Trần
văn Kha,
Trích dịch từ sách Le Livre Noir de l’
Inquisition
Bruno bị tòa án La
Mã kết tội là một dị
giáo và
bị hỏa thiêu tại Roma năm 1600. Ông được
coi là tấm gương đầu tiên hy sinh cho
khoa học.
|
Nguời hiệp sĩ lang thang của thông thái
Sư Huynh Bruno bị thiêu sống.
Rô-ma, trong đêm 16 sang ngày 17 tháng hai 1600.
Lúc ấy là hai giờ sáng khi một lệnh được đem tới
cho hội từ thiện San Giovanni ở Decollato, mà
nhiệm vụ là giúp đỡ và cung cấp những nhu cầu
tôn giáo cuối cùng cho những người bị kết án tử
hình: các sư huynh phải sẵn sàng vào sáng hôm
sau, bởi vì một người tà giáo “ngoan cố” sẽ bị
hành quyết. Trong một vài giờ trước lúc bình
minh là những sửa soạn cuối cùng và một giấc ngủ
không yên: đốt cháy một người tà giáo không phải
chuyện hiếm, những cũng không xảy ra thường
xuyên. Vào lúc sáu giờ sáng, những thành viên
của hội từ thiện tôn giáo hội họp trong nhà
nguyện Sainte-Ursule rồi từ đó đi tới nhà tù Tor
di Nona, nơi mà công lý thế tục giam giữ những
người bị kết tội trong khi chờ hành quyết, sau
khi bản án cuối cùng đã được tòa án của Tòa
Thánh ở Rô-ma công bố. Bên trong nhà tù, cũng có
một nhà nguyện; chính tại đó mà những “người an
ủi” – người ta gọi như thế – tụ họp và đọc kinh
cầu nguyện như được tiên liệu cho những giờ phút
cuối cùng. Một vài phút sau, một người được đem
vào nhà nguyện. Hai con mắt tím bầm long lanh
sức sống và thông minh và, đồng thời nhuốm vẻ
hiền dịu và một sự sâu thẳm không đến gần được;
những con mắt đó nhìn sự vật với một cái nhìn
như từ một chân trời bí mật, từ những sâu thẳm
của một sự thông thái bí mật. Đó là cái nhìn của
một người đã dành tất cả cuộc đời cho suy tư và
hiểu biết, cho sự thay đổi linh hồn và tinh thần
và, trong lúc bị xiềng xích, vẫn truyền đạt cái
cảm giác tự do truyền nhiễm của ông ta : tên
người ấy là Giordano Bruno.
Người ấy bị kết án ngày 8 tháng Hai (1600).
Trong tám ngày từ khi bản án được tuyên bố cho
đến ngày hành quyết, ông ta đã có thể tăng cường
niềm tin sâu xa của ông và tái xác nhận với một
nghị lực nội tâm mới, ông lựa chọn trung thành
với chính ông và sự xét đoán lý trí của ông. Sự
xung đột nội tại lớn lao, cơn bão tố của nghi
ngờ và sự bất định hay, giản dị hơn, sự sợ hãi,
bây giờ ở lại phía sau ông. Người ta đã làm việc
với ông trong những năm dài của thẩm vấn, trong
khi ông không chỉ phải lựa chọn chiến lược tốt
nhất để bào chữa, nhưng mà còn là để sắp đặt nó
cho việc phục vụ một thứ triết học, luân lý mạch
lạc, và hiện hữu nghiêm khắc, nói tóm lại khi
ông phải bào chữa mà không chối bỏ những điều
quan trọng. Nhưng bây giờ, thì hết rồi, không
còn chỗ cho nghi ngờ.
Chắc chắn rằng sự
dũng cảm của ông có thể giải thích bằng sự hiển
nhiên rằng ông không thể thoát khỏi bị hỏa
thiêu. Sự phản cung ít ra cũng làm giảm bớt sự
đau đớn, bởi vì người ta khoan hồng cho ông,
thắt cổ ông trước khi đem hỏa thiêu. Nhưng sự
chấm dứt gần kề cuộc đời của ông không phải là
lý do đủ để giải thích sự chống đối của ông.
Theo như những tu sĩ tham gia việc hỏi cung, “ông
cương quyết trong sự bướng bỉnh quái quỷ đó, đầu
óc và trí tuệ bận rộn bởi hàng nghìn thứ sai lầm
và kiêu ngạo”.
Trong khi tất cả cuộc đời hăng say và phiêu lưu
hình như tụ tập vào chỗ này, trong những bức
tường lạnh và thù nghịch, giữa những bộ mặt đáng
nghi và những tâm hồn hẹp hòi nó bao vây ông như
một tà thuật tàn khốc, Giordano nói rõ từng chữ,
bác bỏ những lời khuyên phản cung; nhưng không
thể không tưởng tượng ra rằng tâm ông ở rất xa
nơi này và những người này? Mọi thứ có vẻ như
cần thiết và như bao phủ bởi một sự hòa hợp bí
mật, và không thể dò được; cả đống củi, cả những
ngọn lửa.
Giordano Bruno đã bị thiêu sống ngày 17 tháng
2 năm 1600.
Đã đến giờ. Những sĩ quan của công lý và những
người của thống đốc Rô-ma mời nhà triết học tỉnh
Nola mặc cái áo sanbenito (Sanbenitos
là một loại áo dài có thữ thập đỏ, màu vàng
hay nâu, màu đen nếu bị tử hình, mà người theo
tà giáo phải mặc suốt đời, mỗi khi đi ra ngoài
công chúng. Khi người đó chết, thì áo này được
treo trong nhà thờ, nhắc lại tên của kẻ xám hối.
Dấu hiêu sám hối này trở thành tức khắc một dấu
hiệu hổ thẹn); rồi đám người đưa ma ra khỏi
nhà tù và từ từ đi đến Campo dei Fiori,
nơi mà những người bị kết án hỏa thiêu bị đốt, ở
gần hí viện Pompée. Bruno trong cái áo đen của
tội nhân, được bao quanh bởi những linh mục đọc
kinh như thường lệ. Dọc theo các đường phố, và
tại nơi hỏa thiêu, dân chúng đã tụ họp từ lâu,
ồn ào, la hét, nóng lòng chờ đợi để dự vào một
màn kịch vừa kích thích sự tò mò vừa ghê rợn. Ít
người, hình như thế, biết lý do của sự kết án
trước khi bản án được tuyên đọc. Một đống củi đã
được dựng lên ở trung tâm khu vực, gần vòi nước
Terrina. Đám rước cũng như sự hành hạ Bruno được
điều chỉnh như là một màn kịch bi đát, mà tính
cách khoa trương phải là chính. Đám rước đến
trung tâm địa điểm.
Bruno bị lốt hết áo quần và cột vào cái cọc
ở giữa đống củi. Thật trái ngược biết bao,
giữa sự bình tĩnh khó hiểu của tên đao phủ và sự
sôi sục trong tim người bị kết tội, giữa những
gào thét không chịu được và chối tai của đám
đông và sự im lặng chết trong tâm người bị đốt
cháy! Nhưng những sự làm nhục chưa chấm dứt: tên
đao phủ lấy một cặp kìm bằng gỗ
nhét vào mồm, kẹp lưỡi người bị kết tội, để cho
người ấy không thể nói cũng không thể kêu.
Câu chuyện đã kể giải thích rằng dụng cụ ấy được
dùng “vì những lời nói bẩn thỉu mà ông ta đã
tuôn ra, chẳng thèm nghe những người an ủi hay
những người khác”.
Lửa đã đốt lên,
những cành cây bắt đầu nổ một cách ghê rợn. Hơi
nóng và mùi khói cay tràn ngập tâm hồn nhà triết
học, và người “hiệp sĩ lang thang của sự thông
thái” thấy thân mình bị kẹp vào cột gỗ và bị
những sợi dây thừng xé rách da thịt.
Tuy nhiên, ông ta
vẫn là người tự do: khi một linh mục lại gần ông
một lần chót và đưa cho ông một cây chữ thập,
Bruno quay mặt đi, cái nhìn không chịu khuất
phục, xa vắng, đầy một vẻ chua xót vô tận.
Những lời cuối
cùng mà ông tuyên bố trước khi lưỡi bị kẹp, đã
được kể lại như sau: “Ông nói rằng ông sẽ chết
như là tuẫn tiết và tình nguyện, và với tất cả
khói này, hồn ông sẽ bay lên thiên đàng”.
Nhà toán học và phù thủy.
Nola. Chính ở thành phố đó, dưới bóng núi lửa
Vésuve (đông nam thành phố Naples), mà Filippo
Bruno đã ra đời – Giordano tương lai -. vào đầu
năm 1548. Gia đình ông có đời sống thoải mái:
cha, ông Giovanni, một nhà quý phái nhã nhặn,
chọn nghề binh nghiệp, phục vụ những gia đình
quý phái lớn trong miền; mẹ, Fraulisa Savolino,
là một người học thức, bà hướng dẫn con vào sự
yêu thích cái đẹp, thơ phú và sự chiêm ngưỡng
thiên nhiên. Filippo có một đời sống tuổi trẻ tự
do và tích cực, trong một khung cảnh đẹp mặn mà.
Tất cả đời, ông cư xử như là một người “Nolano”
kiêu hãnh, sinh ra “dưới một bàu trời thuận
lợi”.
Năm 17 tuổi, người trẻ Filippo đến trình diện tu
viện San Domenico Maggiore, ở Naples, mà ở đó,
ngày 15 tháng Sáu 1565, ông mặc chiếc áo của
người mới tu dòng Sư Huynh dominicain và lấy tên
Giovanno. Năm 1573 ông được phong chức linh mục.
Bị sa thải về thần học năm 1575, năm sau ông rời
khỏi tu viện, “một nhà tù nhỏ và tối đen”, và
chạy tới Rô-ma.
Mùa xuân 1579, ông đến Genève, mà ở đó ông gia
nhập dòng Calvin. Nhưng ở đó cũng vậy, ông vấp
phải quyền hành nghiêm khắc của một tỉnh đổi mới
và ông chống lại một triết gia “ông này không
tôn trọng đức tin, cũng không tôn trọng sự lương
thiện trí thức”: Bruno bị loại ra khỏi Cène (bữa
ăn cuối cùng của Christ với tông đồ) và bắt buộc
phải rút lại lập trường. Hai năm sau ông sống ở
Toulouse, như là một người dạy triết, giảng dạy
những bài về De anima của Aristote.
Đến cuối mùa hè 1581, ông đến Paris. Vào lúc 33
tuổi, ông có một sự hiểu biết gần như không bờ
bến: đó là một người có trình độ học thức cao
nhất của thời đó. Ông cũng nổi tiếng có một trí
nhớ phi thường. Thực ra, Bruno ngay từ khi còn
rất trẻ đã chú tâm vào việc đào tạo trí nhớ, và
ông đứng đầu nghệ thuật khó khăn của trí nhớ
nhân tạo. Trí nhớ này gồm có đặc biệt là thuộc
lòng một số kết hợp những chữ và hình ảnh, liên
hệ tới hệ thống thiên văn và hoàng đạo. Bằng
cách in những điều này vào trong trí nhớ, ông ta
đẩy nó tới giới hạn và phát triển ra sức mạnh,
và có thể chế ngự thiên nhiên và tinh thần của
ông – nói tóm tắt, ông trở thành một nhà “ảo
thuật”.
Ở Bruno, ảo thuật không giữ một vai trò phụ
thuộc; tất cả tư tưởng của ông, trái lại, được
xây dựng bởi linh tính “ảo thuật” coi vũ trụ như
là một toàn thể thống nhất, một thực thể vĩ đại
sống động, và siêu hình học của ông nhằm mục
đích trình bày sự thống nhất của vũ trụ như là
trở về với Thượng Đế. Ông mô tả vũ trụ ấy như là
vô cùng. Thực ra, như là người tích cực ủng hộ
những thuyết của Copernic coi mặt trời là trung
tâm (chứ không phải trái đất như được ghi trong
Kinh Thánh, một trung tâm độc nhất gây ra những
liên hệ cứng ngắc và tuyệt đối), ông hình dung
một vũ trụ gồm có những ngôi sao, những ngôi sao
đó như là những mặt trời, trung tâm của những
thế giới vô cùng; vũ trụ sống động và, vô cùng,
tái sáng tạo và mở rộng.
Từ đó người ta hiểu siêu hình và nhân chủng học
của Bruno, có tác dụng kích thích phi thường để
tự do tìm kiếm sự thật, đã không ăn nhịp với một
thế kỷ xáo trộn bởi những xung đột liên tục và
những chiến tranh tôn giáo.
Ở Paris, Bruno tiếp xúc với Henri III, một vị
vua trí thức và ưa thích bí mật, nhà vua say mê
Nolano, đã giao cho ông chức vụ giáo sư giảng
dạy ở “Collège de France”. Bruno là một giáo sư
rất khác biệt với những giáo sư quen thuộc, âm
thầm và buồn tẻ, ông gây sự thích thú cho cử tọa
bằng tài năng nhiều hình thức và học thức rộng
không thể tưởng tượng được của ông. Nhưng, khi
hoàn cảnh lại trở nên khó khăn với ông, ông
quyết định đi sang Anh, và, vào tháng Ba 1583,
ông đổ bộ xuống Douvres.
