Thứ Năm, 2 tháng 4, 2015
“Lòng tin” và “Quan hệ Tin cậy lẫn nhau” trong Quan hệ Quốc tế -
08:12
Hoàng Phong Nhã
No comments
Tác giả: TS. Vũ Lê Thái Hoàng[1]
Trong bối cảnh
mở cửa và hội nhập hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình đưa các quan
hệ với các nước, đặc biệt là các nước lớn và các nước láng giềng, đi vào
chiều sâu và ổn định, chú trọng hiệu quả, tăng cường sự tin cậy lẫn
nhau, tạo sự đan xen lợi ích nhằm củng cố vị thế của ta và bảo đảm lợi
ích quốc gia trong quan hệ với các nước này. Trong quá trình này, Việt
Nam mong muốn “là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc
tế và khu vực”. Đây là một thông điệp đối ngoại phù hợp vì việc xây dựng
lòng tin và thúc đẩy quan hệ tin cậy lẫn nhau góp phần đặt nền móng
vững chắc cho sự phát triển ổn định của quan hệ (tránh rủi ro và những
sự cố bất ngờ) cũng như sự hợp tác nhiều mặt giữa các bên.
Nghiên cứu về “Lòng tin” và “Quan hệ
tin cậy lẫn nhau” trong QHQT đã được phát triển thành một dòng nghiên
cứu riêng và bắt nguồn từ lĩnh vực nghiên cứu tâm lý học, xã hội học,
chính trị trong nước, và các lý thuyết QHQT chủ yếu. Các nghiên cứu tình
huống chủ yếu tập trung vào một số ví dụ thành công điển hình (đặc biệt
là quá trình xây dựng lòng tin và hòa giải Pháp – Đức) và qua phương
pháp so sánh để phân tích và lý giải những tình huống chưa thành công
khác.
Khái niệm Lòng tin được phân tích đầu tiên trong Lý thuyết Trò chơi (gồm
trò chơi Tình trạng Tiến thoái Lưỡng nan của Tù nhân và Săn Hươu),
trong đó nhấn mạnh mức độ liên lạc, giao tiếp và sự tin cậy lẫn nhau sẽ
mang đến ít rủi ro nhất và lợi ích lớn hơn cho tất cả các bên. Thay vì
đề cao sự tin cậy lẫn nhau và hợp tác giữa các quốc gia, thuyết Hiện thực nhấn
mạnh sự cạnh tranh giành quyền lực và nghi ngờ, lợi dụng lẫn nhau để
tối đa hóa lợi ích xuất phát từ các quan niệm về “tình trạng vô chính
phủ”, “lợi ích so sánh tương đối”, “tổng lợi ích bằng không”, “tự cứu
mình”, và “tình trạng tiến thoái lưỡng nan về an ninh”. Thuyết Thể chế tuy
kế thừa một số giả định chính của Thuyết Hiện thực nhưng lạc quan hơn
về mức độ tin cậy lẫn nhau và hợp tác giữa các quốc gia với quan niệm về
“lợi ích tuyệt đối” và vai trò của các tổ chức/thể chế trong việc chia
sẻ thông tin, thúc đẩy lòng tin, tăng cường hợp tác, ngăn ngừa bội ước. Thuyết Kiến tạo Xã hội cũng
kế thừa những giả định chính của các thuyết trên nhưng nhấn mạnh đến
các yếu tố phi vật chất trong việc thúc đẩy lòng tin và sự hợp tác giữa
các quốc gia thông qua “sự đồng dạng thể chế” và “sự thể chế hóa/quốc tế
hóa các chuẩn mực, quy tắc”. Hai yếu tố này có thể đạt được nhờ quá
trình “xã hội hóa” trong QHQT, tức là quá trình các quốc gia triển khai
quan hệ với nhau, tham gia vào các tổ chức/thể chế, và thiết lập nên các
cộng đồng.[2]
Về cơ bản, “Lòng tin” có những thuộc tính sau[3]:
Lòng tin là
thái độ sẵn sàng gửi gắm lợi ích của mình vào những đối tượng khác (hay
nói cách khác là đặt lợi ích của mình lệ thuộc vào hành vi, chính sách
của những đối tượng khác).
- Là một trạng
thái tâm lý và một dạng nhận thức vì biểu hiện của lòng tin là sự trông
đợi/kỳ vọng về hành vi của đối tượng. Tuy nhiên, lòng tin không chỉ là
sự đánh giá hay kỳ vọng về đối tượng.
- Có tính tương quan giữa các chủ thể.
- Là hành vi chọn lựa/quyết định có cơ sở về việc đặt lòng tin vào đối tượng.
