ không thấy rõ chi tiết cơ thể ông. Phần
chân của chiếc ngai được trang trí bằng các tượng nhân sư và những vị
thần chiếc thắng có cánh. Thần Apollo, Artemis và con gái của thần Niobe
đều có mặt. Theo ghi chép của sử gia Hy Lạp Pausanias thì trên đầu của
thần Zeus là chùm tia Olive. Tay phải ông giữ biểu tượng chiến thắng làm
bằng vàng và ngà voi. Tay trái ông giữ một quyền trượng có con ó đậu ở
đỉnh.
VÀI DÒNG VỀ THẦN ZEUS
Là con của thần Kronos và thần Rheia,
Zeus theo gương cha : lật đổ chính người sinh thành ra mình. Khi Kronos
giết cha (thần Uranus), người cha có điềm báo là ông cũng sẽ bị con trai
bức hại. Do sợ hãi và tham lam, Kronos nuốt những đứa con đầu ngay lúc
chúng ra đời nhưng khi Rheia sinh hạ đứa con thứ sáu Zeus bà đánh lừa
chồng bằng cách đưa cho ông cục đá. Kronos nuốt cục đá và lời nguyền trở
thành hiện thực. Zeus được nuôi nấng bí mật cho đến ngày đủ lớn để phục
kích Kronos lúc đi săn. Ông đá Kronos vào bụng mạnh đến nỗi người cha
già nua đã ói ra hòn đá và năm đứa con (cả trai và gái) chưa tiêu hoá
được. Đó là các thần Demeter, Hades, Hestia, Hera và Poseidon. Sau đó
Zeus tuyên bố là lãnh tụ của các vị thần thống trị các đỉnh núi và những
đám mây. Ông cưới Hera xinh đẹp, chị mình.
Thần Zeus có nhiều mục tiêu phải hoàn
thành trước khi cuộc chiến thành Troy kết thúc. Người Hy Lạp bao vây
thành Troy được sự hỗ trợ của các vị thần Hera, Athene, Poseidon, Ares
và Aphrodite nên trước sau gì họ cũng thắng. Trong lúc đó, thần Zeus đối
mặt với cuộc nổi loạn trên đỉnh Olympus. Sau khi thần Aphrodite và thần
Ares bị thương ở thành Troy, Zeus ra lệnh cho tất cả các vị thần đứng
ngoài cuộc chiến. Riêng ông sẽ đích thân đến ngọn Ida để chỉ huy cuộc
dẹp loạn và tạo uy thế cho Hector yêu dấu, chủ nhân Ida. Có nhiều con
các vị thần tham gia cuộc chiến thành Troy. Con trai Sarpedon của Zeus
chết tại chiến trường trên tay đứa con trai khác là Aias. Aphrodite bị
thương khi bảo vệ thần Aineias. Askalaphos, con trai của Ares cũng bị
giết và cả Achilleus con trai nữ thần Tethys cũng phải hy sinh. Có lúc
cuộc chiến thất thế cho người Hy Lạp đến nỗi Hera buộc phải ra tay bằng
cách đánh lừa Zeus để bí mật tung Poseidon vào cuộc chiến giúp người
Achaian (Hy Lạp).
Nhưng tiếng thét của Poseidon làm Zeus
thức dậy khi đang ngủ, ông phát hiện ra Hera đánh lừa mình bằng nhan sắc
và một đêm hoan lạc, phát hiện ra sự cứng đầu không vâng lời của
Poseidon. Ông cử Hera đến Olympus đưa Iris và Apollo về. Iris được giao
nhiệm vụ qui cố hương cho Poseidon, còn Apollo được giao trách nhiệm đẩy
lùi người Achaian về tàu của họ như một cách trừng phạt. Thoả mãn với
những gì đạt được Zeus ra lệnh cho các vị thần tập trung ở Olympus. Ông
cho phép họ chọn một trong hai bên giao chiến và tham gia chiến trường
nếu thích. Sau đó Odysseus, vua vương quốc Ithaca đã dùng mưu mẹo đánh
chiêm thành Troy (ngựa gỗ thành Troy) với sự giúp đỡ của các vị thần
nhưng sự kiêu ngạo của Odysseus đã làm cho thần Poseidon tức giận và
phải mất mười năm ông mới qui được cố hương.
