VÀ CÁCH MẠNG VÔ SẢN VIỆT NAM
Thứ Tư, 2 tháng 9, 2015
Trả lời báo “DIỄN ĐÀN” : CHỦ NGHĨA MARX VÀ CÁCH MẠNG VÔ SẢN VIỆT NAM
     CHỦ NGHĨA MARX 
VÀ CÁCH MẠNG VÔ SẢN VIỆT NAM
      
     
VÀ CÁCH MẠNG VÔ SẢN VIỆT NAM
   
   8.  Trả lời báo “DIỄN ĐÀN”  
    (Diễn Đàn, Paris, tháng 7-1995)
   DIỄN ĐÀN: Đọc những gì anh viết trong mấy năm gần đây, chúng tôi 
   nhận thấy dường như anh đang có ý tập trung “thanh toán” về mặt lý 
   luận đối với cái mà anh gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực”nhân danh 
   Mác, xin anh cho biết động cơ nào đã khiến anh có một thái độ như 
   vậy, nhất là khi trước đây, như nhiều ngưới biết, anh cũng đã từng 
   là người theo chủ nghĩa Mác?
   LỮ PHƯƠNG: Có rất nhiều lý do về thời thế và cả thân thế nữa, nói ra 
   cho đầy đủ thì sẽ rất dài dòng. Tôi chỉ muốn nói đến một lý do khá 
   quan trọng và đối với tôi dường như đã trở thành quan trọng nhất: đó 
   là vấn đề nhận thức. Trước đây, tôi tưởng rằng tôi đã hiểu chủ nghĩa 
   Mác và chủ nghĩa xã hội mácxít là gì do đó đã thành khẩn tin tưởng 
   vào tính chất vừa khoa học lại vừa tràn đầy chính nghĩa của các thứ 
   ý tưởng đó, và do đó cũng đã coi sự chọn lựa của mình là hết sức 
   “ngon lành”, không những giải quyết được những vấn đề thiết thực của 
   cuộc sống như độc lập dân tộc, phát triển đất nước, công bằng xã 
   hội... mà còn là một hệ thống giá trị tinh thần giúp tôi tìm ra được 
   những câu trả lời thoả đáng cho tất cả những băn khoăn về lẽ sống lẽ 
   chết nữa.  Anh biết đấy: cũng như bao nhiêu người đi theo cách 
   mạng khi còn rất trẻ, tôi đã có một tuổi thanh xuân đầy sóng gió, 
   nhưng lòng thì tràn ngập sự an tâm vì có được lòng tin!  Nhưng 
   mọi thứ đều không suôn sẻ như tôi đã nghĩ. Do một vài lý do nào đó 
   sau ngày 30-4-1975, tôi quay lại được cuộc sống mà người ta thường 
   gọi là “phó thường dân Nam bộ”, cho nên nhờ đó mới có điều kiện để 
   suy nghĩ mọi thứ một cách tương đối thong dong. Tôi đã để ra gần 10 
   năm đọc lại Mác và suy nghĩ lại những gì có liên quan đến chủ nghĩa 
   Mác một cách có hệ thống, và dần dà nhận ra rằng những gì mình đã 
   xác tín – xét về mặt lý luận – là quá giản đơn. Tôi không hề ân hận 
   về những chọn lựa mang tính chính trị đã qua, đất nước ta trong suốt 
   một thế kỷ vừa qua không ai có thể khước từ được những chọn lựa kiểu 
   đó – nhưng đối với một người tiếp xúc nhiều với sách vở, không chấp 
   nhận đặt những ý tưởng ngang hàng với những khúc bánh mì – thì sự 
   chọn lựa nói trên vẫn không thể coi được là một cái gì đó thật 
   nghiêm chỉnh về mặt trí tuệ được. Những gì tôi viết ra sau này cũng 
   chỉ là kết quả của một thời kỳ khá dài “quay mặt vào tường” đó: tôi 
   coi trước nhất là một sự trang trải về mặt tinh thần của bản thân, 
   và cũng là của một số bằng hữu cùng chia sẻ một thứ kinh nghiệm như 
   tôi. Khởi đầu tất cả đề chỉ là những bản nháp, chuyền tay nhau trong 
   một số anh em quen thuộc thôi. 
   
   DĐ: Dù sao công việc ấy ngày nay cũng đã trở thành công khai rồi, 
   có tác động không những đối với những người trong nước mà cả độc giả 
   ngoài nước, theo chúng tôi biết, không phải chỉ là những “phó thường 
   dân” tìm đọc anh mà những nhà lý luận nhà nước cũng “nghiên cứu” anh 
   khá kỹ. Anh có thể nói rõ hơn về những điều mà anh đã phát hiện lại 
   về chủ nghĩa xã hội mácxít?
   LP:  Tôi đã trình bày một cách tương đối có hệ thống rồi, từ 
   Mác qua Angghen, đến Lênin và những đệ tử phương Đông của Lênin... 
   Nếu phải tóm tắt những gì đã viết ra thì tôi có thể thu gọn lại như 
   sau: chủ nghĩa Mác là một học thuyết có tham vọng đặt ra và giải 
   quyết được mọi vấn đề của thời đại một cách hiện thực, triệt để, 
   nhưng do bản thân chỉ là một thứ triết học chứa đựng không ít những 
   suy lý tư biện cho nên những giải pháp kết tụ trong cuộc cách mạng 
   gọi là vô sản là hoàn toàn bất khả thi, và tính chất bất khả thi này 
   đã nằm ngay trong bản thân khái niệm giai cấp vô sản của Mác: giai 
   cấp vô sản không phải là giai cấp công nhân thực tế mà chỉ là một 
   khái niệm triết học trong hệ thống triết học của Mác mà thôi. Chính 
   vì cứ nhất quyết coi những kết luận về chủ nghĩa xã hội của Mác là 
   “khoa học”, đặc biệt coi chủ trương “chuyên chính vô sản” của ông là 
   cái cốt tuỷ cần phải nắm vững để đấu tranh xây dựng xã hội mới, cho 
   nên các chế độ gọi là “chủ nghĩa xã hội hiện thực” nhân danh Mác đã 
   đi vào con đường bế tắc: không có phát triển trong dân chủ và nhân 
   đạo mà chỉ có trì trệ, bất lực trong chuyên chế và độc đoán mà thôi. 
   Vấn đề đặt ra về mặt thực hành, theo tôi, do đó không phải là “vận 
   dụng” chủ nghĩa Mác như một khoa học – nhất là cột Mác vào Lênin tạo 
   thành một thứ chủ nghĩa Mác-Lênin – mà là hãy đối xử với chủ nghĩa 
   Mác như một thứ triết học, được đối xử như vậy thì những các mặt 
   tích cực lẫn tiêu cực trong lập luận của Mác cũng đều bổ ích cho đời 
   sống. Trung tâm vấn đề ở đây là sự phân biệt cổ điển giữa triết học 
   và khoa học, giữa tư tưởng suy lý và tư tưởng thực tiễn, giữa đời 
   sống của xã hội công dân và những hoạt động của nhà nước – những ý 
   tưởng này thiết nghĩ chẳng có gì đặc sắc so với thế giới, nhưng ở 
   Việt Nam đó lại là rất mới mẻ vì tính chất thách đố rất nghịch 
   thường của chúng đối với những nhà lý luận quan phương.