- Sự lựa chọn
tin cậy hay không tin cậy phụ thuộc rất lớn vào nhận thức về rủi ro của
chủ thể. Lòng tin là thái độ/quyết định chấp nhận rủi ro và chấp nhận
rủi ro có thể là kết quả của lòng tin chứ không phải là tiền đề của lòng
tin. Nói một cách khác, chỉ trong tình huống có rủi ro (về sự bội
ước) chúng ta mới cần đến sự tin cậy và tin cậy một đối tượng nào đó tức
là chấp nhận rủi ro với đối tượng đó. Vì vậy, lòng tin mang tính
tình huống: một đối tượng đáng tin cậy trong tình huống này nhưng có thể
không đáng tin cậy trong một tình huống khác mặc dù không thể loại trừ
trên thực tế có nước giữ được lòng tin của nước khác trong nhiều tình
huống.
- Là sự tính
toán xác suất hay dự báo các khả năng xảy ra/hành vi của đối tượng. Việc
xây dựng lòng tin dựa trên sự tính toán được-mất (của hành vi trung
thành hay bội ước một mối quan hệ tin cậy lẫn nhau) nhằm tối đa hóa lợi
ích của chủ thể. Việc tính toán khả năng có tác động trực tiếp đến sự
trông đợi/kỳ vọng của chủ thể vì khi khả năng một đối tượng có thể giữ
đúng cam kết của mình là rất cao thì chủ thể kỳ vọng vào một kết quả
tích cực và ngược lại.
- Có tiền đề là
sự đáng tin cậy về ý đồ, hành vi, năng lực, vai trò của đối tượng. Lòng
tin và nhận thức về sự đáng tin cậy là thuộc tính của chủ thể, và sự
đáng tin cậy là thuộc tính cơ bản của đối tượng. Sự đáng tin cậy có tác
động lớn đến lòng tin của chủ thể. Nhận thức về sự đáng tin cậy xuất
phát từ hiểu biết, thông tin về đối tượng.
- Có tác động
trực tiếp đến ý đồ và hành vi của chủ thể. Nói cách khác, việc tin cậy
một đối tượng sẽ thúc đẩy chủ thể sẵn sàng chấp nhận rủi ro và có những
hành động tương ứng.
Trong QHQT, hợp
tác đòi hỏi một mức độ lòng tin nhất định giữa các quốc gia. “Ngưỡng
lòng tin” cần thiết cho sự hợp tác phụ thuộc vào một loạt các biến số
như sức mạnh so sánh của một quốc gia[4] hay chi phí cho một cuộc xung
đột.
Quan hệ tin cậy
lẫn nhau là những biểu hiện hành vi của lòng tin và nhằm thúc đẩy đối
thoại, trao đổi thông tin, và hợp tác. Quan hệ này được hình thành khi
các chủ thể trao quyền kiểm soát lợi ích của mình cho nhau vì tin vào độ
tin cậy và tính nghiêm chỉnh của nhau sẽ không làm phương hại đến lợi
ích của các bên. (Dĩ nhiên, những lợi ích quốc gia này bao gồm cả lợi ích tương đồng và lợi ích khác biệt). Trong quan hệ đó, các chủ thể liên quan sẵn sàng chấp nhận rủi ro và trông đợi tất cả các bên sẽ tôn trọng nghĩa vụ cam kết cụ thể của mình.[5]
Thái độ tin cậy và việc gửi gắm hay trao quyền kiểm soát lợi ích là
hai yếu tố tạo nên quan hệ tin cậy lẫn nhau. Nếu thiếu một trong hai
yếu tố này thì không thể gọi là quan hệ tin cậy lẫn nhau. Xung đột có
thể xảy ra giữa các quốc gia tin cậy lẫn nhau, và khi đó 1 trong các bên
hoặc tất cả các bên trở thành không còn đáng tin cậy.[6]
Việc phân biệt
giữa lòng tin và quan hệ tin cậy lẫn nhau là rất quan trọng trong QHQT.
Trong QHQT, người ta thường ít quan tâm đến lòng tin hơn là quan hệ tin
cậy lẫn nhau vì quan hệ tin cậy lẫn nhau mô tả tình huống và liên quan
đến hoạch định chính sách của các chính phủ. Lòng tin là vấn đề nhận
thức, còn quan hệ tin cậy lẫn nhau là hành động.[7]
Quan hệ tin cậy
lẫn nhau khác với các hình thức hợp tác khác vì các quan hệ hợp tác này
thiếu ít nhất 1 trong 2 đặc điểm nói trên. Ví dụ, Mỹ và Nga có thể hợp
tác kiểm soát vũ khí nhưng không giao quyền kiểm soát lợi ích cho nhau
hoặc không tin vào sự đáng tin cậy của nhau. Tuy nhiên, hợp tác không
dựa trên lòng tin vẫn xảy ra vì Mỹ và Nga đề ra các cơ chế và các công
cụ giám sát rất tốn kém để đảm bảo lợi ích của mỗi bên không bị đe dọa.