Ở Luân-đôn ông gia nhập nhóm Michel de
Castelnau, đại sứ của Pháp bên cạnh hòang hậu
nước Anh. Trong nơi trú ngụ được cung cấp do
tình bằng hữu và sự quý mến của de Castelnau,
ông đã viết một vài tác phẩm quan trọng nhất:
nhãn quan siêu hình của ông đã tới sự phát triển
hoàn toàn.
Sau thời gian quan trọng ở Anh, ông đi du lịch
rất lâu qua những thành phố chính của Đức và,
đến năm 1590, ông tới Francfort, một chợ sách
lớn nhất Âu-châu. Chính tại đó mà Bruno đã cho
phát hành những tác phẩm triết học quan trọng
khác, ông nhận được lời mời của một người quý
phái trẻ của thành phố Venise. Giovanni Mocenigo
lúc đó 33 tuổi; sau khi đã mua một tác phẩm của
Nolano, ông mong mỏi được biết Bruno để học nghệ
thuật về trí nhớ của ông.
Bruno đến Venise vào tháng Tám 1591. Ông sẽ đến
ở nhà Mocenigo, đi qua ngả San Samuelle, kể từ
tháng Ba 1592.
Tòa án xét xử Bruno. The trial of Giordano Bruno
by the Roman Inquisition.
Bronze relief by Ettore Ferrari, Campo
de' Fiori,
Rome.
Những giả thuyết khác nhau được đưa ra để giải
thích sự trở về Ý của ông. Đối với những người
này, ông trở về, vì bị thúc đẩy bởi lòng mong
mỏi nhìn lại quê hương mà thôi; trong viễn ảnh
đó, Venise chỉ là một trạm đầu tiên. Những người
khác cho rằng sự trở về của Bruno có thể là bởi
lý do muốn giảng dạy hay cũng là muốn thực hiện
một chương trình rộng rãi (và không thể thực
hiện) cải tổ chính trị và tôn giáo, mà chính ông
là người hướng dẫn.
Lý do sự trở về của ông có vẻ giản dị hơn: ông
đặt tất cả hy vọng vào vị giáo hoàng mới, mới
được bàu, và được nổi tiếng là một người ôn hòa.
Sau đó, Bruno hy vọng có thể sử dụng thành công
những hiểu biết ảo thuật mà ông đã học được để
chú tâm, vào những chuyện khác, đặc biệt là
thiên văn. Ông tin chắc có thể vượt qua những
khó khăn và được những người có thế lực ủng hộ
công trình nghiên cứu của ông. Sự tích cực của
hy vọng, hăng say, và của cả ngây thơ mà với
những thứ ấy ông lao vào chuyện phiêu liêu đó,
làm bi thảm hơn chuyện tiếp theo sau: tố cáo,
bắt giữ, xử án và tử hình.
Mocenigo, người phản bội.
Giữa nhà quý phải trẻ tuổi xứ Venise và người
khách, thì không thể có sự cách biệt nào lớn
hơn. Mocenigo rất hay nổi nóng và không có cái
văn hóa mà ông ta muốn học được mau chóng nhờ sự
giảng dạy của Bruno; ông ta cũng thích trả thù,
không thực sự quý phái, và nghi ngờ đối với ông
thày mà sự kính trọng của ông ta đối với ông
thày còn kém xa nhiều người học trò khác. Ông ta
hành động như một con buôn, cân nhắc món hàng mà
ông mua để chắc chắn nó xứng đáng với đồng tiền
bỏ ra:
“Tôi nuôi dưỡng bằng phí tổn của tôi con người
ấy, ông ta hứa dạy tôi rất nhiều điều, và đã
nhận rất nhiều tiền của tôi cho công việc đó;
nhưng tôi không lấy lại được gì, và tôi nghi ngờ
ông ta không phải người tốt”.
Những điều mà Bruno giảng dạy, Mecenigo không
thỏa mãn, ông ta cảm thấy như bi lừa gạt, và có
thể, ngấm ngầm đau khổ bởi ghen ghét vì sự học
thức mênh mông và trí nhớ không ai bằng của vị
cố vấn. Ông bắt đầu nghĩ tới phản bội, và bí mật
gài bẫy:
“Vào đầu tháng Tư, ông không giấu giếm với người
bán sách, là để không mất số tiền mà ông đã chi
ra, ông sẽ tố cáo người khách không nể nang, sau
khi đã rút được tất cả những cái gì có thể. Khát
vọng thành công trong âm mưu đó thúc đẩy ông che
giấu sự bất bình của ông, kìm giũ bản chất nóng
nẩy của ông và không tỏ vẻ mất kiên nhẫn”.
Tình
trạng tiến nhanh hơn khi Bruno tỏ vẻ muốn đi
Francfort, để có thể phát hành một tác phẩm mới,
hoặc là ông nghĩ rằng đã hoàn tất giao kèo mà
ông đã nhận.
Đó là đêm 22 tháng Năm. Bruno đã lên giường.
Mocenigo đột nhập vào phòng ông, cùng với một
người giúp việc và năm người thuyền chèo đi
theo, họ túm lấy ông và kéo ông vào trong vựa
lúa, nhốt ông ở đó. Người trẻ tuổi quý phái xứ
Venise bắt người tù phải hát, đe dọa tố cáo ông
với Tòa án Ca-tô nếu không từ bỏ chuyến đi
Francfort. Nhưng Bruno nổi giận và tỏ ra không
lấy gì làm sợ hãi những đe dọa của người cai tù.
Mocenigo bắt đầu sợ, có lẽ vì phản ứng bất ngờ
của Bruno. Nhưng dù sao, thì sáng hôm sau, một
sáng thứ bảy, ông yêu cầu một đại úy của công lý
với sự phụ giúp của một vài người quen thuộc,
dẫn Nolano từ vựa lúa tới một kho chứa đồ ở tầng
trệt, rồi, đến 3 giờ sáng, thì chuyển giao cho
nhà tù của Tòa án Ca-tô của Tòa Thánh. Đối với
Bruno một thời gian giam giữ lâu dài và những
phiên tòa bắt đầu mở ra. Không bao giờ nữa, ông
biết tới tự do, và cũng không thể dùng tài năng
phong phú của ông để viết sách mà ông vẫn còn
viết được. Vũ trụ vô cùng, thiên nhiên sống động
và tràn ngập những câu trả lời và những ý nghĩa
thần thánh, những ngôi sao, những hành tinh,
những phương trời và những thế giới, mất con
người có thể là người ca hát vĩ đại nhất.
Cái nguy hiểm của lý trí.
Bruno, cũng như nhiều nhà tiên tri trước và sau
ông, không có may mắn. Ông hy vọng sống ở buổi
bình minh của một thời đại mới, nhưng ông bị
giam giữ trong phòng tối ẩm ướt của nhà tù San
Domenbico di Castello, trong tay của Tòa án
Ca-tô, nạn nhân không phải chỉ của một sự phản
bội, mà là sự phản bội của một người xấu xa, yếu
đuối, với sự thèm khát không che giấu kỹ, mà sự
giận dữ đã đổi thành một thứ điên cuồng và thất
vọng biết kìm hãm và kiểm soát. Cái điều quan
trọng nhất trong giờ phút này đối với người tù,
như chúng ta sẽ thấy, là thoát ra khỏi mau
chóng, là lấy lại sự tự do mà ông ta biết đó là
thức ăn cần thiết cho tư tưởng ông, bởi vì ông
cảm thấy có đầy đủ phương tiện và cũng biết
rằng, ông còn có thể cống hiến nhiều nữa.
Trong thời gian đó, Mocenigo sợ hãi, và run sợ
khi nghĩ rằng ông sẽ gặp cái nguy cơ bị dính líu
vào vụ này mà chính ông gây ra. Điều này giải
thích vì sao ông cứ thêm tố cáo này đến tố cáo
khác, vứt thức ăn cho quan tòa Ca-tô bất cứ chi
tiết nào, thực hay chế tạo ra, và ông tìm cách
làm mất uy tín hoàn toàn của một người truớc kia
là khách của ông, để cứu chính ông. Ngoài ra,
ông ta tỏ vẻ hèn hạ một cách đáng khinh bỉ đối
với tòa án, không những trong hình thức, mà từ
nội tâm. Chắc chắn rằng, Tòa Thánh gây ra một sự
sợ hãi ghê gớm đối với bất cứ ai, và tiếp xúc
với nó nhiều khi cũng đủ để gây ra một sự lệ
thuộc tâm lý hoàn toàn. Nhưng, Mocenigo là dòng
giõi của một trong những gia đình lớn ở Venise,
và Tòa án Ca-tô của Cộng hòa Venise là một trong
những Tòa án ôn hòa nhất của bán đảo.
Mocinego nộp ba bản tố cáo, trong những ngày 23,
25 và 29 tháng 5, 1592. Sau đây là những lời lẽ
mà ông viết cho quan tòa Ca-tô Giovan Gabriele
da Sluzzo, trong bản tố cáo đầu tiên:
Kính thưa Cha tôn kính và Lãnh chúa tối cao,
tôi, Zuane (Giovanni) Mocenigo, con của ông
Marco Antonio, xin tố cáo với Cha tôn kính, vì
vấn đề lương tâm và theo lệnh của Cha đỡ đầu, đã
nghe Giordano Bruno le Nolano nói, trong khi
thảo luận với tôi, trong chính nhà tôi, điều sau
đây: thật là một sai lầm nghiêm trọng của những
người Ca-tô khi xác nhận rằng bánh đổi thành
thịt; ông ta là kẻ thù của lễ mi-sa; không một
tôn giáo nào làm vừa ý ông; rằng Christ là một
“nhân vật buồn thảm”, và khi thực hành những
công việc buồn thảm để dụ dỗ dân, ông ta có thể
tiên đoán ông sẽ bị bắt; rằng trong Thượng Đế
không có sự phân biệt người này với người khác,
bởi vì như thế là Thượng Đế không hoàn hảo; rằng
thế giới là vĩnh viễn và rằng những thế giới
nhiều vô số kể, và rằng Thượng Đế không ngừng
sáng tạo ra thế giới, bởi vì, ông ta còn xác
nhận, Thượng Đế muốn bao nhiêu là có bấy nhiêu;
rằng những phép lạ của Christ chỉ là giả tạo và
rằng người đó là một phù thủy, các tông đồ cũng
thế, và rằng ông ta cũng có khả năng làm được
như thế và còn nhiều hơn nữa; rằng Christ không
tự ý nhận lấy cái chết, và rằng Christ đã cố
gắng chạy trốn cái chết; rằng không có hình phạt
vì những tội lỗi, v.v., rằng những linh hồn được
sáng tạo bởi thiên nhiên di chuyển từ con vật
này tới con vật khác […] . Ông ta tỏ ý muốn
thành lập một giáo phái mới dưới tên một triết
học mới; ông ta nói rằng Đức Bà đồng trinh không
thể sinh con, và rằng đức tin Ca-tô của chúng ta
đầy rẫy những lời phỉ báng sự vĩ đại của Thượng
Đế; và phải cúp lời nói và lương bổng của các sư
huynh (dominicains và franciscains) bởi vì họ hủ
hóa thế giới; họ tất cả đều là những con lừa, và
những quan niệm của chúng ta đều là học thuyết
lừa; rằng chúng ta không có bằng chứng là đức
tin của chúng ta làm vừa lòng Thượng Đế; và rằng
không làm cho người khác những điều mà chúng ta
không muốn người khác làm cho chúng ta là đủ để
sống tốt, và phải cười vào tất cả những tội
khác; và cuối cùng, tôi nghe ông ta nói ông ta
lấy làm ngạc nhiên tại sao Thượng Đế lại nâng đỡ
nhiều người tà giáo về phần những người Ca-tô
[…].
Những lời buộc tội ấy thật nặng nề và lập thành
một tỉ dụ của một trong những đường lối hành
động căn bản của bộ máy Tòa án Ca-tô: tố cáo vì
thù hận. Tòa án của Tòa Thánh, luôn luôn thiếu
nhân viên và tài nguyên, không thể tự mình kiểm
soát phần đất đai được trao cho Tòa Thánh mà
không có sự trợ giúp quan trọng của những chuyện
tố cáo tự động, những tố cáo vì thù hận, những
chuyện tự tố cáo.
Trong khi tố cáo lần hai (ngày 25 tháng Năm), mà
ở đó ông ta kể lại những trao đổi quan niệm mà
ông ta đã có với người tù, Mocenigo đã tự ý phản
bội, không để ý rằng hành động của ông là do
sự thù ghét thúc đẩy, khi xác nhận là
đã tìm cách để Bruno thay đổi ý định đi
Francfort bằng đe dọa tố cáo với Tòa án
Ca-tô. Nhưng tòa án không nhận thấy những
mâu thuẫn trong lập luận của Mocenigo, không
nhận thấy sự lộn xộn trong lời nói cũng như
những động cơ, và chỉ chú ý tới sự hợp lý tương
đối của lời tố cáo.