   
   DĐ: Anh có chú ý đến những hoạt động của bộ máy nhà nước “phản 
   bác” lại những luận điệu thù địch và “bảo vệ chủ nghĩa xã hội” sau 
   khi Đông Âu và Liên xô sụp đổ?
   LP: Tôi có nghe qua nhưng không cho là quan trọng lắm vì chúng 
   thường làm ra vẻ hằm hè trong “nội bộ”, nhưng khi được đưa ra công 
   khai (chẳng hạn trên tạp chí Cộng sản) thì lại thường bâng 
   quơ, không trực tiếp nêu rõ tên ai để tranh luận một cách minh bạch, 
   đàng hoàng. Nói chung, tôi thấy không có gì nghiêm chỉnh về mặt học 
   thuật cả. Chẳng hạn khi theo dõi những công việc gọi là đập tan 
   những “luận điệu phản bác chủ nghĩa xã hội” – trong đó Hà Sĩ Phu và 
   tôi được dẫn ra và ám chỉ nhiều nhất – tôi nhận thấy người ta đã 
   không làm điều gì mới hơn là áp dụng những thủ đoạn quen thuộc thời 
   Stalin: chưa nói gì thì mọi thứ đã bị nhét ngay vào cái giỏ “chống 
   nhân dân” hoặc “thù địch giai cấp” rồi. Anh hãy tưởng tượng, khi 
   được mời tham dự một cuộc hội thảo gọi là “khoa học” về tư tưởng mà 
   nhận được một bản hướng dẫn trong đó nói rõ mục đích là “bác bỏ” 
   những luận điệu “bác bỏ con đường nhân dân ta đã chọn” thì anh sẽ 
   phát biểu gì? Anh thấy đấy: hù doạ, trấn áp tư tưởng mới là điều 
   chính yếu chứ ở đây chứ không phải là cái gì khác. Do vậy những cái 
   gọi là luận điểm này, luận điểm kia thật ra không quan trọng lắm, 
   bởi vì muốn biết luận điểm ấy là gì thì người ta cứ dở những giáo 
   trình có sẵn trong sách của Liên xô viết cách đây mấy chục năm là có 
   ngay thôi. Tôi đưa anh xem tài liệu này: Dự thảo một số vấn đề về 
   chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời đại hiện nay (do Hội đồng chỉ đạo 
   biên soạn giáo trình các bộ môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ 
   Chí Minh soạn)! Đọc qua cái cách mà người ta giải quyết những vấn đề 
   được nêu lên trong đó như Học thuyết Mác về hình thái kinh tế-xã 
   hội, Học thuyết Mác về giá trị thặng dư, Học thuyết Mác về sứ mệnh 
   lịch sử của giai cấp công nhân, Tính chất thời đại của chủ nghĩa xã 
   hội hiện nay trên thế giới, anh sẽ thấy ở đó chỉ là những giáo điều 
   và là những giáo điều không còn giá trị gì nữa cả. Tôi đã chứng minh 
   trong một loạt bài viết rằng cái cách diễn giải về chủ nghĩa Mác như 
   thế thật sự chỉ là một thứ chủ nghĩa Mác đã bị bóp méo, khởi đầu từ 
   Angghen, qua Lênin rồi đến Stalin với những biến dạng của nó trong 
   suốt quá trình xây dựng “chủ nghĩa xã hội hiện thực”, và nguồn gốc 
   của sự biến dạng ấy không thể tìm thấy ở đâu ngoài những phần huyễn 
   tưởng tất yếu phải bị xét lại khi đem vào thực tế, nằm ngay trong 
   học thuyết Mác, tức là trong cái biện pháp cách mạng vô sản mà Mác 
   đưa ra để xây dựng nên “cõi đời mới” cho tương lai. Những nhà lý 
   luận quan phương không hề muốn đi sâu vào lập luận trung tâm ấy để 
   thảo luận – chẳng hạn họ chẳng bao giờ dừng lại xem xét một cách 
   nghiêm chỉnh lập luận của tôi cho rằng giai cấp công nhân hiện thực 
   không phải là giai cấp vô sản theo nghĩa của Mác – mà lại lơ đi tất 
   cả rồi sau đó chỉ căn cứ vào một thứ học thuyết Mác giả định nào đó 
   (gọi là Mác-Lênin), coi đó là những công thức đương nhiên đã là 
   “khoa học” (và “duy nhất khoa học”) rồi cứ như thế mà ào ào đẩy tất 
   cả những ai không chịu hiểu chủ nghĩa Mác theo khuôn phép ấy vào 
   những “tà ma ngoại đạo” cần phải “đập tan”! Anh thấy đấy: khi chủ 
   nghĩa Mác đã bị gắn chặt với sự chuyên chính của một chế độ thì mấy 
   chữ “đập tan” ấy có ý nghĩa như thế nào rồí!
   DĐ: Phải chăng anh cho rằng chủ nghĩa Mác khi du nhập vào Việt 
   Nam chỉ đóng được vai trò của một thứ ý thức hệ, và do đó phải từ bỏ 
   nó như một thứ ý thức hệ huyễn hoặc?
   LP: Tôi không bao giờ cho rằng bản thân ý thức hệ là hoàn toàn có 
   tác dụng tiêu cực, kể cả khi người ta xem chủ nghĩa Mác là một ý 
   thức hệ. Chủ trương của tôi không phải là “phi tư tưởng hoá” đời 
   sống mà là giao cho tư tưởng sự tác động đặc thù mà chỉ có riêng nó 
   có đối với đời sống: đối thoại tự do, chấp nhận nhiều ý kiến khác 
   nhau, không dùng bạo lực để giải quyết những bất đồng, nhất là sử 
   dụng bạo lực nhà nước để giải quyết những bất đồng ấy. Tôi không hề 
   có ảo tưởng cho rằng những gì tôi hiểu về Mác là không thể bàn luận 
   được trên phương diện học thuật. Tôi chỉ cực lực phê phán cái hình 
   thức Mác-Lênin trong cách hiểu và thực hiện chủ nghĩa xã hội lý 
   thuyết của Mác: dùng chuyên chính bạo lực nhà nước để thể nghiệm 
   không thời hạn lý thuyết ấy. Tôi cho rằng những ai chủ trương như 
   vậy là đã vướng phải những sai lầm có tính chất nền tảng, dù xét 
   trên bất cứ phương diện nào. Họ không có quyền nhân danh Mác để tiến 
   hành công việc đó (vì nội dung của khái niệm chuyên chính vô sản, dù 
   là nằm trong trong cái viễn cảnh không tưởng của Mác, đã không có 
   chút gì giống với thứ chuyên chính vô sản như người ta đang làm) và 
   như thế lại càng không thể nhân danh dân tộc để làm việc đó (vì dân 
   tộc chưa bao giờ chọn cái gọi là con đường xã hội chủ nghĩa như 
   vậy). Xét về mặt thực hành thì mọi việc càng trở nên rõ rệt: một học 
   thuyết giả thử là “đúng đắn” đến thế nào đi nữa nhưng được đem ra 
   thực hiện bởi một nhà nước chuyên chính thì cũng chẳng có gì bảo đảm 
   mãi được sự đúng đắn; giống như những định chế thời chuyên chế châu 
   Á, mọi việc sẽ phải tuỳ thuộc vào lòng tốt của những ông vua: vì 
   hàng loạt lí do, những ông vua ấy không giữ được sự trong sáng ban 
   đầu, thì người dân không biết làm thế nào để thay đổi tình thế. Vấn 
   đề ở đây rút lai không phải chỉ là chuyện đúng sai của một ý thức hệ 
   nào đó, sự cần thiết hay không cần thiết của ý thức hệ đối với đời 
   sống mà là xét xem một chế độ chính trị nhân danh một ý thức hệ 
   chuyên chính để điều hành đất nước có thể gọi được là chính đáng 
   trong thời đại dân chủ hay không. 