Dĩ nhiên, các
nước ưa thích quan hệ tin cậy lẫn nhau hơn là các hình thức hợp tác
không tin cậy vì chi phí giám sát thấp hơn. Ví dụ, chi phí để quản lý an
ninh biên giới giữa Ixraen và Ai Cập cao hơn nhiều so với chi phí quản
lý biên giới giữa Mỹ và Canađa.[8]
Tuy lợi ích và hiệu quả của quan hệ tin cậy lẫn nhau là rất cao nhưng quan hệ này không dễ xây dựng.
Quan hệ tin cậy lẫn nhau có ít công cụ và cơ chế kiểm soát/bảo đảm nên
dễ dẫn đến chủ nghĩa cơ hội, thực dụng ngắn hạn hơn là quan hệ không tin
cậy lẫn nhau. Tuy nhiên, sự nghi kỵ là không thể không khắc phục được.
Trong khuôn khổ
đa phương, một nước lớn đóng vai trò lãnh đạo/bá quyền có thể đáng tin
cậy và thúc đẩy hợp tác nếu sức mạnh và uy tín của nước đó được các nước
khác thừa nhận tự nguyện.
Theo Aaron Hoffman, có 4 thước đo chính để xác định quan hệ tin cậy lẫn nhau:[9]
Thứ nhất,
sự kết hợp giữa lịch sử những quyết định/ lựa chọn chính sách trong quá
khứ và những quyết định/ lựa chọn chính sách trong hiện tại của các nhà
lãnh đạo cấp cao dựa trên nhận thức và lòng tin về sự đáng tin cậy của
các nhà lãnh đạo phía đối tác.
Thứ hai,
mức độ tương đồng về lợi ích và mối quan tâm giữa các bên liên quan
(trong QHQT khó có sự song trùng lợi ích hoàn toàn giữa các quốc gia).
Lợi ích quốc gia được thể hiện qua ý chí và mong muốn của giới lãnh đạo,
và có thể được chia thành lợi ích sống còn, lợi ích chiến lược, dài
hạn, lợi ích quan trọng và những lợi ích khác ngắn hạn hơn.
Thứ ba,
sự tồn tại các công cụ, cơ chế giám sát/đánh giá hành vi do các bên
liên quan lập ra. Các biện pháp giám sát cho phép các chủ thể có được
biên độ tự do lớn hơn trong việc ra các quyết định thì phù hợp với kiểu
quan hệ tin cậy lẫn nhau.
Thứ tư,
các quy tắc, luật lệ được các chủ thể đề ra trong các thỏa thuận bằng
văn bản (ví dụ như hiệp ước hay hiệp định) nhằm kiềm chế hoạt động/hành
vi của các bên trong trường hợp cần thiết. Có 2 loại thỏa thuận chính:
thỏa thuận theo khuôn khổ thể chế (framework-oriented) và thỏa thuận
theo quy chế, quy tắc ứng xử (statute-oriented). Tương tự như thước đo
thứ hai, các quy định trong các quan hệ tin cậy lẫn nhau cho phép các
chủ thể có được biên độ tự do lớn nhất trong việc ra các quyết định. Sự
tồn tại rất nhiều thể chế và hiệp ước/hiệp định trong QHQT hiện nay
không nhất thiết có nghĩa là thế giới rất thiếu lòng tin lẫn nhau vì bản
thân chúng không biểu thị lòng tin hay sự nghi kỵ giữa các quốc gia.
Dựa trên 4
thước đo này, có thể tạm phân loại các cấp độ quan hệ theo mức độ tin
cậy lẫn nhau giữa các quốc gia liên quan như sau:
- Cấp độ 1 (Tin cậy cao):
không có hoặc có rất ít vấn đề trong lịch sử và cả trong hiện tại; có
mức độ tương đồng lợi ích cao (có chung lợi ích sống còn, lợi ích chiến
lược dài hạn, lợi ích ngắn hạn); có các công cụ, cơ chế hiệu quả để giám
sát/đánh giá hành vi; có các quy tắc, luật lệ và thể chế đa phương để
điều chỉnh hành vi.
- Cấp độ 2 (Tin cậy):
không có hoặc có rất ít vấn đề trong lịch sử và cả trong hiện tại; có
mức độ tương đồng lợi ích vừa phải (tương đồng về lợi ích sống còn và
lợi ích chiến lược dài hạn không cao bằng lợi ích ngắn hạn và các lợi
ích khác; hoặc có chung lợi ích hợp tác với nhau nhưng không có chung
lợi ích sống còn); có các công cụ, cơ chế hiệu quả để giám sát/đánh giá
hành vi; có các quy tắc, luật lệ và thể chế đa phương để điều chỉnh hành
vi.