Ngày 26 tháng Năm, sau những can thiệp của hai
nhà sách, Ciotti và Brictano, Bruno được trình
bày với tòa án lần thứ nhất. Người ta không thể,
khi nghe đọc biên bản tòa án, không nhận thấy
tính cách bi thảm của phiên tòa ấy. Con người
ấy, một người đã là bạn thân của những vua và
hoàng hậu, những nhà quý phái và thông thái ở
khắp Âu-châu, nhà thi sĩ giàu tài năng, nhà
triết học, một người đầu tiên đã hiểu những tiềm
năng của môn khoa học copernicienne mới và sự
cần thiết phải kết hợp với nhãn quan mới về thế
giới, kể cả trong phạm vi siêu hình, bây giờ ông
ta đối đầu với những quan tòa đa nghi hỏi ông về
những lời mà ông nói trong riêng tư, có lẽ một
cách chế giễu hay khôi hài, với người trẻ xứ
Venise tự cao, kiêu ngạo và nhiều tham vọng! Sự
thông minh của ông, quen với sự nghiêm khắc của
lý luận, của sự chứng minh hay cả sự hăng say
trước một vài linh tính sáng chói về sự thật,
phải khuất phục trước những câu hỏi lạnh lùng và
khó chịu của những quan tòa không quen biết.
Tuy nhiên, Bruno chọn lựa, và sự chọn lựa không
thể phản hồi: tự bào chữa! Sống! Trở lại tự do!
Nhưng thật khó mà tưởng tượng ra cái bí mật của
sự đau khổ và sự cay đắng mà sự chọn lựa ấy mang
lại, cái vực thẳm của cô đơn mà ở trong đó từ
lúc này câu chuyện của Nolano diễn tiến.
Đó là một người tuổi bốn mươi đứng trước những
quan tòa. Ông ta thề trên Thánh Kinh là nói sự
thật và bắt đầu nói:
“Tôi sẽ nói sự thật: nhiều lần, tôi bị đe dọa
đưa ra trước Tòa Thánh, nhưng tôi vẫn coi điều
ấy như một chuyện khôi hài. Tôi sẵn sàng nói về
lý do chính đáng của điều tôi đã làm […]. Tên
tôi là Giordano, trong gia đình Bruni, thuộc
tỉnh Nola, cách xa Naples mười hai “mille”, sinh
ra và lớn lên trong thành phố đó, và nghề của
tôi đã và vẫn là chuyên nghề chữ nghĩa và các
môn khoa học”.
(Mỗi một mille là
1.478,50 m).
Bruno chọn ngay một chiến lược tự vệ căn cứ trên
sự cởi mớ lớn, tìm cách trình bày cho quan tòa
Ca-tô những chi tiết mà họ không biết. Chúng ta
không nên quên rằng phần nhiều những thủ tục của
Tòa án Ca-tô bắt đầu bằng hỏi bị cáo nếu hắn ta
biết vì lý do gì để bị bắt giữ, như thế thúc đẩy
bị cáo phải khai ra. Bruno đoán một cách sáng
suốt những lý do của sự bắt giữ. Tuy nhiên, trên
một điểm, dù rất tế nhị, chạm tới học thuyết
cũng như lý lịch của ông ta, ông thú nhận những
điều không trực tiếp đáng trách với ông ta. Có
lẽ ông tìm cách tỏ ra đáng tin cậy khi chấp nhận
cái gì ít nguy hiểm hơn cả, để có thể được tin
cậy khi bác bỏ những cái gì có vẻ rất nguy hiểm.
Trong tất cả giai đoạn của phiên tòa ở Venise,
ông ta đứng ở thế tự vệ, được trình bày theo ba
điểm: chấp nhận một phần những nghi ngờ và sai
lầm, phần nhiều là thần học; cương quyết chối bỏ
tất cả những tố cáo rất tầm thường (phỉ báng,
chế giễu hàng giáo phẩm, những quan niệm có hại
cho uy tín của Christ, v.v.); chứng tỏ một ý chí
hối hận mạnh mẽ.
Đó là không kể đến tính cách giữ dội trong lời
chứng của người tố cáo: không bằng lòng với hai
lần tố cáo đầu tiên, Mocenigo đến làm chứng một
lần thứ ba, ngày 29 tháng Năm. Có lẽ ông ta vẫn
còn sợ Bruno và những khả năng ảo thuật của
Bruno, cái con người Bruno ấy hình như đối với
ông là một con quỷ, khi ông ta giam giữ như tù
trong vựa lúa? Mocenigo, tù nhân của bộ máy mà
ông ta đã mở máy, tiếp tục:
“Kính thưa Cha tôn kính và Lãnh chúa tối cao,
bởi vì Cha rất tôn kính đã buộc tôi phải suy
nghĩ kỹ tới tất cả những gì tôi đã nghe được từ
Giordano Bruno, và tất cả những gì anh ta làm
đối với đức tin Ca-tô, tôi nhớ đã nghe anh ta
nói, ngoài những điều tôi đã viết trình lên Đức
Cha tôn kính, rằng cái cách mà Giáo Hội thực
hành bây giờ không phải là cái cách mà các tông
đồ đã dùng, bởi vì các vị này đã cải đạo dân
chúng bằng những lời giảng và nêu gương tốt đời
sống của họ, trong khi bây giờ, chính bằng hình
phạt và sự đau đớn mà người ta phải chứng minh
rằng người ta là một người Ca-tô tốt, bởi vì sức
mạnh đã thay thế tình thương. Anh ta còn nói
rằng thế giới không thể tiếp tục như thế, bởi vì
người ta chỉ thấy ở đó sự ngu dốt, không có một
tôn giáo nào tốt cả; và rằng nếu đạo Ca-tô làm
vừa lòng hắn hơn tất cả các tôn giáo khác, đạo
này cũng cần phải có một sự chỉnh đốn quan
trọng”.
Người trẻ quý phái nhấn mạnh tói sự việc là
Nolano đã dụ dỗ ông vào vòng ham mê xác thịt.
Tình thế đặc biệt đáng lo ngại hơn bởi vì, đằng
sau mỗi một lời buộc tội đặc biệt, còn có sự tố
cáo sâu xa hơn, nặng về những nghi kỵ về sau: tỉ
dụ, “đã ở lâu trong những nước tà giáo, và đã
sống theo phong tục của họ”.
Chính vì vậy mà sau lần tố cáo thứ hai trước
những quan tòa Venise (ngày 30 tháng Năm), trong
khi Bruno hoàn tất kể lể đời sống và mô tả đặc
biệt thời gian ông ở Genève, nhà triết học nhấn
mạnh tới việc ông luôn luôn và chỉ chọn những
hoàn cảnh của một đời sống tự do, để chú tâm vào
việc nghiên cứu và dạy triết, không bao giờ tham
gia vào tôn giáo Tin-lành.
Trong tất cả những cuộc hỏi cung, ông không bao
giờ không nhấn mạnh rằng ông chỉ nói về triết
học, không có một ý định vô tôn gíao nào, căn cứ
vào lý trí thiên nhiên mà thôi chứ không phải
những khái niệm về đức tin – điều này có thể dẫn
ông tới sai lầm! Như thế, trong toàn thể phiên
tòa, ông cố gắng làm cho quan tòa chú ý tới
triết học của ông, chứng minh rằng những nhà tư
tưởng như Platon và Aristote còn đi xa đức tin
Ca-tô hơn ông nhiều, và dù rằng những người đó
là mục tiêu nghiên cứu. Lập luận của ông chặt
chẽ nhưng quá tự do, đi trước thời đại của ông,
và chứng tỏ nó không có cách nào làm lung lay sự
cứng rắn nghiêm ngặt của các quan tòa Ca-tô.
Sau khi trình bày
ngắn gọn tư tưởng của ông, nhà triết học thú
nhận có những nghi ngờ về Ba Ngôi và sự Giáng
sinh của Lời, nhưng nhấn mạnh ngay tới sự kiện
là những nghi ngờ đó bao giờ cũng do sự sử dụng
“ánh sáng thiên nhiên” mà thôi mang lại. Người
ta không thể không ngạc nhiên trước sự thành tâm
đó, sự cởi mở can đảm đó trước những câu hỏi của
quan tòa, đến nỗi có khi làm nặng thêm phạm vi
của những lời tố cáo ban đầu. Với những phân
biệt liên tiếp mà triết gia trình bày giữa mức
độ đức tin và sự nghi ngờ triết học và duy lý mà
ông thú nhận đã cảm thấy, các quan tòa đáp lại
không lúc nào ngưng bằng những câu hỏi bắt buộc
phải chính xác, bác bỏ, hay không có khả năng
hiểu sự khác biệt mà Bruno nêu ra. Ông này đoán
trước sự phân biệt giữa cuộc nghiên cứu khoa học
với sự thật của đức tin, mà Galilée cũng đã đưa
ra trong phiên tòa của ông. Đối với nguời này
cũng như người kia khi đối diện với quan tòa,
thì vẫn là diễn xuất của cùng một tấn kịch, mà ở
đó đương đầu nhau không phải là hai quan niệm
khác biệt của cùng một thứ lô-gic, nhưng mà là
hai lô-gic hoàn toàn khác biệt. Như vậy, Bruno,
mà tài năng trình bày những vấn đề về khoan dung
mà Âu-châu chỉ đề cập tới với những Ánh Sáng và
suy tư của thế kỷ XVIII, các quan tòa chống lại
những nguyên tắc và cho rằng sự tự do nghiên cứu
và sự
thật triết học phải lệ thuộc vào bộ máy giáo
điều và quyền hành của hàng giáo phẩm.
Ngoài ra, trước cả đống củi và những vụ tra tấn,
và kể cả khi vắng bóng những thứ đó, sự bạo động
của Tòa án Ca-tô đã hiện hữu tất cả trong cấu
trúc của những câu hỏi, trong sự giả điếc của
một quyền hành không để ý gì đến mọi thứ lập
luận, cũng như sự hợp lý của lý luận và sự trình
bày. Tuy nhiên, trong những cuộc hỏi cung trước
hết ở Venise, và sau này ở Rô-ma, Bruno giữ một
sự bình tĩnh lạ lùng không phải vì sợ hãi hay vì
kính trọng những người buộc tội. Sự bình tĩnh
này có một nguồn gốc khác: ngay từ lúc đầu tiên
ở trong nhà tù của Tòa Thánh, ông hiểu ông đã
rơi vào một cơ cấu như thế nào, và ông không chờ
đợi một sự hiểu biết thông thường hay sự thương
hại, ông hiểu rằng mọi thứ đều trái ngược với
ông. Đó là lý do mà nhờ nó, bên cạnh một đường
lối tự bào chữa chính xác và sự bám chắc vào một
hoàn cảnh cụ thể, ông tự đặt mình trên một bình
diện khác, mà không ai đến gần được cũng như
không đe dọa được – ông đã mô tả nó trong những
tác phẩm triết học của ông như tác phẩm
contracto animi, “tập trung linh hồn”: ở chỗ
bên trong đó với sự nhận thức trong suốt và tích
cực về tuyệt đối, với sự kết hợp tâm linh và yêu
thương với Một vô cùng, những sức mạnh thông
minh của linh hồn tất cả đều hướng lên trời. Cả
đến những trang khô khan của những cuộc thẩm vấn
cũng để lộ cho thấy cái cách mà Bruno có thể di
chuyển đồng thời trên hai bình diện đó: ông ta
vừa là nạn nhân của bộ máy Ca-tô và cũng đồng
thời ở chỗ khác, xa vắng, trong bình yên.
Khi các quan tòa Ca-tô hỏi ông về những tội nặng
nề nhất (đã nói xấu Christ, đã bác bỏ sự đồng
trinh của Mẹ Thượng Đế, v.v.) Bruno phản ứng,
giận dữ, với một thái độ hết sức cứng rắn, và tỏ
ra hết sức buồn rầu. Khi, tiếp theo sau, các
quan tòa đi đến việc buộc tội những lời phê bình
đối với Gíao hội Ca-tô, những xác nhận của ông
về những phép lạ giả mạo của Christ hay về khả
năng của Christ làm những phép lạ lớn hơn, hay
còn muốn “làm cho mọi người đi thẳng”, Bruno
“trả lời bằng cách đưa hai tay lên trời” để
nói:
“Cái đó là gì? Ai đã chế tạo ra chuyện ma quỷ ấy
? Tôi không bao giờ nói những điều như thế, cũng
không bao giờ chuyện đó đến trong sự tưởng tượng
của tôi. Thượng Đế ôi, cái đó là gì ? Tôi muốn
chết hơn là nói những lời như thế”.
Nhà triết học hiểu rằng kể từ nay, vấn đề chính
là, lương tâm của ông và khả năng đương đầu được
hay không đối với sức ép khủng khiếp mà Tòa án
Ca-tô biết áp dụng đối với người nào tình nghi
tà giáo. Thực ra, các quan tòa Ca-tô chỉ yên tâm
khi biết chắc sự phục tùng hoàn toàn của
người tình nghi, từ bên trong. Chính
người tình nghi cũng biết rằng, sự thú tội hoàn
toàn, cũng như ý chí cương quyết hối lỗi, không
đủ để làm cho quan tòa yên tâm, anh ta biết rằng
các quan tòa có nhu cầu cảm thấy anh ta trước
hết hoàn toàn gẫy vụn, rồi nhìn thấy
lương tâm và sức mạnh tinh thần của anh ta hoàn
toàn tan rã và suy sụp. Anh biết rằng chính sự
tự do của anh ta, chứ không phải quan niệm của
anh ta, làm tổn thương lương tâm bị bỏ tù của
các quan tòa.