   DĐ: Nhưng ở Việt Nam, trước khi thành một ý thức hệ cầm quyền thì 
   chủ nghĩa Mác đã từng kết họp được với chủ nghĩa yêu nước để giành 
   độc lập cho dân tộc!
   LP: Muốn biết sự “kết hợp” ấy là như thế nào thì chúng ta hãy xét 
   xem vấn đề căn bản của dân tộc ta trong thời kỳ bị thực dân đô hộ là 
   gì. Chắn hẳn không phải là chuyện đem những nguyên lý của Mác về 
   công hữu hoá tư liệu sản xuất và về chuyên chính vô sản ra thực 
   hiện. Những người cộng sản hoàn toàn biết được điều đó nên trong 
   suốt quá trình đấu tranh chống thực dân, họ đã phải tìm mọi cách che 
   dấu nguồn gốc của mình, thuận theo thực tế để giải quyết những vấn 
   đề do thực tế đặt ra cho dân tộc: không phải đòi lại chủ quyền dân 
   tộc một cách truyền thống nữa mà là vận động cho một đất nước độc 
   lập và hiện đại (công nghiệp hoá và dân chủ hoá). Khái niệm “cách 
   mạng dân tộc dân chủ” mà bấy giờ những người cộng sản dương lên là 
   rất có ý nghĩa: nó nằm trong phạm trù được gọi là “tư sản dân 
   quyền”, không có trong kho từ ngữ của chủ nghĩa xã hội. Lý do tại 
   sao những người cộng sản theo Quốc tế III lại đứng ra đảm nhận nhiệm 
   vụ ấy như vậy cũng quá rõ ràng: nhập thân vào phong trào chống thực 
   dân, xác lập cho được vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản đối với 
   phong trào ấy để sau khi thành công, nắm được chính quyền thì có 
   ngay điều kiện thực hiện chế độ toàn trị đối với xã hôi, nghĩa là 
   “nắm vững chuyên chính vô sản” để thực hiện ý thức hệ của mình. Như 
   Hồ Chí Minh đã nói rành mạch, chủ nghĩa yêu nước chỉ là “con đường” 
   dẫn ông đến với chủ nghĩa Lênin thôi. Ở đây chẳng có chuyện gọi là 
   phủ định công lao của đảng cộng sản trong công cuộc giải phóng dân 
   tộc cũng chẳng có vấn đề phủ định vai trò cầm quyền của một đảng 
   chính trị sau khi đã chiến thắng thực dân (nhiều nước trên thế giới 
   đã làm như thế), nhưng vấn đề đặt ra ở đây là cầm quyền bằng con 
   đường nào, dân chủ hay độc tài, phát triển hay bất lực trong phát 
   triển mà thôi. Chúng ta đừng quên rằng chính vì những vấn đề sinh tử 
   đó mà dân tộc đã không ngừng chiến đấu và cuối cùng đã chấp nhận 
   cùng chiến đấu với những người cộng sản chứ chẳng phải những chuyện 
   mịt mùng về những thứ “ngày mai ca hát”, “thế giới đại đồng “ nào 
   cả. Chúng ta đừng bao giờ quên điều đó cũng như đừng bao giờ quên 
   rằng, ở nước ta cũng như trên thế giới, từ xưa cũng như nay, sự 
   nghiệp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc không phải là độc quyền 
   của những người cộng sản. Đồng nhất tổ quốc với chủ nghĩa xã hội, 
   như những người lãnh đạo cộng sản đã làm, là một mánh khoé tuyên 
   truyền không được đàng hoàng. Chứng minh rằng do “vận dụng” chủ 
   nghĩa Mác mà Việt Nam thắng được thực dân cũng là không thoả đáng: 
   không thiếu gì nước không có đảng cộng sản mà vẫn thắng được thực 
   dân. Riêng đối nhân dân Việt Nam thì chẳng ai hiểu chủ nghĩa Mác là 
   gì cả: hình ảnh của những người sáng lập ra chủ nghĩa xã hội “khoa 
   học” mãi mãi chỉ là hình ảnh “hai ông Tây phe ta” treo trên tường 
   thôi!
   DĐ: Chủ nghĩa Mác như thế rút lại chỉ là ý thức hệ của những 
   người cộng sản trong quá trình tranh giành quyền lực và giữ quyền 
   lực ? 
   LP: Phân tích tự cội nguồn thì khởi đầu chủ nghĩa xã hội mácxít là 
   phản ứng của phương Tây với sự khốc hại của quá trình công nghiệp 
   hoá của phương Tây: phê phán tận nền móng cái động lực cạnh tranh để 
   phát triển của xã hội ấy, nó cũng đã dựa vào những thành tựu của 
   khoa học kỹ thuật để hình dung cho loài người một tương lai sung mãn 
   nhưng không còn cạnh tranh nữa. Viễn cảnh ấy thật ra không phải chỉ 
   riêng Mác mới có, nhưng cái đặc biệt của Mác là ông dùng biện chứng 
   pháp của Hegel để tìm ra lực lượng xã hội thực hiện sứ mệnh ấy, là 
   giai cấp vô sản, mà chúng ta đã biết tính chất tư biện của nó như 
   thế nào. Khi được đưa sang phương Đông bị những nước phát triển 
   phương Tây đô hộ, nó đã được chuyển hoá thành một ý thức hệ nhân 
   danh cho những giá trị siêu hiện đại, vượt phương Tây, để chống lại 
   chính phương Tây, không phải chỉ thoát khỏi sự đô hộ của phương Tây 
   mà còn tạo ra một mô hình phát triển văn minh cao hơn nhiều lần. Đó 
   là một trong những cách hiện đại hóa lòng yêu nước truyền thống để 
   chống thực dân, nhưng là cách hiện đại hoá riêng biệt của những 
   người cộng sản để tranh quyền lãnh đạo với những xu hướng yêu nước 
   khác, tuy chứa đựng nhiều yếu tố hoang tưởng, nhưng dù sao khả năng 
   thành công vẫn có vì lẽ cuộc chiến đấu ấy vẫn được cuộc cách mạng 
   dân tộc dân chủ có bản chất không cộng sản nâng đỡ. Nhưng khi sự 
   nghiệp chống thực dân đã xong, khi quyền lực đã tập trung hết vào 
   tay mình rồi, khi chủ nghĩa cộng sản được đem ra thực hiện và không 
   chứng minh được gì khác ngoài tính chất bất khả thi của nó thì cái 
   gọi là chủ nghĩa Mác-Lênin cũng bộc lộ hết sự trần trụi của một thứ 
   ý thức hệ được sử dụng chỉ để biện minh cho chế độ độc tài thôi. Có 
   thể nói đủ mọi thứ để khai triển luận đề này, nhưng theo tôi, căn 
   bản vẫn chỉ xoay quanh điều cốt yếu sau đây: thực tế đang làm một 
   công việc chẳng có gì cách mạng nhưng đảng cộng sản vẫn cứ nhân danh 
   “cách mạng” để đặt toàn xã hội vào một tình trạng “hy sinh” vĩnh 
   viễn, mục đích chỉ để duy trì sự thống trị vĩnh viễn của một nhà 
   nước lập ra để thủ tiêu mọi dấu vết của đời sống dân sự. Trước những 
   vấn đề hiện thực do đất nước đặt ra trong quá trình hiện đại hoá, 
   tăng trưởng kinh tế, và phát triển dân chủ, “cách mạng” hoàn toàn 
   chỉ là một khái niệm giả tưởng.  