- Cấp độ 3 (Vừa hợp tác, vừa cảnh giác):
có một số vấn đề trong lịch sử và cả trong hiện tại chưa được giải
quyết; có mức độ tương đồng lợi ích vừa phải (lợi ích ngắn hạn lớn hơn
lợi ích dài hạn; tương đồng về lợi ích ngắn hạn và các lợi ích khác
nhưng xung đột về lợi ích sống còn như biên giới lãnh thổ, bảo vệ chế
độ,…); có các công cụ, cơ chế hiệu quả để giám sát/đánh giá hành vi; có
các quy tắc, luật lệ và thể chế đa phương để điều chỉnh hành vi.
- Cấp độ 4 (Ít tin cậy):
có nhiều vấn đề trong lịch sử và cả trong hiện tại chưa được giải
quyết; có mức độ tương đồng lợi ích vừa phải (lợi ích ngắn hạn lớn hơn
lợi ích dài hạn; tương đồng về lợi ích ngắn hạn và các lợi ích khác
nhưng xung đột về lợi ích sống còn như biên giới lãnh thổ, bảo vệ chế
độ,…); có các công cụ, cơ chế giám sát/đánh giá hành vi nhưng không hiệu
quả; có các quy tắc, luật lệ, thể chế đa phương để điều chỉnh hành vi.
- Cấp độ 5 (Nghi ngờ lẫn nhau):
có nhiều vấn đề trong lịch sử và cả trong hiện tại chưa được giải
quyết; có mức độ tương đồng lợi ích thấp (về tất cả các loại lợi ích)
hoặc thậm chí bất đồng, xung đột lợi ích trong nhiều vấn đề; có không
nhiều công cụ, cơ chế giám sát/đánh giá hành vi và các công cụ này không
hoạt động hiệu quả; có không nhiều quy tắc, luật lệ và thể chế đa
phương điều chỉnh hành vi và chúng không có nhiều tác dụng.
Nhìn chung, mấu chốt nhất trong việc phân loại cấp độ tin cậy lẫn nhau là tác động của các vấn đề lịch sử và mức độ tương đồng lợi ích. Chiến lược bảo đảm tốt nhất quan hệ tin cậy lẫn nhau cần phải thể hiện được sự kết hợp cùng một lúc 4 thước đo nói trên.
Hành vi hợp tác
có xu hướng trấn an, hợp tác có tác dụng trấn an đối tác và xây dựng
lòng tin. Trấn an là quá trình xây dựng lòng tin. Trấn an lẫn nhau xuất
phát từ chỗ nghi kỵ, thông qua các biện pháp giảm nghi kỵ, tiến tới xây
dựng lòng tin lẫn nhau. Việc xây dựng lòng tin không chỉ dừng lại ở
những lời nói, tuyên bố mà phải bằng những biện pháp cụ thể thể hiện
thái độ tin cậy lẫn nhau và cùng hợp tác của các bên.
Việc xây dựng
một chiến lược phát triển quan hệ “tin cậy lẫn nhau” với các đối tác cụ
thể đòi hỏi cần phải tiến hành một số bước đầu tiên như sau. Thứ nhất,
xác định, đánh giá thực trạng cấp độ tin cậy của mối quan hệ (theo 4
thước đo) và đề ra mục tiêu duy trì hay phát triển quan hệ tin cậy lẫn
nhau ở cấp độ nào (theo 5 cấp độ). Thứ hai, đánh giá, phân tích
về lợi ích của mỗi bên trong quan hệ với nhau cũng như xác định ưu tiên
của mối quan hệ đó trong chính sách đối ngoại của từng nước. Thứ ba, nhận định, dự báo về những rủi ro chính mà mỗi bên sẽ gặp phải trong quá trình triển khai quan hệ với nhau. Thứ tư, đánh giá, nhận định về những mong muốn và không mong muốn trong quan hệ của bên này đối với bên kia và ngược lại.
Về cơ bản, có thể xác định 3 nhóm biện pháp chính để xây dựng, vun đắp quan hệ tin cậy lẫn nhau. Đó là: nhóm biện pháp song phương theo kiểu tiệm tiến, từng bước (incremental strategy); nhóm biện pháp thể chế, đa phương (institutional strategy); nhóm biện pháp quản lý rủi ro, mang tính gián tiếp (risk
management). Ba nhóm biện pháp này có tác động qua lại lẫn nhau và
thường được triển khai kết hợp cùng nhau để chiến lược tổng thể đạt được
kết quả mong muốn.