Thực ra, tất cả bộ máy của Tòa án Ca-tô được xây
dựng để mổ xẻ lương tâm, và thành công không
những trong việc khám ra ra sự sai lầm và tội
lỗi, mà là diệt trừ những thứ đó từ cỗi rễ để
loại bỏ, nếu có thể nói thể, tới cả khả năng
phạm tội. Về những dụng cụ để đi tới đó, nó có
rất nhiều và rất quỷ quyệt, và Bruno biết, ông
ta hình dung ra những thứ đó, khủng khiếp, trong
khi chúng siết chặt quanh ông càng ngày càng
nhiều. Không phải chỉ là đe dọa tra tấn, nguy cơ
bị hỏa thiêu, sự hạ nhục đương nhiên vì phải
công khai chối bỏ quan niệm; tất cả những cái đó
có thể tượng trưng cho một lối ra, nhưng vẫn còn
quá bề ngoài và giản dị trong cơ cấu. Quan tòa
có nhiều đường lối khác: tỉ dụ, sự quản trị
thời gian, thời gian có thể giãn ra với người tù
bị nhốt trong một nhà giam riêng của Tòa Thánh,
gây ảnh hưởng tới người tù để hủy diệt nghị lực
của anh ta. Thực ra, quan tòa quyết định lúc
hỏi cung và thời gian hỏi cung; cũng có khi gián
đoạn: thỉnh thoảng, từ lần hỏi cung này đến lần
sau, cách xa nhau hàng tháng hay hàng năm. Sự
đau đớn khổ sở nhất, đối với Bruno, chính là
nhàn nhã bắt buộc và không được đọc sách hay
viết, ngoài những hành động liên quan tới bản
án.
Việc sử dụng sự dịu dàng là một công cụ ghê gớm
khác, cái cách xảo quyệt làm cho bị cáo tin rằng
cái mà người ta thành thực mong muốn, là điều
tốt cho bị cáo, sự trở về hoàn toàn với chính
thống và toàn vẹn của tôn giáo ky-tô. Sự dịu
dàng ấy gây đau khổ biết bao, làm tổn thương nội
tâm, nhưng nó cũng thật hấp dẫn… Đã xảy ra ở
Venise, sau lần hỏi cung lần thứ tư, sau khi
nhắc cho nhà triết học lớn những lời buộc tội
chính và rất nhiều chứng cớ mà tòa án đã có,
quan tòa nói với Bruno bằng những lời vừa có
tính cách cha con vừa đe dọa. Trong khi đọc với
một cái rùng mình, chúng ta đi vào tim bộ máy
của Tòa án Ca-tô:
“Nếu anh muốn cầu nguyện và vận dụng hết con
người của anh để, một khi trở lại với chính anh
– bởi vì anh đã chứng tỏ trong một vài việc,
muốn thừa nhận những lầm lẫn của anh -, anh tiếp
tục làm nhẹ bớt lương tâm và nói lên sự thật,
anh có thể tin rằng vì cái đó, tòa án chứng tỏ
sự khoan hồng bằng mọi cách có thể được, cần
thiết và thích đáng để cứu rỗi linh hồn anh. Và
nhất là, thú tội rõ ràng và chính xác những lỗi
lầm và những tà giáo mà anh đã tuyên bố, bảo vệ
và tin tưởng, chống lại đức tin Ca-tô […] làm
một sự xưng tội rõ ràng, thành thực và cởi mở
của tất cả đời anh, cả khi anh còn ở trong Dòng
và sau này, để có thể tới được ý định và mục
đích nó phải hướng dẫn tất cả mọi hành động và ý
nghĩ: được nhận vào trong lòng Giáo Hội mẹ thần
thánh và trở thành thành viên của Jésus Christ”.
Tiếp theo những lời mời gọi sám hối, với cách
nói dịu dàng có vẻ khoan dung, xen kẽ vào
những khe góc của cuộc thẩm vấn, những lời đó
như là một nọc độc đối với bị cáo, là thêm vào,
đến nỗi có thể thay thế hẳn, một sự đe dọa nặng
nề nhất, dù được che dấu kỹ:
[…] “Không quên để nói với anh rằng nếu anh cứ
ngoan cố chối những điều mà anh đã tin tưởng, và
những điều đó đi ngược với đức tin Ca-tô và Giáo
Hội thánh, thì anh không nên lấy làm ngạc nhiên
nếu Tòa Thánh phải hành động đối với anh, bởi
những phương pháp công lý mà Tòa Thánh có sẵn
đối với những người có thái độ bất kính không
chịu thừa nhận sự xót thương của Thương Đế”.
Trong cuộc thẩm vấn lần năm (ngày 3 tháng Sáu),
và lần sáu (ngày hôm sau), các quan tòa kiên
nhẫn mời gọi nhà triết học nhớ lại những niềm
tin lầm lẫn, hay những tội và thiếu sót có thể,
đã xảy ra trong quá khứ. Những câu hỏi vẫn y như
cũ, lý do căn bản luôn luôn nhắc lại là ở sự
kiện, bị cáo đã sống nhiều năm ở những nước mà ở
đó có tà giáo; những quan tòa Ca-tô có vẻ như
không thể chấp nhận quan niệm rằng ông ta đã
không tham gia vào những nghi lễ tôn giáo của
những nước mà ông ta trú ngụ. Bruno luôn luôn
duy trì chặt chẽ sự mạch lạc của những xác nhận
khác nhau mà ông ta đã làm theo dòng thẩm vấn;
không lần nào ông nói ngược lại, luôn luôn lập
luận một cách rõ ràng, nhưng giản dị, như là ông
đã cẩn thận để làm cho quan tòa hiểu ông, không
thể có sự mơ hồ hay hiểu nhầm.
Sự thành tâm nhận một vài lỗi hay niềm tin sai
trái nhưng không nghịch lý đối với ông không thể
làm cho quan tòa vô tình. Trong phần bào chữa
của ông, ông được sự nâng đỡ bởi sự kiện là các
quan tòa Ca-tô áp dụng nghiêm khắc những đường
lối ấn định trong sách Ca-tô và cung cấp cho bị
cáo một bản của những cuộc thẩm vấn có ghi những
lời thú tội của ông cũng như những lời buộc tội
hay những chứng nhận của các nhân chứng khác.
Sau lần thẩm vấn của quan tòa tối cao Morosini
và của nhà sách Ciotti, cả hai người đều có thái
độ thuận lợi ở điểm chính cho Bruno, thì gần hai
tháng qua đi trong yên lặng. Thời gian thật là
dài sau sự khốc liệt của những lần hỏi cung đầu,
được thi hành gần như điên cuồng. Bruno đặt niềm
tin vào sự kiện là cộng hòa Venise có một truyền
thống độc lập lâu đời và vững chắc đối với Tòa
Thánh, và rộng lượng hơn Tòa án Ca-tô Rô-ma. Ông
tin là ông đã thuyết phục được; ngoài ra, hành
động sám hối của ông là thành thực, hay ít ra
cũng có vẻ như thế. Ông biết rằng ông phải lấy
lại được sự tự do, cầu nguyện bằng mọi giá sự
kéo dài việc xử án, với cái nguy cơ là ông bị
chuyển về Rô-ma. Còn quá nhiều điều ép vào ông,
còn quá nhiều dự án mà ông chưa kịp khởi sự.
Ngày 30 tháng Bảy 1592, cửa nhà tù lại mở ra,
ông được dẫn vào phòng dùng cho cử tọa của tòa
án. Trong khi ông đi qua những hành lang ảm đạm
của nhà tù, ông đã lấy một quyết định cuối cùng:
ông xin được tha thứ, ông tìm cách có được một
sự hồi phục đầy đủ. Ông không quan tâm tới cái
giá mà ông phải trả để có được tự do; điều mà
ông chờ đợi, ngoài một loạt những hình phạt, là
sự tái gia nhập vào dòng “dominicain”, với sự
bắt buộc phải ở một tu viện trong một số năm nào
đó, giam kín. Bruno vẫn còn đặt niềm tin vào khả
năng của Giáo hội Ca-tô để hiểu ông và, có lẽ,
như ông vẫn thường nhắc nhở với các quan tòa,
ông vẫn nghĩ đến là có thể tiếp xúc với giáo
hoàng đẻ xin Ngài tha thứ và dâng lên Ngài tác
phẩm của ông về “Les sept arts libéraux”
(Bảy nghệ thuật tự do).
Nhưng đây có lẽ là phiên tòa mà cường độ bi thảm
tỏ ra mạnh nhất: không biết đây là lần thứ bao
nhiêu, những quan tòa hỏi Bruno, nhắc lại những
câu hỏi đã đặt ra trong tất cả những phiên tòa
trước. Cái cách trở lại những vấn đề mà Bruno đã
trả lời đầy đủ và cặn kẽ, giống như một phiên
tòa thôi miên, làm y như là, nếu cứ bị nghe
hỏi mãi cũng những điều đó, bị cáo phải tới
lúc nhập tâm cái tội mà những quan
tòa gán cho hắn. Ngoài ra tất cả những phiên tòa
Ca-tô đều được mở ra với sự phỏng đoán cho rằng
bị cáo có tội. Nhưng, trong trường hợp Bruno, sự
nhấn mạnh của các quan tòa tố cáo sự thiếu
tin tưởng và thiếu khả năng hiển nhiên của họ
để chế ngự những rắc rối của vấn đề đặt ra trước
mặt họ.
Như vậy, được mời gọi suy nghĩ kỹ về đời sống
của mình và những tội lỗi đương nhiên phạm phải
trong những nước tà giáo mà ông đã ở, “để
trong sạch hóa theo luật pháp” lương tâm của
ông, Bruno trả lời:
“Có thể rằng, trong một thời gian lâu như thế,
tôi có thể đi lạc và đi ra ngoài Giáo Hội thánh,
bằng một cách nào khác hơn là những cách mà tôi
đã kể, và rằng tôi bị sa vào tội lỗi theo như sự
xét đoán của hàng giáo phẩm: nhưng, sau khi suy
nghĩ nhiều về vấn đề đó, tôi không nhớ đến
chuyện đó. Tôi đã thú nhận và tôi thú nhận bây
giờ những lỗi lầm của tôi, những lỗi lầm đó ở
đây, trong tay của các quan tòa danh tiếng, để
có thể nhận được phương thuốc cho sự cứu rỗi của
tôi”.
Sau những lời đó, quỳ xuống trước các quan tòa,
và với một giọng đầy đau đớn và sám hối, đưa hai
tay lên trong giáng điệu cầu khẩn, Bruno kêu
lên:
“Tôi, kẻ hèn mọn, xin sự tha thứ của Thượng Đế
và những quan tòa rất danh tiếng, cho tất cả
những lỗi lầm mà tôi đã phạm phải […]. Và tôi
sẵn sàng thi hành tất cả những gì mà quý Ngài
quyết định một cách khôn ngoan và xét ra thích
hợp cho linh hồn tôi. Hơn thế nữa, tôi cầu xin
quý Ngài trừng phạt tôi nặng nề, nhiều hơn là
lỗi lầm của của tôi đáng phải chịu, chứ không
đem tôi ra làm một màn kịch công khai có thể làm
mất danh dự cho cái áo thánh của tôn giáo mà tôi
đã mang”.
Quang cảnh rất kịch, tích cực, và có lẽ đã gây
xúc động cho những quan tòa Ca-tô đang quan sát
ông và cảm thấy trong những lời của triết gia
một dấu hiệu thành thực. Trên bình diện xử án,
sự thừa nhận tội hoàn toàn ấy, kèm theo lời xin
được tha thứ, đủ để cho bị cáo thoát khỏi nguy
cơ bị kết tội tử hình, chỉ áp dụng trong trường
hợp từ chối sám hối, ngoan cố và kiên nhẫn trong
sai lầm. Bruno kết thúc lời cầu xin tha thứ bằng
một lời hứa long trọng, vẫn quỳ:
“Và nếu, bằng sự xót thương của Thượng Đế và các
Quan tòa rất danh tiếng, tôi được ban sự sống.
Tôi xin hứa cải đổi đời tôi thật nhiều, và chuộc
tội xấu mà tôi đã gây ra bằng chừng đó những
việc làm tốt”.
Các quan tòa phải nhiều lần bảo Bruno đứng
lên.
Bruno đi Rô-ma.
Tuy nhiên, các quan tòa không thỏa mãn. Họ cảm
thấy đứng trước một trường hợp với khó khăn hiếm
có, mà sự rắc rối lại gia tăng bởi sự kiện, bị
cáo không phải bất cứ một kẻ phạm tội nào bị kết
tội là đã, nhiều hoặc ít, có ý thức về quan niệm
tà giáo. Họ đứng trước một triết gia lớn, với sự
hiểu biết rộng rãi, kể cả trong lãnh vực thần
học, ông ta có thể kể một cách dễ dàng những vị
Cha của Giáo Hội, Augustin và Thomas, biết rõ
một cách hoàn toàn lịch sử của triết học cũng
như những Kinh Thánh, và đã viết nhiều bài mà ở
đó ông lập luận có lợi cho một nhãn quan về thế
giới và về vũ trụ mà theo đó thế giới và vũ trụ
có vẻ hoàn toàn tự do và đặc biệt, nhưng lại
trái ngược với những truyền thống đã được thiết
lập vững chắc. Vấn đề đặt ra như vậy, không phải
chỉ là trừng phạt, sửa chữa hay thâu nhận vào
đức tin chính thống một người tà giáo nào, nhưng
mà là thiết lập rõ ràng cho tất cả mọi người,
giới bình dân cũng như cộng đồng khoa học, thế
tục hay tu sĩ, biết đâu là lập trường đúng được
Giáo hội chấp nhận, và sai lầm ở chỗ nào. Và tòa
án Venise cảm thấy không đủ khả năng đối với một
trường hợp rắc rối như thế.