   DĐ: Nhiều người cho rằng những phê phán ấy có thể đúng với mô 
   hình cách mạng xã hội chủ nghĩa trước đây; nhưng hiện nay mô hình ấy 
   đã được thay đổi mới rồi; anh nghĩ gì về cái gọi là “đổi mới xã hội 
   chủ nghĩa”– xét về mặt ý thức hệ?  
   LP: Ý kiến của tôi về chuyện này vẫn là nhất quán: không phải ý thức 
   hệ Mác-Lênin đã được vận dụng để tạo ra những cái gọi là “canh tân”, 
   “cải cách”, “đổi mới” đối với chủ nghĩa xã hội hiện thực mà thật 
   chính xác thì phải nói rằng những nguyên lý về chủ nghĩa xã hội của 
   Mác, do mang trong bản thân tính chất bất khả thi, nên khi đem ra 
   thực hành, bị cuộc sống chống lại quyết liệt, đã được liên tục điều 
   chỉnh và từ bỏ, chứ không phải là cái gì khác. Nhưng khi những người 
   cộng sản chấp nhận phải nhượng bộ, họ lại đã nhượng bộ theo phương 
   cách của Lênin: lùi bước tạm thời để tránh sụp đổ toàn diện. Nhìn 
   lại kinh nghiệm của Liên xô từ NEP cho đến sau này, tôi cho rằng chế 
   độ cộng sản sở dĩ vẫn kéo dài được là do nó đã phối hợp được khá 
   nhuần nhuyễn những nguyên lý huyễn hoặc về ý thức hệ với nhưng 
   phương thức hành động khá uyển chuyển: trong khi phất cao ngọn cờ 
   phản kháng đến nền móng nền văn minh phương Tây hiện đại và hứa hẹn 
   đấu tranh tạo ra một hình thái kinh tế - xã hội hoàn hảo muôn phần, 
   thì đồng thời vẫn có thể nhân danh sự “vận dụng” những nguyên lý ấy 
   để làm khác đi và làm ngược lại hoàn toàn những nguyên lý ấy. Chúng 
   ta hiểu được tại sao trong khi ngày càng phải từ bỏ con đường đã 
   chọn về mặt nội dung thì về mặt tổ chức, đảng cộng sản vẫn duy trì 
   được sự tồn tại độc quyền của mình. Nhìn vào những chuyển biến của 
   đất nước từ 1979, qua 1986 đến nay, chúng ta thấy thật rõ rệt điều 
   đó: càng ngày càng phải từ bỏ cái gọi là “ chủ nghĩa xã hội” thực 
   hiện bằng con đường tư bản nhà nước để chuyển dần sang một thứ “chủ 
   nghĩa xã hội” thực hiện bằng con đường tư bản cạnh tranh, và trong 
   khi “kiên trì nguyên lý” hoặc lúc đã thực hiện quá trình “tự diễn 
   biến hoà bình” xong rồi, người ta vẫn không ngớt hô hào “cách mạng”, 
   không ngớt xưng tụng Các Mác, Lênin và người đệ tử trung thành của 
   Lênin là Hồ Chí Minh, để trong bất cứ trường hợp nào cũng có thể duy 
   trì được sự lãnh đạo độc quyền của đảng. Anh thấy đấy: mọi việc dù 
   thay đổi theo hướng nào thì vấn đề ý thức hệ vẫn được coi là “bất 
   biến”.
   DĐ: Với những bài lý luận có nội dung phê phán quyết liệt chủ 
   nghĩa Mác-Lênin với tư cách là một ý thức hệ, anh cũng đã phê phán 
   khá quyết liệt sự độc tôn quyền lực của đảng cộng sản Việt Nam đối 
   với đất nước, anh đã gặp phản ứng gì từ phía những người cầm quyền 
   hiện nay?
   LP:  Đối với tôi thì phản ứng của những người cầm quyền, dù thế 
   nào đi nữa, cũng không quan trọng. Tôi không phải là người làm chính 
   trị chuyên nghiệp, cho nên tôi chỉ phát biểu những ý kiến của mình 
   với tư cách là người hoạt động trong lĩnh vực văn hoá, tinh thần. 
   Người cầm quyền có chịu nghe tôi và “tự diễn biến” một cách tích cực 
   để tránh đi cái cảnh “bị diễn biến” một cách tiêu cực, hoặc cứ nhất 
   định tự cho mình là muôn đời “duy nhất đúng” và công kích tôi như 
   một người đã đưa ra những luận điệu gọi là “bác bỏ con đường nhân 
   dân đã chọn”thì tôi vẫn cứ nghĩ rằng tôi phải tiếp tục giữ cho được 
   vị trí nghịch thường của mình. Tôi không giấu giếm thái độ hoàn toàn 
   không còn một chút tin tưởng gì về chủ nghĩa Mác-Lênin được “vận 
   dụng” bởi một đảng cộng sản lập ra theo mô hình chuyên chính ý thưc 
   hệ kiểu Lênin, nhưng thái độ của tôi hoàn toàn chỉ giới hạn trong 
   phạm vi suy tưởng và nghĩ rằng tôi được quyền phát biểu những suy 
   tưởng ấy như một công dân trước nhà nước đang quản lý mình về mặt 
   pháp luật. Tôi không chủ trương lật đổ nhà nước nhưng tôi không chấp 
   nhận việc nhà nước nhân danh sự độc quyền về ý thức hệ để quản lý 
   những công dân và cấm đoán họ phát biểu chính kiến trước những vấn 
   đề chung, một nhà nước như vậy là hoàn toàn xa lạ với đời sống của 
   thế giới hiện đại. Không có nhà nước nào thoát khỏi bị định hướng 
   bởi một ý thức hệ để hành động, nhưng tôi cho rằng đó là những thứ ý 
   thức hệ thực tiễn liên hệ đến những chuyện trần gian, thiết thực chứ 
   không phải là những thứ siêu hình về lịch sử, về cõi đời tuyệt diệu 
   mai sau, không có gì kiểm chứng được, gọi những thứ đó là “khoa học 
   và cách mạng” và nhân danh những thứ đó để phán xử người dân và “cải 
   tạo” họ.  Đảng cộng sản có muốn giữ thì cứ giữ, nhưng chỉ cho 
   riêng mình thôi, không thể cưỡng bức toàn dân phải chấp nhận ý thức 
   hệ ấy thông qua súng đạn và nhà tù của một nhà nước bên ngoài mệnh 
   danh là “của dân, do dân vì dân” nhưng bên trong chỉ là công cụ của 
   một thiểu số. Tôi cho rằng đối với một nhà nước như vậy thì người ta 
   phải đấu tranh thay đổi nó, và đối với công việc ấy thì khẳng định 
   công khai sự bất đồng ý kiến với nó về mặt ý thức hệ là một trong 
   những thách thức ban đầu. Quyền được có những ý kiến khác với nhà 
   nước là một trong những quyền căn bản của con người trong thế giới 
   hiện đại; không vượt qua được cái não trạng thờ ơ, vô trách nhiệm để 
   bày tỏ những bất đồng đó ra trước công luận thì người ta chỉ dung 
   túng cho những lề thói chuyên quyền kiểu châu Á được tiếp tục tồn 
   tại mãi mãi trên đất nước thôi. Tôi cho rằng những ai chấp nhận đưa 
   khái niệm “nhà nước pháp quyền” vào Việt Nam không thể không chú ý 
   đặc biệt đến những cơ sở tinh thần đã tạo ra nó. Chỉ sử dụng cái xác 
   của danh từ rồi ném linh hồn nó vào cái sọt rác “tư sản” thì đó là 
   một thái độ hoàn toàn không nghiêm chỉnh. 