Thứ nhất là nhóm biện pháp song phương theo kiểu tiệm tiến, từng bước (incremental
strategy).[10] Nhóm biện pháp này xuất phát từ quan niệm cho rằng sự
đáng tin cậy là một đặc tính mà các chủ thể dần dần thể hiện ra đối với
nhau trong quá trình quan hệ tương tác liên tục, kéo dài để học hỏi và
rút kinh nghiệm. Vai trò của giới lãnh đạo nói chung và cá nhân các nhà
lãnh đạo nói riêng trong việc xác định ưu tiên lợi ích quốc gia và lựa
chọn ưu tiên chính sách là cực kỳ quan trọng. Nhóm biện pháp này
thường được thực hiện thông qua các thỏa thuận chính thức thúc đẩy đối
thoại, hợp tác, chia sẻ tương đồng, đan xen lợi ích qua các giai đoạn,
theo lộ trình, bắt đầu bằng những vấn đề dễ giải quyết và kết thúc bằng
những vấn đề khó giải quyết nhất. Kinh nghiệm của quá trình tương
tác giúp các chủ thể thể hiện độ đáng tin cậy của mình qua một loạt các
thử nghiệm giải quyết vấn đề và buộc các chủ thể này phải chọn lựa giữa
những lợi ích dài hạn của việc giữ chữ tín và lợi ích ngắn hạn của việc
bội ước, thất hứa, hay chủ nghĩa cơ hội. Thử nghiệm theo vấn đề sẽ đi từ
nhỏ đến lớn cho đến khi các chủ thể tin chắc rằng họ có thể trao quyền
kiểm soát các lợi ích cốt lõi của họ cho bên kia một cách an toàn. Chừng
nào mà những lợi ích mang lại của chủ nghĩa cơ hội và bội ước còn lớn
hơn thì chừng đó các bên vẫn chưa tin cậy nhau và một trong các bên sẽ
có động cơ lợi dụng sự tin cậy của bên kia. Mức độ đan xen, ràng buộc
lợi ích sẽ góp phần hạn chế chủ nghĩa cơ hội này. Ngoài ra, việc tăng
cường số lượng và chất lượng thông tin của nhau (độ minh bạch về thông
tin và tần số, cơ chế, cấp độ đối thoại) để cùng nhau phối hợp, hợp tác,
sẽ giảm thiểu chủ nghĩa cơ hội và lợi ích của việc bội ước.
Trong các thể chế, độ tin cậy có thể được đánh giá qua quá trình tuân thủ các quyết định tập thể.
Thứ hai là nhóm biện pháp thể chế, đa phương (institutional
strategy).[11] Rào cản lớn nhất đối với quan hệ tin cậy lẫn nhau là
những tình huống dẫn đến động cơ cơ hội chủ nghĩa. Vì vậy, quan hệ tin
cậy lẫn nhau muốn phát triển được thì cần phải có những công cụ đảm bảo
hạn chế khả năng đối tác bội ước, lợi dụng. Trong QHQT, các quốc gia hay
nói đúng hơn là giới lãnh đạo có 2 mối lo ngại cản trở quan hệ tin cậy
lẫn nhau: sự lo ngại bị áp đặt/chèn ép từ bên ngoài và sự lo ngại áp lực từ phía cử tri/nội bộ trong nước.
Các quốc gia tham gia vào và có ảnh hưởng đến các quyết định tập thể
trong các thể chế/cơ chế (hoặc do các bên lập ra hoặc của quốc tế) có
thể giảm mối lo này vì chúng giúp hạn chế những hậu quả tiêu cực của
việc hợp tác. Tham gia vào các thể chế/cơ chế cũng giúp các chủ thể thăm
dò, nắm bắt sớm ý đồ bội ước khi có cơ hội. Ngoài ra, giới lãnh đạo
cũng rất lo ngại về những tác động trong nước của các thỏa thuận hợp tác
tin cậy, đặc biệt là khi họ thay đổi bản chất quan hệ với những kẻ thù
cũ. Vì vậy, những cơ chế/thỏa thuận nào ít gây sự chống đối của các phe
phái trong nội bộ lãnh đạo và của các đảng đối lập thì càng có nhiều cơ
hội thành công. Quyết định xây dựng quan hệ tin cậy lẫn nhau cần diễn ra
đồng thời với việc thiết lập/tham gia vào các thể chế/cơ chế đảm bảo. Trong
các khuôn khổ đa phương này, các chủ thể sẽ đề cao vai trò của các quy
định, quy tắc, chuẩn mực (hướng về tương lai) hơn là lịch sử hành vi và
độ đáng tin cậy của đối tác trong quá khứ.[12]
Thứ ba là nhóm biện pháp quản lý rủi ro, mang tính gián tiếp (risk management). Như
đã phân tích trong phần nội hàm khái niệm “lòng tin”, chỉ trong tình
huống có rủi ro (về sự bội ước) chúng ta mới cần đến sự tin cậy và tin
cậy một đối tượng nào đó tức là chấp nhận rủi ro với đối tượng đó. Trên
thực tế, khó có thể tồn tại một mối quan hệ nào có sự tin cậy lẫn nhau
tuyệt đối, hay nói cách khác, rủi ro luôn tồn tại ở các mức độ khác nhau