*******************
IV. ĐỀN ARTEMIS Ở EPHESUS :
Artemis không chỉ đơn thuần là một ngôi
đền mà còn là công trình kiến trúc đẹp nhất thế giới theo đánh giá của
các triết gia cổ đại. Đền được xây dựng để tôn vinh nữ thần săn bắn và
thiên niên hoang dã của Hy Lạp, vị trí nằm tại thành phố cổ Ephesus gần
thị trấn đương đại Selcuk cách thành phố Izmir (Thổ Nhĩ Kỳ) 50 km về
phía nam.
Dù nền ngôi đền có từ thế kỷ thứ VII TCN,
Artemis chỉ mới được xây dựng sau đó 150 năm. Công trình đặt dưới sự
bảo trợ của vua Croesus và do kiến trúc sư Hy Lạp Chersiphon thiết kế.
Đến làm bằng đá cẩm thạch, trang trí bằng nhiều tượng đồng, sản phẩm của
các thiên tài điêu khắc Pheidias, Polycleitus, Kresilas và Pheadmon.
Đền vừa là chợ vừa là cơ sở tôn giáo. Trong nhiều năm nó là nơi tụ hội
của các thương buôn, du khách, nghệ sĩ và các vị vua đến để bày tỏ lòng
tôn kính đối với nữ thần và dâng tặng đồ tế lễ. Các khai quật khảo cổ
mới đây cho thấy nhiều tặng vật được chôn vùi, từ các tượng thần Artemis
làm bằng vàng và ngà voi đến các vòng, nhẫn, lac…(” có gốc gác xa như
Ấn Độ và vùng Persca (Iran hiện nay).
Đêm 21–07–356 TCN, một người đàn ông
Herostratus đốt đền với mục đích bất tử hoá tên mình cùng ngôi đền. Có
một sự trùng hợp kỳ lạ, cũng vào đêm đó Alexander đại đế ra đời. Về sau
sử gia Plutarch viết rằng “do quá bận chăm sóc sự ra đời của Alexander
nên nữ thần Artemis không rảnh tay bảo vệ ngôi đền thờ minh”`. Hai thập
niên sau, đền được phục hồi. Khi Alexander chinh phục Tiểu Á, ông góp
sức xây dựng lại ngôi đền.
Vào thế kỷ thứ I, sau thiên chúa giáng
sinh, thánh Paul ghé thăm Ephesus để truyền đạo thiên chúa nhưng người
dân vùng này không có ý định bỏ rơi nữ thần của họ. Đến năm 262 SCN, đền
lại bị người Goth phá huỷ lần nữa. Dù các cư dân Ephesus thề sẽ khôi
phục lại ngôi đền nhưng đến thế kỷ thứ IV, do đa số họ đã chuyển sang
đạo thiên chúa nên đền không còn ý nghĩa tôn giáo nữa. Sau đó thành phố
Ephesus bị bỏ hoang cho đến thế kỷ XIX nó mới được khai quật. Công trình
đào bới đã làm lộ nền ngôi đền và con đường dẫn đến đền. Bước thứ hai
là phục hồi một số cột để phục vụ du khách.