   DĐ: Anh có nghĩ rằng khi bày tỏ thái độ quyết liệt như vậy với 
   chủ nghĩa Mác-Lênin và đảng cộng sản, anh có cho rằng con đường tất 
   yếu mà anh sẽ phải chọn là chế độ dân chủ phương Tây với nền kinh tế 
   thị trường và chủ nghĩa đa nguyên chính trị?
   LP: Suy nghĩ vấn đề trên khía cạnh ý thức hệ, tôi thấy không thể đưa 
   ra những câu trả lời đơn giản được. Nguyên tắc của cơ chế thị trường 
   là giả định phải có những chủ thể độc lập cạnh tranh tự do thì mới 
   tạo ra được của cải cho xã hội; chúng ta đều biết rằng thực tại đó 
   vẫn còn đúng cho đến ngày nay, không phải đúng về mặt chân lý tuyệt 
   đối mà chỉ đơn giản là nó vẫn còn phù hợp với con người trong hoạt 
   động kinh tế vì còn có khả năng duy trì được động lực cho phát triển 
   sản xuất. Nhưng khi những nhà kinh tế cổ điển khảo sát thực tại ấy 
   và nâng lên thành lý luận về “cạnh tranh hoàn hảo” để chống lại sự 
   can thiệp của nhà nước vào mọi hoạt động kinh tế thì chúng ta thấy 
   tất cả đã bắt đầu nhuốm màu ý thức hệ để trở thành cái gọi là “chủ 
   nghĩa tự do” rồi. Sự suy tưởng của Mác cũng bắt đầu từ thực tại ấy 
   nhưng lại đi đến chiều hướng ngược lại hoàn toàn: cạnh tranh tự do 
   chỉ là cuộc tranh giành tàn ác dẫn đến tập trung tài sản và bóc lột 
   tột độ, và do đó cũng đưa đến chỗ làm sụp đổ chế độ tư hữu tư nhân 
   để hình thành ra một hình thái xã hội không còn cạnh tranh nữa và 
   gọi là “cộng sản chủ nghĩa”. Ai cũng thấy đâu là tính chất hiện thực 
   và tính chất ý thức hệ trong hai cung cách tư duy trên đây, và do đó 
   thật khó mà coi cả hai đều là đúng hoặc sai bên ngoài những 
   paradigmes đã tạo ra chúng. Tôi nghĩ rằng chọn một trong hai lý 
   thuyết ấy rồi tranh luận thì thật là thú vị về mặt học thuật, nhưng 
   chọn một trong hai học thuyết ấy để áp dụng nguyên vẹn vào thực tế – 
   bằng những cái gọi là chuyên chính hoặc tư sản hoặc vô sản – thì 
   chúng ta đều biết kết quả như thế nào. Tôi cho rằng khi nói đến 
   những lĩnh vực thực tế thì phải chấp nhận thực tế như nó đang có thì 
   người ta mới mong tìm ra được những giải pháp, nếu không hiệu lực 
   hoàn toàn, thì cũng không rơi vào những hoang tưởng đưa người ta lên 
   chín tầng trời. Hãy làm như cuộc sống hiện thực đang làm: hãy đi 
   bằng chân chứ đừng bắt chước những người chơi trội muốn đi bằng đầu 
   và bắt mọi người phải đi bằng đầu như mình! Không nên theo Adam 
   Smith hoàn toàn mà cũng không thể phủ nhận Các Mác hoàn toàn. Ở đây 
   như tôi đã nói, rõ rệt chẳng có gì gọi là phủ định ý thức hệ cả mà 
   chỉ là khoanh nó lại trong cái thế giới của nó, để nó trong thế giới 
   của nó, nó sẽ giúp đỡ chúng ta thật nhiều. 
   
   DĐ: Đối với tình hình hiện nay, anh có cho rằng những suy nghĩ 
   mang tính lý luận như trên có thể gợi ra được những đề nghị có ý 
   nghĩa tích cực hay không ? Nhiều người đọc anh đã có ý muốn nghe anh 
   phát biểu thêm về những vấn đề thực tế hơn. 
   LP: Tôi nghĩ rằng lĩnh vực chuyên biệt của tôi không phải hoạt động 
   chính trị cho nên tôi thấy không cần phải viết ra một tuyên ngôn hay 
   cương lĩnh làm gì, mặc dù đẻ ra mấy thứ ấy không phải khó khăn lắm. 
   Tuy vậy nếu ai đọc tôi chăm chú thì vẫn thấy được ý định của tôi qua 
   những bài lý luận. Thí dụ như đối với chế độ cộng sản hiện nay ở 
   Việt Nam, tuy cực kỳ căng thẳng trong sự phê phán về ý thức hệ, 
   nhưng tôi lại rất có mức độ trong ứng xử: tôi chỉ đề nghị đảng nên 
   tỏ ra thực tế hơn, tiếp tục bỏ những phần hoang tưởng gọi là chuyên 
   chính vô sản trong “chủ nghĩa xã hội mác xít”, để thực hiện dân chủ. 