Ngoài ra, theo một thủ tục bắt đầu từ năm 1581,
những tòa án vòng ngoài rải rác trong những Quốc
Gia khác nhau phải gửi về Tòa Thánh Rô-ma những
tổng hợp của tất cả những phiên tòa hiện hành,
và, với những trường hợp quan trọng hay khó khăn
hơn, một bản sao toàn thể diễn tiến của các
phiên tòa. Thủ tục này bảo đảm sự kiểm soát của
Tòa Thánh Rô-ma đối với tất cả những gì mà Tòa
Thánh muốn biết ở những tòa án khác nhau, theo
một hệ thống triệt để đẳng cấp; nó giúp cho việc
tập trung những quyết định quan trọng nhất, đặc
biệt là việc phân phối hình phạt hay kết tội,
chỉ chừa lại một phần rất ít cho sự độc lập của
các tòa án bên ngoài.
Đương nhiên, trường hợp Bruno gây nên tức khắc
một quan tâm lớn lao của Tòa Thánh, và Tòa Thánh
đòi dẫn độ bị cáo về Rô-ma. Từ tháng Tám 1592
đến tháng Hai 1593, nhờ có sự chú tâm của cá
nhân giáo hoàng và những áp lực ngoại giao chồng
chất, Tòa Thánh tìm cách và thành công trong
việc chuyển giao Bruno cho Tòa án Rô-ma của Tòa
Thánh. Nhà triết học nhổ neo ở Venise, ngày 19
tháng Hai 1593, và lên đường tới hải cảng
Ancôme. Ngày 27, ông đi vào tòa nhà buồn thảm
nổi tiếng được xây dựng xong năm 1569, tòa nhà
này trở thành địa điểm trung ương của Tòa án
Rô-ma, không cách xa bao nhiêu vói đền Thánh
Pierre. Cửa nhà tù vừa đóng lại cái ầm sau lưng
ông: ông đã vào nơi mà ông bị nhốt trong tám
năm sau và chỉ đi ra để đến Camp dei
Fiori. (Nơi mà những người bị kết án hỏa
thiêu bị đốt).
Giordano chỉ có một mình, bị quay cuồng bởi
chuyến đi dài và hàng nghìn những ý nghĩ trong
đầu óc từ khi biết sẽ phải giải giao về Rô-ma.
Tuy nhiên chân trời có vẻ đối với ông như không
hoàn toàn đen tối. Đến gần Tòa Thánh của giáo
hoàng có thể làm cho ông được người ta nhìn thấy
và được phục hồi hoàn toàn. Ông nhìn xung quanh
căn nhà tù mà ông bị giữ ở trong đó: đó là một
phòng rộng lớn khác thường và đầy đủ ánh sáng,
có một cái cửa sổ kích thước bình thường và
những lưới sắt dầy. Ở giữa phòng, có một cái
bàn, với những ghế ngồi và, tựa lưng vào tường,
những cái giường, và ở trên một những cái giường
đó có những khăn trải giường và những khăn lau
tay sạch. Cái cảm giác mà ông rút ra được không
hoàn toàn thiếu phần tích cực, nếu trừ ra sự im
lặng bất thường ở xung quanh, và việc không thể
thông tin với nhà tù bên cạnh vì chiều dày của
bức tường và cái co giãn nặng nề của thời gian.
Người ta thông báo rất nhanh cho ông biết những
luật lệ mà ông phải tôn trọng trong nhà tù
Rô-ma: cấm không được nói hay thông tin bằng bất
cứ cách nào vời tù nhân của những phòng giam
khác; người ta không thể đọc cũng không thể
viết, ngoại trừ đó là vấn đề liên quan đến vụ
án; cấm không được gửi thư ra bên ngoài hay bên
trong nhà tù. Những luật lệ này thật nghiêm
khắc, nhưng Bruno bị đau đớn nhiều nhất là cấm
không được đọc được viết.
Tuy nhiên, như là người bị giam giữ bởi tòa án
của Tòa Thánh, Bruno nhận thấy trong luật dân sự
những điều ngăn cấm ấy nhẹ hơn, bởi vì chế độ
của nhà tù Ca-tô đi trước những nhà tù tương tự
của công lý thế tục: người tù có thể nói chuyện
với bạn tù trong phòng, thay đổi quần áo (khăn
giường và khăn mặt) hai lần một tuần, được đi
tắm, cắt tóc và đưa quần áo cho cô thợ giặt,
được sửa chữa quần áo mà phương tiện được cung
cấp; thức ăn được lựa chọn kỹ và rượu thì không
thiếu. Ngoài ra, mọi người bị giam giữ đều có
thể đều đặn trình bày, để xin được cứu xét đặc
biệt, hay những nhu cầu cho quan tòa. Không
những thế các quan tòa đi thăm mọi người tù để
trực tiếp nghe những lời than phiền nếu có của
họ – theo lý thuyết mỗi tháng một lần, nhưng
thực ra chỉ có trước những ngày lễ quan trọng.
Vào lúc ấy, phòng tù của Bruno chứa bốn mươi bốn
người tù, không kể ông ta, phần nhiều là những
người tôn giáo.
Việc xử án Rô-ma tiến hành vô cùng chậm hơn ở
Venise, dù rằng ngay từ đầu nó chỉ là sự nối
tiếp việc cũ và không cần những chỉ thị mới.
Mùa thu 1593. Sự uể oải của Tòa Thánh đột nhiên
sôi động bởi một sự kiện bất ngờ; một nhân chứng
mới xuất hiện, ông ta trước kia là bạn tù của
Giordano Bruno trong nhà tù ở Venise và tố cáo
ông một loạt những tội tà giáo đặc biệt nặng nề.
Đó là khởi đầu cho một khúc quanh tai hại trong
bản cáo trạng Bruno. Người tố cáo là một sư
huynh dòng “capucin”, Celestino da Verona, ông
này bị thiêu sống vì tà giáo một vài tháng trước
nhà thông thái, ở Camp dei Fiori, ngày 16 tháng
Chín 1599, sau khi đã ở tù gần mười năm trong
những nhà tù của Tòa án Ca-tô. Ông tưởng rằng
những lời khai của Giordano, khi ra tòa, đã gây
thiệt hại cho ông. Sự nghi ngờ không căn cứ có
lẽ đã được nuôi dưỡng bởi một sự ghen ghét bí
mật với nhà triết học. Đồng thời, chuyện tình cờ
ấy cho thấy cái không khí u ám giữa những nạn
nhân của Tòa án Ca-tô: nghi ngờ lẫn nhau, sự
đau khổ và tuyệt vọng gây ra bởi cô đơn và bỏ
rơi, những tra tấn liên tiếp, suy sụp thân xác
và tinh thần, cuối cùng có ưu thế hơn lương tâm
của những người mạnh nhất, và gây ra một bàu
không khí tốt cho sự tố cáo bẩn thỉu, lừa gạt,
nói dối, mà ở đó tất cả mọi phương tiện đều tốt
để cải thiện vị trí của chính mình, dù nó có hại
cho những người khác. Bởi những lời tố cáo
vô ý thức và vô ích, sư huynh Celestino hy vọng
có thể lung lạc quan tòa và được quan tòa nhận
thấy rằng ông là người có ích, hay giản dị hơn
cả, ông nhắm vào việc làm hại người bạn tù cùng
phòng.
Dù sao đi nữa sự tố cáo của sư huynh Celestino
da Verona gửi đến trong bài viết nổ ra như một
trái bom trong lòng cộng đồng hồng y đang theo
dõi việc xử án Bruno; sau đây là bản văn:
“Dicit se deponere contra lordanum, quia
suspicatur se calumniose delatum fuisse ab ipso,
et detulit omnia contra lordanum in scriptis”.
Sư huynh cho biết rằng Giordano đã nói:
1. Rằng Christ đã phạm tội chết khi đã cầu
nguyện trong vườn, từ chối lòng tốt của Cha mà
nói: “Cha, nếu có thể, mang cái ly này ra xa chỗ
tôi”.
2. Rằng Christ không bị đóng đinh trên thập tư,
mà bị treo trên hai cành cây đặt thẳng góc, như
người ta vẫn làm khi đó, và được gọi là cái
chĩa.
3. Rằng Christ là một con chó; và cái người cai
quản thế giới này là một kẻ phản bội, bởi vì hắn
không biết cai trị tốt, và đưa cánh tay lên, hắn
giơ quả đấm lên trời.
4. Rằng không có hỏa ngục, và không có ai bị
trừng phạt đời đời, nhưng với thời gian, mọi
người đều được cứu rỗi, theo như châm ngôn:
“Numquid in aeternum Deus irascitur” (Sự tức
giận của Thượng Đế không phải mãi mãi).
5. Rằng có rất nhiều thế giới khác, rằng tất cả
những ngôi sao đều là những thế giới, và tin
rằng chỉ có thế giới chúng ta là một sự ngu dốt
lớn.
6. Rằng một khi những thân xác chết đi, những
linh hồn di chuyển từ thân này sang thân khác.
7. Rằng Moise là một tên phù thủy khôn ngoan […]
hắn giả vờ đã nói với Thượng Đế ở núi Sinai, và
rằng Luật mà hắn đem cho dân Do-thái đã do chính
hắn tưởng tượng ra, và đó là luật giả.
8. Rằng tất cả những nhà tiên tri đều là những
người giỏi, mưu mẹo và dối trá […].
9. Rằng xin sự giúp đỡ của các thánh là chuyện
khôi hài và không nên làm.
10. Rằng Cain là một người tốt và hắn đã giết
một cách chính đáng người anh của hắn, anh này
là kẻ giết loài vật.
11. Rằng, nếu anh bị bắt buộc trở lại làm sư
huynh Dominique, anh muốn đốt tu viện mà anh sẽ
ở đó, và rồi anh muốn trở về Đức hay Anh, với
những người tà giáo, để sống thoải mái theo như
ý thích […]
12. Rằng người nào cầu kinh mỗi ngày, hay ra
lệnh cầu kinh, là một con chó ngu xuẩn, không
xứng đáng.
13. Rằng những giáo điều của Giáo hội, không có
gì chứng minh được.
Không thỏa mãn với những lời tố cáo hết sức nặng
nề, sư huynh Celestino kêu gọi ba người đồng tù
khác của Tòa án Ca-tô Venise đến để xác nhận.
Những lời tố cáo này là mới so với những lời của
Mocenigo, và nó gây ra hậu quả là cứu xét lại
việc xét xử, đúng vào lúc mà Bruno, vẫn còn dưới
ảnh hưởng của cử chỉ sám hối ngoạn mục ở Venise,
nghĩ tới một lối ra không đau đớn. Nhưng bây giờ
tất cả chiến lược trước và những lợi điểm đã có
được đều bị hủy bỏ cái rụp. Nhưng nặng nề hơn
cả: cái đà chính của việc bào chữa cho Bruno sụp
đổ, với sự biến dạng lập luận của nhân chứng duy
nhất, Mocinego.
Thực ra, hoàn cảnh của Bruno trở nên thực sự
thất vọng khi ba nhân chứng được gọi tới để làm
chứng, tiếp theo sau sư huynh Celestino, đã xác
nhận, ít ra là một phần, những lời tố cáo; đó là
sư huynh carme Giulio da Salò, người thợ mộc ở
Naples Francesco Vaia, và Matteo de Silvestris.
Vaia, đến lượt hắn, đưa ra một nhân chứng khác,
Francesco Graziano, được các quan tòa nghe ngay,
cuối tháng Ba 1593. Chúng ta đứng trứơc một
trong những “dây xích” tiêu biểu của những liên
can và nhân chứng tiếp theo nhau mà các Tòa án
Ca-tô rất khôn khéo để lần ra, trong tiến trình
của những điều tra lâu dài và kiên nhẫn.
Sự chứng nhân của
Graziano làm nặng thêm hoàn cảnh của Bruno. Đó
là một người khá trí thức, ông ta sống bằng chép
lại hay dịch sách, và bằng dạy học. Ông ta đã
ủng hộ một phiên tòa của Tòa án Ca-tô ở Venise,
năm 1585, và bây giờ ông ở trong tay Tòa Thánh,
trong hoàn cảnh khó khăn của sự rơi trở lại vào
tà giáo. Graziano xác nhận tất cả những lời tố
cáo của sư huynh Celestino, và còn thêm vào một
lời khác, xác nhận rằng Bruno chỉ trích việc thờ
ảnh tượng thánh.
Một
khi đã thâu thập đầy đủ mọi lời chứng, tòa án
bắt tay mau chóng vào việc làm và thẩm vấn Bruno
trong tám ngày liên tiếp, trước cuối năm 1593.