Nền đền Artemis có hình chữ nhật giống
như đa số ngôi đền nào vào thời kỳ đó. Tuy nhiên khác với các công trình
cùng tuổi, Artemis có tầm nhìn bao quát các khu vườn rộng. Các bậc thềm
quanh đền dẫn đến những cây cột đá cao 20 m. có 127 cây cột đá, và tất
cả đều được trang trí rất đẹp. Sàn đền rộng 80 m x 130 m. trong đền chứa
nhiều công trình nghệ thuật kể cả bốn bức tượng đồng cổ Amazon do các
nghệ sĩ lỗi lạc nhất vào thời đó khắc. Theo sử sách thì khi thánh Paul
đến thăm đền, nó còn có cả những cây cột mạ vàng và nhiều tượng bằng
bạc. Ngoài ra còn nhiều bức tranh vẽ tuyệt mỹ. Dù không có chứng cứ lưu
lại về bức tượng Artemis đặt giữa ngôi đền nhưng người ta tin rằng nó
đứng ở đó cho đến lúc đền bị đốt.
VÀI NÉT VỀ NỮ THẦN ARTEMIS
Artemis và Apollo là hai con của thần
Zeus và thần Leto. Cả hai đều sinh ra tại đảo Delos và gắn liền số phận
với một loại cung tên : Apollo cung cong còn Artemis cung bạc. Artemis
là một trong ba người không bị mê hoặc bởi thần Aphrodite (hai người kia
là Hestia và Athene).
Artemis là bạn với loài người. Nữ thần
nhảy múa khắp vùng thôn dã trong đôi xăng đan bạc để bảo vệ các loài thú
hoang, nhất là thú nhỏ. Nàng cưỡi chiếc xe ngựa bạc băng qua bầu trời
và bắn tên xuống mặt đất dưới ánh trăng. Giống như các thần Olympia
khác, Artemis không thể bảo vệ được người thợ săn thiện xạ Shamandos
trước mũi giáo của người Menelao trong trận đánh thành Troy.
Khác với Apollo, Artemis không thiện
chiến nhưng bà có thể trừng phạt và giết chóc theo lệnh của Zeus. Trong
trường ca THE ILIAD, Leto, mẹ của Artemis bị một phụ nữ Niobe lăng nhục.
Niobe khoe khoang rằng bà có mười hai đứa con trong khi đó Leto chỉ có
hai. Để trừng phạt Leto, Apollo giết sáu đứa con trai của bà ta, còn
Artemis giết sáu đứa con gái. Trong trường ca THE ODYSSEY, Odysseus kể
câu chuyện về hòn đảo kỳ thú Syria, nơi không có chỗ cho cái đói và tuổi
già. Khi thần số phận quyết định các cư dân cao quí của hòn đảo phải
chết, Artemis và Apollo ra tay bằng những mũi tên không gây đau đớn.
Artemis thường bị nhập chung với nữ thần La Mã Diana.
*******************
V. Lăng mộ vua Maussollos tại Halicarnassus, chúa tể xứ Caria vùng vịnh Percic
Halicarnassus là thủ đô của một vương
quốc nhỏ nằm bên bờ Địa Trung Hải. Năm 353 trước CN, vua Mausolus qua
đời. Nữ hoàng Artemisia cũng là em gái của ông (theo tục lệ ở Caira thì
người cai trị vương quốc phải kết hôn với em gái mình) quyết định xây
một khu mộ thật lớn cho người chồng của mình. Ngôi mộ trở thành một công
trình kiến trúc nổi tiếng thế giới đến nỗi cái tên Mausolus sau này
đồng nghĩa với từ “ngôi mộ”. Ngôi mộ cao bằng một tòa nhà 14 tầng. Vua
Mausolus không nổi tiếng nhưng chính ngôi mộ đã khiến cho cả nhân loại
biết đến ông.