   Và trong việc này tôi cũng không hề coi cơ chế đa đảng như là tối 
   cần, cấp bách, không có không được cho đất nước hiện nay, mà chỉ đề 
   nghị nới rộng quyền tự do tư tưởng và phát biểu cho những người có 
   nhu cầu bức thiết là giới trí thức và nghiên cứu, nghĩa là thực hiện 
   những quyền dân chủ ấy ban đầu một cách có giới hạn chứ chưa đến mức 
   phổ biến, rộng rãi. Và sở dĩ như vậy vì tôi cho rằng vấn đề dân chủ 
   là một quá trình lâu dài, không phải biểu hiện trước hết trong cuộc 
   tranh giành về quyền lực giữa các đảng phái mà căn bản là sự độc lập 
   của xã hội công dân đối với nhà nước về mọi phương diện, khởi đầu từ 
   kinh tế rồi sau đó mới lan dần sang văn hoá và chính trị. Quan điểm 
   của tôi về hành động thật sự chẳng có gì cao xa: làm gì thì làm 
   nhưng hãy khởi đầu tất cả bằng sự “tử tế” trước hết, người có học 
   thì lãnh đạo người vô học, kẻ có khả năng phải có được sống xứng 
   đáng với sức lực của mình, đã sống trong hoà bình rồi thì hãy giẹp 
   những chuyện gọi là “cách mạng” nặc mùi sắt máu bạo lực đi. Tôi cho 
   rằng những đề nghị như vậy là rất từ tốn, phải chẳng chứ không có gì 
   là vội vàng, quá khích: tất cả đều xuất phát từ sự nhận thức ra tình 
   cảnh phá sản không có gì chống chế nổi của lý luận chủ nghĩa xã hội 
   mácxít thực hiện bằng phương pháp Lênin và do đó phải từng bước thay 
   thế nó bằng một cái gì đó khiêm tốn hơn, bình thường nhưng khả thi 
   và dễ được chấp hơn với mọi người. Trình bày thẳng thắn những ý nghĩ 
   của mình – nhiều khi hết sức gay gắt và cay đắng – tôi chỉ muốn tạo 
   ra một thứ kích động tinh thần đối với những người có tránh nhiệm 
   trong đảng, báo động cho họ biết kết quả tệ hại của cái não trạng 
   giáo điều và ngạo mạn mà họ đã gây ra cho đời sống tinh thần xã hội 
   suốt thời gian đằng đẵng đã qua là như thế nào. Giới lý luận quan 
   phương gọi thái độ ấy của tôi là “diễn biến hoà bình” và cột nó vào 
   mọi thứ mưu đồ xa gần nào đó, điều đó đối với tôi chẳng mảy may có ý 
   nghĩa gì. Tôi không có mưu đồ nào, vì vậy, sau khi ngẫm nghĩ, tôi 
   nhận thấy mấy chữ “diễn biến hoà bình” như vậy mà lại thật hay. Có 
   người nào trên đất nước chúng ta hiện nay, kể cả những người cộng 
   sản, mà không tham gia vào trò chơi “diễn biến hoà bình”? Vấn đề chỉ 
   là cách chơi như thế nào mà thôi. Đối với tôi mọi việc từ lâu không 
   có gì phải giấu giếm: tôi muốn chuyển chế độ chuyên chính vô sản 
   sang chế độ dân chủ, chuyển não trạng cuồng tín ngạo mạn ý thức hệ 
   sang đối thoại trong nhân nhượng, hy vọng qua đó tìm ra được một sự 
   đồng thuận xã hội nào đó, cần thiết cho sự phát triển đất nước trong 
   dân chủ và hoà bình.
   DĐ: Anh nghĩ gì về về ý kiến của một số người nhận xét rằng, cùng 
   với một số trí thức khác trong nước, anh chỉ muốn “cứu đảng chớ 
   không cứu nước”?
   LP: Tôi không hiểu thật rõ ý kiến của những vị đã nói ra điều đó, vì 
   tôi chưa đọc được những bài báo nào trình bày cho thật đầy đủ cả. 
   Nhưng nếu như điều mà tôi giả định về những nhận xét ấy là như thế 
   này – chẳng hạn nên bỏ cờ búa liềm để chuyển sang cờ ba sọc – thì 
   tôi sẽ không ngại gì mà không nói với những vị ấy là: chuyện thật 
   trẻ con ! Tôi tuyên bố thẳng thắn là đã tự ý bỏ đảng cộng sản vì bất 
   đồng về đường lối, nhưng trong tôi chẳng hề lướng vướng một chút mặc 
   cảm nào về cái mà phía bên này gọi là “phản bội” và phía bên kia 
   người ta gọi là “chiêu hồi”. Cái cung cách suy nghĩ theo kiểu “xã 
   hội chủ nghĩa hay là chết” hoặc “không quốc gia thì cộng sản” ấy chỉ 
   là sản phẩm của một tình thế đã qua rồi. Nó hoàn toàn có lý do để 
   tồn tại trong một thế giới bị phân đôi như quả cam cắt ra làm hai 
   phần, bên nào cũng tự cho mình là “chính nghĩa” để coi bên kia là kẻ 
   thù không đội trời chung. Có thể nó đã phản ánh một cách hiện thực 
   về cái cách thức liên minh ma quái giữa các quốc gia trong việc 
   tranh giành quyền lực vào một giai đoạn nào đó của lịch sử hiện đại, 
   nhưng đứng về mặt ý thức hệ mà cho đến bây giờ người ta vẫn cứ nhắm 
   mắt tin vào thì không có gì buồn cười hơn. “Quốc gia” ư? “Quốc tế” 
   ư? “Quốc gia” gì mà lúc nào cũng phải đứng đàng sau những quân đội 
   viễn chinh phương Tây, và mục đích lại không có gì khác hơn là chống 
   lại những người mang danh là “quốc tế” nhưng lại đang cầm súng chống 
   lại những đội quân viễn chinh phương Tây ấy? Còn những người gọi là 
   “quốc tế”
   này làm sao có thể coi mình là “người giải phóng loài ngườì” cho 
   được khi mà cái ý thức hệ mà họ mượn từ những nước phương Đông đối 
   lập với phương Tây, khi đem ra thực hiện thì lại không mang đến kết 
   quả nào khác hơn là gây chia rẽ dân tộc, gìm cuộc sống trong vũng 
   lầy của độc tài, lạc hậu, nghèo nàn, đưa cả một thế hệ những con 
   người vào tình trạng bơ vơ về tinh thần chưa bao giờ thảm hại như 
   bây giờ? Làm sao có thể huyễn hoặc mãi – những cái vốn đã mang trong 
   bản thân đầy những ý nghĩa hàm hồ? Thực tế nay đã không còn như xưa 
   nữa, không ai không nhận thấy, nhưng do hàng loạt những lý do, các 
   thế lực thuộc về quá khứ ấy vẫn tồn tại, ồn ào dương cao những ngọn 
   cờ cũ xưa tả tơi định lôi cuốn dân tộc vào một cuộc đối đầu mới vô 
   ích và vô vọng. Là một người đã bỏ hầu hết một đời để đi đuổi bắt 
   những ý tưởng và đã ngán ngẩm khi thấy mình đã phải lao vào máu lửa 
   để đuổi bắt những ý tưởng ấy, tôi thấy mình đã mình trở nên “dị ứng” 
   hầu như hoàn toàn với cái kiểu cách ngạo mạn của các thế lực ấy. Tôi 
   muốn tìm đến chỗ đứng của những người muốn nhìn thế giới đang chuyển 
   động đi về tương lai hơn là bị ràng buộc bởi những cái vĩnh viễn đã 
   qua rồi. Hôm nay anh 50 tuổi, anh không thể phủ nhận cái tuổi 20 của 
   anh, không có 20 thì anh không thành 50: nhưng khi anh đã 50 rồi thì 
   anh không thể nghĩ và sống như hồi anh 20 nữa. Những gì suy ngẫm của 
   tôi về những cái đã qua cũng chỉ có ý nghĩa đơn giản như vậy thôi. 