trong các mối quan hệ quốc tế. Về lý thuyết, quản lý rủi ro là một quá
trình liên tục, kéo dài nhằm xác định, đánh giá, giám sát và giảm thiểu
rủi ro gắn liền với các nguy cơ phát sinh từ những yếu tố bên trong và
bên ngoài của mỗi quốc gia. Các biện pháp ứng phó để giảm thiểu rủi ro
gồm san sẻ rủi ro, tránh rủi ro, giảm tác động tiêu cực của rủi ro, và
chấp nhận hậu quả của một số rủi ro nhất định. Nhìn từ góc độ quan hệ
quốc tế, thuyết Hiện thực cho rằng rủi ro luôn tồn tại ở mức cao và rất
phổ biến trong quan hệ giữa các nước, vì vậy các biện pháp tự cứu mình
hay cân bằng lực lượng được các quốc gia coi trọng. Để nâng cao thế và
lực của bản thân, từng quốc gia có thể áp dụng biện pháp răn đe, kiềm
chế quân sự, tăng cường sức mạnh quân đội; linh hoạt trong đa dạng hóa
và duy trì cân bằng tương đối quan hệ với các đối tác quan trọng; tranh
thủ các cơ chế, diễn đàn đa phương… Bản thân nhóm biện pháp quản lý rủi
ro này có thể làm phát sinh thêm những rủi ro mới nhưng lợi ích mà chúng
mang lại sẽ lơn hơn nếu được triển khai kết hợp nhuần nhuyễn, khéo léo
với hai nhóm biện pháp nói trên. Trên thực tế, nhóm biện pháp này có tác
động gián tiếp đến quan hệ giữa các nước và là bộ phận cấu thành mang
tính bổ trợ cho 2 nhóm biện pháp kia trong chiến lược xây dựng quan hệ
tin cậy lẫn nhau.
Quá trình hòa
giải Pháp – Đức là một nghiên cứu tình huống rất quan trọng vì đây là
mẫu mực của quá trình hòa giải thành công và toàn diện giữa hai quốc gia
thù địch trong lịch sử. Quá trình hòa giải này tuy diễn ra trong thời
kỳ đầu của Chiến tranh lạnh và có những đặc thù về bối cảnh lịch sử, văn
hóa, tôn giáo của châu Âu nhưng vẫn là một bài học kinh nghiệm rất hữu
ích cho những mối quan hệ chưa được hòa giải sau Chiến tranh lạnh ở
những khu vực khác. Việc Đức và Pháp không chỉ cùng nhau loại bỏ nguy cơ
chiến tranh giữa hai nước mà còn vượt qua vòng luẩn quẩn bế tắc của sự
thù địch, tiến tới xác lập quan hệ hữu nghị và đối tác thực sự cho thấy
quyết tâm mạnh mẽ của giới lãnh đạo chính trị hai nước và sự hòa giải
này đã đặt nền móng và thúc đẩy tiến trình nhất thể hóa châu Âu.
Pháp và Đức đã
từng là “đối thủ truyền kiếp” trong lịch sử châu Âu vì xung đột liên
miên trong lịch sử hai nước. Từ cuộc đối đầu giữa triều đại Francois I
và Karl V đầu thế kỷ 16 đến khi kết thúc Chiến tranh Thế giới II, Pháp
và Đức đã trải qua 23 cuộc chiến tranh, trong đó cuộc chiến tranh Pháp –
Phổ năm 1871 và CTTG I năm 1914 đặc biệt góp phần quan trọng vào quan
niệm về “đối thủ truyền kiếp” của lãnh đạo và nhân dân hai nước. Trong
CTTG II, người Pháp phải nhục nhã chịu sự chiếm đóng của phát xít Đức từ
1940-1944 nhưng Pháp lại là một trong 4 nước chiếm đóng Đức để bảo vệ
Tây Béclin. Tranh chấp lãnh thổ giữa hai nước xoay quanh việc Pháp tuyên
bố bảo hộ hạt Saar giàu than đá tuy khu vực này trước đây thuộc Đức và
là nơi người Đức sinh sống. Về yếu tố văn hóa, sắc tộc, người Đức luôn
tự tôn về mặt sắc tộc nhưng lại tự ti về mặt văn hóa so với người Pháp
và người Pháp rất tự tôn về mặt văn hóa so với người Đức. Bên cạnh đó,
giới lãnh đạo hai nước thường xuyên đẩy mạnh tuyên truyền chính trị và
giáo dục cho người dân những quan điểm tiêu cực, phiến diện về nhau và
về lịch sử quan hệ hai nước.[13]
Hòa giải Pháp –
Đức được thúc đẩy do bối cảnh quốc tế sau CTTG II. Dĩ nhiên, mục đích
chính của quá trình hòa giải là loại bỏ hoàn toàn nguy cơ chiến tranh
tái diễn. Tuy vậy, chính mối đe doạ về an ninh từ phía Liên Xô và kế
hoạch Marshall của Mỹ nhằm phục hồi và tái thiết châu Âu đã thúc đẩy
Pháp và Đức hợp tác và thể chế hóa quan hệ qua cộng đồng than-thép châu
Âu. Trong mối quan hệ đầy phức tạp này, giới lãnh đạo có vai trò cực kỳ
quan trọng vì họ có quyết tâm và bản lĩnh chính trị, có quyền ra quyết
sách và có những động thái phù hợp trong những thời điểm quyết định.