*******************
VI. Bức tượng khổng lồ thần mặt trời Helios
Pho tượng nữ thần Tự Do mặc áo choàng,
tay đưa ngọn đuốc lên cao tại cảng New York, một hình ảnh biểu trưng của
nước Mĩ có lẽ không mấy xa lạ với chúng ta. Nhưng, điều mà ít ai biết
chính là bức tượng nữ thần Tự Do này còn có một tên gọi khác – “Modern
Colossus” (Colossus = tượng khổng lồ), như là âm vang gợi nhớ đến một
bức tượng khổng lồ khác cùng kích cỡ (khoảng 110 feet = 33m, cao tương
đương một tòa nhà hiện đại với 10 tầng), đã tồn tại cách đây hơn 2000
năm, cũng ở ngõ vào của một cảng biển sầm uất thời cổ đại và cũng là một
biểu tượng của tự do : “Colossus of Rhode” – Tượng khổng lồ ở đảo
Rhode.
Đất nước Hy Lạp cổ đại bị chia cắt bởi
nhiều thành bang nhỏ. Trên đảo Rhode bấy giờ có 3 thành bang : Ialysos,
Kamiros và Lindos. Năm 408 trước CN, các thành bang này kết hợp lại
thành một lãnh thổ thống nhất với thủ phủ tại Rhodes. Thành phố phát
triển hưng thịnh và có mối quan hệ chặt chẽ về thương mại và kinh tế với
nước liên minh Ptolemy * (Ai Cập) .
Năm 305 trước CN, những người thuộc phe
Antigonids của Macedonia, cũng là đối thủ của Ptolemie bao vây Rhodes,
tìm mọi cách phá vỡ liên minh Rhodes – Ai Cập. Nhưng họ đã không thể xâm
nhập vào thành phố. Hiệp ước hòa bình đạt được vào năm 304 trước CN,
những người phe Antigonid mở vòng vây, rút lui, để lại nhiều trang thiết
bị quân sự dồi dào của họ. Nhằm tổ chức kỷ niệm ăn mừng chiến thắng và
thống nhất, người dân đảo Rhodes đã bán vũ khí đó, dùng tiền dựng nên
bức tượng khổng lồ hình vị thần mặt trời – Helios. Bức tượng khổng lồ
đứng kiêu hãnh uy nghi ngay cửa ngõ vào cảng, sải chân dang rộng và tàu
bè có thể đi lại bên dưới. Mỗi sáng sớm, mặt trời chiếu vào làm pho
tượng đồng ánh lên rạng rỡ một biểu tượng của tự do và thống nhất.
* : sau khi Alexander Đại Đế chết, các
tướng lĩnh của ông đã không kiểm soát được vương quốc quá rộng lớn mà đế
quốc Macedonia vừa chiếm được (gồm Tiểu Á, vùng Lưỡng Hà, Ai Cập, Ba
Tư, Afganistan và Turkestan). Tướng sĩ tranh nhau quyền hành, đế quốc
tan rã và Macedonia suy từ đó. Có ba trong số các tướng sĩ của Alexander
đã thành công trong việc chia vương quốc này là Ptolemy (Ai Cập),
Seleucus và Antigons.
Bức tượng thần mặt trời khổng lồ này do
nhà điêu khắc nổi tiếng Charles ở Lindos thực hiện. Tượng đúc bằng đồng,
đế tượng làm bằng đá cẩm thạch. Tượng cao 33m. Riêng ngón tay cái vài
người ôm không xuể, thật là một pho tượng khổng lồ.Công trình tạc tượng
Helios kéo dài 12 năm và hoàn thành vào năm 282 trước CN. Trong nhiều
năm bức tượng được đặt trên đảo Rhodes cửa ngõ ra vào Ðịa Trung Hải của
nước Hy lạp cổ. Cho đến khi xảy trận động đất kinh hoàng năm 266 trước
CN, cả thành phố bị thiệt hại nặng và pho tượng thần mặt trời khổng lồ
bị gãy ở đầu gối, phần yếu nhất của pho tượng.
10 thế kỷ trôi qua, bức tượng khổng lồ
vẫn nằm trong đống đổ nát. Năm 654 sau CN, Arab đánh chiếm đảo, họ tháo
gỡ phần còn lại của pho tượng và bán cho một người Do thái ở Syrie.