Bruno tổ chức một cách mạnh mẽ sự bào chữa, và
như trước kia ở Venise, ông bác bỏ toàn bộ tất
cả những lời cáo buộc. Ông không chấp nhận một
cách khinh bỉ những cáo buộc có tính cách sỉ
nhục và thiếu kính trọng nhất. Ông thừa nhận có
nói một vài điều, nhưng đặt nó lại vào bối cảnh
khôi hài và thân thuộc, mà ở đó mọi dụng ý nhạo
báng hay phạm thánh đều không thể có. Vâng, bằng
tính cách khôi hài ông đã nói là Cain đã làm
đúng khi giết Abel!
Ngay sau giai đoạn tấn công của phiên tòa, người
ta đi đến giai đoạn nhắc lại, gồm có hỏi đi hỏi
lại tất cả nhân chứng buộc tội, sau một thời
gian mà họ nạp bản tố cáo đầu tiên, về tất cả
những điều còn đang bàn cãi. Theo lý thuyết, thì
đó là một cơ hội mới để cho bị cáo tự bào chữa,
bởi vì những nhân chứng không có trong tay
bản tố cáo đầu tiên có nguy cơ bị bại lộ nếu
họ nói ngược lại hay rút lại, nhất là khi liên
quan tới những nhân chứng giả mạo hay những
người vu cáo. Trong thực tế, sự xem xét lại toàn
bộ hồ sơ luôn luôn có lợi cho tòa án hơn là bị
cáo. Mỗi một nhân chứng lại được hỏi về tất cả
những điều cáo buộc, chứ không phải chỉ những
điều cáo buộc liên quan đến nhân chứng mà thôi,
với cái nguy cơ đương nhiên làm gia tăng chứ
không giảm bớt những lời cáo buộc. Bruno chấp
nhận sự đi thụt lùi (bác bỏ nó, như ông có thể
làm, sẽ làm tê liệt những cơ hội để bào chữa cho
ông), và ông quyết định tự bào chữa một mình,
bác bỏ sự giúp đỡ của luật sư bắt buộc mà Tòa
Thánh đề nghị cho các bị cáo, đặc biệt là trong
trường hợp những bị cáo thiếu phương tiện tài
chánh.
Công tố viên của Tòa Thánh thiết lập sau đó bản
báo cáo những lời buộc tội còn giữ lại dưới hình
thức những điều khoản, les articuli, rút
ra từ toàn bộ những hành động của tòa án: ông
giữ lại hai mươi ba điều buộc tội chính. Một bản
sao nguyên văn, chỉ thiếu tên những người tố
cáo, được trao lại cho Bruno, để chính ông sửa
soạn những interrogatoria của ông,
một loại câu hỏi mà quan tòa đưa cho nhân chứng,
trước khi vô sổ những câu trả lời của họ. Đường
lối này được sử dụng để tránh, hay giảm đi tới
mức tối thiểu, ảnh hưởng của quan tòa tới các
nhân chứng hay những câu trả lời quá tổng quát:
vì vậy, mọi cáo buộc phải dựa vào những chính
xác tỉ mỉ liên quan tới những lời đã được thực
sự nghe thấy, thời giờ và địa điểm, tên của
những người có mặt khác, giọng nói của bị cáo và
những lý do chậm trễ trong việc tố cáo. Tất cả
những sắp xếp đó chứng tỏ rằng Tòa án Ca-tô là
một cái gì khác hơn là một tấn tuồng công lý.
Trái lại, rất nhiều những thay đổi quan trọng
nhất của luật hình sự tương lai đã có gốc rễ
trong những phương pháp của Tòa Thánh.
Bruno không nản chí, thâu góp nghị lực của ông
và tập trung vào hồ sơ của phiên tòa bằng cách
sửa soạn những interrogatoria của ông.
Ông đã vượt qua được sự thất vọng và nản chí nó
đã đổ ập xuống ông sau những lời cáo buộc mới
của sư huynh Celestino, nhưng ông thấy rằng việc
làm của ông, rất khó khăn ngay từ lức đầu bây
giờ chỉ còn lại thất vọng. Ông phải một mình
đương đầu với cả một tòa án, với rất nhiều người
tố cáo và, nhất là, phải chống đỡ trên nhiều mặt
khác nhau, đi từ những câu hỏi tế nhị về thần
học đến những luận án siêu hình, và cả những lời
buộc tội thô lỗ và tầm thường về nhạo báng. Cuộc
thẩm vấn nhắc đi nhắc lại, kết thúc với Bruno
bằng sự thất bại hoàn toàn: ông thấy hai mươi ba
lời buộc tội chính đối với ông được xác nhận.
Và, trong số muời ba điều buộc tội, con số của
ít ra hai nhân chứng phù hợp đã đạt được, nói
một cách khác, những lời buộc tội đó không thể
bác bỏ, dù bởi sự chối bỏ của bị cáo.
Vào tháng Sáu 1594, một bản sao đầy đủ tất cả
những việc làm liên quan tới việc xét xử kể từ
lúc bắt đầu đã cuối cùng được trao cho Bruno, để
ông có thể sửa soạn bằng lời viết những bào chữa
cuối cùng của ông và lập luận về những kết luận
của việc tố tụng cứ lặp lại không ngừng. Nguyên
nhân thì thực là rất rắc rối, cái đống hồ sơ gồm
hàng trăm tài liệu. Bruno phải làm việc cho tới
20 tháng Mười Hai, cái ngày mà ông nộp cho các
quan tòa Ca-tô tám mươi trang của bản điều trần
bào chữa. Đó là màn cuối cùng. Vấn đề bây giờ
chấm dứt. Chỉ còn có việc chờ đợi bản án. Số
phận có vẻ như ưu đãi nhà triết học của xứ Nola,
và cái vụ này giống như một truyện trinh thám rẽ
sang một ngả bất thường khác khi, vào ngày 16
tháng Hai 1594, đích thân giáo hoàng can thiệp.
Clément VIII – mà Bruno đặt tất cả hy vọng vào
sự ôn hòa và sự nhạy cảm văn hóa – cho biết là
sự hiểu biết về những tác phẩm đã phổ biến của
nhà triết học còn nhiều thiếu sót, và Ngài ra
lệnh phải thiết lập một danh sách đầy đủ. Nhưng
vấn đề là tìm ra rất nhiều những tác phẩm của
Bruno, bởi vì đó là những tác phẩm hiếm có, ít
phổ biến và in ở những nơi vô định. Tòa Thánh
bắt tay vào công việc tìm kiếm những tác phẩm
khó khăn đó, và trong hơn một năm, Bruno không
được nói đến.
Việc nghiên cứu những tác phẩm kéo dài từ tháng
Ba 1595 cho tới tháng Mười Hai 1597. Sự chậm trễ
khác thường đó chỉ có thể giải thich bởi thời
gian cần thiết để hiểu tất cả những bản văn của
Nolano, nhưng cũng bởi sự kiện là các quan tòa
Ca-tô cho rằng việc tranh tụng đã kết thúc ở
điểm chính: nhiều lắm thì nội dung của các tác
phẩm chỉ làm gia tăng thêm – và chắc chắn không
làm giảm đi – những kết luận đã đạt được. Các
quan tòa thực sự yên chí rằng, cuối cùng ra thì
là một bản án giam giữ lâu dài và nghiêm ngặt.
Xương thịt và nhà triết học.
Tháng 12, 1596, Bruno nhận được những luận án và
đề nghị kiểm duyệt những tác phẩm của ông để ông
sửa soạn bào chữa. Sau ba tháng nghiên cứu và
làm việc, ông lại đến trình diện với hội đoàn
quan tòa, trong căn phòng khắc khổ của tòa án,
ngày 24 tháng 3, 1597. Đơn độc, ăn mặc giản dị,
gầy và yếu đi vì những năm bị giam giữ, và nhất
là, bất lực trước sức mạnh của những người kết
tội, ông sửa soạn cho một cuộc gắp gỡ chênh
lệch. Những câu hỏi đầu tiên được đặt ra cho
ông, mà ông được yêu cầu trả lời chính xác.
Bruno bảo vệ những quan điểm mà ông vẫn ủng hộ,
cố gắng chứng minh điều mà ông đã kiên nhẫn
nghiên cứu: sự hòa hợp nó bao bọc vũ trụ và con
người. Thực ra, không muốn chấp nhận những đề
nghị kiểm duyệt ông, ông đưa ra trước một loạt
những lập luận có lợi cho luận án triết học
chính của ông: sự linh hoạt của Thượng Đế và sự
hiện hữu của nhiều thế giới. Sau tất cả những
năm bị giam giữ và thiếu thốn, Bruno vẫn không
đi trệch ra ngoài những lập trường đầu tiên. Ông
luôn luôn cương quyết nhấn mạnh tới sự cần thiết
phải thiết lập một sự phân biệt giữa quan điểm
lý trí thiên nhiên, dùng để hiểu thiên nhiên,
với quan điểm đức tin và ân sủng, liên quan tới
những vấn đề thần thánh, những bí mật mà chỉ có
lời mặc khải mới có thể đến được.
Nhưng lần này các quan tòa không có ý định khoan
dung nữa trước những chống đối của nhà triết
học, sự cứng đầu để bảo vệ lập trường mà người
ta đã nói rõ là tà giáo. Tòa Thánh ra lệnh cho
ông phải “từ bỏ những khái niệm vô ích về vấn đề
nhiều thế giới”. Sự tức giận của quan tòa có thể
giải thích dễ dàng: trong rất nhiều bằng chứng
buộc tội Bruno, chỉ có một, bằng chứng của
Mocenigo, có thể giữ lại như là có giá tri,
những bằng chứng khác, hoặc của Graziano, của
Vaia hay sư huynh Celestino, là của những người
tà giáo, bị đưa ra tòa vì những trọng tội khác
nhau và, như vậy, không thể giữ lại như là đáng
tin cậy hay hợp pháp, theo như thủ tục của Tòa
án Ca-tô. Con số hai nhân chứng cần thiết cho
mỗi một tội chính là bắt buộc, bây giờ chỉ có
một lối thoát là sự thú nhận hoàn toàn của bị
cáo, kể cả dưới sự tra tấn.
Bruno hình dung ra sự thử thách mà ông còn phải
vượt qua. Ông biết rằng cái lúc đã được loan báo
và lo sợ từ lâu bây giờ đã tới. Khi đó là cuối
tháng 3, 1597. Một ít ngày trôi qua kể từ phiên
tòa cuối cùng, mà biên bản ghi: interrogetur
stricte; bằng công thức đó, các quan tòa có
lẽ ra lệnh áp dụng việc tra tấn. Bruno sẽ phải
trải qua sự thách thức chờ đợi từ lâu trong niềm
lo lắng, ông sẽ phải đi qua sự đau đớn tột cùng.
Bruno sẵn sàng. Đó là vào buổi chiều. Cửa nhà
giam mở ra và những người lính gác đến gần, ra
lệnh cho ông đi theo. Ông đứng ngay lên, chào
các bạn tù ngồi im lặng, và để cho dẫn đi dọc
theo hành lang mà ông biết, hẹp và tối. Rồi họ
bắt đầu đi xuống và tiến về phía “bí mật”, nơi
có phòng tra tấn, mà ở đó những tiếng gào thét
bị những bức tường dày làm cho câm đi. Căn phòng
được soi sáng bởi vài bó đuốc bốc khói. Bruno
nhìn ra xung quanh và thở mạnh: ông biết rằng
chỉ ít lúc sau, ông sẽ bị nghẹt thở. Trong một
góc có cái lò sưởi có lửa cháy, hắt những tia
sáng lên trần nhà và những tường xung quanh, ở
đó có treo hay cẩu thả dựa vào, những dụng cụ
tra tấn khác nhau: kìm nhỏ, kìm lớn, những ê-tô
lạ lùng, những chiếc đũa, roi da, dây thừng.
Trên trần nhà có một cái ròng rọc móc vào và từ
đó có một sợi dây thừng treo tòn teng. Trên sàn
nhà, những vết đen đã cũ, có lẽ là máu đông
đặc lại, ai biết được là từ bao giờ. Phía
trước, được soi sáng bởi một dá đèn, một ghế gỗ
dài mà ở đó đã có một số quan tòa ngồi vào: họ
được lệnh phải tham dự vào những buổi tra tấn bị
cáo. Bên cạnh họ, một người thư ký sẵn sàng để
ghi tất cả điều gì sẽ nói ra.
Bruno nghe từng tiếng động, từng lời nói, ông
nhìn thấy mọi cử động, điệu bộ, màu sắc khác
nhau, trong căn phòng đó; giác quan của ông như
được mài sắc bởi sự thử thách gần kề mà ông
biết không lâu quá nửa giờ, nhưng ông cũng biết
nó phải được tiến hành tới giới hạn chịu đựng
của con người. Ông nghĩ rằng cái lúc ghê rợn
nhất: nhìn những dụng cụ tra tấn mà họ
sắp đem áp dụng vào người ông và quan sát tên
đao phủ vô tình, đứng đấy, bên cạnh những dụng
cụ đó, như một người thợ lành nghề sắp sửa tiến
hành công việc; và anh, anh không thể làm gì,
cửa đóng kín, anh cô đơn, bị trói. Có lẽ người
bị tra tấn là người độc nhất kinh nghiệm được sự
bỏ rơi thực sự, trong khi cảm thấy thân thể anh
hoàn toàn vô phương chống đỡ, trao phó cho bàn
tay của những người lấy sự đau đớn làm
nghề chuyên môn tang tóc của họ. Ông bị tổn
thương bởi những câu chuyện của lính gác, mà ông
nghe thấy dù không muốn: họ nói đến những chuyện
quá vô nghĩa, những vấn đề cá nhân, họ có vẻ
đãng trí hay vô tình. Đối vói họ, Bruno Giordano
không gì khác hơn là một trong số rất nhiều
những kẻ khốn nạn được dẫn tới nơi bí mật, trong
những năm đó. Trên mặt họ hiện ra một vẻ vô tình
gây nên bởi thói quen đã có từ lâu trước những
đau khổ của nạn nhân.