Trong trường hợp này, Ngoại trưởng Pháp Robert Schuman và Thủ tướng Đức
Konrad Adenauer với tư tưởng hợp nhất châu Âu đã đóng vai trò chủ chốt
trong việc ký kết Kế hoạch Schuman thành lập Cộng đồng Than – Thép châu
Âu (4/1951) và đây được coi là bước đi đầu tiên của quá trình hòa giải.
Việc Đức tham gia vào kế hoạch này giúp Pháp kiểm soát được sự phát
triển của Đức và đối với Đức đây là con đường duy nhất để khẳng định vị
thế mới ở Tây Âu mà vẫn đảm bảo được an ninh. Tháng 1/1957, hạt Saar
được Pháp trả lại cho Đức sau một cuộc trưng cầu dân ý ở đây.
Nếu Schuman và
Adenauer có công khởi xướng quá trình hòa giải thì Adenauer và de Gaulle
có công duy trì quá trình này đến kết cục thành công. Hai nhà lãnh đạo
đã thiết lập một tình bạn rất mật thiết và tháng 1/1963, hai nước đã ký
Hiệp ước Thân thiện Pháp – Đức (hay còn gọi là Hiệp ước Elysee), nhấn
mạnh hợp tác hai nước về đối ngoại, giáo dục và thanh niên. Tổ chức
thanh niên Pháp – Đức ra đời.[14]
Với sự hậu
thuẫn nhiệt tình của hai nhà lãnh đạo Jacques Chirac và Gerhard
Schroeder, Pháp và Đức lần đầu tiên đã công bố sách giáo khoa lịch sử
Pháp-Đức được biên soạn chung (5/2006), trong đó đề cập cả những vấn đề
lịch sử được cho là nhạy cảm.
Nhìn chung, quá trình hòa giải Pháp – Đức diễn ra ở 2 cấp độ.[15] Thứ nhất là
hòa giải giữa Chính phủ với Chính phủ. Biện pháp đầu tiên của quá trình
hòa giải là việc các chính phủ ra những tuyên bố chung mang tính biểu
tượng nhằm đạt được sự công nhận của quốc tế và tạo khuôn khổ cho tiếp
xúc, đối thoại. Đặc biệt, trong các tuyên bố này thường không có điều
khoản về an ninh. Trong trường hợp này là Hiệp ước Elysee. Hợp tác kinh
tế trong khuôn khổ đa phương và song phương có vai trò đặc biệt quan
trọng và tiên phong trong việc củng cố và duy trì quá trình hòa giải.
Trong trường hợp này là Cộng đồng Than – Thép châu Âu.
Thứ hai là
hòa giải ở cấp độ nhân dân. Hai đối tượng ưu tiên là giới trí thức, học
thuật, và giới trẻ. Lĩnh vực ưu tiên là giáo dục, giao lưu thanh niên.
Trong trường hợp này, việc lập ủy ban hỗn hợp biên soạn sách giáo khoa
lịch sử, giao lưu thanh niên, liên kết các trường đại học, các viện
nghiên cứu là những bước đi được coi là có ý nghĩa nhất./
————————–
[1] Tham luận
tại Hội thảo “Lòng tin và các nhóm biện pháp tăng cường lòng tin trong
QHQT và đối ngoại của Việt Nam”, Học viện Ngoại giao, Hà Nội, 25/2/2009.
Những quan điểm trong bài tham luận này là của tác giả và không phản
ánh quan điểm của cơ quan nơi tác giả đang làm việc. Tác giả xin bày tỏ
sự cảm ơn đối với các đồng nghiệp về những đóng góp, bình luận rất quan
trọng cho bài viết này.
[2] John Baylis & Steve Smith, The Globalization of World Politics: An introduction to international relations (3rd edition), Oxford University Press (2007); Andrew Kydd, Trust and Mistrust in International Relations, Princeton University Press (2005), Chapter 1.
[3] Bernard Barber, The Logic and Limits of Trust,
Rutgers University Press (1983), tr.164-5; Kramer et al., “Trust and
distrust in organizations: emerging perspectives, enduring questions”, Annual Reviews in Psychology, Vol.50, (2/1999); Mayer et al., “An integrative model of organizational trust”, Academy of Management Review,
Vol.20, No.3 (1995); D.McAllister, “Affect- and cognition-based trust
as foundations for interpersonal cooperation in organizations”, Academy
of Management Journal, Vol.38, No.1 (1995); Niklas Luhmann, Trust and Power,
Chichester: John Wiley&Sons (1979); Meyerson et al., “Swift trust
and temporary groups”, in Kramer, R.M & Tyler T.R. (Eds.), Trust in Organizations: Frontiers of Theory and Research,
Sage Publications, Thousand Oaks (1996), tr.166-195; D.Gambetta, “Can
we trust trust?”, in Gambetta D. (ed.), Trust: Making and Breaking
Cooperative Relationships, Basil Blackwell, New York (1988), tr.213-237;
M.Deutsch, “The effect of motivational orientation upon Trust and
suspicion”, Human Relations, Vol.13 (1960), tr.123-139.