NgườI ta kể rằng cần đến 900 con lạc đà để chở những bộ phận của bức
tượng khổng lồ đến Syrie. Từ đó đến nay không ai còn nhìn thấy bức tượng
này nữa, tính từ lúc xây dựng cho đến khi bị phá hủy nó chỉ tồn tại có
56 năm, nhưng được xếp vào 1 trong 7 kỳ quan cổ đại của nhân loại.
*******************
VII. KIM TỰ THÁP GIZA
Phía bờ tây sông Nile, sừng sững những
Kim tự tháp hùng vĩ. Hình dạng độc đáo với nền móng vững chắc tiếp đất
và chóp nhọn chọc trời là minh họa cho một sự kết hợp giữa trình độ kỹ
thuật cùng sự cam kết tâm linh của người Ai cập cổ đại.
Thời hoàng kim về xây dựng kiến thiết của
Ai cập kéo dài trong suốt Thời kỳ thứ 3, từ 2868 đến 2613 trước CN. Mục
đính chính của các Kim tự tháp là nơi hầm mộ chôn cất các pharaoh và
các quan chức cao cập của triều đình. Nền móng của nền quân chủ Ai cập
dựa trên sự bất tử của các pharaoh, do vậy xác nhận sự tồn tại của “kiếp
sau”.
Kim tự tháp vừa để tôn vinh các pharaoh,
vừa là nơi các vị này chờ đợi trước khi được gia nhập vào thế giới mới.
Người Ai cập cổ đã đạt tới trình độ hoàn thiện trong kỹ thuật ướp xác để
gìn giữ cơ thể sau khi chết, và thường trữ đầy trong các Kim tự tháp
những tiện nghi sinh hoạt cung đình mà các pharaoh tỏ ý nguyện muốn đem
theo vào kiếp sau.
Kim tự tháp vĩ đại nhất, cũng là kiến
trúc duy nhất còn tồn tại ngày nay trong số 7 kỳ quan của thời cổ đại,
là Kim tự tháp Giza, xây dựng trong thời kỳ cai trị của Cheops, tên Hy
lạp của Vua Khufu (2545-2520 trước CN). Tại thời điểm nó được xây dựng,
Kim tự tháp này cao cỡ 482 phút, trải rộng một diện tích chừng 13 hec-ta
và nặng ít nhất 6.5 tỉ tấn. Napoleon tính toán rằng lượng đá xây nên
Kim tự tháp này, trên 2 300 000 khối, có thể tạo nên một bức tường dày 1
phút bao quanh Pháp với độ cao 10 phút. Tầm vóc khổng lồ của Kim tự
tháp Giza cũng được tương xứng bởi thiết kế chính xác. Mỗi cạnh của nền
tháp dài 776 phút, chênh lệch nhau không quá 7.9 inches; các khối đá
được xếp chồng khít tới mức không thể nhét xen kẽ giữa chúng dù chỉ một
tờ giấy mỏng. Các cạnh tháp chạy hầu như chính xác từ bắc tới nam, đông
qua tây, sai lệch chừng 4 độ không hơn.
Vào thế kỷ 19, khi các nhà khảo cổ học
phát hiện ra các Kim tự tháp, sức hấp dẫn của chúng đã làm nảy sinh cả
một trường phái ngụy khoa học. Giới theo “Kim tự tháp học” miệt mài làm
việc hòng tìm ra một “đơn vị Kim tự tháp”, một đơn vị chuẩn đã cho phép
người Ai Cập cổ đại xây dựng nên các công trình với sự chính xác siêu
phàm. Các chuẩn như pi, khối lượng và chu vi TD, khoảng cách từ TD tới
Mặt trời đã được gợi ý. Một số thì đề đạt giả thuyết các Kim tự tháp
đóng vai trò các văn bản đá, ghi chép mã hóa toàn bộ lịc sử chi tiết của
thế giới con người.