   Chẳng qua tôi có chút hiểu biết về cái mà người ta gọi là “kinh 
   nghiệm cộng sản” thì tôi suy ngẫm nhiều về cái mảng đời ấy, và khi 
   đem bộc lộ ra thì chẳng hề có ảo tưởng xoay vần được thế cuộc gì cả, 
   nhiều lắm thì cũng chỉ mong gợi được một cái gì đó giống như sự nhen 
   nhúm cho một não trạng mới, thích hợp với thực tế hơn thôi. 
   DĐ: Anh có thể nói rõ hơn một chút về cái “não trạng mới” ấy!
   LP: Qua kinh nghiệm của đất nước trong suốt mấy chục năm đã 
   qua, tôi cho rằng đã đến lúc mọi người cần phải nhận ra tính chất 
   cực kỳ nguy hại của việc đem gắn chặt một ý thức hệ nào đó với nhà 
   nước, từ trên áp xuống cho xã hội, bắt xã hội phải khuôn nắn theo. 
   Tất nhiên, không thể phủ nhận sự định hướng của một ý thức hệ đối 
   với hoạt động của nhà nước, nhưng vấn đề ở đây là không được coi ý 
   thức hệ ấy như cái duy nhất đúng, duy nhất cao cả, căn cứ vào đó 
   biện hộ cho sự tồn tại vĩnh viễn của một chế độ độc tài. Mối quan hệ 
   giữa ý thức hệ với nhà nước do đó rốt ráo cũng là vấn đề mối quan hệ 
   giữa nhà nước và xã hội công dân, là vấn đề tìm ra những định chế để 
   kềm chế không cho nhà nước trở thành thế lực triệt tiêu sức sống của 
   xã hội công dân. Đối với thế giới, điều đó chẳng có gì mới mẻ, nhưng 
   ở Việt Nam thì lại vẫn còn tương đối xa lạ, trong suy nghĩ của những 
   người dân đến não trạng của những kẻ cầm quyền: một bên lúc nào cũng 
   ngẩng cổ lên trông ngóng sự xuất hiện của một đấng minh quân với 
   những thứ “phép màu”nào đó có thể giải quyết được mọi rắc rối của 
   đời sống, còn bên kia thì cũng chưa bỏ được thói quen từ trên nhìn 
   xuống của những kẻ tự cho mình là những đấng bậc nào đó được các 
   thực tại siêu nhiên hoặc lịch sử uỷ nhiệm cho sứ mệnh cứu vớt chúng 
   sinh, coi đám chúng sinh ấy như một lũ “xích tử” cần được chăm lo 
   cho mọi thứ “tương cà mắm muối” nhưng khi cần thì có thể bị đét roi 
   vào đít để được “giáo dục” cho cách ngoan ngoãn xưng tụng những 
   người “lĩnh tụ thiên tài”! Tôi cho rằng một xã hội mà vẫn còn bị một 
   thứ não trạng như vậy đè nặng thì khó lòng mà thoát ra khỏi cảnh 
   trạng bị thống trị bới những kẻ mị dân, gia trưởng và độc đoán dưới 
   rất nhiều hình thức khác nhau, từ cổ xưa cho đến hiện đại. Vấn đề do 
   đó không chỉ liên quan đến chủ nghĩa cộng sản mà thôi: sự biến thể 
   tất yếu dẫn đến sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản với tư cách là một ý 
   thức hệ, nếu xảy ra, chắc hẳn sẽ không gây ngạc nhiên nhiều cho 
   chúng ta nữa, nhưng ai mà biết được rằng sau sự sụp đổ ấy thì một 
   thứ gì đó gọi là “cộng sản không có cộng sản” vẫn cứ tồn tại trên 
   cái mảnh đất châu Á trì trệ này! Dân chủ theo tôi vẫn là nội dung 
   chính yếu của con đường đi tới hiện đại hoá của đất nước chứ không 
   phải là cái gì khác. Và biểu hiện thiết thực cho chiều hướng ấy trên 
   mặt nhà nước phải là một nhà nước dân tộc, dân sự nghĩa là một nhà 
   nước phi thần quyền, phi quân sự, phi cách mạng: đó chính là nền 
   tảng để cho tất cả những người Việt Nam hiện nay từ mọi nguồn gốc 
   khác nhau có thể ngồi chung để đối thoại về quá trình hiện đại hoá 
   đất nước. Trong sự nghiệp ấy, tôi rất mong mỏi thuyết phục những 
   người cộng sản đi tiên phong mở màn cho thái độ nhận thức lại bản 
   thân một cách can đảm và nghiêm chỉnh. Tôi muốn nói với những người 
   cộng sản rằng họ hãy từ bỏ việc đeo đuổi cái gọi là “cẩm nang thần 
   kỳ” mà Hồ Chí Minh cho rằng đã tìm thấy trong chủ nghĩa Lênin đi – 
   nhất là khi đã bước qua khỏi cuộc chiến tranh để đi vào xây dựng: 
   với tư cách là những ý thức hệ, không có học thuyết nào có thể tạo 
   ra cho đất nước những điều kỳ diệu trong phát triển cả. Không phải 
   chủ nghĩa xã hội mà cũng chẳng phải chủ nghĩa tư bản, không phải là 
   Adam Smith và cũng không phải là Các Mác: chỉ có cái hồn thiêng của 
   một dân tộc – biểu hiện ra ở cái khả năng biết thích ứng để “chọn 
   lựa lại” một cách thông minh trước những tình thế mới do thời đại 
   mang đến – là quyết định tất cả mà thôi. Tôi xác quyết rằng cái não 
   trạng “cách mạng” kiểu “cộng sản” là hoàn toàn không còn thích hợp 
   với tình thế mới ấy nữa rồi: cuộc cách mạng vô sản trước tương lai 
   của dân tộc chỉ còn là một cục bướu thừa thãi, không thể không bị 
   giải phẫu cho đến căn để, dù đấy là một cuộc giải phẫu cực kỳ đau 
   đớn.
   DĐ: Trong một bài viết cách đây không lâu anh có nói đến một 
   “kịch bản” chuyển giao quyền lực của đảng cộng sản cho xã hội, nay 
   anh vẫn còn giữ nguyên ý kiến đó?
   LP: Tôi vẫn giữ nguyên ý kiến đó và mong muốn những người cộng sản 
   tự thực hiện cuộc “tự diễn biến hoà bình” một cách có ý thức, có kế 
   hoạch để tránh những đổ vỡ có thể có do chính sách chuyên chính do 
   nó gây ra. Quyền lợi cao nhất ở đây vẫn là dân tộc chứ không phải là 
   đảng phái này, đảng phái nọ, học thuyết này hay học thuyết nọ.