Với ý định tốt, các quan tòa Ca-tô lại khuyên
nhà triết học thú tội, nhắc lại với ông rằng,
nếu ông cứ một mực chối tội và không hối cải,
thì ông sẽ bị tra tấn. Bruno lặng lẽ lắc đầu báo
hiệu từ chối. Thủ tục của Tòa án Ca-tô tiên liệu
là những người lính gác, khi các quan tòa Ca-tô
ra hiệu, phải lột hết quần áo của nạn nhân và
trói hai tay ra sau lưng. Rồi những quan tòa
Ca-tô ra lệnh treo nạn nhân lên, cao khỏi mặt
đất hai thước. Không có cách nào cưỡng lại được:
hai cánh tay trật khớp và vặn hoàn toàn vào phía
trong; những đường gân, bắp thịt, xương cốt,
tất cả hình như nổ tung, tan ra từng mảnh trong
một tiếng kêu nghẹn ngào. Tra tấn (torture)
từ tiếng la tinh torquere, nghĩa là vặn
cho gẫy, tordre. Một tiếng kêu độc nhất
và khủng khiếp thoát ra khỏi họng, phản ứng tự
nhiên gây ra bởi một sự đau đớn kinh hồn bắn ra
từ hai cánh tay, chạy từ tay lên đầu để nổ
tung trong não. Sau lúc đó, và sau sự bẻ gẫy
đầu tiên tàn bạo, người bị tra tấn mở mắt, hơi
thở hổn hển, bị chặn lại vì lồng ngực bị ép,
những sợi dây thừng xiết chặt vào da. Thân thể
cứ mỗi phút lại có vẻ nặng hơn; những cánh
tay, trật khớp, có vẻ như không cưỡng lại
được, phải tách rời ra khỏi thân thể, rồi dây
treo đột ngột sút ra để cho nạn nhân rơi trở lại
xuống nền nhà.
Vào lúc đó, các quan tòa Ca-tô bắt đầu hỏi nạn
nhân. Người bị tra tấn phải, mỗi lần, gom góp
một chút sức tàn còn lại, cố gắng thốt ra từng
lời một, với một sự chậm chạp đau đớn. Nạn nhân,
mồ hôi toát ra đầm đìa, có cái cảm giác là hai
tay, cánh tay và lưng bị cắn xé bởi lửa chứ
không phải vì bị treo trên sợi dây thừng. Thời
gian qua đi, nhưng nửa giờ – thời gian tối đa
hợp pháp cho mỗi lần tra tấn – là một thiên thu,
trong sự tra tấn không giới hạn mà có vẻ như
người bị tra tấn không thể không chết. Nhưng
Bruno, có lẽ đã bị tra tấn thuộc loại như thế,
không chịu nhượng bộ. Các quan tòa Ca-tô biết
rằng: sự thú tội mà họ mong muốn không xẩy ra.
Giờ cuối cùng đến gần.
Môt vài ngày sau, một bản sao những đề nghị kiểm
duyệt sách của ông được trao cho ông, để ông có
thể sửa soạn bản bào chữa viết tay. Bản tóm
tắt việc xử án, soạn vào đầu tháng 3, 1598,
cung cấp cho chúng ta một tổng hợp rất chính xác
vừa của những lời cáo buộc đối với ông vừa của
những câu trả lời cho mỗi một lời cáo buộc. Thực
ra, những kiểm duyệt cũng không thêm gì nhiều
cho những lời buộc tội đã hình thành: những tội
chính liên quan tới quan niệm một vũ trụ vô
cùng, tới khái niệm của Platon về anima
mundi, linh hồn thế giới mà linh hồn cá nhân
có vẻ như tan vào đó, tới thuyết chuyển động của
trái đất và, cuối cùng, tới thuyết hai cái vô
cùng, Thượng Đế và thiên nhiên. Bruno bào chữa
bằng những lập luận có phần khác với những lập
luận đã sử dụng trước đây, và, ở một vài điểm,
ông chấp nhận nhượng bộ những đòi hỏi của quan
tòa.
Việc xử án kéo dài, trước hết vì lý do cứu xét
chậm mà những câu trả lời viết của Bruno đòi
hỏi, sau nữa là vì thời gian lâu dài ở Ferrare
của tất cả phái đoàn giáo hoàng. Giáo hoàng chỉ
trở về Rô-ma vào cuối năm 1598. Vào đầu năm
1599, người ta đi tới kết thúc việc xử án:
hơn 2.400 ngày điều tra, thẩm vấn và kiểm
tra đã qua đi, và Tòa Thánh bây giờ có đầy đủ
yếu tố để tuyên án. Trường hợp này là một trong
những trường hợp tối tăm nhất mà chưa bao giờ
Tòa án Ca-tô phải quản trị, và điều này, dù có
sự tham gia vào thành phần xử án của hồng y
Bellarmin, một nhà thần học trẻ tuổi và
thông thái, ông ta có vẻ như sẵn sàng mở rối cho
mớ chỉ của phiên tòa (một vài năm sau, ông sẽ là
một người đóng vai chính lớn nhất trong vụ xử án
Galilée). Những lời cáo buộc Bruno được chia ra
thành ba nhóm: trong nhóm thứ nhất, người ta
thấy những hành động thiếu tôn kính, những lời
nhạo báng và những lời buộc tội hàng giáo sĩ.
Trong nhóm hai, có những luận án sai lầm về
Christ, Thánh Thần, và Ba Ngôi: đó là cốt lõi
thần học, mà những bằng chứng về tà giáo có thể
là hiển nhiên nhất. Nhóm thứ ba gồm có toàn bộ
những quan niệm triết học của Nolano, những thứ
này gây thiệt hại cho siêu hình của Giáo hội vào
thời đó, hoặc là về vũ rụ, trái đất hay sự tổng
quát hóa vũ trụ.
Những tội trạng thuộc loại một là nhẹ nhất, và
loại hai dựa vào những bằng chứng mâu thuẫn
nhau; loại ba, trái lại, lấy căn cứ ở những bài
viết của nhà triết học, và những bài viết này,
chỉ những bài viết đó thôi đã đủ là những bằng
chứng chắc chắn Bruno có tội, không cần phải có
thêm bằng chứng hay lời thú tội.
Ngày 12 tháng Giêng 1599, Robert Bellarmin nhận
thấy tầm quan trọng của vấn đề rắc rối này. Bây
giờ phải chấm dứt cái trò chơi tìm kiếm những
khác biệt rất nhỏ nhặt và những cách trả lời
chạy tội của Bruno, và ấn định giới hạn chặt chẽ
cho những câu trả lời. Giải pháp hữu hiệu nhất
đối với ông là đơn giản hóa cái khung buộc tội:
một danh sách tám tội tà giáo được trích ra từ
tất cả các tội và chuyển cho bị cáo, ngày 18
tháng Giêng, và trong thời hạn sáu ngày bị cáo
phải quyết định từ bỏ hay không. Bruno biết rằng
việc xử án đi tới chỗ kết thúc. Hoặc là ông từ
bỏ quan niệm của ông, và ông cứu sống ông, nhưng
vẫn có thể bị kết tội nhiều năm bị giam giữ,
trong một tu viện nào đó của dòng ông; tuy nhiên
như là có tội theo tà giáo, ông không rơi trở
lại vào tà giáo, đây là lần đầu tiên ông kị kết
án. Hoặc là ông không chịu từ bỏ, thì ông biết
chắc sẽ bị kết tội tử hình, như là người không
chịu hối cải.
Ngày 15 tháng Giêng 1599, được kêu tới trước các
quan tòa Ca-tô, Bruno được yêu cầu thừa nhận như
là lầm lỗi tất cả tám tội tà giáo mà người ta đã
trao cho ông và tuyên bố từ bỏ. Đây chỉ là bước
đầu, bởi vì nếu ông chấp nhận sám hối, một bản
văn đầy đủ hơn sẽ được soạn ra cho một lần từ bỏ
cuối cùng và công khai. Trong trường hợp trái
lại, người ta ban cho những người “không sám
hối” và “cứng đầu” một thời hạn bốn mươi ngày
theo luật định trước khi hành hình. Ngay từ đầu,
nhà triết học chờ đợi quyết định ấy, và đã đến
lúc không còn lối thoát. Ông đã chọn: ông từ bỏ.
Đây không phải là một chọn lựa chiến thuật, mà
là đầu hàng, cũng không phải vận dụng để mua
thời gian, nhưng là chấp nhận thất bại. Và nội
dung biên bản đã tức khắc cho thấy ngay tầm vóc
quan trọng của sự thất bại:
“Và bây giờ anh thừa nhận như là tà giáo tám lời
buộc tội, và sẵn sàng ghét bỏ nó và từ bỏ nó tại
nơi và thời gian theo như ý muốn của Tòa Thánh,
và ngoài ra, sẵn sàng tuân lệnh về tất cả những
vấn đề mà anh bị khiển trách”.
Bruno có vẻ như đứng trước cùng một hoàn cảnh
như ở Venise. Nhưng mà ở đó, ông hy vọng có thể
mau chong thoát ra khỏi khó khăn; ở đây, tất cả
mọi thứ đều bi thảm hơn, và chỉ còn một bước nữa
là đến bản án cuối cùng. Tim của Bruno như trong
cơn bão tố mà ông chưa bao giờ biết; nhảy múa
trong tâm ông là hình ảnh thỏa mãn hiện ra trên
khuôn mặt của các quan tòa Ca-tô trong khi ông
tuyên bố từ bỏ, cũng như cái nhìn lạnh lùng, đắc
thắng, của hồng y Bellarmin. Có lẽ ông hiểu, lần
đầu tiên, ông sẽ sống sau khi tuyên bố từ bỏ,
nhưng ông chết như là một nhà tư tưởng và là
người hướng dẫn sự cải cách tâm linh và chính
trị mà ông hằng ao ước. Ông cứu ông bằng cách
đánh mất chính ông, và dự án của ông tan ra mây
khói: đó là hai hoàn cảnh đau xót và khủng khiếp
mà ông phải chọn lựa.
Ngày 25 tháng Giêng 1599, sau khi hết thời hạn
để quyết định, Bruno tuyên bố sẵn sàng từ bỏ,
với điều kiện là những lầm lỗi của ông được
biết như là ex nunc (“kể từ lúc này”) –
nói một cách khác, những lầm lỗi ấy đã xảy ra
trong những vấn đề mà Giáo hội chưa rõ ràng công
bố. Như thế thì rõ ràng trong trường hợp này,
tội của ông sẽ không nặng, và có thể thoát khỏi
với những thiệt hại không đáng kể. Nhưng các
quan tòa Ca-tô không để cho nhà triết học một
lối thoát nào, tái xác nhận rằng tất cả những
lầm lỗi và những xác nhận tà giáo của ông được
coi là như thế từ những thời kỳ xa xôi nhất của
học thuyết Ca-tô.
Ngày 5 tháng Tư 1599, người Nolano chuyển cho
các quan tòa Ca-tô một bản văn mới mà ở trong đó
hình như ông có một vài sự dè dặt với hai trong
số tám tội mà ông đã chấp nhận từ bỏ. Việc xử án
lại được mở ra, và một thời gian nghỉ dài lại
làm gián đoạn phiên tòa, cho đến ngày 24 tháng
Tám, thì vấn đề được đem ra thảo luận với sự
hiện diện của Con Trời G Clément VIII.
Việc tuyên đọc biên bản của tòa án cho thấy
những nghi ngờ vẫn còn ám ảnh các quan tòa Ca-tô
phần lớn là về những tội danh chính. Để thoát ra
khỏi ngõ bí và có được những bằng chứng tội lỗi
của những tội chính mà Bruno bác bỏ và về những
điểm còn tối, sáu quan tòa Ca-tô dự tính dùng
biên pháp tra tấn, kể cả leo thang tra tấn và
tái tục. Nhưng giáo hoàng bác bỏ, muốn rằng nhà
triết học được yêu cầu thừa nhận những lỗi lầm
trên một danh sách những tội trạng mới.