Các nhà Kim tự tháp học thậm chí còn dài
dòng phóng đại giải thích quy trình các công trình vĩ đại này được xây
dựng. Một giả thiết được phổ biến khá rộng rãi trong thế kỷ 20 là các
tảng đá khổng lồ ấy đã được chuyên chở tới TD bởi các sinh vật ngoài
hành tinh, thả xuống vị trí hiện tại của chúng bằng các UFO
Sự thật đằng sau sự tạo thành của các Kim
tự tháp không hề kém phi thường, có chăng nó chỉ không mang tính chất
hoang đường như các giả thuyết trên. Chu trình xây dựng bắt đầu với việc
đẽo các tảng đá được mang về từ các mỏ khai thác cách đó chừng 600 dặm
xa, tại Aswan. Đa số các nhà sử học cho rằng các tảng đá này được thả
trôi theo bè xuôi sông Nile trong mùa lũ, mặc dù không có bằng chứng
khảo cổ nào của các bè gỗ lớn đủ để chuyên chở các khối đá có kích cỡ
khổng lồ ấy. Đá được chuyển về, tại công trình, việc đầu tiên của các
nhân công lao động là tạo ra một mặt bằng móng bằng cách dẫn nước ngập
vào bãi, tạo nên một hệ thống kênh rạch sau đó đào sâu cho tới khi mực
nước khắp nơi cân bằng. Vòng đai ngoài được thiết lập, rồi cắt tới mức
độ thích hợp, đôi khi một vài tảng đá cực lớn được giữ nguyên.
Một con đường lề bằng đá được làm bên bờ
sông Nile nhằm phục vụ cho quá trình bốc dỡ. Các khối đá được kéo trên
các xe trượt trụ trên các trục lăn từ vị trí cách xa chừnng nửa dặm tới
công trường. Tại đây, đội thợ nề và thợ đẽo đá sẽ bào nhẵn bề mặt đá,
chuẩn bị cho việc xây dựng.
Khi đã sẵn sàng, những khối đá khổng lồ
được lăn vào vị trí, một quá trình gây nhiều tranh cãi bởi thực tế là
vòng xe và dây tời kéo phải 800 năm sau đó mới xuất hiện tại Ai cập. Một
vài học giả cho rằng người Ai Cập cổ đã chế ra các bậc cầu thang tam
cấp dài theo độ cao dần của công trình với một độ nghiêng cố định; số
khác gợi ý về một cầu thang xoắn dài theo tòa tháp. Đá được đẩy tới đầu
cầu thang, rồi đặt vào trên nền vữa lỏng, bỏ yên tĩnh cho tới khi khô.
Đường cầu thang này được tháo dỡ dần sau khi đỉnh tháp đã được dựng
xong, và những người thợ nề có trách nhiệm mài nhẵn bề mặt đá trên đường
đi xuống.
Lượng nhân công đã tham gia xây dựng nên
tòa tháp này được nhà sử học Hy Lạp Herodotus dự đoán là 100 000 người,
thay thế sau mỗi giai đoạn 3 tháng, trong suốt 20 năm, dù đây có lẽ là
một con tính hơi bị cường điệu hóa. Một trại lính cổ đại phát hiện được ở
gần đó có sức chứa 4000 người, và có vẻ như có tới vài trại lính ở xung
quanh tòa tháp. Nhân công xây dựng không phải là nô lệ, công việc không
bị ép buộc lao dịch, gây ra sự nghi ngờ với các truyền thuyết từ Kinh
thánh về các quản đốc hà khắc dã man. Một bản khắc trên tường một hầm mộ
một pharaoh tuyên bố rằng ông ta chưa bao giờ đánh một công nhân đủ
mạnh để làm người đó ngã.
Sưu Tầm
0 nhận xét:
Đăng nhận xét