   DĐ: Anh không nhận thấy đề nghị của anh thật sự là quá... mơ mộng 
   hay sao?  
   LP: Nếu anh xem những ý kiến của tôi chẳng qua cũng chỉ là một thứ ý 
   thức hệ thì quả thật là quá mơ mộng. Nhưng nếu anh nhìn sự việc một 
   cách thực tế thì anh sẽ thấy những gì tôi đề nghị không phải là 
   không có cơ sở: những người lãnh đạo đảng đang làm gì nếu họ không 
   đang thực hiện chính sách “tự diễn biến hoà bình”? Với đường lối gọi 
   là “mở cửa” và “đổi mới” họ đang làm gì nếu không đang đẩy đến tận 
   cùng cái lôgích gọi là “vận dụng” Mác vào thực tế, theo nghĩa là bỏ 
   dần trong thực tế tất cả những gì mà Mác đã hình dung ra cho tương 
   lai, trong khi đó thì lại bắt tay vào việc thực hiện tất cả những gì 
   mà Mác đã phủ định? Cái gọi là “chủ nghĩa xã hội” đang được xem là 
   giá trị để “định hướng” cho sự tăng trưởng kinh tế là gì trong thực 
   tế nếu không phải chỉ cái tên gọi mỹ miều cho một thứ chủ nghĩa tư 
   bản thời sơ kỳ mà Mác đã phê phán? Cái “quốc tế” mà những người cộng 
   sản Việt Nam đang dựa vào để gọi là hỗ trợ cho sự nghiệp “tiến lên 
   chủ nghĩa xã hội” là gì nếu không phải là những thế lực tư bản đa 
   quốc gia? Anh làm sao có thể tìm được một chút xíu gì gọi là “chủ 
   nghĩa xã hội mácxít” khi mà cái gì anh cũng phải bỏ tiền ra mua? Có 
   lẽ cái được gọi là “xã hội chủ nghĩa” rút lại chẳng qua chỉ là cái 
   tên của đảng với những lời lẽ ồn ào của đảng về chủ nghĩa xã hội 
   thôi: nhưng một đảng cộng sản mà đi thực hiện một thứ chủ nghĩa tư 
   bản man rợ, trong khuôn khổ sự hợp tác với quốc tế tư bản chẳng lẽ 
   đó lại gọi là “chủ nghĩa xã hội mácxít” mang màu sắc Việt Nam hay 
   sao? Không biết có ai trong hàng ngũ những nhà kiến tạo ra đường lối 
   của đảng mà thật lòng tin vào những gì họ nói ra hay không, nhưng 
   trong phạm vi những người mà tôi quen, tôi gặp, trong đảng, từ những 
   đảng viên bình thường đến các vị trung ương, tôi thấy chẳng còn ai 
   coi những thứ lý lẽ ấy là quan trọng cả. Vấn đề thực tế chỉ là làm 
   thế nào để kéo dài sự tồn tại và phải tìm ra cho được một thứ “chính 
   danh” nào đó để kéo dài sự tồn tại đó mà thôi. Nhưng làm sao thực 
   hiện được điều đó một cách có sức thuyết phục thì lại không phải dễ 
   dàng. Những cái gọi là “đổi mới” lý luận về chủ nghĩa xã hội ra đới 
   dưới sự bảo trợ của đảng và nhà nước hiện nay ở Việt Nam, theo tôi, 
   chỉ là sự xoay sở một cách vô cùng hỗn loạn để đối phó với tình thế 
   khó khăn ấy: nó chỉ lay hoay trong sự chắp vá tìm ra cách nói, cách 
   trình bày như thế nào trước công luận để biện minh cho sự từ bỏ trên 
   thực tế những nguyên lý mácxít về chủ nghĩa xã hội nhưng cuối cùng 
   vẫn duy trì được sự độc tài của đảng chứ không phải là cái gì khác. 
   Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là tình trạng ấy sẽ kéo dài được bao lâu, 
   và kéo dài bằng cách nào khi mà, ngoài sự trấn áp, hù doạ quen 
   thuộc, đảng đã không còn trong tay sự dự trữ tinh thần nào khác 
   ngoài những thủ đoạn nói dối, mị dân? Sự tan rã về tư tưởng trong 
   hàng ngũ đảng hiện nay là điều đã trở thành hiển nhiên không còn có 
   thể nghi ngờ chút nào. Đảng đang tìm cách “tự diễn biến”, tự thay 
   hình đổi dạng cũng là điều không thể nghi ngờ chút nào. Những băn 
   khoăn của tôi không phải ở chỗ đó mà là xét xem sự biến chất của 
   đảng theo chiều hướng đó có mang lại được ích lợi thật sự cho sự 
   phát triển của dân tộc hay không mà thôi. Tôi cho rằng mọi việc ngày 
   càng chìm sâu vào tình trạng bế tắc, thực dụng hoàn toàn không có 
   lối thoát về lý luận. Có lẽ sự mơ mộng của tôi, nếu có, thì chỉ xuất 
   phát từ tình trạng ấy: mong muốn sự hoá thân của đảng diễn ra một 
   cách “tử tế” hơn, sự đổi mới của đảng diễn ra một cách toàn diện 
   hơn, dân chủ hơn, có ý thức hơn, chứ không ứng biến nửa vời và phản 
   văn hoá như nó đang diễn ra hiện nay. 
   DĐ: Anh có cho rằng những phần tử cấp tiến trong đảng có thể đóng 
   được vai trò tích cực trong quá trình “hoá thân” của đảng? 
   
   LP: Theo nhận xét của tôi, những phần tử theo đuổi đường lối 
   cực đoan về ý thức hệ trong đảng hiện nay càng ngày càng ít đi và 
   càng ngày yếu thế hơn xưa rất nhiều: điều này cũng đã biểu hiện cả 
   trong lĩnh vực lý luận, là lĩnh vực thường được coi là bảo thủ nhất. 
   Điều đó đã phản ánh sự thay đổi của xã hội Việt Nam là sâu sắc đến 
   như thế nào: chế đô chuyên chính ở Việt Nam dường như đang có xu 
   hướng từ sự thống trị tộc tài khuynh tả chuyển sang độc tài khuynh 
   hữu. Một cách khách quan, nhiều người quan sát đã cho rằng tình thế 
   ấy dù sao vẫn có nhiều mặt tích cực hơn xưa. Bị thúc đẩy bởi hàng 
   loạt những sức ép đến từ khắp nơi, từ khắp các lĩnh vực của đời sống 
   – nhất là từ cái xã hội công dân đang được phục hồi trong thực tế –, 
   sự thay đổi của đảng trong những ngày sắp tới có thể sẽ diễn ra 
   nhanh chóng hơn. Trong hoàn cảnh ấy, sự đóng góp của những phần tử 
   cấp tiến trong đảng sẽ là cực kỳ quan trọng: văn hoá hay phản văn 
   hoá, dân chủ hay độc tài, theo tôi, vẫn là cái cột mốc để người ta 
   nhận ra chất lượng của những cuộc vận động thay đổi ấy. 


19:49
Hoàng Phong Nhã 
 Posted in:  
0 nhận xét:
Đăng nhận xét