Ngày 10 tháng 9, 1599, Bruno nhận được một lời
yêu cầu bắt buộc phải từ bỏ, cùng với, lần đầu
tiên, một thời hạn định mệnh là 40 ngày. Ngày 16
tháng 9, Bruno tuyên bố sẵn sàng thừa nhận những
lỗi lầm và thi hành một sự từ bỏ đầy đủ và hoàn
toàn, đồng thời cũng nạp một bản tóm tắt đệ
trình lên Con Trời G Clément VIII, vẫn
bào chữa cho những quan niệm bị kết tội. Sự tái
tục tranh luận làm bực mình giáo hoàng cũng như
các quan tòa Ca-tô, bởi như là nó phản ảnh sự
cương quyết không sám hối của bị cáo. Họ cũng
còn bực mình bởi một sự tố cáo mới đối với
Bruno, đến từ tòa án Verceil: nó chứa đựng những
lời tố cáo chính xác về việc phát hành sách
“L’expulsion de la bête triomphante” (Trục
xuất con vật đắc thắng), mà bản văn được coi như
chống giáo hoàng dữ dội. Một gia hạn cuối cùng
40 ngày lại được đưa xuống cho Bruno để thừa
nhận tội và chọn một sự từ bỏ đầy đủ và không
hạn chế. Ngày 17 tháng 11, 1599, khi hết hạn,
nhà triết học lần này không có một dấu hiệu từ
bỏ nào và giữ vững lập trường. Sự không nhượng
bộ mà Bruno đã lựa chọn và sự không chịu sám
hối, rõ rệt là một vết thương sâu cho Tòa án
Ca-tô.
Cái bộ
máy vô nhân đạo ấy, được chế tạo ra để bẻ
cong và từ từ dìm chết lương tâm,
dưới sự tấn công phối hợp của lời nói và sức
mạnh, sự giam giữ và phương pháp tâm linh, không
thể thản nhiên trước một con người thay vì ngã
qụy, sau 8 năm áp lực, thẩm vấn, tra tấn và
tranh luận, vẫn cương quyết giữ vững lập trường;
ông còn bào chữa với một nghị lực đổi mới cái
quyền được suy nghĩ tự do, chỉ dưới “ánh sáng
thiên nhiên” của lý trí. Vết thương càng nhức
nhối hơn khi danh tiếng của bị cáo vượt qua
những biên giới, và nhất là Tòa Thánh đã
tham dự với tất cả sức mạnh, trong nhiều năm, để
khám phá sự thật.
(Cette machine implacable, construite pour faire
ployer et lentement sombrer les consciences,
sous l’assaut conjoint des paroles et de la
force, de la détention et de la suggestion
psychique, ne peut rester impassible devant cet
homme qui, au lieu de s’écrouler, après huit
années de pressions, interrogatoires, tortures
et discussions, demeure ferme sur ses positions;
il défend même avec une énergie renouvelée son
droit à penser librement, à la seule “lumière
naturelle” de la raison. La blessure est
d’autant plus vive que la notoriété de l’accusé
dépasse les frontières, et que le Saint-Office a
engagé toutes ses forces, au long des années,
pour découvrir “la vérité”.- Page 145)
Ngày 21 tháng 12, 1599, có cuộc thẩm vấn thứ 22
và cũng là chót và sự gặp gỡ cuối cùng của
Nolano với các quan tòa Ca-tô. Mặc dù việc xử án
từ bây giờ coi như chính thức chấm dứt, Bruno
lại được một lần nữa kêu gọi từ bỏ. Lời kêu gọi
ấy cũng được lặp lại, vào tháng Giêng năm sau
bởi hai người trách nhiệm cao cấp nhất của dòng
“dominicain”. Nếu nhận, ông ta vẫn còn có thể
cứu vãn đời ông. Nhưng bây giờ Bruno giữ vững
quyết định: ông không thấy có lợi gì để từ bỏ,
những lời buộc tội là kết quả một sự hiểu lầm
của các quan tòa Ca-tô.
Ngày 20 tháng Giêng 1600, Clément được thông báo
sự thất bại của hai cố gắng cuối cùng, ra lệnh
rằng bị cáo, được biết như là tà giáo chính
thức, ngoan cố và không chịu sám hối, phải bị
kết tội và, sau đó, giao cho công lý thế tục
(tradatur Curiae seculari). Ngày 8 tháng
Hai, đi ra khỏi lần đầu và cũng là lần chót lâu
đài của Tòa Thánh và dược dẫn tới nhà riêng của
hồng y Madruzzi, gần nhà thờ Sant’ Agnesse, ở
quảng trường piazza Navona, để nghe tuyên
đọc bản án. Quần chúng tụ tập bên trong và bên
ngoài phòng hội, mà tiếng ồn ào chỉ chấm dứt khi
bản án được tuyên đọc:
[…] Chúng tôi đã đi đến hình phạt như sau.
Đã nhân danh Chúa của chúng ta Jésus Christ và
Đức Bà rất vẻ vang và mãi mãi Đồng Trinh về việc
tranh tụng bây giờ và những việc kể trên, được
đem đến trước Tòa Thánh và đối đầu nhau một bên
là Ngài Giulo Monterenti, tiến sĩ luật và là
công tố viên có đóng thuế của Tòa Thánh nói
trên, và một bên, là chính anh, sư huynh
Giordano Bruno, bị tố cáo và thẩm vấn về những
tội mà anh đã thú nhận trong khi xử án, đã bị
kết tội vì không chịu sám hối, ngoan cố và cứng
đầu;
Bởi bản án cuối cùng […] chúng tôi nói, tuyên
đọc, kết tội và tuyên bố như sau, sau khi nghe
những lời khuyên và ý kiến của các cha đáng
kính, các vị thày thần học và tiến sĩ luật này
cũng như luật kia, mà chúng tôi đã tham khảo:
Chúng tôi xét và tuyên bố, sư huynh Giordano
Bruno, tà giáo không sám hối, cứng đầu và ngoan
cố […] và như vậy […] anh phải được giải giao
cho tòa án thế tục; vì thế chúng tôi giao anh
cho đức ông Thống đốc Rô-ma, có mặt ở đây, để
anh bị trừng phạt bởi những hình phạt đã tiên
liệu, tuy nhiên yêu cầu Ngài khẩn cấp làm nhẹ
bớt sự nghiêm khắc của luật pháp đối với con
người của anh, tha cho tội chết và sự hủy
hoại tay chân.
(Phần chú thích cho biết đây là một công
thức đạo đức giả ghi trong sách của Tòa án Ca-tô
Rô-ma.
Chúng tôi nghĩ rằng Gíao hội này thiếu một
chút lương thiện, lừa gạt cả người chết lẫn
người sống. Với người
sắp đem
đi thiêu sống, bị tra tấn vặn cho gẫy, thì hứa
tha cho tội chết và sự hủy hoại tay chân.
Với con chiên thì cho ăn bánh thánh, hứa cho lên
cái thiên đàng mà họ không biết nó ở đâu, còn
Con Trời G John Paul II thì bảo là không có ở trên
mây.
Chính vì thế mà Eugen Drewernann cho rằng Gíao
Hội của ông:
“Là một thế lực khai thác những sự ngu xuẩn nhất
và những mê tín bẩn thỉu nhất, để phục vụ cho
những lợi ích thô bạo nhất”.
Un pouvoir qui exploite, au service de ses
intrts les plus grossiers, les pires stupidits
et les superstitions les plus crasses. “Dieu en
Toute Libert”, Eugen Drewermann, page 48).
Nhà triết học nghe trong yên lặng, quỳ gối trước
các quan tòa Ca-tô. Nhỏ, gầy, trơ xương, râu đen
và lởm chởm, kiệt sức bởi khoảng 2.800 ngày
bị giam cầm, bởi thiếu thốn, tra tấn. và bởi
sự lo lắng của hơn 7 năm mà không chia sẻ được
với ai, Giordano Bruno thẳng người, cái nhìn
kiêu hãnh và nảy lửa. Rồi ông đứng lên và, nhìn
ra xung quanh một cách đe dọa, đầy vẻ khinh bỉ
mà ông không thể cầm giữ được, ông tuyên bố
những lời cuối cùng mà chúng tôi có bằng chứng
chắc chắn. Những lời nói cứng rắn, giận dữ, thốt
ra từ một linh hồn nó chế ngự linh hồn của các
quan tòa Ca-tô và nó không còn sợ cái chết gần
kề. Đó là những lời nói tố cáo sự sợ hãi nó làm
tê liệt bước đi của Giáo Hội, và có lẽ, của tất
cả nhân loại:
“Các ngài, những người tuyên bố kết tội tôi,
có lẽ các ngài sợ hơn tôi, người bị kết tội”.
Maiori
forsan cum timore sententiam in me fertis quam
ego accipiam Perhaps you pronounce this sentence
against me with greater fear than I receive it.
Bruno, người anh hùng của Phục Hưng bị đánh bại
bởi sự tối tăm của Phản-Phục Hưng, đã viết trong
L’expulsion de la bête triomphante” một
trong những trang đẹp đẽ nhất, nhưng cũng thực
một cách cay đắng, với một linh tính tiên tri:
“Tối tăm được ưa chuộng hơn ánh sáng, sự chết
được coi như ích lợi hơn sự sống, không còn ai
ngẩng mặt lên nhìn trời, người tôn giáo sẽ bị
coi như điên và người vô đạo coi như khôn ngoan,
người bạo động, mạnh, và người ác, tốt. Và, xin
hãy tin tôi, người ta sẽ kết tội tử hình người
nào tin ở tôn giáo tâm linh; bởi vì sẽ có một
công lý mới, những luật lệ mới, và người ta sẽ
không thấy thánh, không thấy người tôn giáo.
Người ta không còn nghe thấy những điều xứng
đáng với trời hay những chuyện thần thánh. Chỉ
còn lại những thần thánh xấu, họ lẫn lộn với
người và thúc đẩy con người như những kẻ khốn
nạn hăng say phạm mọi thứ tội, dưới cái dù công
lý, gây ra những chiến tranh, trộm cướp, giả mạo
và biết bao nhiêu những thứ khác trái với lương
tâm và công lý thiên nhiên: đó là ý nghĩa của sự
già nua, mất trật tự và vô đạo của thế
giới”.
(Les ténèbres sont préférées à la lumière, la
mort sera jugée plus utile que la vie, personne
n’élèvera plus les yeux vers le ciel, le
religieux sera estimé fou et l’impie sera jugé
prudent, le violent, fort et le méchant, bon.
Et, croyez-moi, l’on condamnera à la peine
capitale celui qui s’appliquera à la religion de
l’esprit; car il y aura une nouvelle justice, de
nouvelles lois, et on ne trouvera plus ni saint,
ni religieux. On n’entendra plus choses dignes
du ciel ni choses célestes. Seuls les anges
mauvais resteront, qui se mêleront aux hommes et
les pousseront comme des misérables à commettre
hardiment n’importe quel mal, sous couvert de
justice, produisant des guerres, rapines,
fraudes et tant d’autres choses contraires à
l’âme et à la justice naturelle: voici ce que
sera la vieillesse et le désordre et
l’irréligion du monde.- Page 147).
x
x x
Qủy đầu trâu mặt ngựa cũng phải chào thua.
Người ta thường hăm dọa những người làm vịêc ác,
bảo rằng, khi chết xuống địa ngục sẽ bị quỷ đầu
trâu mặt ngựa hành hạ, đau đớn, khổ sở lắm.
Nhưng với :
a) Tra tấn.
Thủ tục của Tòa án Ca-tô tiên liệu là những
người lính gác, khi các quan tòa Ca-tô ra hiệu,
phải lột hết quần áo của nạn nhân và trói hai
tay ra sau lưng. Rồi những quan tòa Ca-tô ra
lệnh treo nạn nhân lên, cao khỏi mặt đất hai
thước. Không có cách nào cưỡng lại được: hai
cánh tay trật khớp và vặn hoàn toàn vào phía
trong; những đường gân, bắp thịt, xương cốt, tất
cả hình như nổ tung, tan ra từng mảnh trong một
tiếng kêu nghẹn ngào. Tra tấn (torture) từ tiếng
la tinh torquere, nghĩa là vặn cho gẫy,
tordre. Một tiếng kêu độc nhất và khủng
khiếp thoát ra khỏi họng, phản ứng tự nhiên gây
ra bởi một sự đau đớn kinh hồn bắn ra từ
hai cánh tay, chạy từ tay lên đầu để nổ tung
trong não;
và
b) Thiêu đốt chết từ từ. Đống củi....Giản
dị là một đống củi hay, một đôi khi quemadero.
Quemadero thực sự là một lò thiêu bằng đá,
rỗng ở giữa và được xếp đầy củi, có hai lỗ hở ở
bên hông để cho khói thoát ra; trên cái mặt sàn
bao phủ lò thiêu, bốn pho tượng được gắn lên,
đại diện cho những nhà tiên tri vĩ đại trong
kinh thánh – Isaie, Jérémie, Ézéchiel và Daniel.
Những pho tượng ấy rỗng, và nhiệm vụ của nó
thật khủng khiếp: người ta nhét vào bên
trong những người bị kết tội còn sống, để họ
chết từ từ bởi lửa và nếm mùi đau đớn của
hỏa ngục, trước khi vào hỏa ngục;
Thì quỷ đầu trâu mặt ngựa cũng phải
Chào thua Quan tòa Ca-tô Rô-ma.
Không ai nghĩ rằng Gíao hội Ca-tô Rô-ma tự phong
đại diện một Thiên Chúa mà tín đồ Ca-tô V.N. ca
tụng là “lòng lành vô cùng” có thể tra
tấn và giết người dã man đến như thế.
Nhưng, đó lại là Sự thật.
Trần văn Kha
Trích dịch từ sách Le Livre Noir de l’
Inquisition
(Sách Nhọ của Tòa án Ca-tô Rô-ma)
25
tháng 3 năm 2001. Sửa chữa thêm, ngày 5 tháng 12
năm 2012
Posted in: Tôn Giáo
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Facebook
0 nhận xét:
Đăng nhận xét