[4] Sức mạnh
quốc gia trong QHQT được thể hiện qua 3 tiêu chí chính: khả năng
(capabilities); lợi ích (muốn phát huy sức mạnh đó như thế nào, ở đâu);
và uy tín (prestige) hay sự công nhận sức mạnh quốc gia bởi các quốc gia
khác.
[5] AAron M.Hoffman, “The structural causes of Trusting relationships: Why rivals do not overcome suspicion step by step”, Political Science Quarterly, Vol.122, No.2 (2007), tr.288.
[6] AAron M.Hoffman, “A Conceptualization of Trust in International Relations”, European Journal of International Relations, Vol.8, No.3 (2002), tr.376-9.
[7] AAron M.Hoffman, “The structural causes of Trusting relationships: Why rivals do not overcome suspicion step by step”, Political Science Quarterly, Vol.122, No.2 (2007), tr.289.
[8] AAron M.Hoffman, “The structural causes of Trusting relationships: Why rivals do not overcome suspicion step by step”, Political Science Quarterly, Vol.122, No.2 (2007), tr.289.
[9] AAron M.Hoffman, “A Conceptualization of Trust in International Relations”, European Journal of International Relations, Vol.8, No.3 (2002), tr.384-93.
[10] AAron M.Hoffman, “The structural causes of Trusting relationships: Why rivals do not overcome suspicion step by step”, Political Science Quarterly, Vol.122, No.2 (2007), tr.290-3; Andrew Kydd, “Trust, Reassurance and Cooperation”, International Organization, Vol.54 (Spring 2000); Andrew Kydd, Trust and Mistrust in International Relations, Princeton University Press (2005); Thomas C.Schelling, The strategy of conflict, New York: Oxford University Press (1960); Charles E.Osgood, An Alternative to War or Surrender, Urbana: University of Illinois Press (1962).
[11] AAron M.Hoffman, “The structural causes of Trusting relationships: Why rivals do not overcome suspicion step by step”, Political Science Quarterly, Vol.122, No.2 (2007), tr.292-3; Robert O.Keohane, After Hegemony: Cooperation and Discord in the World Political Economy,
Princeton University Press (1984), tr.65-109; Joseph M.Grieco, “State
Interests and Institutional Role Trajectories: A Neorealist
Interpretation of the Masstricht Treaty and European Economic and
Monetary Union”, Security Studies, Vol.5 (Spring 1996); G.John Ikenberry, After Victory: Institutions, Strategic Restraint, and the Rebuilding of Order After Major Wars,
Princeton University Press (2001), tr.50-79; Zeev Maoz & Dan
S.Felsenthal, “Self-binding Commitments, the Inducements of Trust,
Social Choice, and the Theory of International Cooperation”, International Studies Quarterly, Vol.31 (June 1987).
[12] Vấn đề xây
dựng lòng tin luôn được đề cao trong các diễn đàn/cơ chế hợp tác đa
phương. Ví dụ, trong lộ trình phát triển của Diễn đàn An ninh Khu vực
ASEAN (ARF), các biện pháp xây dựng lòng tin (CBMs) được xem là viên
gạch đầu tiên đặt nền móng cho các giai đoạn tiếp theo là Ngoại giao
phòng ngừa (PD) và Giải quyết xung đột (CR).
[13] Seung-Hoon
Heo, “Reconciling Hereditary Enemy States: Franco-German and South
Korean – Japanese Relations in Comparative Perspective”, The Journal of International Policy Solutions,
Vol.8 (Winter 2008), tr.23-28; Lily Gardner Feldman, “The Principle and
Practice of Reconciliation in German Foreign Policy: Relations with
France, Israel, Poland and the Czech Republic”, International Affairs (Royal Institute of International Affairs), Vol.75, No.2 (1999), tr.333-356.
[14] Alice Ackermann, “Reconciliation as a Pace-building Process in Postwar Europe: The Franco-German Case”, Peace and Change,
Vol.19, No.3 (1994), tr.229-51; Seung-Hoon Heo, “Reconciling Hereditary
Enemy States: Franco-German and South Korean – Japanese Relations in
Comparative Perspective”, The Journal of International Policy Solutions, Vol.8 (Winter 2008).
[15] Seung-Hoon
Heo, “Reconciling Hereditary Enemy States: Franco-German and South
Korean – Japanese Relations in Comparative Perspective”, The Journal of International Policy Solutions, Vol.8 (Winter 2008), tr.26-7.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét